Số lần đọc/download: 6072 / 258
Cập nhật: 2018-09-21 16:57:29 +0700
Chương 13: Ga Romia
M
ột chiều cuối tháng 2, có lệnh hành quân. Đơn vị sang Kampong Ch’nang bằng tàu hải quân. Đứng bám trên boong mũi cái tàu hộ tống, thấy oai hùng lắm! Đến thị xã, tôi nhận được một lúc 14 lá thư. Thư gia đình, thư các bạn cùng lớp phổ thông…Đây là lần đầu tiên những lá thư hậu phương đến với tôi. Chúi vào một góc kín đọc chậm từng lá. Đọc đi rồi đọc lại. Nước mắt lặng lẽ chảy…
Đêm đó tiểu đoàn ngủ trong các nhà hoang dọc bến cá. Sáng hôm sau, lĩnh đạn, gạo, đường, sữa…Vạ vật đến khoảng 14h chiều, chúng tôi lên xe tải, tới ngã ba lộ 5 quẹo trái theo lộ 27 tiến về ga Rômia. Xe chạy rì rì cuốn tung bụi đường, nồng nghẹt mũi. Lại những cánh đồng không khô xác. Cỏ cháy loang trên đồng, để lại từng đám tro đen xám loang lổ. Một vài ngọn núi đất thấp cũng khô xám như thế. Cây cối trên núi cũng cháy trụi cả, giơ lên trời những cành đen thui. Điểm trên khoảng trống bao la là những chòm thốt nốt lẫn cây bụi nhỏ, lúc hiện lúc khuất sau làn khói. Khung cảnh điêu tàn trông như hoang mạc.
Có tiếng đạn nhọn rộ lên nhằm thẳng vào đoàn xe. Tiểu đoàn để ba lô lại trên xe, nhảy xuống đất, theo đội hình chiến đấu càn tới. Các đại đội giạt sang hai bên ruộng, tiến song song bảo vệ. Tiểu đoàn bộ D4, C4 hỏa lực cùng một bộ phận tham mưu trung đoàn vẫn đi trên mặt lộ. Địch nã đạn nhọn liên tục về phía mấy cái xe. D bộ phải đi tụt lại, vì có tiếng xe ở đâu là nó bắn rát về phía ấy. Nhìn không thấy địch ở đâu vì khói cháy đồng mù mịt. Không dám tiếp cận thì chứng tỏ bọn này cũng nhát.
Một lát sau, thấy anh Sơn D trưởng quay lại hỏi chúng tôi còn một khẩu đội cối 82mm nữa đâu? Bọn tôi nói không biết. Anh ấy nổi nóng chửi cả tham mưu rồi bắt D bộ quay lại tìm. Thật may là chúng nó đi sau D bộ khoảng hơn 100m. Sau khẩu đội cối này lại có một đơn vị nữa cũng đang tiến gấp theo phía xa xa. Đại đội 2 đi trước. Hai đại đội 1 và 3 đi hai bên sườn. Khối D bộ, đại đội 4 và tham mưu trung đoàn cùng đoàn xe đi giữa. Vậy còn đơn vị nào đằng sau nữa đâu? Bỗng nhiên bọn đó bắn vào đội hình tới tấp, rồi giạt sang bên phải đường mất tích. Địch bâu bám đằng sau thật. Một trái M.79 câu trúng thùng cái xe chở ba lô. Không việc gì, xe vẫn chạy dù trên thùng bốc khói. Chúng tôi dũi lùi lũi giữa đội hình địch. Phát đạn duy nhất bắn đi là quả M.72 của một trợ lý tham mưu trung đoàn đi cùng đội hình đơn vị. Anh ấy mang nặng. Rút ra rút vào trái đạn mãi rồi phụt bớt đi cho nhẹ.
Cách ga Rômia 1km, đến một cái cầu cháy qua con mương cạn thì gặp trung đội chốt đường của đại đội 11 tiểu đoàn 6 ra đón. Tôi gặp thằng Hiệp là thằng bạn cùng lớp, cùng trường Phan Đình Phùng. Nó vẫn mặc bộ quân phục màu vàng đất thời huấn luyện ở Phủ Lý. Trên tay là khẩu B.41. Ngày hôm đó nó đã phải bắn tới 16 trái B.41 nên tai điếc, nói với nhau mà như quát. Thằng Hiệp nói rằng trung đội chốt đường của nó đã nằm đây 4 ngày trời. Rình rập tỉa nhau với địch quanh cái cầu cháy này. Bọn nó muốn chiếm và phá huỷ cầu để ngăn cơ giới ta nhưng không được. Chuyện ngắn vài câu nữa, tôi lại mải mốt bước theo đơn vị. Thùng cái xe chở đồ bây giờ cháy ngún mù mịt. Chúng tôi nhảy lên xe quăng đồ xuống. Lúc đó nhiều cái ba lô đã cháy nham nhở. Các hộp sữa mới lĩnh ban sáng phồng lên, méo mó hết cả. Gần vào sát ga, tiểu đoàn vượt qua hai cái xe chở tử sỹ bị địch vây, không mang ra Kampong Ch’nang được. Anh em đơn vị bạn phải chặt cành lá phủ lên cho khỏi ruồi và tưới nước cho mát để đỡ mùi.
Chiều tối, tiểu đoàn 4 nghỉ luôn ở vị trí đại đội pháo 105mm trung đoàn 42. Lính pháo mấy ngày lạnh lưng hở sườn, lo sốt vó chống địch. Bây giờ thấy chúng tôi đến, lại được tiếp thêm đạn thì sướng quá! Còn bao nhiêu trà lá thuốc vét mang ra chiêu đãi mệt nghỉ. Chúng nó nói mấy đêm vừa qua, lính pháo phải đánh nhau như bộ binh vì địch nó đánh sát cả vào chân các khẩu đội. Pháo 105mm phải hạ nòng bắn ứng dụng như pháo bắn thẳng để uy hiếp địch cho nó giãn ra. Thằng Bình cáo C12D6 nghe tin tiểu đoàn 4 đến tăng viện, mò sang tìm tôi. Hai thằng trải nilon nằm trên mặt bờ ruộng nói chuyện. Được mươi phút thì địch lại đánh rát vào đại đội 11 D6. Tiếng súng rộ lên. M.79 nổ choang choang trên các mái tôn. Nó trở dậy chạy về đơn vị. Rừng mùa khô đang cháy dữ dội. Lửa hắt lên trời những vầng sáng hồng rực, nhìn rõ cả từng cái cát tút rơi trên đường.
Đêm đó tôi với anh Ky nằm với đại đội 4. Chỉ huy phó đại đội 4 hoả lực hồi đó là anh Ninh, tên họ đầy đủ là Thái Gia Ninh, em ruột nhà thơ Thái Thăng Long. Sau này bọn tôi trong đơn vị khi được chia thịt heo hay thịt thú, cứ giả vờ hỏi nhau là bây giờ thịt thái ra ninh, thái ra nấu hay thái ra hầm...hả mày thì anh ấy cáu lắm, chửi vung mấy thằng xỏ lá. Nằm với đại đội hỏa lực, sát tiểu đoàn và pháo đội 105mm nên cứ yên tâm hưởng suất ấm sườn, đêm không phải gác. Một đêm ngủ thật ngon lành dù tiếng súng địch xung quanh không lúc nào ngừng...
Sáng hôm sau, tiểu đoàn 4 nằm ở sân ga đợi lệnh. Ga Romia , cũng như mọi nhà ga nhỏ trên trái đất này, với đường ke, nhà chờ và tháp nước… Con đường sắt heo hút chạy giữa rừng dầu thưa, mùa khô lá rụng vàng cháy. Nhà ga một tầng, lợp ngói đỏ. Tường lỗ chỗ vết đạn to nhỏ. Phía trong nhà cũng cửa tò vò, ghi sê bán vé. Những vật thể kiến trúc còn lại như nhắc nhở về một thời yên bình từng hiện hữu nơi đây. Trên sân ga, hàng cây me keo cổ thụ toả bóng râm mát. Mỗi khi gió mạnh thổi qua, những quả me keo chín loăn xoăn quay vòng rụng xuống. Bao quanh cái hạt là lớp thịt quả, ăn chơi thấy vị ngọt ngọt, có chút đắng. Nằm đó một lát, chúng tôi được lệnh đi về hướng sau ga, nằm trong một vườn điều. Đất khô cát trắng, nhưng điều đang ra trái mọng. Vặt vài quả ăn chơi, thấy vị chua ngọt cũng đỡ, khỏi khát nước. Tôi cắn thử cái hột như hột đậu lớn treo dưới trái. Một tia dầu tứa ra dính vào môi. Cảm giác bỏng làm rộp phồng môi liền, rất rát. Toàn cồ thấy vậy cười hô hố. Anh Ky bảo phải nướng hạt lên mới ăn được, ngu thế!
Hướng tây ga Rômia là một trái núi nhỏ, thấp, cách ga khoảng 3 km. Trung đoàn 1 đang vận động tấn công địch ở đó. Trên núi, nó có một khẩu pháo cao xạ 37mm hai nòng hạ góc tà âm bắn điên cuồng cản bước. Cứ “Bốp bốp…khục khục” nổ đâu đó suốt. Trận địa pháo 105mm của trung đoàn 42, được chúng tôi hộ tống xe tiếp tế hôm qua, bắt đầu bắn không tiếc đạn lên núi.
Chúng tôi ăn cơm ở vườn điều. Buổi trưa cứ nằm im đó nghe tiếng súng nổ các nơi. Mãi đến chiều mới có lệnh tiến quân. Tiểu đoàn theo đường sắt lên hướng tây bắc 1 km rồi tạt xuống lòng một con suối cạn chuẩn bị vu hồi. Dưới lòng suối không có nước, toàn cát. Những con rùa bằng cái bi đông bò lổm ngổm. Hai bên bờ suối, le mọc dày rịt. Thân nọ đan thân kia như một hàng rào không thể vượt qua. Toàn “cồ” túm được một con tê tê (con trút) ngay trong lòng suối, định mang theo làm thịt nhưng ai cũng bảo vứt đi. Được thả, con trút đang cuộn mình từ từ duỗi ra rồi chậm chạp lủi vào một cái hốc.
Khẩu 37mm của địch bây giờ không thấy bắn nữa. Thông tin trung đoàn thông báo là E1 đã tịch thu được nó rồi. Thu nốt cả cái xe ô tô kéo pháo. Tiểu đoàn tôi lại được lệnh quay lại nhà ga, theo đường bò bắc lộ 27 tiến giữ sườn cho trung đoàn 1. Đường bò là loại đường dân sinh. Nông dân Campuchia thường dùng loại xe gỗ bánh cao do đôi bò kéo để vào rừng, lên rẫy. Những con đường do bò kéo bao giờ cũng có hai vệt bánh xe, ngang dọc khắp rừng. Chiều tà, nghỉ giải lao tại một cái nhà tôn có cần anten cao vút địch bỏ chạy chưa kịp dỡ. Anh Trung tham mưu tiểu đoàn bảo đây chính là sở chỉ huy sư đoàn địch. Tôi gặp thằng Thọ - bạn cùng lớp cũ - trong đội hình tiểu đoàn 6 đang hành quân qua. Khẩu cối 60 cồ cộ trên vai, đầu chụp cái mũ nhựa ép dạng mũ sắt của VNCH cũ, không biết nó kiếm được ở đâu. Nó thả khẩu cối bịch xuống đất, xin tôi hớp nước. Hỏi thăm dăm ba câu chuyện rồi lại vác cối lên vai, cắm cúi đi theo đội hình.
Lại tiếp tục lên đường. Đi mãi đến sâm sẩm tối, đơn vị dừng lại ở một cái phum cũ, rừng vây xung quanh. Không còn nhà cửa, chỉ có thể nhận biết là nơi từng có người ở qua những cây me, cây chùm ruột lẫn trong những hàng rào, khung nhà đổ nát. Các đại đội lặng lẽ bố trí đội hình. Lại cấm đốt lửa, chúng tôi bẻ cơm vắt được phát hồi trưa, chấm với bột gia vị cố mà nuốt. Đêm trong rừng núi tịch lặng và bí hiểm. Trên những cây dầu lớn, có những cái hốc mà người ta đục vũm vào để đốt lấy dầu, ánh lửa chập choạng. Rất nhiều thân cây dầu đang cháy lửa như thế trong đêm, trông rất ma quái. Đâu đó phía xa, vài tiếng súng lẻ vang lên rồi tắt ngấm. Sau tiếng súng, không gian như càng im vắng hơn.
Gần sáng. Dậy! Tiếp tục hành quân. Lần này đơn vị bỏ đường lộ cắt xiên sang tay phải vào rừng. Tốc độ hành quân chậm do trinh sát phải dò dẫm bám địch. Đi được một lúc, sau khi vượt qua một con suối có một bờ cao dốc đứng, đội hình dừng lại. Đằng trước có tiếng chặt cây chan chát cùng tiếng đào đất thình thịch. Địch đang chặt cây làm hầm chiến đấu. Tiểu đoàn báo về trung đoàn đã phát hiện địch rồi triển khai đội hình bí mật tiếp tục bám lên. Đại 3 vượt sang bên phải sẵn sàng đánh sườn. Đã gần địch lắm rồi. Trong khi đặt đạn, không biết đứa nào bên cối đại 4 để gánh đạn va vào mâm cối đánh “cốc” một tiếng. Tiếng chặt cây lập tức im bặt. “Cóc! Oành…!”. Quả M.79 của địch bắn thăm dò trúng một thân cây loé xanh nổ. Không ai bắn trả. Tất cả lại im lặng. Không gọi 2W vì sợ lộ, tiểu đoàn cho truyền đạt bò lên các đại đội, lệnh khi phát hiện địch cho hoả lực nổ súng đồng loạt áp đảo.
Tổ truyền đạt vừa về đến tiểu đoàn thì B.40, B.41 thi nhau nổ tức ngực. Tiếng đạn nhọn ré lên. Trời đã mờ sáng. Lính đại 1, đại 2 cứ thấy chỗ nào có ụ đất mới hoặc cành cây gãy còn tươi lù xù trên đất là thổi B.40, B.41 vào đấy. Lối tiếp cận quá gần cùng hoả lực mãnh liệt làm cho bọn nó choáng. Sau khoảng mươi phút là tháo chạy ngay. Bỏ lại hơn chục thằng toi mạng trên dãy hầm mới đào đêm qua. Có thằng nằm vắt nửa trên nửa dưới hầm, cánh tay và gần nửa người bị hơi nổ tuốt đi. Cối 82 đại 4 mới bắn chi viện hơn chục trái đã phải tháo súng lên theo bộ binh. Truy kích thêm nửa cây số nữa đến một cái phum. Địch chạy tuốt vào đấy rồi tổ chức chống trả.
Cối 60 của địch trong phum hoàn hồn, bắt đầu lên tiếng. Hai khẩu cối 82 của đại 4 bắt đầu giã vào phum. Mấy thằng lính cối khôn vặt tranh nhau tháo đạn để khỏi mang nặng. Hễ cứ nghe tiếng M.79 hay tiếng cối ta, cối địch đề pa “Coong!” một tiếng, y như rằng tiếng đạn nhọn lại câm bặt. Nổ “Oành!” xong một cái thì lại rồ lên như xé vải. Đạn cối địch rơi ngay trúng đội hình tiểu đoàn bộ. Thằng Khoát người Thanh Hoá lính vận tải bị một quả cối 60 nện giữa đỉnh đầu. Phần sọ biến mất. Chi còn xương hàm dưới với khúc đứt đầu tuỷ sống nám đen thuốc nổ. Đại 1, đại 2 vẫn chưa vượt qua được trảng trống trước phum.
Đúng lúc đó, ngay phía sau đội hình, tiếng súng địch toang toác rộ lên rất gần. Chúng nó đánh bọc ***. Bọn này cơ động rất nhanh. Anh Sơn điều một trung đội của đại đội 3, cùng với thông tin, trinh sát tiểu đoàn bộ vận động ra phía sau chặn địch. Lúc trung đội của đại 3 vận động ra phía sau, có tiếng lao xao: “Đại 3 chạy kìa!”. Anh ấy quắc mắt nhìn quanh. Tôi tin là nếu phát hiện thằng nào vừa lên tiếng, ông ấy bắn cho vọt óc.
Chúng tôi bắn dữ dội về phía sau, mặc dù không nhìn thấy địch mà chỉ nghe súng nó bắn. Phía trước, bộ đội đã bám được vào rìa phum. Tiếng súng thưa dần. Cối 82 quay nòng giã về phía sau mấy trái. Bọn bọc *** biết tình hình không ổn nên cũng chuồn nhanh. Tiểu đoàn 4 đã làm chủ trận địa. Trong sử sư đoàn 9 sau này được xem thì tôi đoán đây là trận đánh vào bàn đạp Tà Nốt. Nhưng trên bản đồ thì không thấy Tà Nốt là địa danh nào.
Đơn vị dừng lại củng cố vị trí đứng chân sau mấy ngày đánh địch, vượt quãng đường gần 50 km từ Kampong Ch’nang vào đây. Anh nuôi triển khai nấu cho bộ đội ăn cơm nóng. Đang mùa khô, lính ăn 8 lạng một ngày (mùa hè 7 lạng gạo/ ngày). Thông tin còn trên tiểu đoàn 9 người, vừa xoẳn cái ruột tượng đang quàng. Nhanh chân, tôi chạy đến xoong quân dụng của thằng Cầm điếc trút tuột hết gạo vào. Thế là nhẹ mang đi được mấy ký. Thậm chí còn nháy mắt đắc thắng với thằng Ban trố mang ruột tượng đến sau. Diễn cái trò khôn vặt này được vài lần thì Tuấn còi chửi, bảo để cho thằng nào yếu nó trút gạo trước. Ruột tượng đựng gạo thường được khâu từ các ống quần cũ. Chỉ nhớ sau này về Bamnak có đúng một lần được quân nhu cấp ruột tượng mới. Cho đến thời gian tháng 3 năm 79, kể cả những đồ thiết yếu khi tác chiến trong rừng là cái tăng, cái võng, đoàn lính 1978 cũng chưa được cấp. Chúng tôi có được chủ yếu là do lấy vải kho địch tự khâu hoặc lột từ xác dân, xác địch mang đi giặt lại.
Trừ các trung đội cảnh giới vòng ngoài, tụi tôi bắt đầu lục lọi kiếm ăn trong phum. Tôi lục được một chum đường thốt nốt, múc đầy một ca inox rồi vẫy tay gọi chúng nó. Sau một loáng chỉ còn lại cái chum không. Của này buổi tối lạnh nấu một nồi chè thì cả trung đội ấm chân răng. Một dãy toàn chum đựng muối đầy. Muối biển địch tải lên rừng để kháng chiến lâu dài. Mấy thằng xúm lại, hè nhau lăn ra dốc hết xuống suối. Lia thêm loạt AK, mấy cái chum vỡ toác. Suối chảy liếm tan hết muối. Trên một căn nhà khác, tôi tìm được một con dao cắt kính. Con dao nhỏ chuôi gỗ đen bóng khắc nhiều hoạ tiết, chuốt cong như một mái chùa xứ này. Có thể nói là một tác phẩm tuyệt đẹp. Tôi dám chắc nghệ nhân chế tác ra nó chỉ để chơi mà thôi, chứ không phải để rạch cắt trên bất cứ tấm kính nào. Lại nghe nói mũi dao làm bằng kim cương nên tôi cất con dao kỹ lắm.
Gia tài trong ba lô thế là thêm một món đồ cổ. Nào! Thử kiểm kê xem nó có những gì: Một bộ quần áo lính vải kaki gabađin Nam Định (đang mặc trên người), thêm một cái quần dài vải chéo đã xổ vài chỗ. Đôi áo lót trước kia là màu trắng. Hai cái quần đùi giải rút lính, rộng thùng thình, chừa rất nhiều tự do cho đối tượng lắc lư đường trường mà nó bao bọc. Không biết quân đội bây giờ có phát quần sịp cho lính không? Chứ vẫn quần đùi giải rút như cũ, hành quân dài ngày mà không anh nào bị sa đì thì quả là thật lạ!
Cái địa bàn Mỹ anh Phát tôi (lính trinh sát cũ, bị thương năm 75) cho trước khi vào bộ đội. Tập thư nhà, thư bạn bè bọc kỹ trong túi nilon, quý hơn vàng. Khi rảnh hay lôi ra đọc lại. Có khi còn hít hít cả mùi trong những cái bao thư mới. Mấy miếng liều cối 60 để kéo lửa khi trời mưa ẩm và để bôi dán ghẻ. Năm viên đạn vạch đường (tích trữ do sợ bị lạc). Cái bát sứ ăn cơm bà già cho ở bến phà Niếc Lương. Bây giờ có thêm con dao cắt kính nữa. Không kể đôi dép đúc lấy của thằng Năm đã hy sinh dưới chân.