Số lần đọc/download: 24147 / 442
Cập nhật: 2016-02-24 22:10:27 +0700
8. Nguyễn Vỹ
S
inh năm 1910 ở làng Tân Hội(sau đổi thành Tân Phong) huyện Đức Phổ( Quảng Ngãi). Học trường Quảng Ngãi, trường Qui Nhơn. Đã từng cạo đầu đi tu, gánh cát ở bãi sông Cái, bán kẹo ở Hà Nội, bán báo ở Sài Gòn. Hiện nay ở Hà Nội sông bằng nghề văn.
Đã viết: Ami du peuple, Le Cygne, Văn học tạp chí 1935, Hanoi báo, Phụ nữ.
Đã xuất bản: Tập thơ đầu 1934
Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với tiếng chiêng trống xập xoè inh cả tai. Chúng ta đổ nhau ra xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì.
Táo bạo thì táo bạo thực, nhưng trong văn thơ táo bạo không đủ đưa người ta ra khỏi cái tầm thường. Khi Nguyễn Vỹ hô hào:
Ta hãy truyền một thi hứng cho thế kỷ hai mươi,
Ta hãy ký thác trong vần thơ những tình sâu ý hiểm
Người có biết rằng trong hai câu này không có lấy một chút "tình sâu ý hiểm" và mặc dù cái lốt mới rềnh ràng của chúng, chúng vẫn có thể nằm xếp hàng với những câu sáo nhất xưa và nay mà không chút... ngượng. Tránh tầm thường mà lại rơi vào tầm thường là thế.
Nguyễn Vỹ quả là muốn loè những kẻ tầm thường là bọn chúng ta. Thực ra chúng ta cũng dễ bị loè. nhưng ở chỗ nào khác kia, chứ trong văn chương thì hơi khó. Một hai người có thể lắm; năm mười người; trăm ngàn người có thể lầm; chứ cả đám người mênh mông không tên tuổi kia thì ít khi nhầm lắm. Chúng ta có thể lầm trong một hai năm chứ lầm luôn trong năm bảy năm hay lâu hơn nữa, là chuyện thảng hoặc mới có.
Tôi tin rằng linh hồn chung của một lớp người đủ phức tạp để cảm thông với hầu hết những vần thơ văn có giá trị. Một bài thơ như bài" Sương rơi" được nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để tả một cái gì đương rơi. Cái gì đó có thể là những giọt sương cũng có thể là những giọt lệ hay những giọt gì rơi đều đều, chậm chậm trong lòng ta mỗi lúc vẩn vơ buồn ta đứng một mình trong lặng lẽ.
Nhưng" Sương rơi" còn có vẻ một bài văn." Gửi Trương Tửu" mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Trong lúc say, Nguyễn Vỹ đã quên được cái tật cố hữu của người, cái tật loè đời. Người ta đã quên những câu thơ hai chữ và những câu thơ mười hai chữ. Người dùng một lối thơ rất bình dị, rất xưa lối thất ngôn tràng thiên liên vận và liền chân. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người. Một hạng người nếu có tội với xã hội thì cũng có chút công, một hạng người đã đau khổ nhiều lắm, hạng sống bằng nghề văn. Hãy cho là họ không có gì xuất chúng đi thì ít nhất họ cũng đã nuôi những giấc mộng to lớn khác thường. Nhưng đời không chiều họ; đụng vào sự thực, những giấc mộng của họ đều tan tành và lần lượt họ bỏ thây dọc đường hay một căn phòng bố thí.
Nguyễn Vỹ dã làm bài thơ này trong một lúc vô cùng buồn giận cái nghiệp văn chương. Nhưng ai cùng một cảnh huống xem thơ tưởng có thể khóc lên được. Trong lời văn còn một chút nghênh ngang từ đời xưa lưu lại. Nhưng ta đã xa lắm rồi cái kiêu ngạo phi thường của Lý Bạch, chỉ có văn chương còn khinh hết thảy:
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt
Sở vương đài tạ không sơn khâu;
Hứng cam lạc bút giao ngũ nhạc
Thi thành tiếu ngạo lăng thương châu.
Với Nguyễn Vỹ chúng ta đã mất hẳn cái cười kiêu ngạo ấy và ngơ ngác thấy sắp cùng hàng với... chó.
Cái lối sắp hàng kỳ quái ấy đã làm phật ý Tản Đà. Một hôm say rượu, Tản Đà trách Nguyễn Vỹ: "Sao anh lại ví nhà văn chúng mình với chó? Anh không sợ xấu hổ à?" Nguyễn Vỹ đáp lại, cũng trong lúc say: "Tôi có ví như thế thì chó xấu hổ chứ chúng ta xấu hổ nỗi gì?"
Tháng 9 - 1941