Số lần đọc/download: 6072 / 258
Cập nhật: 2018-09-21 16:57:29 +0700
Chương 1:Vùng Quê Yên Tĩnh
S
ẽ là một thiếu sót lớn trong câu chuyện biên giới Tây Nam khi không nhớ gì, không nhắc gì đến cái làng quê mà chúng tôi huấn luyện ở tại đó trước khi vào chiến trường. Cái xóm Núi, thôn Lãm gần ga Bình Lục ấy…Một làng quê Bắc bộ vùng đồng chiêm trũng điển hình. Những ngọn đồi thấp cắm chân thẳng xuống đồng sâu. Tre gai bao bọc lấy làng thành luỹ dày ngăn ngắt.
Đoàn tân binh Hà Nội vừa xuống khỏi mấy chiếc xe ca Ba đình, được tập trung tại sân kho. Những đồ lính được phát ngay lập tức gồm: bát sắt, chiếu đơn hoa, màn xô trắng, chăn chiên sợi Nam định màu đỏ nhạt. Đũa thì tự đi mà tìm lấy…Quân phục, mũ, sao, tiết vẫn chưa được phát. Chúng tôi vẫn mặc thường phục ở nhà mang đi. Chiều tối hôm đó đơn vị không nấu cơm. Phát cho mỗi người hai cái bánh mỳ to tổ bố.
Chúng tôi được biên chế thành tiểu đội, trung đội ngay. Lính các tiểu khu (phường bây giờ) được xáo trộn, về các đơn vị khác nhau. Chắc để cho khỏi tụ bạ làm loạn hoặc để chia dễ trị… Chưa được phát ba lô, mấy thằng chúng tôi ôm tất cả các thứ đồ đó trên tay, lếch thếch đi theo các cán bộ về các nhà dân ở.
Dân làng nghèo, nhiều nhà phải ngả cả cánh cửa xuống, lấy chỗ nằm cho bộ đội. Tôi với thằng T. Anh được anh Ly tiểu đội trưởng đưa về nhà một chị có chồng cũng đi lính chống Mỹ. Chị ấy có thằng bé con năm đó mới đi học lớp Một. Thằng T. Anh cho nó cái bánh mỳ. Nó nhìn mẹ nó rồi ngập ngừng cầm lấy.
Đã ba năm kể từ ngày thống nhất mà chồng chị ấy vẫn không có tin tức gì. Rất ít nói, rất buồn, cứ như một cái bóng. Mờ đất, khi chúng tôi nghe tiếng còi báo thức sáng của anh Ly thì chị ấy đã cuốn xà cạp vào chân, loạt soạt kéo cái rào rong lấp cổng ra đồng rồi…Xà cạp là cái miếng vải cuốn vào bắp chân, cao đến tận đùi để chống đỉa. Đồng chiêm trũng nên đỉa rất nhiều. Đỉa hẹ nhỏ, mỏng như cái que, hai lườn vàng choé nhưng rất thính, động nước là lao đến liền. Con này rất sợ vì nó tham ăn, lại hay luồn lách được vào những chỗ không ngờ. Đỉa trâu thì quả là nỗi khủng khiếp! Khi đói nó co lại có khi chỉ bằng cái *** mít. Nhưng khi đã no máu thì nó trương lên cỡ chục lần, bằng quả chuối tiêu.
Những buổi chiều, chúng tôi tập xong ngồi nghỉ ở sân kho cũng là lúc đàn trâu hợp tác đi cày về. Cũng dồn ở sân kho như bộ đội, trệu trạo nhai lại, hay ngửi hít, cọ sừng cồng cộc với nhau. Trên đùi bọn này là một túm đỉa lúc lỉu căng máu, to như quả chuối tiêu cỡ bự. Ấy thế mà bọn trẻ trâu nó cứ mặc kệ. Tôi kinh tởm nhất cái giống này…Bẻ một cành rong, cùng anh em hò nhau đi bắt đỉa cho từng con. Con khủng long rơi xuống, lấy chân dẵm lên day day. Hai tia máu đỏ phọt ra từ cả hai đầu thành vòi vụt xa đến cả mét. Vẫn chưa hả, chúng tôi đốt rơm, gắp chúng nó thảy vào. Một lúc, những con đỉa nổ trong lửa bụp bụp, tiết dở sống dở chín văng tung toé. Trung đội 2 có thằng Trương xếch, muốn thể hiện bản lĩnh trước anh em. Nó nướng cháy từ từ một con đỉa cho đến khi vỏ ngoài thành than. Hắn bóc cái vỏ đen đen đó, cầm miếng tiết trâu nóng hôi hổi cho thẳng vào mồm, mặt nhăn nhăn nhở nhở. Tởm chết mẹ!
Nhưng cũng có những thằng sợ đỉa. Một lần, thằng T. Anh đang tập ngắm bia số 1 ngoài bờ cùng trung đội thì đau bụng. Nó đi loanh quanh tìm chỗ rồi chúi trong đám cỏ năn nước xâm xấp, bị đỉa bâu mà không biết. Đến khi phát hiện ra thì máu đã chảy ròng ròng trên bắp chân. Nó rú lên, không kịp xốc quần, chạy cà giựt cà tang về phía các chị em xã viên đang ngồi nghỉ. Các bà này thấy thế cũng hoảng, ôm nón chạy toá ra, vừa chạy vừa cười rũ rượi. Cả trung đội trưởng tôi cũng cười rồi xô vào gỡ cho nó. Nhưng anh Cường chính trị viên (dân phố Cầu Gỗ- Hà nội) thấy thế tức lắm! Hôm sau cho nó nghỉ tập ra sân kho, bắt gỡ đỉa cho trâu bằng tay dưới sự giám sát của cán bộ. Nó sợ đỉa chứ không sợ cán bộ, dứt khoát không làm. Vùng vằng mãi rồi suýt đập cả A trưởng.
Tối đại đội gọi lên thì nó nói thẳng là bảo nó làm gì cũng được, kể cả bốc ***. Nhưng nếu cứ bắt nó làm như thế thì nó sẽ đào ngũ. Hình phạt ấy về sau phải bỏ. Có những nỗi sợ vô thức đâu đó trong con người, trong từng khoảng khắc, nó bất chấp cả kỷ luật. Tôi cũng sợ đỉa nhưng không đến mức như nó…
Một tuần sau, thấy chúng tôi ở nhà chị ấy có vẻ không tiện, anh Ly A trưởng lại lôi hai thằng tôi về ở cùng…
Nhà này khá to. Ông chủ nhà là chủ nhiệm hợp tác xã có con đi bộ đội trong Nam. Hai ông bà cùng cô con gái út 17 tuổi tên là Độ ở nhà trên. Bọn tôi được xếp ở nhà ngang phía dưới. Toàn bộ khu nhà đó nằm thoải từ chân núi xuống cái giếng cạnh đường làng. Cái giếng chết tiệt này nó sâu lắm! Dây thì lại ngắn vừa phải, nên mỗi lần em Độ cúi nhoài người để giật cái gàu cho nó ụp xuống múc nước thì lại lạnh lưng hở sườn. Những ngày mưa ngâu, chúng tôi không ra thao trường được. Nằm tập ngắm bia con, chấm bút bi ở trong nhà sao cho nó chụm. Ngắm bia thì ít, mà ngắm cái trăng trắng dưới vạt áo đang múc nước ngoài kia thì nhiều. Nó trắng hơn bia là cái chắc. Anh Ly dân Hải Phòng bực mình, nổi máu quân tử mã thượng, đi mua một cái chạc dài thay dây gàu. Lại bắt tụi tôi mỗi đứa mỗi ngày hai gánh nước đổ lên bể trên cho nhà cô Độ.
Lần đầu tiên tôi phải đi gánh nước. Đau vai thì không nói làm gì,.nhưng mấy cái bậc đá trơn leo dốc làm tôi ngã sóng xoài, sứt mất phần ba cái răng cửa. Hít ra hít vào nó buốt lên tận óc. Thành ra ăn cơm ngô, tôi trệu trạo đưa đẩy răng hàm mấy cái rồi nuốt chửng. Đến giờ răng cửa vẫn nguyên cái miếng mẻ to tướng ấy.
Em Độ, lạy giời, không cảm cái oai với sợi thừng dài của anh Ly, mà đâm thông cảm với cái thằng vì sườn mình mà răng nó sứt. Ngày đó quán bà Bóp cây đa đầu tiên bán 2 hào quả bưởi. Sau khi bộ đội về làng, bà điều chỉnh giá lên kịch đường tàu thành 5 hào. Tôi với thằng T.A ở đó thích là có bưởi ăn liền, khỏi mua vì cô Độ cho. Bưởi đầy sau núi vườn nhà. Tối thứ Tư sinh hoạt trung đội, đọc báo sân kho. Tôi cáo ốm không đi. Lúc về lão Ly đi khẽ, lia đèn pin, thấy tôi không ốm, đang ngồi chén bưởi rinh rích vô tư cùng ẻm trên bực giếng. Anh ấy mới hầm hầm ra cái lệnh: Từ nay ngồi "tìm hiểu" hay nói chuyện với phụ nữ, với nữ đoàn viên thanh niên địa phương ban tối thì phải đốt đèn dầu. Đèn dầu phải để giữa hai người...
Từ đó ra đường quốc lộ 1 là 7 km, đến thị xã Phủ lý thêm 4 km nữa. Tổng cộng là 11 km. Ấy thế mà mấy đứa bạn gái cùng lớp các bạn ấy dám đến đơn vị thăm chúng tôi đấy. Đầu tiên đi xe ca từ Hà nội đến Phủ lý. Sau đó thì đi bộ 11km vào đơn vị. Bọn chúng tôi có 4 đứa trai cùng lớp chơi thân với nhau gồm tôi, Votmuoi, thằng T (B trưởng trinh sát D4b mà tôi đã bốt ảnh bên Quân sử vn) với thằng T.A. Sau thêm một nhóm bốn bạn gái nữa thành một nhóm.
Chiều tà tiễn nhau ra bến xe để về nhà. Tôi xin phép cho đi tiễn nhưng anh Ly sợ chúng tôi bám váy trốn theo nên không cho. Chúng tôi cứ lẳng lặng đi. Đồng tháng 10 đang mùa gặt. Rơm phơi đầy trên đường làng, rơm quấn lấy bước chân người. Thơm thơm lãng mạn ghê lắm nhé! Đi giày quân đội như tụi tôi bước còn khó. Huống hồ đi guốc gỗ vẽ sơn mài con cá vàng thì chỉ có mà nhờ dịch vụ cõng. Bao nhiêu guốc các nàng đành tháo ra hết. Tôi lấy sợi lạt bó lúa xâu cả lại xách toòng teng. Gần ra đến ngã ba thì anh Ly mượn xe đạp của dân đuổi kịp. Tôi bảo anh cứ đi về đi, tiễn đến ngã ba thì tụi em trở về. Anh ấy không tin, cứ dắt xe đạp đi sau tụi tôi một đoạn. Đội hình đầu nhọn đuôi dài như truyện Con Ngỗng Vàng của Gờ Rim với cha xứ đi sau cùng
Năm đó cũng cữ này thì chúng tôi đi bắn đạn thật. Trường bắn cách chỗ tôi đóng quân 4km, nằm phía sườn đông dãy núi Khe Non. Từ mấy hôm trước, BCH đại đội cùng thằng Trung liên lạc bò ra cắt dán những bông hoa hồng màu đỏ, có cái đuôi nheo vàng để phát cho những thằng bắn đạt loại giỏi đeo trên ngực. Thằng Trung là em một cô bạn cùng lớp với chúng em, nhà ở số 9 phố Đồng Xuân. Năm đó nó mới 16 tuổi mà không hiểu sao người ta cũng cho đi bộ đội.
Ngày bắn đã đến. Chúng tôi dậy và hành quân từ 5 h sáng sau khi đã chén xong suất ngô sáng. Toàn tiểu đoàn bắn trong một ngày. Đến nơi, tôi giật mình vì ông D trưởng cầm khẩu AK bắn chỉ thiên ba phát. Tiếng súng dội đi dội lại theo sườn núi ào áo chứ không đanh. Tôi vào vị trí bắn thì cũng run. Anh Toại B trưởng nằm xuống cạnh bảo "Kệ mẹ cho chúng nó bắn trước để quen tiếng nổ đã." Lão ấy lấy kính kiểm tra gài lên súng tôi, thấy đầu ruồi rung quá mới bảo; "Cứ bình tĩnh. Nếu thiếu tự tin phát nào tao bù đạn cho. Trong túi tao đầy đạn". Bên cạnh tôi, chúng nó nổ súng đùng đùng. Biết đếch thằng nào bắn ba viên, thằng nào bắn năm viên mà lo. Cha chả các bố huấn luyện! Đơn vị nào cũng có mánh để nâng thành tích của đơn vị mình. Trách gì cái bệnh hình thức của toàn xã hội ta bây giờ. Tôi còn nghe có đứa nó bảo là mấy thằng báo bia còn lấy que thông nòng súng dùi lỗ trên bia để nâng thành tích thêm nữa. Không biết có đúng hay không?
Hôm đó tôi cũng chỉ bắn 3 viên, được 26 điểm, cũng đạt giỏi. Cũng được đeo một bông hồng giấy trên ngực lấy le với mấy em xã viên
Sau kỳ đó thì chúng em tập nhàn hẳn. Buổi sáng lười, trốn tập thể dục không ai nói. Chúng tôi có thời gian lần mò cải thiện tẩm bổ. Mưa thì mượn lưới dân đi lưới cá ở ao Hợp tác vượt ra mương. Đất vùng chiêm trũng. Những buổi trưa nắng thu hanh gắt, nắng rám trái bòng. Những con ốc bươu, ốc nứa vỏ mỏng vàng xọng, tích khí bên trong vỏ, từ từ nổi lên trên mặt nước. Để nhờ cơn heo may dài rộng mà đủng đỉnh làm chuyến viễn du trên mặt sóng lăn tăn. Nghỉ trưa là tụi tôi mang vợt ra đi vớt. Ốc mùa này béo lắm! Trong những bó rạ được người ta buộc túm, bỏ lại trên ruộng, chờ khô để rải liếp màu, là nơi trú ngụ của cua đồng. Nhấc ra là túm được dăm con. Còn trong những dấu thụt chân người đọng nước trên mặt bùn đã xanh rêu, thọc tay khua khoắng cũng túm được mấy con cá đòng đong, mài mại hay cá giếc nhỏ... đem về nhờ kho khế.
Những chiều cuối thu, nằm dài trên bờ mương dưới bóng bạch đàn ngắm bia mẹ con. Đồng đã gặt xong vắng tênh. Trong không gian bắt đầu chuyển lạnh thấy rõ. Mà đất chỗ tôi ở cách Bình Luc, Yên Đổ quê cụ Tam Nguyên chưa đến 4 cây số. Hẳn ngày xưa, cụ cũng sống trong cái không gian đồng đất xóm mạc cuối thu buồn bã này, nên mới cảm mà viết nên những tuyệt phẩm Thu Vịnh, Thu Điếu...
Chiều vãn tập, chuẩn bị về nhà chờ đi ăn cơm. Trung đội ngồi quây quần trên núi đó cùng với B trưởng Toại tán dóc. Lão này là cán bộ B nhưng hóa vẫn còn nghịch dại, đem giấu khóa nòng khẩu AK của một thằng tôi không nhớ tên trong trung đội. Nó sợ, kêu toáng lên là chỉ có em với anh ở đây, lại mới vừa tháo lắp súng thấy đủ. Vậy nó đi đằng nào? Chỉ có anh giấu thôi! Ông Toại cứ cãi sống chết. Bọn tôi bênh nó, vào hùa làm ầm lên. Một lúc sau thì lão ấy đành xì ra và bảo đừng có báo cáo đại đội. Báo cáo thì ông ấy đi theo anh em vào chiến trường là cái chắc. Giống như trường hợp của mấy ông A trưởng huấn luyện như Ánh Hải phòng, Kính Hải phòng...
Chúng tôi không báo. Nhưng tối đi sinh hoạt đại đội ngoài sân kho, đang lộn xộn đi qua bờ cây tối thì nghe đánh "Ủm". Rồi tiếng lão Toại chửi rầm lên...
Cóc biết đứa nào dám đẩy ông Toại lăn xuống cái ao đang ngâm tre. Tre đang ngấu, thối lắm!
Lão ấy cũng không báo đại đội hoặc làm căng với tụi tôi. Thế là HÒA!
Thời gian huấn luyện những năm đó khẩu phần ăn của các anh thế nào?
Chúng tôi thì như sau: Bữa sáng ăn ngô xay nấu như kiểu nấu cơm. Có cho chút vôi để ngô mềm. Thường thường là nát như bánh đúc. Gác ca cuối thì mò vào cạy cửa bếp ăn vụng cháy. trên mỗi chậu nhôm chia ngô, chị nuôi úp một miếng cháy. Cháy ngô nấu chảo gang dày khi ăn nóng khá giòn và ngon. Bữa trưa và chiều thì cơm ngô theo tỷ lệ 50-50. Thức ăn là rau muống chấm "nước mắm" gạo rang. Một chút cá khô mục nữa. Còn thịt hồi đó được định nghĩa: là thức ăn hằng ngày của nhân dân, mà bằng mắt thường ta không thể nào nhìn thấy được
Thằng Long "Nhuận" ở 54 Hàng Giấy, gần hiệu sách Yên Sơn, có mang theo một cây guitar. Nó là học trò ông Văn Vượng, chơi classic khá hay. Ngón trémolo những bài "Bài ca hy vọng", "vũ khúc Tây ban nha"... . nghe không khác trên đài là mấy. Tôi cũng mới tập tọe học chơi. Nhai đi nhai lại mấy cung Am, Dm, C, E7 rồi lộn về Am là hết vốn. Đã thế lại còn thích sáng tác. Một sáng tác của tôi theo giai điệu bài "Hạ Trắng" của Trịnh Công Sơn thế này:
Tuyệt quá... ..!
Bữa cơm chúng mình Toàn rau muống xanh
Bát cơm ngô vàng Đệm cho món canh
Tép kho hôi rình Ngửi sao thấy tanh
Nghẹn không muốn nuốt Biết sao bây giờ... ?
Cho nên em buồn Cho nên em chuồn Về nơi phố cũ... .
Cho nên em khùng Cho nên em bùng Đường xa sá chi
Đường ta cứ đi Nắng không ngại gì
Biến xa đơn vị Em hãy cùng đi...
Phải nói là tôi có công phổ cập âm nhạc Trịnh Công Sơn. Kể ra thì nhiều lão cáu nhưng quả thật nhiều thằng không biết Hạ Trắng là cái gì, nhưng lại thuộc lòng cái lời xuyên tạc chết tiệt này.
Một tối, đang gân cổ say sưa trình tấu thì anh Cường CTV vồ được. Anh ấy hỏi thằng nào sáng tác bài hát này? Tôi bảo là Trịnh Công Sơn. Anh ấy bợp tai tôi phát, bảo là mày đừng có bố láo. Đại đội này không có quân nhân nào tên là Trịnh Công Sơn cả. Mai đi làm cỏ lúa!
Ba hôm liền, cứ sau bữa trưa, mọi anh em về đánh giấc thì tôi ra ruộng làm lao công dưới sự giám sát của anh Ly. Lão ấy cứ lầm bầm chửi tôi là tiên sư mày, vì mày mà bố mày khổ lây.
Nào, tiếp nhé! Thời đó quân tân binh huấn luyện chúng ta học chính trị những gì? Xem nào: Tất nhiên là 10 lời thề danh dự của QĐNDVN, các bài hành khúc quân đội... Rồi các bài giảng về kẻ thù lâu dài là đế quốc Mỹ, kẻ thù trực tiếp là bọn bá quyền bành trướng TQ cùng tay sai là bè lũ Pôn Pốt - Iêng Sa ry. Nhiều kẻ thù lắm... Rồi đụng độ hàng nguội, căng thẳng biên giới phía Bắc; anh hùng CAVT Lê Đình Chinh; đánh địch lấn chiếm biên giới Tây nam; người Hoa, người Việt gốc Hoa bỏ nhà cửa, công việc ùn ùn kéo về biên giới Lạng Sơn... Bác gái tôi, gọi bà ngoại tôi bằng dì ruột lấy chồng là người Hoa, cũng bỏ nhà ở ngõ Phất Lộc, theo con trai đi đợt này... Tóm lại, một bầu không khí làm xáo động mọi người lớn trong gia đình tôi, hơi pha chút âu lo.
Hồi đó, dù đã đi bộ đội, có lẽ chúng tôi vẫn còn "hơi sữa" thời học sinh nên cũng chẳng thấy lo lắng gì sất. Mình với TQ chỉ dậm dọa thế thôi chứ đời nào nó dám tẩn mình? Còn bọn Pôn Pốt nó ở đâu đó xa lắm. Chỉ cần vài loạt bom hay pháo của kho vũ khí tối tân Mỹ nó để lại đầy tổng kho Long Bình là chúng nó tan xác pháo. Chuyện chủ quan hay tâm lý tự mãn ấy là có thật đấy! Trong các câu chuyện thời sự vỉa hè mọi người rỉ tai nhau cũng hay bàn nhiều đến các vũ khí này. Và bọn lính mới tò te, như một lẽ tự nhiên, nghĩ rằng có đánh nhau cũng chẳng đến lượt mình. Có đánh thì một phát nó tan ngay... đời lính đẹp và hào hùng như các tác phẩm văn học chiến tranh dạy trong nhà trường.
Thế thì các "em" lớp dưới_ lớp 9D trường Phan Đình Phùng thấy chúng tôi đi bộ đội, cũng theo không khí chung thời đó, ra hiệu ảnh thuê quân phục làm phát cho nó thỏa mơ ước quân hành. Hặc hặc, quân phục thuê đắt ngang áo dài cưới đấy! Hội này nghe pháo Miên nó đề pa phát chắc chạy phọt guốc. Trường sáng về muộn, cố rình trường chiều xem đứa nào ngồi cùng chỗ, viết thư tình để trong ngăn bàn của mình. Cũng có một đôi nên duyên chồng vợ. Đó là thằng 16 phát B41/ ngày với cô bạn ngoài cùng bên phải tấm hình. Chẳng biết khi giải ngũ nó có bắn nổi 2 phát/ngày không?
Những tối tập báo động di chuyển! Kẻng báo động chiến đấu thì keng keng keng_ keng keng keng... giật hồi ba tiếng một. Báo động di chuyển hình như năm tiếng một hay sao ấy nhẩy? Quên rồi! Nhưng tối có báo động di chuyển thì thể nào tôi cũng biết vì có thằng cu Trung liên lạc nó thông báo trước. Ăn cơm chiều xong. Lên gửi nhà chủ những đồ linh tinh và cái chăn dạ cho đỡ phải đeo nặng. Nhưng cái chiếu gập đôi lồng cồng bên ngoài vẫn phải có để không bị lộ là bỏ lại đồ. Tập trung ở sân kho. Cán bộ phổ biến mệnh lệnh hành quân, tốc độ hành quân, hướng hành quân... là lên đường.
Đi dọc mương ra đường đất lớn. Cắt qua mấy mảnh ruộng khô. Qua bãi tha ma xứ đạo có những ngôi mộ to, những cây thập ác khổng lồ lạnh lẽo dưới trăng rồi vọt ra phố Động. Cái phố này bây giờ chuyên làm đồ đá, bán non bộ, tạc tượng Phật tượng Chúa đủ loại... Thỉnh thoảng điên lên cán bộ hô "Chạy!", thế là chạy hồng hộc một đoạn như một bọn phát rồ. Tôi còn nhớ là có lần hành quân đêm qua trại thương binh, lúc anh em vừa tan buổi chiếu phim tối, đưa gái làng về. Mấy thằng lính Hà Nội nghịch ngợm đi qua, trêu "mẻng" của các đàn anh chiến trận. Họ gom lại vung tó chiến đấu quên mình nhưng cũng không lại với mấy thằng tân binh đầu gấu. Cứ mũ cối gia công Đội Cấn chúng nó lao vào đập, chẳng kiêng dè các đàn anh gì cả.
Trận hỗn chiến cuối cùng thành cuộc rút quân mau lẹ của đại đội tôi. Vì trong số thương binh đó có anh chạy được về trại, gọi thêm quân cứu viện. Thế là chúng tôi chạy. Cán bộ cũng chạy. Không chạy thì họ vớ được thịt ngay. Đừng có dại. Ở đó họ nhiều lần quậy tưng mà xã huyện còn không dám nói gì nữa là! Quân số bổ sung ra đến nơi thì chúng tôi chân lành rút lâu rồi. Trại thương binh hôm sau tuyên bố sẽ sang ăn gỏi mấy thằng lính mới. Chúng tôi cũng chuẩn bị tinh thần tiếp đón, nhưng không thấy các anh ấy sang...
Sau thời gian đó, chúng tôi được chuyển ra phía ngoài Mậu Chử. Vào đúng cái làng mà lão (tên bạn tác giả) ở. Cái làng có cây cầu xi măng bắc qua ao đầu làng. Lúc đó đơn vị Votmuoi chắc đã hành quân vào Nam. Đêm nằm nghe tiếng còi tàu rít u u... Chẳng biết bao giờ đến lượt đơn vị mình lên đường
Chúng tôi chuyển đơn vị ra Mậu Chử, gần đường cái (QL1) hơn. Một lần, nhân dịp hội thao trung đoàn, đơn vị cho chúng tôi vượt cầu phao sông Đáy sang trung đoàn bộ xem bóng đá. Trận đấu Thể Công gặp Quân khu Tả ngạn. Cũng như truyện "Tinh thần thể dục" của cụ Nguyễn Công Hoan. Chúng tôi dậy từ lúc gà gáy, ăn cơm, điểm danh, lục sục cờ quạt khẩu hiệu để hành quân. Tôi chẳng nhớ gì tỷ số trận đó cả. Chỉ nhớ chúng nó hô: Bền! Bền! Các bác mê bóng đá, mê Thể Công có nhớ anh Thái Nguyên Bền tóc xoăn trắng trẻo đẹp giai lai Pháp đá hay không ạ? Anh ấy trước đá Thể công, sau hình như bị kỷ luật gái gú gì gì đó nên phải sang đá cho Quân khu Tả ngạn.
Đó là chúng nó giải thích cho tôi thế! Tôi không biết gì chuyện đó. Nhưng biết rất rõ là hôm đó trời đổ cơn mưa lớn. Chúng tôi ướt như chuột lột. Về đơn vị tôi bị trận sốt to mấy ngày mới khỏi. "Ốm tha già thải" là chế độ quân đội ta, được lính thành ngữ hóa. Ốm trong đơn vị cũ còn có vẻ có lợi chứ ở đơn vị mới này thì khỏe cũng nghỉ mà ốm cũng nghỉ. Chắc là gần đến ngày đi nên chẳng ai bắt chúng tôi tập tành gì nhiều nữa. Chỉ lo đảm bảo quân số đã là một thành công lớn vì độ này tụi nó bùng nhiều lắm!
Đêm cuối thu càng lúc càng lạnh. Tiếng chó sủa ong óc lúc xóm gần, lúc làng xa như có động vì lính trốn, vì quân cảnh đuổi bắt. Một số tiểu đoàn đã lục tục lên đường. Cái dự cảm lên đường hồi hộp nao lòng, bắt đầu từ những tiếng chó sủa đêm đêm. Từ những đoàn gia đình nhà lính vào thăm ngày càng nhiều. Bố mẹ tôi cũng vào thăm một lần. Tôi gửi lại cây guitar mang theo vào đơn vị cho bố mang về. Cây đàn này nay vẫn còn, đang treo trên tường. Chiều hôm đó song thân ra về. Tôi tiễn ra đến đường cái quan. Nhớ mãi hình ảnh bố gò lưng đạp cái xe nam ngược gió ra ga Phủ Lý, đèo mẹ đằng sau tay chống cây đàn...
Bố mẹ tôi là viên chức nghèo nên không có tiền nhiều để cho. Nhưng một số anh em gia đình buôn bán, "phe phẩy" (!?), hay có nghề phụ gia công... thì được cho khá nhiều. Chúng tôi gom tiền, mua hàng mũ trứng vịt luộc ăn với nhau. Rồi Chủ nhật đụng luôn con chó gié nhà chủ. Bác chủ nhà đứng ra gọi người làm hộ, vì bọn tôi có biết thịt chó bao giờ đâu? Bên bờ ruộng khô trắng vì gió bắc đầu mùa, anh ba toa rút những nắm rơm nhỏ, đốt quạt phành phạch, lật đi lật lại con chó để thui lại những chỗ còn da trắng. Chúng tôi lui cui vây xung quanh, nghịch đốt những cây muồng khô, quả muồng nổ lốp đốp trong lửa. Da chó dần vàng rộm, căng rồi nứt ra vì quá lửa. Mùi rơm đốt, mùi quả muồng cháy, mùi chó thui bên bờ ruộng quẩn quanh rặng bạch đàn... Ôi chao là chủ nhật làng quê!
Có lẽ đó là ngày Chủ nhật cuối cùng yên bình nhất. Mấy ngày hôm sau, các “tham mưu con” đoán già đoán non, phấp phỏng. Tôi thì nghĩ đơn giản là nếu được vào miền Nam thì cũng tốt. Một vùng đất mới chỉ biết qua sách vở vừa được quân ta giải phóng. Vào đó may có khi được đi Sài Gòn xem dinh Độc Lập, đi Cà Mau xem sân chim hay xuống Cần Thơ chỗ anh Phát tôi đóng quân, ăn trái cây “một bụng” ngon hết sảy như anh ấy kể… Hoàn toàn không có một khái niệm gì về cuộc chiến tranh biên giới Tây nam. Các vụ lấn chiếm lẻ tẻ của Pôn Pốt mà báo đài đưa tin không gây một ấn tượng gì. Dẹp! Mấy vụ đó có các sư đoàn thiện chiến hùng mạnh, cùng một đống vũ khí tối tân của Mỹ chúng ta vừa thu được. Liệu bọn nó sức mấy? Đơn vị mình vào đó có khi chỉ làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế là cùng. Ấy, hồi đó không chỉ tôi mà nhiều thằng cứ nghĩ như thế đấy!
Sáng hôm 18/11/78, cả tiểu đoàn huấn luyện báo động chiến đấu, hành quân ra thị trấn Phủ Lý. Từ Mậu Chử đến thị xã chỉ khoảng 6 km, nên đến gần trưa đã tới đó. Đến nơi thì thấy các tiểu đoàn khác trong trung đoàn huấn luyện (E104) đã tập kết đầy đủ trong sân vận động. Tiểu đoàn tôi vào nốt. Cổng sân vận động được đóng chặt lại. Trưa hôm đấy, trung đoàn ăn bánh mỳ trừ bữa. Đến khoảng 2h chiều, một đoàn văn công bắt đầu đến biểu diễn trên sân khấu. Lòng dạ đâu mà nghe hát lúc này? Một số thằng lính nghịch tinh, ngồi gần sân khấu còn ném xương, khẩu mía nhai dở lên ầm ầm...
Đến 4h chiều, đơn vị hành quân ra ga Phủ lý, giữa hai hàng vệ binh lưỡi lê tuốt trần. Từ sân vận động ra ga tàu chỉ khoảng 1 km. Tôi vừa đi trong đội hình hành quân, vừa ngoái lại. Nhìn thấy con em gái với mẹ thằng Thắng Hàng Bè, gia đình thằng Lâm và một số gia đình khác đuổi theo hàng quân. Thằng Thắng học khác lớp nhưng cùng trường với tụi tôi. Họ xông vào thì vệ binh gạt ra ngay. Mấy thằng lính Hà Nội nổi khùng vặc lại. Họ quấn túm lấy nhau. Chao ôi là nước mắt... !
Thành ra bây giờ cứ xem lại đoạn đầu đặc tả cảnh tòng quân trong phim "Đàn sếu bay qua" thì cổ họng tôi nó như nghẹn lại… Một cô gái váy trắng lớ ngớ, len lỏi tìm người yêu tòng quân giữa hai hàng thiết giáp. Tiếng kèn vang vọng lên hành khúc. Và hộp bánh bích-quy sinh nhật tặng người yêu của cô đổ òa, tan vụn dưới xích xe tăng, tan vụn dưới những gót quân hành.