Love is one long sweet dream, and marriage is the alarm clock.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Nghiêm Kế Tổ
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 36
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4219 / 51
Cập nhật: 2016-06-09 04:42:14 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 17: Từ Trận Vĩnh Yên Đến Trận Đánh Xứ Lào
au chiến dịch Hoàng văn Thụ và Lê hồng Phong (1950), mượn đà thắng lợi, Tướng Võ nguyên Giáp tiếp tục hạ lệnh tiến quân:
– Uy hiếp Việt Trì, tấn công vùng Phong Thổ.
– Tấn công vùng Bắc Phủ Lạng Thương, Tiên Yên và Mong Cáy.
Mục Đích: Chọc thủng hành lang Đông Tây của quân đội Pháp, lấy bàn đạp tiến vào đồng bằng, làm rối loạn hệ thống giao thông vùng Chũ Phủ Lạng Giang.
Hà Nội hoang mang, xôn xao lo lắng. Nhưng Đại Tướng De Lattre đã sang tới nơi và quả quyết:
‘’…Chúng ta nhất định sẽ không nhường thêm một tấc đất, hơn nữa chúng ta sẽ lấy lại đất…’’
Với những lời tuyên bố mạnh mẽ, cứng cõi, Đại Tướng De Lattre đã gây được tin tưởng trong lòng mọi người, nâng cao tinh thần quân sĩ từng bị lung lay trước sức tiến quân rầm rộ của đối phương.
Ngày cuối tháng Chạp 1950, cuộc hành binh Bécassine đã quét quân đội Võ nguyên Giáp ra khỏi vùng giữa sông Đáy sông Chẩy, đẩy lui áp lực địch trên đường số 3, số 2 và giải nguy cho Thị Trấn Việt Trì.
Mùa chiến dịch lại bắt đầu.
Trong khi ở Sài Gòn, (9.1.1951) Đại Tướng De Lattre tiếp đón các nhân vật Anh qua thăm Đông Dương, Đại Tướng Harding, Tổng Chỉ Huy quân đội Anh ở Viễn Đông và ông Esler Dening của Viễn Đông Vụ Bộ Ngoại Giao Anh, thời ở Bắc Việt, 40 tiểu đoàn thiện chiến của Việt Minh dưới quyền điều khiển trực tiếp của Tướng tổng tham mưu trưởng Hoàng văn Thái, dàn thành trận thế uy hiếp mặt trận Trung Du.
Trận thế ‘’vận động trận địa chiến’’ dài trên 140 cây số, suốt Lục Nam đến Việt Trì (13.1.1951) qua các Tỉnh Bắc Giang-Bắc Ninh-Phúc Yên-Vĩnh Yên.
Lần đầu tiên bộ tổng tham mưu Việt Minh thí nghiệm lối đánh mới, dàn trận công khai giữa đồng bằng, áp dụng chiến thuật ‘’bể người’’ ồ ạt tấn công, tiến quân theo từng ‘’đợt sóng’’ đằng sau có trọng pháo yển hộ.
Chiến thuật ‘’hy sinh người’’ đó đã được quân đội Bắc Cao Ly-Trung Cộng thực hành liên tiếp trên chiến trường Cao Ly.
Quân đội Việt Minh, dựa lưng vào chân rặng núi Tam Đảo, tung ra trận đánh ‘’lúa gạo’’ ở vùng Tam Dương, Đồi Cọ hy vọng uy hiếp mặt Tây-Bắc Hà Nội.
Nhưng các Binh Đoàn Lưu Động của Đại Tướng De Lattre đã sẵn sàng.
Những trận xung kích ác liệt bắt đầu.
Quân đội hai bên giáp la-cà, lẫn lộn vào nhau, huyết chiến.
Hậu tuyến của quân đội Việt Minh liên miên bị những đoàn phi cơ thay nhau đến oanh tạc. Hàng chuỗi bom ‘’xăng đặc’’ (napalm) thả xuống bể người đang cuồn cuộn.
Hết đợt nọ tới đợt kia, làn sóng Việt Minh không kể tới bom đạn liền chết tràn vào trận tuyến Pháp. Nhưng ở đó họ đã chạm phải vách đá kháng cự quá kiên cố của quân đội Pháp nên phải rút lui, rã rời ra từng mảng.
Đến lượt quân đội Pháp trỗi dậy phản công và đẩy dồn quân đội của Tướng Võ nguyên Giáp về chân núi Tam Đảo.
Trận thử lửa Vĩnh Yên đã làm Việt Minh tan mộng ‘’Tổng phản công’’ và phải nhận định lại khả năng quân sự của mình. Rút kinh nghiệm. Chiến tranh ở rừng núi là một vấn đề chiến tranh ở đồng bằng lại là một vấn đề khác!
Thắng lợi của quân đội Pháp ở Vĩnh Yên đã cứu vãn được tình thế. Quân lính Pháp nức lòng phấn khởi, thêm mến phục tài năng của vị chỉ huy vô địch: Đại Tướng De Lattre.
Lợi dụng thời gian yên tĩnh. Đại Tướng De Lattre gấp rút hoàn bị việc xây dựng hệ thống pháo lũy bê tông và thành lập thêm một số Sư Đoàn Dã Chiến (DML-Division de marche Indochinoise). Mỗi sư đoàn dã chiến gồm nhiều binh đoàn lưu động (Groupe des groupements mobiles).
Sau ít ngày nghỉ ngơi để hàn gắng lại vết thương quân đội Việt Minh lại bầy một keo khác.
Lần này Việt Minh cẩn thận hơn, nép mình vào khu núi non hiểm trở miền rừng mỏ để tránh nạn oanh tạc, khởi những trận tấn công uy hiếp đường Liên Tỉnh Đông Triều-Phả Lại (RP.18 ngày 24.3.1951)
Ngày 29.3.1951, một số trung đoàn của mặt trận Trung Du (Trung đoàn Bắc-Bắc, trung đoàn Hồng Quảng, trung đoàn Chũ) nổ súng vào vùng Mạo Khê Mỏ.
Đại Tá Sizaire, người đã từng chỉ huy Trung Đoàn bộ binh thuộc địa thứ 21 (21e R.I.C. Lạng Sơn năm 1947) được lệnh thành lập cấp tốc một binh đoàn lưu động tới giải vây Đông Triều và Mạo Khê.
Sau hai đợt tấn công mãnh liệt của Việt Minh (29 và 30.3.1951), Mạo Khê vẫn vững vàng tuy bị thiệt hại.
Qua trận Mạo Khê Mỏ, các tiểu đoàn Việt Minh lại phân công nhau áp đảo những đồn Hoàng Xá-Bến Tắm Hà Chiểu (4 và 5.4.1951).
Sau 12 ngày chiến trận, vùng Đông Triều lại im tiếng súng.
Thế quân bình giữa hai bên quân đội đã tỏ ra rõ rệt tương đương.
Bài học Đông Triều đem kinh nghiệm lần thứ hai cho nghề ‘’vận động chiến’’ mới chập chững của quân đội họ Võ.
Rồi lại tới trận thứ ba nhắm đánh Tỉnh lỵ Ninh Bình bên bờ sông Đáy. (30.5.1951)
Ần núp trong dẫy núi đá vôi, Việt Minh khởi trận tấn công chiếm Ninh Bình, một trận đánh khốc liệt đã đem lại tang tóc cho gia đình Đại Tướng De Lattre: Trung Úy Bernard de Lattre bị tử trận sau khi đã kháng cự một cách anh dũng.
Ninh Bình trong tám ngày dưới bóng cờ Việt Minh đã được quân đội tiếp viện Pháp phản công chiếm lại (8.6.1951).
Ngày 14.6, Việt Minh quặt sang áp đảo Đồn Yên Cư Hạ gây thêm sự thiệt hại cho quân đội Pháp và đó cũng là trận cuối cùng chấm dứt chiến dịch mùa Xuân của Việt Minh.
Đại Tướng De Lattre mới chân ướt chấn ráo sang Việt Nam đã phải đương đầu ngay với ba trận đánh phủ đầu của Võ nguyên Giáp (Vĩnh Yên-Đông Triều-Ninh Bình) và trong số binh sĩ tử trận, Đại Tướng cũng đã phải góp phần máu: Trung Úy Bernard de Lattre.
Nhưng, dưới tài điều khiển của Đại Tướng, quân đội Pháp không những đã bẻ gẫy được hai cánh tay khổng lồ của Việt Minh định vươn về Đồng Bắng Bắc Việt (Vĩnh Yên-Đông Triều), và phá tan mưu mô của địch ở đồng lúa Ninh Bình mà còn đủ sức trả đòn lại quân đội Việt Minh trên chiến trường toàn quốc:
– Trận đánh Méduse tại vùng ‘’đầu rắn’’ (Tête de vipere-Ninh Giang) giải phóng được 600 làng và 300.000 dân quê 1-3 tháng 5.1951.
– Trận Reptile tiếp liền theo (9.5.1951) phá tan lực lượng địa phương quân Việt Minh vùng Kẻ Sặt.
– Những trận Citron-Mandarine bình định lại khu Thái Bình.
– Trận đánh Chợ Cháy (Hà Đông) hồi tháng 6.
– Cuộc hành binh Aquarium (tháng 4.1951) tổng càn quét khu Đồng Tháp Mười (Việt Nam).
Ngoài những trận đánh có tính cách càn quét và tiêu diệt lực lượng du kích của Việt Minh kể trên, quân đội Pháp còn lấy lại được một vùng giữa Cần Thơ-Rạch Giá (Nam Việt) rộng tới 200.000 mẫu tây với chừng 100.000 dân chúng.
Ngược lại ngoài chiến trường chính ở Bắc Việt, Việt Minh cũng phát triển ở các chiến trường phụ trên khắp lãnh thổ để gây thanh thế:
– Nam Việt: Trung đoàn của đất Đồng Nai đánh úp vùng Thủ Dầu Một-Sa Đéc (do quân đội Hòa Hảo chống giữ).
– Trung Việt: Sư đoàn 325 tăng cường hoạt động ở khu Đèo Hải Vân. Phía Nam Trung Việt. Việt Minh đánh chiếm Đèo An Khê, Cao Nguyên Cheo Reo, phá tan sức chiến đấu của bộ đội Pháp ở Kontum đồng thời tập trung quân ở giữa ranh giới Trung-Nam.
Khấy động mặt trận Cao Mên, quân đội Issarak-Việt Minh tấn công vùng đất đỏ, đốt phá đồn điền cao xu và uy hiếp đường mạch máu chính của Quốc Gia Cao Mên: Soatrieng-Battambang.
Sau chiến dịch ‘’Thóc Lúa’’ (Vĩnh Yên-Ninh Bình) của Việt Minh, hai bên quân đội thi nhau mở những trận đánh nho nhỏ để tiêu diệt sinh lực đối thủ cướp lại đất đai và dân chúng.
Rồi tới trận Hòa Bình.
Để tỏ cho Việt Minh biết quân đội Pháp vẫn giữ phần chủ động chiến trường, Đại Tướng De Lattre mở một cuộc hành binh vĩ đại đột ngột tiến vào khu vực Hòa Bình (9.11.1951).
Từ cơ sở chỉ huy đóng ở Ngã Ba Thá (một đồn trên sông Đáy cuối địa phận Huyện Thanh Oai) Tướng De Linarès trực tiếp điều khiển cuộc tiến quân.
Trận Hòa Bình mở đầu bằng cuộc tấn công khu Chợ Bến (Mỹ Đức) với sự tham dự của nhiều binh đoàn lưu động.
– Một binh đoàn thiết giáp cùng với đội xung phong Pháp-Việt do Đại Tá Castries chỉ huy đánh phía Bắc Chợ Bến.
– Phía Tây, bên kia bờ sống Đáy, một binh đoàn do Đại Tá Dodelier chỉ huy.
– Chính giữa, thẳng vào Chợ Bến, Đại Tá Clément dẫn đầu một binh đoàn lưu động tiến vào liên lạc với một Tiểu Đoàn Nhẩy Dù từ không trung tỏa xuống và được đoàn quân áo đen xung phong của Vandenbergh trợ sức.
– Phía Nam Chợ Bến, Tiểu Đoàn Mường của Đại Tá Vanuxem uy hiếp Dục Khẻ (Chùa Hương) đã khiến trung đoàn 64 của Liên Khu 3 phải rút lui vào dẫy núi đá vôi.
Trận Hòa Bình được sửa soạn rất kỹ lưỡng và bất ngờ đã làm quân đội Việt Minh không kịp thời gian chuẩn bị kháng cự và phải vội vã chạy tản mác vào rừng núi lẩn trốn.
Sau trận đánh mào đầu ở Chợ Bến hoàn toàn thắng lợi, trận đánh chiếm Tỉnh lỵ Hòa Bình chính thức bắt đầu ngày 13 tháng 11.1951.
16 Tiểu Đoàn Pháp-Việt tấn công tiến chiếm chớp nhoáng dưới quyền đích thân điều khiển của Đại Tướng Salan trên chiến địa cùng với một số Tướng Tá cao cấp:
– Tướng Allard phụ trách việc giao thông, chuyển vận quân đội, vũ khí.
– Tướng Leblanc phụ trách việc chiến giữ Trung Hà.
– Đại Tá De la Bollardiére trông coi mặt Nam Tỉnh Hòa Bình cùng với Tiểu Đoàn Mường của Đại Tá Vanuxem.
– Đại Tá Clémen phụ trách việc giao thông liên lạc giữa các mặt trận.
Với một quân lực hùng hậu như trên, quân đội Pháp đã thôn tính Hòa Bình một cách quá dễ dàng. Bộ Tư Lệnh Pháp hy vọng rằng việc chiếm đóng Hòa Bình sẽ bắt buộc quân đội Việt Minh phải tới giáp chiến và Hòa Bình sẽ trở nên ngọn đèn để đoàn ‘’thiêu thân’’ Việt Minh quàng tới.
Về phía quân đội Pháp, cuộc chiếm đóng Hòa Bình gây được nhiều thắng lợi:
– Trên phương diện quân sự, làm chủ được chiến trường, xây pháo lũy kiên cố rồi dữ địch tới để tiêu diệt.
– Trên phương diện chính trị, gây lại niềm tin tưởng cho dân Mường.
– Trên phương diện kinh tế, chặn được đường giao thông quan trọng của Việt Minh qua đường số 6 tiếp vận cho Khu 4.
Không thể để mất một căn cứ quan trọng đã giữ từ sau Thu Đông 1950, quân đội Việt Minh nhất quyết giáp chiến.
Đầu tháng Chạp, những đơn vị của các sư đoàn 304, 308, 312 xuất hiện bao vây kín khu lòng chảo Hòa Bình và khu Chợ Bến, rồi những trận kịch chiến ghê hồn tiếp diễn:
– Xóm Suôi, Tu Vũ, Ba Vì, La Phù, Đá Chông, Yên, Cư, Xóm Phèo, Đồng Bến, Đèo Kếm, Thị Xã Hòa Bình…
Tất cả đã là những chiến trường đẫm máu, một bên cố thủ, một bên công phá, bất phân thắng bại.
Lợi dụng lúc quân đội Pháp phần lớn đang chiến đấu ở Hòa Bình, Việt Minh tung các đơn vị của hai sư đoàn 320 và 316 đi xâu vào hậu tuyến quân đội Pháp xâm nhập miền Đồng Bằng do Quân Đội Việt Nam trông giữ.
Nhận rõ ảnh hưởng tai hại gây nên do sự len lõi xâm nhập đồng bằng của các đơn vị Việt Minh, Đại Tướng Salan ra lệnh rút khỏi Hòa Bình (tháng 2.1952) để cứu gỡ miền đồng ruộng Bắc Việt.
Bỏ Hòa Bình, Việt Minh sẽ dễ dàng chuyển vận vũ khí quân nhu vào Liên Khu 4 để tăng cường sư đoàn 325 của họ. Tuy hiển như vậy nhưng quân đội Pháp vẫn phải quay về để đối phó cấp tốc ngay với một hiểm họa đang phô bầy trước mắt, những đơn vị của hai sư đoàn 320, 316 đang tung hoành quấy rối tại khắp vùng Đồng Bằng.
Chiến cuộc Hòa Bình đã kết thúc sau hơn ba tháng trời đầy rẫy những trận xung đột nẩy lửa, gây thiệt hại nặng nề cho cả hai bên quân đội.
Nhưng trận Hòa Bình mới diễn tới nửa chừng, toàn thể quân đội Liên Hiệp Pháp đã phải chịu một tang chung đau đớn. Sự vắng mặt vĩnh viễn của Đại Tướng De Lattre de Tassigny. Đích thân chỉ huy mặt trận Hòa Bình được ít ngày. Đại Tướng trở về Pháp và mất ngày 11 tháng 1 năm 1952.
Sau những trận thử lửa cuối cùng trên đường số 6 và Hòa Bình (cuối năm 1951) quân đội Việt Minh đã nghiên cứu lại đường lối chiến thuật. Nhận thấy trận địa chiến và vận động chiến đối chiếu với lực lượng quá mạnh của quân đội Pháp chỉ mang lại thiệt hại và hy sinh vô ích, Việt Minh quay về với lối đánh du kích đã lành nghề của họ.
Hai sư đoàn 320 và 316 có nhiệm vụ đi sâu vào đồng bằng Bắc Việt, tổ chức các cơ sở kháng chiến địa phương, dìu dắt đám dân quân du kích, huấn luyện tác chiến cho tân binh để chuẩn bị giai đoạn chiến lược đồng thời quấy rối, công phá những vị trí phòng ngự lẻ loi của quân đội Pháp-Việt.
Hoạt động dữ dội, liên tiếp của du kích Việt Minh đã biến vùng Đồng Bằng Bắc Việt trở nên mục tiêu quan trọng số một cho Bộ Tổng Tham Mưu Pháp.
Từ tháng 7 năm 1951, thanh niên Việt Nam đã bắt đầu từng lớp một ra đầu quân (Dụ Động Viên tháng 7 của Quốc Trưởng Bảo Đại) nhờ đó Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đã lớn mạnh và được đảm đương nhiệm vụ chống giữ hậu tuyến trong khi quân đội Pháp tiến chiếm Hòa Bình.
Nhưng tân quân của Quốc Gia Việt Nam chưa phải là đối thủ đáng gờm của quân đội Việt Minh cho nên lợi dụng lúc những binh đoàn thiện chiến của Tướng Salan và De Linarés còn đang mắc bận ở Hòa Bình, các đơn vị của sư đoàn 320 lẩn lút kéo nha vào vùng đồng ruộng Thái Bình đồng thời các đơn vị của sư đoàn 316 cũng từ mạn Vĩnh Phúc tuôn xuống.
Binh đội Pháp từ Hòa Bình rút về chưa kịp nghỉ ngơi đã phải tham dự ngay những cuộc hành quân tảo thanh xua đuổi quân du kích Việt Minh ra khỏi Đồng Bằng.
Từ trung tuần tháng 2.1952, Đại Tướng De Linarès, Tư Lệnh Bắc Việt đã liên tiếp mở những trận cán quét:
– Trận Grachin (15.2.1952) giữa khi sông Hóa và sông Trà Lý, chặn đánh sư đoàn 320.
– Trận Sable (19.2.1952) miền Nam Vĩnh-Phúc Yên cùng một lúc với trận Bissextile tại Kẻ Sặt dưới quyền điều khiển của Tướng Cogny để ngăn sư đoàn 316.
Giữa hai đầu ‘’Crachin’’ và ‘’Sable Bissextile’’ cuộc hành quân Poisson càn quét khu vực Bần-Yên- Nhân gây thiệt hại lớn cho những đội địa phương quân Việt Minh miền ruộng nước.
– Trận Amphibie (11.3.1952) mở đầu cho cuộc hành binh lớn: Trận Mercure (26.3.52) đại phá vùng ven bể Thái Bình. Đại Tá Vanuxem chỉ huy toán quân Mường, phối hợp với Tiểu Đoàn Dã Chiến (Bataillon de marche du ler chasseur) đội công binh tiền tuyến (Genie d’Assaut) và pháo binh, không quân, thủy quân chiến đóng cửa bể Diêm Hô (vùng Thụy Anh, Diêm Điền thuộc Thái Bình), phá tan những đơn vị của sư đoàn 320, thiệt hại nhất là trung đoàn 48. Trong một vùng rộng trên 200 cây số vuông, quân đội Pháp ra sức ‘’nhặt nhạnh’’ đám quân chính quy Việt Minh vừa mới len lõi đến.
– Trận Amphibie Mercure vừa kết liễu, cuộc hành binh Doromadaire lại tiếp theo ở vùng Thanh Miện, Phủ Cừ (28.4.52) thuộc Hải Dương-Hưng Yên.
Thế mà từ đầu tháng Giêng cho đến tận tháng 6 năm 1952, quân đội Pháp cũng không kém phần hoạt động.
Mặt trận miền Nam, trong khoảng từ tháng Giêng tới tháng 2.1952, đã liên tiếp có những cuộc hành binh ‘’Gió Lốc’’ (Tourbillon I-II-III-VI) dưới quyền điểu khiển của Tướng Baillit (phụ tá Tướng Bondis, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Pháp ở Nam Việt). Quân đội Pháp đã xục xạo khắp khu Đồng Tháp Mười, dọc đường Mỹ Tho-Sa Đéc…bằng 6-7 tiểu đoàn cộng với 3 đoàn Thủy Binh xung phong (Dinassau) có chiến xa lội nước Crabe và tàu đổ bộ nhỏ trợ chiến (LCT-Landing Craft Infantry)…
– Trận Brigade (tháng 3.1952) bao vây và tiêu hao lực lượng đoàn binh của Đại Tá Trình Minh Thế (Cao Đài ly khai) tại miền Nam Tỉnh Tây Ninh.
– Trận Barnabé (13.6.1952) càn quét vùng Suối Kỳ (Tây Bắc Tỉnh Tây Ninh).
Tình hình Nam Việt được tương đối yên ổn hơn vì trong đó quân lực Việt Minh không mạnh như ngoài Bắc.
Mặt trận miền Trung, quân đội Pháp cũng phải luôn luôn tuần tiễu và mở những cuộc hành binh để áp đảo binh lực đối phương.
– Trận Cybèle (14.2.1952) cán quét khu vực Đồng Hới.
– Trận Carême (24.2.1952) vĩ đại hơn, có cả chiến đấu hạm Gracieuse tham dự. Dưới quyền điều khiển của Đại Tá Moissenet (Tư Lệnh Lục Quân khu Bắc Trung Việt-Zone Mord FTCV) cuộc hành binh này đã đẩy lui được quân đội Việt Minh vào sâu trong rừng núi và giải phóng khu vực Cầu Hai (Quảng Nam), Dang Key, PlaidJama (Darlac)…
– Cái ‘’đinh’’ nhọn nhất và khó chịu nhất ở mặt trận miền Trung mà quân đội Pháp của Tướng Leblanc cần phải nhổ là sư đoàn Bình-Trị-Thiên (sư đoàn 325)
Sư đoàn 325 gồn những phần tử tinh nhuệ đã từng chiến đấu ở khu Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên từ năm 1947.
Ở trong một vùng phải chiến đấu dữ dội và dai dẳng nhất, có phần hơn cả ở Trung Du Bắc Việt, sư đoàn 325 đã trưởng thành trong khói lửa và mạnh hơn nữa từ khi Việt Minh được thông thương dễ dàng suốt từ Trung ra Bắc. Nhờ những chuyến tiếp vận quân nhu, vũ khí, sư đoàn 325 đã trở nên một sư đoàn trang bị tối tân không kém những sư đoàn có tiếng của các Đại Tá Hoàng minh Thảo (304) và Vương thừa Vũ (303).
Tháng 3 năm 1952, quân đội Pháp có Quân Đội Việt Nam trợ lực đã mở một cuộc tảo thanh quét Đèo Mỹ Lợi ở Phú Vang, tìm đuổi trung đoàn 101 thuộc sư đoàn 325.
– Trận quy mô đầu tiên đánh trung đoàn 101 là cuộc hành binh Quadrille trong tháng 7 tại Đông-Nam Kinh Thành Huế.
– Trận Sauterelle (tháng 8.1952) nối tiếp và dữ dội hơn đã khiến những tiểu đoàn 333, 319, 436, 328 của trung đoàn 101 (sư đoàn 325) bị một vố nặng nề.
Tóm lại, trên chiến trường toàn quốc, từ sau cuộc lui quân Cao-Bắc-Lạng, quân đội Pháp không những đã ngăn chận được những cuộc tấn công như nước lũ của Việt Minh định tiến vào khu vực do chính phủ Quốc Gia kiển soát mà còn tảo thanh và diệt trừ được những đơn vị chính quy và dân quân du kích hoạt động trong phạm vi lãnh thổ đã bình trị.
Đó là kết quả của tất cả mọi cố gắng hy sinh của quân đội Liên Hiệp Pháp và do tài năng điều khiển sáng suốt của cố Thống Chế de Lattre de Tassigny.
Sự phối hợp hoạt động chặt chẽ giữa Không Quân, Thủy Quân với Lục Quân đã giúp ích rất lớn trong mọi cuộc hành binh hoặc phòng thủ.
KHÔNG QUÂN
Với những phi đội Junker, Dakota, B-26, Bearcat, Hellcat, Privatcers, Không Quân Pháp đã reo rắc kinh khủng liên tiếp cho quân lính Việt Minh, gây một trạng thái tâm lý bất an, bắt buộc họ luôn luôn phải ẩn núp trốn tránh.
Nhờ không quân, những Binh Đoàn Nhẩy Dù (G.L.A.P-Groupement léger Aero porte) đã dễ dàng thi hành nhiệm vụ tấn công phối hợp.
Nhờ không quân, những đồn canh lẻ loi đã được ứng cứu đắc lực mỗi khi bị tấn công và những binh đoàn chiến đất cũng được hộ vệ, yểm trợ ráo riết mỗi khi phải chạm súng với đối phương.
THỦY QUÂN
Từ 1950, Bộ Tham Mưu Quân Đội Pháp ở Đông Dương đã có một binh chủng trợ lực trên chiến trường: Sư đoàn Thủy Quân Viễn Đông (D.N.E.O-Division Navale d’Extrème-Orient) dưới quyền chỉ huy của Phó Đô Đốc Rebuffel.
Đó là một đơn vị thủy quân đặc biệt tổ chức ngoài hệ thống Hải Quân.
Lực lượng của đơn vị thủy quân đó có chiếc chiến đấu hạm Savorgnan de Brazza, tầu chỉ huy, và vài chục chiếc tầu chiến nhỏ đủ các loại (Croiseur, Escorieur, Patrouilleur, Tender Aviation) với 3 đội Thủy Binh xung phong (Dinassau-Division navale d’Assaut).
Đơn vị thủy quân này đã phá hoại được của Việt Minh ở ven bờ bể (1951) hàng 6.000 thuyền vận tải súng ống, lương thực, bắt tù hàng ngàn ‘’thủy binh’’ Việt Minh và vài trăm vụ buôn lậu khí giới, thuốc men…
Riêng chiến đấu hạm Savorgnan de Brazza cũng đã gây được nhiều thành tích. Trọng tải 2.500 tấn, dài 103 thước tây, rộng 12 thước, 3.810 mã lực, chiếc Savongnan de Brazza có một hỏa lực khá mạnh:
– 3 đại bác nòng 138 ly.
– 4 đại bác liên thanh ‘’Bofor’’ nòng 20 ly
– 2 ống phóng lựu đạn
– 4 bách kích pháo.
Dưới tầu co 9 sĩ quan, 136 hạ sĩ, thợ máy và lính thủy điều khiển súng.
Chiến đấu hạm Savorgnan de Brazza xuất trận từ tháng 2 năm 1946 tham dự chiến đấu ở Hải Phòng và ở Hạ Long, Cát Bà. Đầu năm 1947, dự trận chiếm Tourane. Xuân 1951, dự trận Mao Khê, Đông Triều, yểm hộ cho các dân ven sông Đá Bạch vùng Bến Tắm và ở đường hàng tỉnh số 18 (Bắc Việt).
Ngoài mọi hoạt động của đơn vị thủy quân nói trên, chiến trường Đông Dương còn được sự tham dự của chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Arromanches.
Trong khoảng cuối năm 1951 và đầu năm 1952, mẫu hạm Arromanches, với một đội 20 khu trục cơ Hellecats và một đội 12 phóng pháo cơ Helldivers, đã ra công phá hủy đường số 3, nhất là khúc Bắc Cạn-Thái Nguyên, bỏ bom hạng nặng xuống những vùng Chợ Mới, Dốc Đu, Giáng Tiên, Bờ Đậu, Mơ Bạch v.v…
Mẫu hạm Arromanches đã dự trận sông Đà (trận Hòa Bình-11.1.52) và trận Catapulte đánh vùng Hà Tĩnh-Đô Lương.
Tổng cộng nỗ lực của mẫu hạm Arromanches trong thời gian kể trên:
– Phi cơ xuất trận 1.270 lần.
– Thả 700 tấn bom.
– Bắn 800 phát hỏa tiễn (roqueltes) không kể hàng chục vạn phát đại liên tưới trên vùng Việt Minh.
Ngoài những thành tích trên chiến địa, cố Thống Chế De Lattre còn thu hoạch được một thắng lợi khác: Việc phát triển tổ chức Quân Đội Việt Nam.
Công cuộc đó ngày một thêm tiến bộ, Quân Đội Việt Nam sẽ lớn mạnh và một ngày kia có thể sẽ thay thế được quân đội Liên Hiệp Pháp trên khắp chiến trường.
Việt Nam Máu Lửa Việt Nam Máu Lửa - Nghiêm Kế Tổ Việt Nam Máu Lửa