How many a man has dated a new era in his life from the reading of a book.

Henry David Thoreau, Walden

 
 
 
 
 
Tác giả: Robert Dugoni
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 429 / 20
Cập nhật: 2020-04-26 15:09:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
ễ tang của Buzz Almond bao gồm tất cả các nghi thức long trọng dành cho một người đàn ông đã cống hiến hơn nửa đời người trong vai trò cảnh sát trưởng của một quận thuộc bang Washington. Một hàng lính thủy danh dự và sĩ quan cảnh sát quận Klickitat mặt lạnh như tiền đứng trong cái giá lạnh mùa đông, mặc đồng phục, đeo găng tay trắng khênh cỗ quan tài phủ quốc kỳ. Jenni Almond – cô Cảnh sát trưởng nối nghiệp cha – đứng cùng hai người chị gái và bà mẹ đang nép chặt ở giữa, tay họ nắm chặt nhau. Ba chàng rể và bảy đứa cháu ngoại đứng sau lưng những người phụ nữ.
Tracy có những đồng nghiệp hễ cứ bước chân ra khỏi nhà là lại khiến vợ hay chồng họ lo lắng, nhưng xét đến cùng, thứ lấy mạng phần lớn cảnh sát lại chẳng phải súng đạn hay kẻ gian mà chính là càn bệnh âm thầm gieo lắc cái chết cho toàn nhân loại. Với Theodore Michael Buzz Almond Con, đó là bệnh ung thư kết tràng. Ông thọ sáu mươi bảy tuổi.
Lễ di quan dừng lại ở thềm gạch dẫn lối vào nhà thờ Thiên Chúa giáo St. Peter. Vị linh mục mặc áo chùng trắng và hai cậu lễ sinh với tà áo chùng phất phơ trong gió cùng bước xuống đón tang quyến. Tracy biết hai cậu nhỏ sẽ chẳng nhớ gì về ngày này, cũng như cô chẳng nhớ gì về tang lễ của cha mình. Cô nắm lấy tay Dan khi dàn lính danh dự nâng cỗ quan tài lên vai và hai nhạc công kèn túi Scotland bắt đầu thổi điệu kèn cao nguyên sầu thương rền rĩ từng tiễn đưa bố cô và giờ là Buzz Almond về với quê nhà.
Lễ cảm tạ được tổ chức tại nhà thi đấu của trường Trung học Stoneridge, tòa nhà duy nhất trong thị trấn đủ rộng để chứa hết đám đông tới chia buồn. Sau đó, một buổi lễ riêng tư hơn sẽ được tổ chức tại tư gia, Jenni đã mời Tracy và Dan tới dự. Rời nhà thi đấu, họ lái xe ngang qua những khu vườn cây trái và đồng cỏ ngút ngàn. Thứ duy nhất cản trở không gian bao la là một công trường xây dựng khu liên hợp thể thao đầy ấn tượng mọc lên trên một sân bóng cắt tỉa gọn gàng. Biển báo cỡ lớn cắm ở bãi cỏ ghi tên nhà thầu là công ty xây dựng Reynolds.
Quốc lộ 141 uốn lượn dưới những chân đồi. Đi thêm năm phút nữa, họ rời khỏi mặt đường rải nhựa để tiến vào con đường đất dẫn tới một bãi cỏ rộng mênh mông và một cảnh tượng như bước ra từ tranh của Norman Rockwell. Những cậu trai trẻ bận quần ka ki, áo sơ mi và những cô gái chân trần mặc váy đầm ngày Chúa Nhật đang ôm quả bóng bầu dục chạy vòng quanh sân hay đu đưa trên chiếc xích đu bện bằng thừng. Những tàng cây gòn và cây dương phủ bóng xuống căn nhà nông trại hai tầng mái vát ốp gỗ thanh màu trắng với những ô cửa chớp sơn đen, hàng lan can suốt gỗ cùng mười hai cây cột chạm trổ công phu ôm vòng quanh nhà.
Dan đỗ chiếc Tahoe bên cạnh năm, sáu chiếc xe khác. Jenni bước xuống thềm đón hai người.
“Cậu tìm được tới nơi rồi.” Jenni nói.
“Nhà đẹp quá!” Tracy đáp.
“Vào nhà đi!”
Jenni giới thiệu Tracy và Dan với một loạt người, chủ yếu là vì Dan; Tracy đã gặp gia đình Jenni ở tiệc cưới của cô, và hai lần Jenni sinh con cô đều tới thăm. Họ tới ngỏ lời chia buồn lần nữa với mẹ của Jenni. Bà đang ngồi trên một cái ghế trong phòng khách và bế Sarah – cô con gái nhỏ của Jenni. Tên cô bé được đặt theo tên em gái của Tracy.
“Xem ai tới kìa, Sarah.” Jenni nói.
Tracy chưa gặp lại cô bé từ lúc cô bé chào đời tới giờ. Sarah mặc một chiếc áo len sọc ngang màu xanh trắng. Những lọn tóc vàng óng rũ xuống vai, hai cái răng cửa cách nhau một khoảng khá xa. Tracy đưa tay ra nhưng Sarah đã rúc cằm vào vai bà ngoại và len lén nhòm trộm Tracy bằng ánh mắt tò mò.
“Giờ con còn biết xấu hổ cơ à?” Jenni nhấc bổng cô bé lên. “Lại gặp cô Tracy đi nào! Nào!”
Tracy mỉm cười, dang tay ra. “Cho cô ôm một cái nhé?”
Sarah nhìn mẹ. Jenni gật đầu. Bấy giờ cô bé mới rướn người tới. Tracy ôm chặt cô bé vào lòng, hít hà mùi trẻ thơ ngọt ngào.
Sarah giơ ba ngón tay mũm mĩm lên. “Con pa tủi.” Cô bé nói.
“Cô biết rồi.”
Neil, chồng Jenni, cầm hai chai bia từ bếp đi ra. “Dan, cánh đàn ông đang chuẩn bị chơi bóng bầu dục giật cờ với lũ nhóc ngoài kia. Tôi không nghĩ chúng tôi có thể dụ anh giúp một tay. Tôi có một thùng bia lạnh đây, nếu điều đó gây ảnh huởng tới quyết định của anh.”
Dan cầm lấy chai bia. “Anh chỉ việc đề nghị thôi.”
“Đừng để bị thương nhé!” Tracy nói.
“Mẹ, mẹ trông Sarah thêm một lúc nữa được không?” Jenni đề nghị. “Con muốn nói chuyện với Tracy một lúc.”
“Dĩ nhiên rồi.” Anne Almond đáp. “Lại yêu bà cái nào, bé cưng.”
Tracy giao Sarah lại cho bà ngoại cô bé rồi đi theo Jenni. Căn nhà lát sàn gỗ sẫm màu, đèn kiểu cổ, đồ đạc khiêm nhường nhưng được chăm chút chu đáo. Tường và mặt lò sưởi được trang hoàng bằng ảnh và chân dung gia đình lồng khung. Jenni dẫn Tracy tới thư phòng ở phía sau căn nhà. Căn phòng có một ô cửa sổ trổ ra phía ngoài nhìn xuống bãi cỏ, nơi trận bóng giật cờ đang diễn ra.
“Căn nhà mới tuyệt làm sao!” Tracy nói.
“Đầu tư nhà đất ở đây đáng tiền hơn ở Seattle rất nhiều, nhất là hồi những năm 1970. Bố mẹ mình được ông bà ngoại hỗ trợ phần nào.” Jenni nói. “Họ mua căn nhà và vườn táo rồi bán lại phần lớn khu vườn cho những nhà xung quanh. Một nơi tuyệt vời cho tuổi thơ, nhưng bây giờ bọn mình lại lo mẹ sẽ cô đơn khi ở đây một mình.”
“Mẹ cậu không dọn đi sao?” Sau cái chết của cha cô, mẹ Tracy nhất quyết không chịu rời khỏi căn nhà rộng thênh thang ở Cedar Grove.
“Bây giờ thì bà vẫn thấy thoải mái khi ở nhà. Bọn mình đã đặt cho mẹ một chuyến du thuyền mười ngày dọc sông Rhine với dì mình. Khi nào mẹ về, cả nhà sẽ bàn bạc kỹ hơn. Còn từ giờ tới lúc đó, chị em mình sẽ thay phiên nhau qua thăm bà.”
“Mẹ cậu thật may mắn vì có một gia đình đông đủ.” Tracy vẫn cảm thấy áy náy vì đã để mẹ ở lại Cedar Grove để chuyển tới Seattle, dù cô biết rõ cô buộc phải ra đi để đảm bảo sự ổn định tâm lý cho bản thân mình. “Sarah lớn quá!”
“Bọn mình chật vật mãi mới sống sót nổi sau cơn khủng hoảng tuổi lên hai đấy.” Jenni mỉm cười. “Cậu đã giúp mình quá nhiều, Tracy. Nếu không nhờ cậu, có lẽ mình vẫn đang làm việc ở một trung tâm Costco nào đó, sẽ chẳng bao giờ gặp được Neil và cũng sẽ chẳng bao giờ có Trey hay Sarah.”
Khi Tracy và Jenni gặp nhau ở Học viện, Jenni mới vừa chớm hai mươi, một cô gái trẻ tràn trề nhiệt huyết muốn nối nghiệp cha nhưng gần như không có cơ hội tốt nghiệp. Cô sống trong căn phòng trọ tồi tàn với nỗi nhớ nhà và ngập mặt trong công việc. Tracy một hai đòi rủ Jenni dọn về ở chung căn hộ hai phòng ngủ cũng như tham gia nhóm học và đội huấn luyện của cô. Điểm số của Jenni tăng lên đáng kể, và Tracy đã dạy cô kỹ năng bắn súng đủ để vượt qua kỳ thi.
“Rồi cậu cũng sẽ tìm được con đường đi của riêng mình. Cậu đã tìm được rồi.”
Jenni dựa vào bàn, tinh thần như rã rời sau chuỗi ngày dài lê thê. “Mình sẽ nhớ bố lắm. Chị Maria và Sophia mất một người cha, nhưng mình còn mất thêm một người thầy, một người bạn. Những ngày đầu ở văn phòng khi vắng bóng ông thật khó khăn.”
“Cậu sẽ ổn thôi, Jenni.”
“Dan có vẻ tốt đấy. Cậu có nghĩ anh ấy chính là người dành cho cậu không?”
Tracy nhún vai. “Mình cũng muốn nghĩ thế.” Cô nói. “Nhưng một năm vừa qua đúng là điên dại. Ít nhất anh ấy vẫn chưa đá mình.”
“Cậu giỡn hả? Anh ấy yêu cậu thế còn gì. Anh ấy tới dự lễ tang cha của một người bạn mà anh ấy chưa từng gặp. Đó chính là tình yêu.”
“Hy vọng thế.” Tracy nói.
Jenni bước vòng ra sau bàn. “Thực ra, mình đưa cậu tới đây là có lý do. Có chuyện này mình hy vọng được bàn bạc với cậu. Có lẽ một thời điểm khác sẽ thích hợp hơn, nhưng mình nghĩ mình phải làm điều đó ngay bây giờ, nếu không mình sẽ chẳng bao giờ làm được.” Cô lôi từ ngăn kéo ra một tập hồ sơ bìa nâu dày chừng mười lăm phân và đặt lên mặt bàn.
“Gì vậy?” Tracy hỏi.
“Một vụ án tồn đọng.” Jenni nói trước khi dừng lại. “Cũng không hẳn là vậy. Phức tạp lắm! Đó là vụ án đầu tiên bố mình điều tra với tư cách là cảnh sát. Năm 1976. Khi đó mình chưa ra đời, nhưng phần lớn những người lớn lên ở đây đều biết tới Kimi Kanasket.”
“Đó là ai?” Tracy hỏi.
“Một nữ sinh trung học địa phương mất tích trên đường về nhà buổi tối. Bố mình nhận điện thoại.”
Thứ Bảy, ngày 06-11-1976
Buzz Almond và Earl Kanasket đã đi bộ lần theo con đường Kimi vẫn từ tiệm ăn về nhà. Việc đó chẳng dễ dàng gì. Buzz không nhớ còn có đêm nào tối đen như mực thế này hay không. Rồi tuyết bắt đầu rơi – những bông tuyết to và nặng đậu trên cành cây và phủ đầy mặt đất. Ngay cả khi rọi đèn pin, họ cũng không thấy có dấu hiệu nào của Kimi – không một dấu chân, không chiếc túi xách nào bị bỏ lại hay một mảnh quần áo nào. Mỗi phút trôi qua, Buzz lại thấy hối hận vì đã hứa với Earl họ sẽ tìm ra cô.
Một tiếng sau, anh đưa Earl về lại căn nhà hai gian lúc này vẫn chật cứng người muốn chung tay giúp đỡ. Việc gọi điện tới bạn bè của Kimi cũng không thu được kết quả gì. Buzz lái xe tới Husum, tổ hợp nhỏ gồm nhà ở và nhà xưởng công nghiệp nằm hai bên bờ một khúc cua của dòng sông Cá Hồi Trắng để nói chuyện với Tommy Moore, bạn trai cũ của Kimi. William Cox, bạn cùng phòng của Moore, ra mở cửa trong trang phục áo thun quần soóc. Dù trời đã rất khuya nhưng trông cậu ta chẳng có vẻ gì là đang ngủ cả. Cox nói Moore về nhà vào khoảng nửa đêm nhưng rồi lại rời đi khi nghe Cox báo có Élan Kanasket cùng một nhóm đàn ông, một số còn mang theo vũ khí, tới tìm cậu ta. Cox không biết Moore đi đâu, nhưng cậu ta khai trước đó vào buổi tối Moore có một cuộc hẹn. Nếu Tommy Moore và Kimi Kanasket mới chia tay gần đây thì có vẻ Moore cũng chẳng mấy phiền lòng vì chuyện đó.
Hơn bốn giờ sáng, còn mấy tiếng nữa những tia sáng đầu tiên trong ngày mới thèm ló dạng, tuyết vẫn miệt mài rơi, Buzz quay lại đồn cảnh sát ở Goldendale để hoàn thiện các giấy tờ cần thiết về người mất tích và truyền đạt đầy đủ thông tin cho viên trung sĩ để anh ta thông báo tình hình với kíp trực ban ngày.
Xong xuôi, anh miễn cưỡng lái xe về nhà cho Anne yên tâm. Dù đang mang bầu nhưng cô vẫn làm ca sáng ở bệnh viện. Họ cần tiền cho đứa bé sắp chào đời.
Điện thoại gọi đến khi Buzz đang dọn dẹp bữa trưa và bắt đầu công đoạn bó giò Maria và Sophia trong mớ quần áo mùa đông lùng bùng. Anh đã hứa cho hai con ra nghịch tuyết, giờ tuyết đã đủ dày để nặn một chú người tuyết ra trò. Vậy là vụ nghịch tuyết sẽ phải gác lại sau, hai cô nhóc thất vọng ra mặt. Buzz đặt hai cô bé vào băng ghế sau của chiếc Suburban, cài dây an toàn cho chúng và phóng vội tới nhà Margaret O’Malley. Bà O’Malley đã nghỉ hưu sau ba mươi lăm năm dạy lớp Một, bà mê tít hai cô công chúa nhà Buzz.
“Thế còn người tuyết thì sao hả bố?” Sophia hỏi.
“Chúng ta sẽ làm sau, con yêu.” Buzz đáp, dù cảm giác nhoi nhói trong bụng cho anh biết chưa chắc anh đã giữ được lời hứa ấy với các con mình.
“Đi nào, các cô bé.” Bà Margaret O’Malley dẫn lũ trẻ vào trong nhà. “Bà đang cần trợ thủ để làm bánh quy rắc hạt sô cô la đây.”
Mẹo vặt ấy phát huy hiệu quả tức thì. Người tuyết lập tức trôi vào quên lãng.
Gửi con ở nhà bà O’Malley xong, Buzz vội vã lái xe tới Stoneridge. Nơi này trông chẳng khác nào một thị trấn ma. Ngoài đường không một bóng người đi lại, các bãi đỗ xe gần như trống không. Tiệm ăn Stoneridge đã đóng cửa. Quán pizza, quán bia, tiệm hoa, tiệm cắt tóc, tiệm vật tư cũng vậy. Gần như cửa sổ tiệm nào cũng treo những tấm biển tự chế viết những dòng chữ kiểu “Xung Kích Đỏ tiến lên!” hay “Tiểu bang vùng lên!”. Buzz đọc được trên báo địa phương rằng đội bóng bầu dục của trường trung học nơi này đang tham dự giải vô địch bang lần đầu tiên trong đời. Anh lo tiệm thuốc kiêm tiệm tạp hóa cũng sẽ đóng cửa, nhưng may thay nó vẫn mở. Anh chạy ào vào trong, mua bốn cái máy ảnh du lịch trước khi chạy theo tuyến quốc lộ 141 rời khỏi thị trấn.
Anh rẽ trái vào đường Hổ Tây Bắc, thả dốc một đoạn, đi chậm dần rồi dừng lại trên cây cầu bê tông hẹp bắc ngang dòng Cá Hồi Trắng. Xe của đội tìm kiếm và cứu nạn, xe cứu hỏa, xe của cảnh sát quận Klickitat và một chiếc xe màu xanh trắng của cảnh sát Stoneridge đỗ đầy bãi đậu xe của công viên Tây Bắc. Những người đàn ông mặc quần yếm chống nước và đi ủng cao su đang làm việc dọc bờ sông.
Buzz đỗ xe cạnh hai chiếc xe cứu hỏa. Tuyết đã ngừng rơi nhưng cũng kịp phủ kín cả tấc trên mặt đất cũng như trên mặt những bộ bàn ghế dã ngoại và những băng ghế dài, đậu trên những hàng cây dọc bờ sông và những tảng đá to hơn nhô lên trên làn nước màu xám. Anh đeo cặp kính râm mắt chuồn vào để làm dịu bớt tia nắng chói chang đang chọc thủng màn mây và rọi thẳng vào chiếc xe cảnh sát. Cảnh sát Andrew Johns đang đứng nói chuyện với một viên sĩ quan cảnh sát Stoneridge mà Buzz không nhận ra, hơi thở của họ phả thành từng làn khói trắng. Buzz đã nhớ mặt hầu hết các cảnh sát khác, nhưng không nhớ hết các sĩ quan cảnh sát ở Stoneridge – ở đây họ có bốn người.
“Nghe nói anh nhận điện thoại vụ này, Buzz.” Johns vỗ hai bàn tay đeo găng vào nhau rồi kẹp dưới nách. “Chết tiệt, trời chuyển lạnh nhanh quá!”
“Đội tìm kiếm và cứu nạn nói sao?” Buzz hỏi.
Johns chỉ vào hai người đàn ông mặc đồ đại hàn đứng kế bên bộ bàn ghế dã ngoại.
“Hai người đó đang câu cá gần bờ. Họ nhìn thấy thứ gì đó mắc vào cành của cái cây đổ dưới nước nên đi xuôi xuống để nhìn cho rõ hơn, nhưng dù đó là thứ gì thì nó cũng đã bị dòng nước nhấn chìm. Họ nghĩ đó là xác người.”
Tim Buzz thót lại. “Anh có biết họ không?”
Johns lắc đầu. “Hai người đó tới từ Portland.”
“Anh lấy lời khai rồi chứ?”
“Chỉ có thế. Đội tìm kiếm cứu nạn đang chăng một sợi cáp ngang sông để có chỗ móc người vào. Dòng chảy không quá mạnh nhưng đá rất trơn. Giờ này có lẽ họ đã có thêm thông tin.”
Đội tìm kiếm cứu nạn đã dọn sạch một cái bàn dã ngoại để bày thiết bị của họ. Hai trong số những người đàn ông mặc quần yếm nhựa và đi ủng cao su đang vặn chốt sợi cáp họ đã quấn vòng quanh một cây sam. Sợi cáp căng ngang sang bờ bên kia, nơi hai đồng nghiệp của họ cũng đang siết sợi cáp theo cách họ đang làm.
“Được chưa?” Một người đàn ông hét váng lên.
“Ổn rồi.” Đồng nghiệp của anh ta hét trả.
Hai người đàn ông bên phía Buzz quay một cái tời tay và bắt đầu căng sợi cáp cho tới khi nó treo lơ lửng phía trên dòng nước xám đục chừng ba mươi phân, giống như sợi dây của những người biểu diễn xiếc thăng bằng. Những người đàn ông sẽ bám vào đó khi họ lội xuống nước để đi ra chỗ cái cây đổ.
“Các anh có biết thêm gì không?” Buzz hỏi. Vì không mặc đồng phục, cũng không quen những người này – anh chưa từng làm vụ nào với đội tìm kiếm và cứu nạn – nên anh xuất trình phù hiệu. “Tối qua tôi nhận được điện thoại báo có cô gái bị mất tích.”
Anh hy vọng họ không nghe thấy tiếng run rẩy trong cổ họng anh, hay ít nhất họ cũng tưởng nhầm đó là do cái lạnh cắt da cắt thịt; hy vọng họ sẽ nói đó không phải là xác người mà chỉ là một cái ba lô hay mảnh vải nào đó còn sót lại từ một chuyến chèo thuyền mùa hè; hy vọng anh sẽ không phải lái xe tới căn nhà hai gian của Earl và Nettie Kanasket để báo với họ rằng anh đã tìm ra con gái họ, và một lần nữa anh ước gì mình chưa từng nói ra lời hứa đó.
“Chắc chắn đó là một cái xác.” Người ta trả lời.
o0o
Tiếng hò reo của lũ trẻ kéo sự chú ý của Tracy và Jenni ra ngoài cửa sổ.
Dan ôm ghì quả bóng bầu dục, luồn lách qua một đám trẻ đang bám anh sát nút. Mọi thứ chẳng giống trận bóng bầu dục nào mà Tracy từng được xem, nhưng tất cả đều tỏ ra hào hứng và vui vẻ.
“Tracy, nếu chuyện này nhạy cảm quá thì cứ bảo mình ngừng lại.”
Tracy lắc đầu. “Không sao.” Cô nói. Cũng giống như Kimi, khi mất tích trên đường về nhà sau một cuộc thi bắn súng, Sarah mói chỉ mười tám tuổi, vừa tốt nghiệp trung học và đang chuẩn bị vào đại học. Tracy đã trở thành điều tra viên chuyên điều tra các vụ án mạng với khát khao mãnh liệt là tìm hiểu được chuyện gì đã xảy ra với em gái mình và giúp đỡ những phụ nữ trẻ khác giống cô bé.
“Pháp y và công tố viên đã kết luận đó là một vụ tự tử.” Jenni nói. “Họ nói Kimi Kanasket đã nhảy từ trên cầu xuống sông Cá Hồi Trắng và bị chết đuối. Dòng chảy đã quật cơ thế cô ấy vào đá tảng. Cô ấy bị gãy xương, tay và ngực bầm tím. Lẽ ra xác cô ấy có thể trôi tới tận Columbia nhưng do quần áo vướng vào cành của một cái cây đổ chìm dưới nước dọc bờ sông nên cái xác bị neo lại phía dưới.”
“Và giả thuyết đưa ra là cô ấy làm thế vì người bạn trai cũ?”
“Tommy Moore. Tối hôm đó anh ta tới tiệm ăn cùng một cô gái khác.”
“Anh ta nói gì về chuyện đó?”
“Theo báo cáo của bố mình, Moore xác nhận đã đưa một cô gái khác tới tiệm ăn nơi Kimi làm việc, nhưng lại vội vã rời đi. Anh ta đưa cô gái về nhà, sau đó trở về căn hộ của mình.”
“Cô gái đi cùng anh ta xác nhận điều đó chứ?”
“Đúng thế. Trong tập hổ sơ có lưu lời khai của cô ta. Cô ta nói Moore bực bội vì Kimi ngó lơ anh ta và sau đó Moore chở cô ta về nhà.”
“Lơ như thế nào?”
“Chắc là Kimi tỏ ra không thèm quan tâm.”
“Có ai làm chứng cho việc Moore trở về căn hộ không?”
“Bố mình đã tới đó. Bạn cùng phòng của Moore nói Moore đã về nhà nhưng rồi lại đi mất khi đám người của ông anh trai Kimi mang vũ khí tới hạch hỏi.”
“Bạn cùng phòng có biết Moore đi đâu không?”
“Không.”
Tracy lật nhanh tập hồ sơ. “Cậu nghĩ chuyện này không dừng lại ở đó ư?”
“Mình nghĩ bố mình tin rằng chuyện không đơn giản chỉ có thế.”
“Cậu tìm thấy tập hồ sơ này ở đâu?” Tracy hỏi.
“Ở đây, trong ngăn bàn của bố mình.”
“Thường thì hồ sơ các vụ đã đóng được lưu ở đâu?”
“Ở đồn, nhưng hồ sơ lâu đời như vụ này sẽ được chuyển tới kho lưu trữ bên ngoài. Nhưng vụ này chưa bao giờ là một vụ án tồn.”
“Ý cậu là sao?”
“Sau khi thấy tập hồ sơ này, mình đã kiểm tra dữ liệu máy tính ở đồn. Không có dữ liệu nào cho thấy hồ sơ về vụ Kimi Kanasket được chuyển đi lưu kho. Dữ liệu ở đồn cho biết nó đã bị tiêu hủy.”
“Tiêu hủy khi nào?”
“Không có thời gian cụ thể.”
“Ai tiêu hủy?”
“Không đề cập tới.”
“Quy định về tiêu hủy hồ sơ cũ là thế nào?”
“Bây giờ á? Bây giờ bọn mình lưu các vụ án mạng đã đóng hồ sơ trong vòng tám mươi năm, hoặc tới khi điều tra viên phụ trách vụ án tuyên bố có thể tiêu hủy hồ sơ đó.”
Sở cảnh sát Seattle cũng có quy định tương tự. “Cậu đã xác minh lại với điều tra viên phụ trách vụ án này xem ông ấy có cho phép tiêu hủy không chưa?”
“Ông ấy qua đời lâu rồi. Chết từ những năm chín mươi.”
Tracy chỉ vào tập hồ sơ trên bàn. “Vậy thì hoặc đây là một tập hồ sơ chính thức, hoặc là hồ sơ cá nhân do bố cậu tự lưu giữ.”
“Đó cũng là kết luận của mình. Nếu đó là hồ sơ chính thức thì hoặc bố mình đã lấy nó ra và báo cáo rằng nó đã bị tiêu hủy, hoặc người cuối cùng tìm kiếm nó đã kết luận nó bị tiêu hủy vì họ không tìm thấy nó.”
“Dù thế nào thì bố cậu cũng đã lấy nó.”
“Trong hồ sơ có những ghi chú cho thấy đôi lúc bố mình vẫn xem xét sự việc. Mình nghĩ vụ này khiến bố cảm thấy day dứt.”
Tracy lật tập hồ sơ kỹ hơn, những trang giấy được đục hai lỗ và gài lại bằng một chốt cài ở ngoài cùng. “Lời khai của nhân chứng, báo cáo pháp y, ảnh chụp, phác thảo.” Cô thả tập giấy về trang đầu tiên. “Trông như một tập hồ sơ hoàn chỉnh.”
“Có vẻ thế.”
“Cậu xem qua rồi chứ?”
“Một chút.”
“Cậu nghĩ sao?”
“Sau khi Kimi mất tích một thời gian ngắn thì mình ra đời.” Jenni nói. “Khi đó, gia đình mình không sống ở Stoneridge. Khi bố nhận chức cảnh sát trưởng, nhà mình mới chuyển tới đó. Mình không nhớ bố có bao giờ nói về chuyện đó không, nhưng mình vẫn biết chuyện của Kimi Kanasket. Ai cũng biết hết. Mình nhớ mọi người vẫn nói những câu kiểu như tối muộn thì đừng ra đường một mình, nếu không sẽ chung số phận với Kimi Kanasket.”
“Cậu muốn mình xem xét ư?”
“Công nghệ điều tra tội phạm giờ đã tiến bộ hơn trước, và mình cứ có cảm giác căn bệnh ung thư đã tước mất của bố mình cơ hội kết thúc vụ án này. Mình cảm thấy mình nợ ông ít nhất là việc tiếp tục công cuộc này. Nhưng mình là con gái ông. Mình không chắc liệu mình có thể khách quan được không. Mình cũng là một công chức do dân bầu và có lẽ mình sẽ phải mở lại hồ sơ. Trong trường hợp đó, mình muốn có sự đánh giá độc lập. Nếu vụ án không có gì thì đành vậy. Nhưng nếu có…” Jenni nhún vai.
Một tiếng hét khác vang lên, lần này có vẻ khẩn cấp hơn. Nhìn ra ngoài cửa sổ, hai người phụ nữ thấy Trey khóc toáng trên sân, còn Neil đang ra sức dỗ dành cu cậu.
“Nó bị thương à?”
“Màn khóc lóc vì thua cuộc của nó ấy mà.” Jenni nói. “Nó có máu ăn thua lắm, giống hệt bố nó.”
“Và cả mẹ nó nữa.” Tracy nói.
Jenni mỉm cười. “Mình giống bố mình mà.”
“Mình cũng vậy.” Tracy nói và nhặt tập hồ sơ lên.
Trảng Đất Trống Trảng Đất Trống - Robert Dugoni Trảng Đất Trống