Love is hard to get into, but even harder to get out of.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Hồng Trần
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Dinh Hoang Minh
Upload bìa: Dinh Hoang Minh
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3895 / 82
Cập nhật: 2017-04-18 13:32:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2: Chân Tướng Mệnh Vận
hòng ăn trên thuyền buôn Green đỏ đèn suốt đêm, John Lớn mời Ngũ Tuấn Sinh lên thuyền giải sầu, Jack và Hữu Hiên tiên sinh ngồi một bên chụm đầu trò chuyện.
Ngũ Tuấn Sinh đầu quấn băng trắng đi đi lại lại trong khoang thuyền, sức khỏe anh ta vốn không tốt lắm, còn may lúc đập đầu tự sát trong kho hàng tối om lại không đập phải những vật trí mạng như góc nhọn hoặc cây đinh, chỉ toạc trán chảy máu, đến phòng mạch Tây y cầm máu băng bó là có thể đi lại như thường. Bác sĩ nói bị thương ngoài da không được uống rượu, nhưng tâm trạng anh ta đang rất uất ức, uống mấy chén rượu mặt đỏ gay luôn miệng kể khổ với John Lớn, John Lớn tính tình hòa nhã, chỉ mải nhẩm nháp rượu, nghe hai đằng nói chuyện, thỉnh thoảng góp vào một câu.
“Tiền đã lấy về rồi, cậu hoàn toàn có thể gây dựng lại cơ nghiệp mà, không cần quá lo, số tiền trong tay đủ cho cậu sống cả đời, loại hàng cũ không buôn được thì cũng có thể đổi sang loại hàng mới...” John Lớn điềm tĩnh nhẹ nhàng an ủi Ngũ Tuấn Sinh, nào ngờ Ngũ Tuấn Sinh than: “Anh còn nhắc tới hàng mới nữa à? Giờ tôi cứ nghe nói tới hàng mới là sợ, hiệu buôn đã nợ đầm đìa, sau vụ này chẳng biết phải kéo cày trả nợ bao lâu mới đủ đây?”
John Lớn nheo mắt cười: “Chi bằng cậu sang Mỹ mở công ty, chúng tôi lo thủ tục cho, miền Tây nước Mỹ vẫn đang khai phá, muốn buôn bán gì cũng được...”
“Nếu ở bên Mỹ làm ăn được thì các anh đâu cần sang Trung Quốc, thật nhức đầu quá.”
John Lớn tỏ vẻ quan tâm: “Đầu vẫn đau à?”
“Là nhức, không phải đau, ai da, nhức từ trong ra ngoài ấy.”
John Lớn không phân biệt được đau đầu và nhức đầu, đành hỏi sang chuyện khác: “Cậu đếm lại tiền có đủ không?”
Ngũ Tuấn Sinh cúi đầu ủ rũ đáp: “Thiếu mất một ít, nhưng thôi... Trong kho hàng, tên Triệu Kiến đó câu cái rương của tôi tài thật, thả dây từ trên xà nhà xuống mà cũng móc trúng, còn ra tay giữa lúc tối om như vậy nữa chứ.”
Bẩy giờ Hữu Hiên tiên sinh cũng quay sang góp chuyện: “Người trên giang hồ thân mang tuyệt kỹ nhiều lắm, một thân công phu đó của hắn phải qua trăm rèn ngàn luyện mới thành, ông xem như cũng may đấy, nếu không phải tôi phá bô' cục ở hiệu buôn, có khi ông vừa vào cửa đã bị hán giết người cướp của rồi, khỏi phải dùng đến móc câu. Chúng đã thuê sẵn kho hàng số hai mươi ba và hai kho hàng kề bên, dùng hộp gỗ bày bố mê cung trong kho hàng số hai mươi ba, rồi đào đường hầm thông giữa hai kho hàng, mọi thứ đều sắp đặt hết sức kín kẽ, nếu không phải hắn tâm thuật bất chính, thì quả là một tên lừa bịp rất cao tay.”
Ngũ Tuấn Sinh nghe mà ràu cả ruột, hiện giờ trong mắt anh ta, Hữu Hiên tiên sinh và Triệu Kiến chẳng mấy khác biệt, có chăng là một kẻ âm thầm gạt lấy cả gia sản của anh ta, còn một người ngang nhiên cướp trắng nửa gia sản của anh ta mà thôi. Anh ta bèn hỏi John Lớn: “Tối hôm trước, sao anh lại biết tôi bị lừa? Các anh từng thấy trò lừa gạt này rồi sao?”
John Lớn nhún vai: “Không phải tôi nói, là Jack nói.”
Jack liền tiếp lời: “Tôi chỉ nói có thể anh bị lừa rồi, để chúng tôi cùng anh đi giao dịch sẽ an toàn hơn.”
“Tôi đã nhìn ra từ sớm rồi, kỳ thực lúc ẩy anh muốn nẫng vụ làm ăn này của tôi.” Giọng điệu giận dữ của Ngũ Tuấn Sinh khiến Jack bật cười sảng khoái.
Hữu Hiên tiên sinh cũng chẳng dông dài với Ngũ Tuấn Sinh, chỉ nói thẳng với Jack: “Long Nhi và Cố Tư Văn rất nổi danh trong Hồng môn, anh muốn tìm họ thì đi cùng người của Hồng môn là đúng nhất, danh hiệu Tiểu Thần Tiên của Cố Tư Văn cũng thật thật giả giả, thành tựu trên giang hồ còn lớn hơn cả Long Nhi kia...” Nhắc tới Cố Tư Văn, Hữu Hiên tiên sinh lại để lộ nụ cười hài lòng chưa từng thấy, hai hàng ria mép như muốn bay lên: “Tiểu tử này vốn chẳng mấy thể hiện ra ngoài, nhưng sau khi làm mấy phi vụ lớn, ngay cả Trạng nguyên gia thượng cấp của hắn cũng phải khen rằng hắn nhanh nhẹn tháo vát, lại có trách nhiệm, quan trọng nhất là rất nghĩa khí, Long Nhi đi cùng hắn nhất định không bị thiệt thòi, xem ra ta phải phá lệ đề bạt hán làm Hàn lâm, chưa đến mười năm hắn có thể phá núi thu đồ đệ rồi.”
Ngũ Tuấn Sinh và John Lớn nghe nói đều ngớ ra, chỉ có Jack theo Lục Kiều Kiều hành tẩu giang hồ lâu ngày mới hiểu Hữu Hiên tiên sinh đang kể chuyện phái Giang Tướng đi cướp của phi nghĩa của nhà giàu. Ngũ Tuấn Sinh ngạc nhiên hỏi: “Các người đều là Trạng nguyên, Hàn lâm ư? Còn định làm ăn gì à?”
Hữu Hiên tiên sinh thân bí đáp: “Chẳng phải ông đã thấy rồi đấy sao? Ha ha ha ha... Anh Jack có cô vợ giỏi giang, hẳn cũng hiểu tôi nói gì rồi chứ?” Jack ngượng ngùng gật đầu, bấy giờ mới dám to gan phỏng đoán Hữu Hiên tiên sinh chính là thủ lĩnh tối cao trong phái Giang Tướng, ngoài đối phó với Triệu Kiến, ông cũng đồng thời ra tay với Ngũ Tuấn Sinh, ngang nhiên cướp nửa gia sản mà đối phương không dám hé răng, cũng chẳng báo quan nổi, ngón nghề vơ vét một tên trúng hai đích này chính là tác phong của phái Giang Tướng.
Dưới sự giúp đỡ của Hữu Hiên tiên sinh, thông qua mạng lưới quan hệ của Hồng môn, chẳng mấy chốc Jack đã biết được An Long Nhi đang ẩn thân tại Anh Châu, miền Trung Quảng Đông. Hữu Hiên tiên sinh nói cũng muốn gặp Cố Tư Văn và An Long Nhi, bảo Jack xuất phát tới Anh Châu trước, ông ta lo xong công chuyện ở Quảng Châu sẽ tới Anh Châu gặp mọi người. Jack nóng lòng như lửa đốt, chuẩn bị đầy đủ hành lý, súng ống và ngựa, đi không nghỉ đến Anh Châu.
Từ Quảng Châu đi liền ba ngày về phía Bắc sẽ đến Anh Châu non xanh nước biếc, tòa thành nhỏ này nằm bên bờ Tây Giang, xung quanh là núi non, thế núi bốn bề quanh co khúc khuỷu khác thường, vừa cao vút lại vừa uyển chuyển, như một bồn cảnh lớn nằm giữa đất trời, phong cảnh khó gặp này khiến Jack sáng mắt lên, thầm nhủ: đám phong thủy sư quả biết hưởng thụ cuộc sống, ngay một kẻ bị triều đình truy nã như An Long Nhi cũng phải tìm một nơi đẹp đẽ thế này để lấn trốn. Lại nghĩ đến con gái mình có thể trưởng thành tại nơi non xanh nước biếc này, lòng anh cũng được an ủi đôi phần.
Jack vào thành, chọn một quán trà bên đường ngồi xuống, khiến tất cả người đi đường đều để ý thấy một người Tây cao lớn đến Anh thành. Anh tự rót một chén trà cho mình, đặt xuống bàn một khay gỗ, bốn góc khay bày bốn chiếc chén đã rót đầy trà, sau đó chờ người đến uống.
Thứ mà Jack bày là Hồng môn Trà Bôi trận học được từ Lục Kiều Kiều, gọi là “hoạn nạn có nhau”, cũng chính là ám hiệu quan trọng mà người trong Hồng môn nhất định phải học trước khi hành tẩu giang hồ. Thử nghĩ xem người trong giang hồ, phát tài thì khó mà xảy ra chuyện thì dễ, dân lành có chuyện còn có thể tới quan phủ báo án xin cứu giúp, nhưng chí sĩ phản Thanh có chuyện lại tới tìm quan sai cứu mạng thì không ổn lắm.
Bày xong Trà Bôi trận, lòng Jack vô cùng thấp thỏm, cứ liên tục gõ ngón tay xuống bàn cồm cộp, cảm thấy mỗi phút dài đằng đẵng như một năm. Anh không biết mình có tìm được An Long Nhi hay không, cũng không biết con gái lớn lên sẽ thế nào, con gái có thích mình không, tìm được con rồi liệu có tìm được Lục Kiều Kiều về hay không, gặp Lục Kiều Kiều rồi phải làm sao để cô chấp nhận đứa bé này, rất nhiều vấn đề mà lúc trước không có thời gian nghĩ đến bỗng đồng loạt ập tới.
Jack đợi không biết bao lâu, chỉ thấy dòng người qua lại như nước, hết tốp này đến tốp khác xúm lại xem rồi tản đi, nhưng chẳng ai uống chén trà của anh. Jack láo liên nhìn trái liếc phải, lòng thâm bực bội: không phải chứ, lẽ nào Anh Châu không có huynh đệ Hồng môn? Hay là bị triều đình tiêu diệt cả rồi?
Bỗng nhiên, có ba người ăn mặc theo lối nông phu ngồi xuống bàn, vừa chuyện gẫu vừa giơ tay cầm bốn chén trà lên, hắt nước trà đã nguội tanh nguội ngát xuống đất rồi đặt chén lại khay. Một người trong đó dùng ba ngón tay nhấc chiếc chén không thứ năm lên đặt vào giữa bốn chiếc chén, Jack thấy vậy mừng khôn tả, biết đây là huynh đệ Hồng môn tới đáp lời, bèn lẳng lặng rút con dao găm trong giày ra đặt lên bàn.
Người vừa dùng ba ngón tay đặt cái chén thứ năm vào khay thấy Jack rút dao ra bèn đọc một câu: “Bảo đao rời vỏ sáng lập lòe...” Đây là câu thơ hỏi lai lịch, câu tiếp theo là, “Xẻ hông đăm phượng đường gì gì đó”, đối phương phải khai báo đường khẩu của mình.
Jack vừa nghe nói đã ngấn ra, sao câu thơ này lại khác hẳn câu Hữu Hiên tiên sinh dạy? Thì ra Hữu Hiên tiên sinh biết Jack không thuộc bài Phượng hoàng thi và thủ quyết của Hồng môn nên trước lúc chia tay đã dạy anh một bài thơ, dặn anh trước khi đọc phải đặt dao xuống bàn, nhất định không được đọc sai, bằng không sẽ bị huynh đệ Hồng môn coi là gian tế mà tiêu diệt. Anh ngẩng lên, quả nhiên thấy ba người đều trừng mắt hung dữ đợi mình đối lại, xem tình thế nếu anh không đọc đúng ám hiệu họ sẽ lập tức động thủ giết người.
Jack không biết đối bài thơ này, đành đọc ra bài mà mình biết: “Đao này sinh ra vốn họ Hồng, năm châu bốn biển xưng anh hùng, có nhân có nghĩa thì tha chết, bất nhân bất nghĩa ắt mạng vong.” Ba người kia nhìn nhau, rồi lại nhìn con dao găm Mỹ mang họ Hồng trên bàn, cảm thấy không ổn lắm, đương lúc nghi ngờ, một người lại lên tiếng: “Hai cành tùng bách nhiêu huynh đệ, hoa sen trung liệt kết nghĩa đình...” Đọc xong, anh ta nhìn Jack đợi anh đọc hai câu còn lại. Jack không ngờ muốn gây dựng quan hệ trong Hồng môn lại khó khăn như vậy, chỉ thiếu chút văn hóa là không xong. Năm xưa Lục Kiều Kiều ở thôn Ôn Phượng chẳng phải chỉ giơ ba ngón tay là được thông qua rồi ư? Anh cũng dùng ba ngón tay nhấc chén trà lên nói với ba người kia: “Đại ca, tôi thực sự không thuộc được nhiều thơ như vậy đâu, tôi chỉ tới tìm người, nhờ các vị giúp đỡ thôi mà.”
Ba người kia vừa nghe nói vậy lập tức đứng dậy bỏ đi. Jack vội ném mấy đồng tiền xuống mặt bàn rồi dắt ngựa đuổi theo.
Chạy mãi đến sau một ngọn núi ở ngoại thành, ba người kia mới rút đoản đao trong tay áo ra, bao vây Jack: “Ngươi rốt cuộc là kẻ nào? Muốn làm gì đây?”
Jack đáp: “Tôi là bạn của Hữu Hiên tiên sinh, ông ấy bảo tôi tới đây tìm Anh Châu Tiểu Thần Tiên, nếu các vị đại ca biết, xin chỉ cho tôi với.”
Một người nói: “Ngươi không đọc được đúng thơ, lại không phải người Trung Quốc, ta làm sao biết ngươi có phải gian tế người Tây phái tới hay không.”
“Hả? Nước Mỹ cũng phái gián điệp điều tra Hồng môn ư?” Jack kinh ngạc hỏi.
“Hừm, bọn Tây các ngươi vận chuyển vật tư giúp bầy chó Thanh tấn công Hồng môn, đưa tàu pháo đến Tây Giang khai pháo, còn đánh nhau với chúng ta, không ít huynh đệ chúng ta đã chết dưới họng súng của các ngươi đấy.” Nói đoạn, người này cầm đao sấn tới mấy bước, Jack vội kéo ngựa vừa lùi vừa phân trần: “Đó là tàu pháo của Anh, nước Mỹ chúng tôi chưa từng xuất binh, anh lầm rồi.”
Ba người kia từ từ tiến đến gần Jack, một người nói: “Chúng ta mặc kệ Anh hay Pháp, nơi này là đất của người Hán, bọn quỷ Tây mò đến tên nào phải giết tên đó.” Anh ta vừa dứt lời, cả ba liền vung đao lao đến, Jack đành rút súng lục giắt bên hông ra hoảng hốt chĩa loạn vào cả ba: “Đừng ép tôi nổ súng, một khi quan phủ kéo tới thì phiền lắm đấy.”
Ọuả thật không thể nổ súng, nơi này chỉ cách thành mấy dặm, nếu súng nổ, quan sai sẽ lập tức kéo đến; người của Hồng môn càng không thể giết, nếu giết thì không thể nhờ vả họ được nữa, lại làm Lục Kiều Kiều khó ăn khó nói. Nhưng ba người này chẳng màng anh nổ súng hay không, cứ nhất mực lao lên trước họng súng, Jack đành dùng báng súng đẩy Đông gạt Tây, nhảy trái lách phải để tránh né lưỡi đao, anh vừa rời khỏi con ngựa và đống hành lý, lập tức một trong ba người kia chạy tới giật lấy cương ngựa, nhìn dáng vẻ như muốn cướp đồ. Jack thấy thế nguy, trên lưng ngựa trang bị gì cũng có, nếu bị cướp mất thì một người Tây như anh ở Trung Quốc khó mà xoay xở, vội hét lên: “Dừng tay!
Dừng tay! Các người không biết Hữu Hiên tiên sinh à? Tôi là bạn ông ẩy...”
Một người vừa vung đao chém vừa đáp: “Chúng ta ai cũng biết Hữu Hiên tiên sinh, chỉ sợ ông ẩy không biết ngươi thôi, đừng tưởng báo tên của đại ca ra là lão điếm(1) được chúng ta.”
Jack cũng phát cáu, dụng lực đỡ thanh đao bổ tới trước mặt, một chiêu Độc cước phi hạc đá ra, chiếc giày da nặng trịch đạp thẳng vào bụng đối thủ, khiến người kia ngã gục xuống đất. Jack đáp: “Các người muốn bày Trà Bôi trận tôi cũng bày, muốn đọc thơ tôi cũng đọc, nhưng không thể đọc mãi được... Hả! Anh còn chém nữa!” Jack tránh một đao, xòe bàn tay nghiêng nghiêng chém ra một chiêu Phá Bài thủ, đánh ngã một người nữa: “Thuộc được nhiều thơ như thế, chi bằng mở trường làm thầy giáo cho rồi... Anh dừng lại, còn giằng cương ngựa của tôi nữa tôi sẽ nổ súng đấy.”
Bẩy giờ, chợt một giọng nói từ xa truyền tới: “Đừng nổ súng, người Tây này cũng sử dụng Hồng quyền, năm sông bốn bể đều là người mình cả.”
Jack ngoái đầu nhìn, chỉ thấy một thanh niên tuấn tú cao lớn, mình vận áo bông dài, tay cầm một lá cờ đen dài, thong thả tiến lại, Jack thoạt nhìn đã nhận ra Cố Tư Văn, bạn tốt của An Long Nhi.
Jack vội thu súng lại chạy về phía Cố Tư Văn, ôm chầm lấy cậu xúc động hỏi: “Văn thiếu gia, có phải cậu ở cùng Long Nhi không, các cậu nhận nuôi con gái tôi à?”
Cố Tư Văn cũng xúc động nói giọng run run: “Phải phải, Tiểu Tầm cao ráo lại xinh đẹp, anh đến đây thì hay quá, tôi và Long thiếu gia thường nhắc tới các vị, rất nhớ anh và chị Kiều. Long thiếu gia tính được mấy ngày nay sẽ có bạn cũ phương xa tới gặp mặt, nhưng không dám khẳng định là ai, tôi ngày ngày đều ở trong thị trấn quanh quẩn đợi người, vừa rồi nghe nói có một người Tây tới, tôi biết ngay là anh, vội đi tìm khắp phố, quả nhiên anh tới, mừng quá mừng quá!”
Ba người kia vốn biết Cố Tư Văn, hiện giờ thấy cậu đã ra mặt nhận người, đương nhiên phải thu đao lại. Jack luôn miệng xin lỗi bọn họ, mọi người đều nói “không đánh không quen”, sau đó Cố Tư Văn phát hồng bao cho ba nhà thơ, ai nấy hết sức mừng rỡ, lễ độ chắp tay chào từ biệt rồi rời đi.
Cố Tư Văn nói: “Mau lên ngựa đi, tôi dẫn anh đi tìm Tiểu Tầm.”
Jack cười không khép nổi miệng, nhưng nước mắt bất giác lại trào ra, đành gật đầu lia lịa nói mau lên mau lên.
Hai người cùng lên ngựa, Cố Tư Văn dẫn Jack qua mấy ngọn núi nhỏ, tới một khu vườn trồng đầy hoa cúc.
Những ngọn núi nhỏ tươi đẹp xung quanh đều nhuốm sắc xuân xanh biếc, giữa vùng núi non điệp trùng, nổi lên một mảnh vườn vàng chói mắt. Trong vườn, một thanh niên cao lớn chít khăn lam, lưng đeo cây gậy quấn vải đen, công kênh một cô bé cũng chít khăn lam, theo sau là một con chó to lông trắng đốm đen.
An Long Nhi ở giữa đồng ruộng chạy nhảy tung tăng chẳng khác nào một con hươu nhỏ, A Tầm ngồi trên cổ không ngừng nô giỡn la hét, cất tiếng cười trong veo như chuông bạc. Jack xuống ngựa từ đằng xa, đưa dây cương cho Cố Tư Văn rồi không rời mắt khỏi A Tầm, từ từ đi về phía cô bé. Cố Tư Văn đứng đó giữ ngựa, tự biết chuyện sắp xảy ra đây, chỉ có thể ở nơi này mình mới chia vui hoàn toàn được.
An Long Nhi trông thấy Jack liền dừng lại, đặt A Tầm xuống, cùng đứng giữa đồng. Đại Hoa Bối cũng dừng lại, chầm chầm nhìn Jack. Jack tiến lại gần thêm một chút, có thể thấy rõ dáng vẻ A Tầm, A Tầm cũng ngây ra nhìn Jack, tựa hồ có phần bất ngờ, nhưng không hề sợ hãi né tránh người lạ.
Jack vừa bước tói vừa nhận định rõ ràng, An Long Nhi đang mỉm cười nhìn anh, so với hai năm trước, gương mặt An Long Nhi đã rõ nét nào ra nét ấy, cặp mắt đẹp mà không kém phần chững chạc khiến người ta thấy tín nhiệm và yên tâm. Cậu vận áo dài, lưng thắt đai vải, đeo cây Lôi thích, đầu chít khăn thô, càng nổi bật vẻ thâm trầm và ngời ngời hào khí. Anh lại nhìn sang A Tầm, thấy nó mặc một chiếc xường xám rộng thùng thình màu xanh nhạt, đứng giữa khóm hoa vàng, đường nét khuôn mặt vừa nhang nhác Lục Kiều Kiều lại từa tựa Lý Tiểu Văn, chỉ cao đến eo An Long Nhi. Cô bé ngẩng đầu nhìn An Long Nhi rồi lại nhìn sang gã đàn ông đội mũ cao bồi, hông giắt súng, mặc nguyên một cây jean là Jack. Người đàn ông kỳ quặc mới gặp lần đầu này khiến nó hơi căng thẳng, bất giác giơ tay nắm lấy tay An Long Nhi.
Trông thấy cử chỉ nhỏ này, Jack vội dừng bước. Anh không dám quá vồ vập lại gần A Tầm, sợ A Tàm vừa gặp đã có ấn tượng xấu về mình. Anh cũng không biết phải mở đầu thế nào, giải quyết ra sao, đành lúng túng giơ hai tay quệt đôi mắt chan chứa lệ, đưa mắt hỏi ý An Long Nhi. Đại Hoa Bối sủa mấy tiếng với Jack, chạy lên trước mấy bước rồi dừng lại quan sát, cuối cùng mới chạy như bay về phía Jack, tới khi trông rõ anh, nó liền sủa váng lên mừng rỡ, nhào vào lòng Jack. Jack cũng vui mừng gọi to tên nó, rồi một tay ôm nó, ra sức vò đầu vuốt mặt nó. Đại Hoa Bối thở hồng hộc, liếm láp khắp mặt Jack rồi cắn gấu quần anh toan kéo về phía An Long Nhi, song Jack không dám bước tới, chỉ ngồi thụp xuống ôm lấy con chó đang mừng rỡ không thôi.
An Long Nhi cười với Jack rồi ngồi xuống, gỡ khăn bịt đầu ra, cũng gỡ cả khăn bịt đầu A Tầm, để lộ hai mái đầu vàng rực, khác chăng là sau gáy An Long Nhi chỉ có một bím tóc, còn mái tóc xoăn dài của A Tầm lại được tết thành hai bím. An Long Nhi dùng hai ngón tay kéo bím tóc vàng to dày mà ngắn ngủn sau lưng ra, vẫy vẫy với A Tầm, A Tầm bật cười khanh khách, hai tay nắm lấy hai bím tóc của mình, lao tới vung vẩy loạn một trận.
Jack hiểu ý An Long Nhi, anh cũng trật chiếc mũ cao bồi xuống, để lộ mái tóc vàng rồi ngồi thụp xuống cầm chiếc mũ giơ về phía A Tầm. An Long Nhi đứng lên kéo A Tầm đi về phía Jack, Đại Hoa Bối lại quay về cạnh An Long Nhi, chạy vòng quanh họ mấy vòng. Jack càng lúc càng trông rõ A Tầm, dù con bé mặc một chiếc xường xám rộng màu xanh lục, nhưng vẫn có thể nhìn ra dáng dấp một tiểu mỹ nhân dong dỏng cao, cách ăn mặc của con bé khiến Jack nhớ tới con búp bê vải mà Kiều Kiều yêu thích nhất.
Vầng trán cao giống Lục Kiều Kiều, đôi mày gọn gàng thanh mảnh màu vàng nhạt giống Jack, hàng mi vừa dài vừa đẹp giống Lý Tiểu Văn, đôi mắt nâu sâu hút rõ ràng chỉ con gái anh mới có được, chiếc mũi cao nhỏ nhắn như một con sơn ca, cái cầm nhòn nhọn và bờ môi mỏng khiến người ta dễ dàng hình dung ra cô bé ăn nói rất lanh lợi.
An Long Nhi kéo tay A Tầm bước tới trước mặt Jack rồi thụp một gối xuống, đón lấy chiếc mũ cao bồi trong tay anh đội lên đầu, trợn mắt với A Tầm giả làm cướp khiến cô bé lại cười lên sằng sặc, giơ hai tay đòi đội mũ. Jack nhìn cái mũ cao bồi sụp xuống đầu A Tầm che hết cả mặt, bèn đưa tay bẻ vành mũ lên cho cô bé, gương mặt thiên thần thuần khiết xinh đẹp lộ ra dưới vành mũ, A Tầm nghiêng đầu cười với anh, nụ cười đẹp đến lay động lòng người.
A Tầm nhìn Jack rồi giơ tay ra định sờ lên mái tóc vàng óng của anh. Đại Hoa Bối hết liếm A Tầm lại liếm sang Jack, Jack cũng cúi đầu xuống cho cô bé sờ, lòng ấm áp như được Thượng Đế ân sủng. Anh ngẩng lên thấy A Tầm nói với An Long Nhi: “Ba Long, ông ấy cũng có tóc vàng.”
An Long Nhi hiền hòa bảo A Tầm: “ông ẩy là ba Jack, người cùng một nhà với chúng ta, con xem anh Hoa Bối cũng biết ông ấy, ba Long và ba Văn đều biết ông ấy, ông ấy cũng biết con đấy.”
Jack chìa tay ra với A Tầm, thử gọi tên cô bé: “A Tầm.”
An Long Nhi nắm lấy tay phải của A Tầm, đồng thời đưa tay cô bé về phía bàn tay Jack chìa ra, nói: “Gọi ba Jack đi nào.”
A Tầm nhìn Jack giây lát, khẽ gọi một tiếng: “Ba Jack...” rồi cười cười ôm lấy An Long Nhi, vùi mặt vào lòng cậu. Đại Hoa Bối vẫn không ngừng kích động sủa loạn, còn dúi đầu vào tay Jack, đòi Jack xoa đầu. Jack xoa đầu Đại Hoa Bối, liên tục gật đầu cười, chìa tay ra siết chặt lấy tay An Long Nhi.
An Long Nhi đứng dậy: “Chúng ta về nhà thôi, A Tầm, đưa ba Jack về nhà nhé?”
A Tầm gật đầu vâng lời, một tay dắt An Long Nhi, một tay dắt Jack, đầu đội chiếc mũ cao bồi to tướng, tung tăng chạy giữa hai người, rồi kéo cả hai chạy về phía Cố Tư Văn, gọi to: “Ba Văn!” Cố Tư Văn thấy ba bóng người dắt tay nhau đi giữa cánh đồng hoa, bất giác sống mũi cay sè, cậu hít sâu một hơi, vẫy tay lia lịa với mọi người.
Về đến nhà, Sái Nguyệt đã nẩu một bữa tối ê hề cho họ, sau khi ăn uống rồi cho A Tầm đi ngủ, Jack và An Long Nhi cùng ra đồng cỏ trước nhà tản bộ. Đồng cỏ này lưng tựa núi mặt hướng nước, một con suối nhỏ uốn lượn chàm chậm chảy qua giữa đồng cỏ, dưới ánh trăng sao lập lòe đầy đom đóm, tiếng dế nỉ non và cóc nhái Ồm ộp từ trong bụi cỏ rì rào vọng ra. Nơi ở do đại phong thủy sư An Long Nhi, hiệu xưng Phong Thủy Tiểu Thần Tiên chọn lựa, có thể không hào hoa nhưng nhất định giản dị thanh nhã, tứ thần đắc vị, thủy nhiễu minh đường(2).
Jack thấy An Long Nhi đã sắp cao bằng mình, bờ vai vững vàng chắc chắn, thân hình cao lớn, luôn đeo Lôi thích sau lưng, đây là vận mệnh và trách nhiệm mà Thượng Đế đã ban cho cậu, từ năm mười bốn tuổi đến giờ, cậu chưa từng buông xuống, cứ chờ đợi một trận chiến không biết bao giờ sẽ xảy đến, sự kiên nhẫn và bền bỉ này khiến Jack vô cùng khâm phục.
Anh lặng yên nghe An Long Nhi kể từng li từng tí về cái đêm mồng bảy tháng Bảy Ngưu Lang và Chức Nữ vượt Ngân Hà gặp nhau theo thần thoại Trung Quốc ấy, Lý Tiểu Văn đã chết giữa Tầm Giang. An Long Nhi gắng hồi tưởng thật kỹ càng, không để sót một chi tiết nào, còn nhắc lại cho Jack nghe câu nói cuối cùng của Lý Tiểu Văn không sai một chữ. Sau đó, An Long Nhi móc trong ngực áo ra những đồ thêu thùa mà Lý Tiểu Văn đã dùng quần áo mình gói kỹ. Jack run rẩy giơ hai tay đón lấy, sờ nhẹ lên bộ quần áo, cùng từng đóa hoa vải và bươm bướm dùng chỉ màu tết lại, nước mắt lã chã nhỏ xuống cái yếm nhỏ thêu uyên ương bảy sắc.
An Long Nhi khẽ nói: “Bởi vậy... nó tên là A Tầm, em nghĩ như vậy chúng ta sẽ vĩnh viễn không quên Lý Tiểu Văn. Nhất định sẽ có một ngày nói cho A Tầm biết mẹ nó rất kiên cường, cũng rất yêu thương nó...”
Jack rúm mày nhắm mắt lại, một hồi lâu sau mới hỏi: “Tiểu Văn chôn cất ở đâu?”
“Vì binh hoảng mã loạn, em đành chọn ngay trong ngọn núi sâu đó một mảnh đất phong thủy tốt không ai tìm thấy được rồi chôn cất tử tế. Anh yên tâm, ở đây có một tấm bản đồ, anh có thể theo bản đồ mà tìm đến...”
“Long Nhi, cảm ơn cậu... Tôi...” Jack đỏ hoe mắt lắc đầu nói với An Long Nhi: “Thực sự rất hối hận...”
An Long Nhi cười cười vỗ vai Jack: “Chúng ta là bạn bè, đừng nói mấy câu đó nữa. Phải rồi, anh và cô Kiều sống tốt chứ? Kể cho em nghe chuyện hai người đi, sao chỉ có mình anh tới đây, cô Kiều không đi cùng ư?”
Jack gắng nén xúc động, trấn tĩnh đôi chút rồi thuật lại cho An Long Nhi những trải nghiệm sau khi chia tay ở trấn Tư Vượng hai năm về trước, kể đến đoạn cùng buôn lậu súng ống, An Long Nhi cười ha hả: “Quả là bản sắc của cô Kiều,” nhưng đến đoạn quân Thái Bình đại chiến với quân Thanh, An Long Nhi lại lo lắng, luôn miệng hỏi sau đó thế nào. Khi Jack kể tới đoạn đối thoại trước lúc chia tay Lục Kiều Kiều ở châu Vĩnh An, An Long Nhi chăm chú nghe kỹ, rồi bảo Jack kể lại từ đầu đến cuối một lượt.
Jack kể xong hai lần, thở dài nói: “Tôi yêu cô ấy, cả đời tôi chỉ yêu mình cô ấy, nhưng không ngờ cô ấy không chịu chấp nhận đứa bé này.”
An Long Nhi cắn môi cau mày nghĩ ngợi hồi lâu rồi khoát tay bảo Jack: “Vừa rồi anh nói cô Kiều từng cho Lý Tiểu Văn một đạo bùa Thủy long hả? Lúc em tắm rửa chôn cất cho Lý Tiểu Văn, đã tìm kiếm khắp người cô ấy, không hề thấy đạo bùa ấy... Nếu cô ấy mang đạo bùa này trên mình, có lẽ sẽ sống qua được năm đó.”
“Lẽ nào Kiều Kiều lại lừa chúng ta?”
Hai người đàn ông nhìn nhau giây lát, An Long Nhi nói: “Em cảm thấy cô Kiều không nói dối chúng ta đâu, xưa nay cô ấy không bao giờ nói dối những chuyện hạ cấp như vậy, liệu có phải Lý Tiểu Văn làm mất đạo bùa rồi không?”
Jack đột nhiên cầm chiếc yếm uyên ương bảy màu mà Lý Tiểu Văn thêu lên sờ nắn thật kỹ, vừa sờ thấy một chỗ bèn dừng lại, rút dao găm trong ủng ra, cẩn thận khêu theo đường viền yếm được khâu tay tỉ mỉ, đoạn rút ra một cuộn giấy vàng nho nhỏ. An Long Nhi giơ hai tay đón lẩy mở ra, Jack và An Long Nhi không khỏi thốt lên kinh ngạc, chỉ thấy nét chữ trên lá bùa phiêu dật thanh tú, sôi nổi thuần phác, chính là đạo Thủy đức long thần phù do chính tay Lục Kiều Kiều viết.
Hai người thấy vậy hiểu ngay, thì ra Lý Tiểu Văn biết đạo bùa này có thể bảo hộ bản thân, nên sau khi sinh con, muốn dành cho A Tầm thứ tốt nhất, bảo hộ A Tầm lớn lên khỏe mạnh, bèn may luôn lá bùa vào món quà tặng con, nhưng không ngờ rằng lá bùa này chỉ có tác dụng với cô ta, còn với A Tầm, vốn không cùng bát tự với Lý Tiểu Văn, thì nó hoàn toàn vô dụng, hơn nữa còn dẫn đến việc số mệnh bản thân cô ta rơi vào hiểm nguy không người bảo hộ, không kháng cự được cái chết, cuối cùng dưới sự phá hoại của sát khí địa lý, đã chết đúng như mệnh vận an bài.
An Long Nhi kinh hoàng ngẩng lên bảo Jack: “Chúng ta trách lầm cô Kiều rồi, không phải cô ấy không cùng anh tới tìm A Tầm, mà là đang đuổi anh đi, bằng không anh sẽ chết bên cạnh cô ấy.”
“Gì cơ?” Jack lộ vẻ hết sức khó hiểu.
“Dùng Thủy đức long thần phù kéo dài sinh mạng là pháp thuật cao siêu trong Thiên Sư đạo, cần tiêu hao rất nhiều nội đan của con người để hô hoán Long thần, mà hôm đó chính là đêm trước khi chúng ta truy bắt Tôn Tồn Chân, theo lẽ thường mà nói, làm như vậy rất nguy hiểm, đáng lẽ cô ấy nên bảo dưỡng tinh thần, chứ không nên tiêu hao đan khí vào một người vừa quen biết như vậy, song cô Kiều vì nghĩ đến A Tầm, muốn nó có mẹ nuôi nấng nên vẫn miễn cưỡng làm phép kéo dài sinh mạng cho Lý Tiểu Văn trước, hơn nữa xong việc cũng không hề nói với chúng ta.”
Nghe An Long Nhi giải thích, Jack lặng đi không nói được câu gì, chỉ lẩm bẩm: “Thì ra là thế, Kiều Kiều cô ấy...”
“Bát tự của Lý Tiểu Văn thân yếu mà sát quá nặng, yếu càng thêm yếu...”
“Cái gì?” Jack vốn không hiểu Trung văn cổ, nghe những thuật ngữ này càng ù ù cạc cạc.
“Hôm nay anh không hiểu lời em, giống như em ban đầu không hiểu lời cô Kiều vậy, cũng không hiểu được tâm tư cô ẩy, đây chính là nguyên nhân tại sao xưa nay cô Kiều không cho chúng ta biết cô ấy đã làm gì, vì sao lại làm vậy. Sát tượng trưng cho chồng hoặc người đàn ông trong số mệnh của phụ nữ, phụ nữ mà ‘sát’ trong mệnh quá nặng sẽ bị đàn ông chèn ép lăng nhục, gặp lúc xui xẻo còn có thể chết vì đàn ông...”
Jack sực hiểu ra: “Bởi thế Kiều Kiều mới để mặc cho Lý Tiểu Văn theo Nữ tử Tuyên đạo hội sinh hoạt, bởi nếu cô ẩy ở cùng chúng ta, chỉ cần bên cạnh có đàn ông, sẽ phá hỏng số mệnh của cô ấy, có phải không?”
“Phải, mấy năm nay Lý Tiểu Văn sống giữa đám phụ nữ, nên mới được bình an vô sự, nếu không phải ông trời xui khiến cô ấy đến Kim Điền Quảng Tây, nếu không phải cô ấy tự đem đạo bùa Thủy long may vào chiếc yếm tặng con gái, có lẽ cô ấy sẽ vượt qua được kiếp nạn này... Có điều em không phải muốn nói chuyện này, chỉ là từ chuyện này nghĩ tới mệnh vận của cô Kiều...” An Long Nhi nói đến đây thì ngừng lại, cúi gầm xuống, hai tay bưng mặt, thở ra một hơi dài, Jack còn nghe thấy được hơi thở của An Long Nhi khẽ run lên, như đang ra sức kìm nén cảm xúc trong lòng.
Đột nhiên, An Long Nhi quay lưng lại phía Jack, nhìn vành trăng non trên dải núi xa xa nói:
“Chúng ta đều cho rằng cô Kiều có thể tính được số mệnh người khác, chẳng khác nào thần tiên không gì không làm được, cô ấy không làm những việc theo ý chúng ta, chúng ta bèn trách cứ cô ấy, nhưng xưa nay chưa một ai nghĩ đến số mệnh của cô ấy... Trong mệnh lý học có một thuyết nói về sinh ly tử biệt, nếu vợ chồng đến hạn khắc nhau, cũng chính là lúc duyên phận chấm hết, đôi nào may mắn thì vợ chồng chia ly mỗi người mỗi ngả, đôi nào xui xẻo thì một trong hai người phải chết, chỉ còn một người lẻ loi sống tiếp. Nếu tất cả đều là số mệnh, thì năm nay chính là năm khắc phu của cô ấy, giữa sinh ly và tử biệt, cô ấy có thể chọn gì đây?”
Tâm trí Jack hoàn toàn trống rỗng, ngỡ ngàng nghĩ một hồi rồi nói: “Kiều Kiều đuổi tôi đi là để tôi có thể sống tiếp, phải không?” Nói rồi Jack giơ tay nắm lấy vai An Long Nhi, xoay người An Long Nhi lại đối diện với mình, An Long Nhi vội dùng hai tay quệt ngang mặt rồi mới quay lại nhìn Jack, gương mặt vẫn giữ nguyên vẻ bình tĩnh kiên nghị.
“Một mình tôi sống tiếp thì còn ý nghĩa gì đây!” Jack không khống chế được âm vực, khiến câu nói này văng vẳng lan xa khắp đồng hoang. Nhưng lập tức, anh lại hạ giọng nói: “Tôi muốn đem A Tàm về tìm Kiều Kiều.” Dứt lời, anh mím chặt môi quay vào nhà.
An Long Nhi lạng người chặn trước mặt Jack, hai tay nắm chặt lấy vai anh ngăn cản: “Jack đừng đi, cô Kiều không muốn anh quay lại đâu.”
Gương mặt Jack méo mó, hai tay dùng lực vùng đẩy An Long Nhi ra, giọng điệu hết sức kích động và phẫn nộ: “Cô ẩy là vợ tôi, hiện giờ cô ẩy còn đang ở châu Vĩnh An đánh trận, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp nguy, cậu buông ra đi, có chết chúng tôi cũng phải chết bên nhau!” Nói rồi anh càng rảo bước đi về phía căn nhà.
An Long Nhi vội vươn tay ra giữ Jack lại: “Cô Kiều không muốn anh chết, anh lại cứ khăng khăng đi tìm chết, có bao giờ anh nghĩ phải để cô ấy an tâm không!”
Jack ra sức vùng ra, nhưng mấy làn đều bị An Long Nhi hóa giải hết, đương lúc nôn nóng, anh bèn kéo An Long Nhi lại gàn mình rồi co gối thúc thẳng vào ngực An Long Nhi. An Long Nhi không hề né tránh, ngực liền trúng một đòn nặng, Jack không ngờ An Long Nhi lại làm vậy, vội kinh ngạc dừng tay quát lên: “Cậu làm gì vậy? Tự tôi muốn tìm chết đấy có được không?”
“Không được! Trời muốn anh chết, anh bèn ngoan ngoãn đi chịu chết, chính là đầu hàng số mệnh!” Giọng An Long Nhi cũng vang dội chẳng kém Jack, kinh động cả đến người trong nhà, đèn phòng Cố Tư Văn và A Tầm đồng thời sáng lên.
Jack không vùng ra nữa mà lắc đầu hạ giọng thật thấp, nhưng ngữ khí vẫn đây quyết liệt: “Long Nhi, tôi không thể xa Kiều Kiều được, tôi không thể sống một mình trên đời, cũng không thể để Kiều Kiều sống lẻ loi một mình, nếu đây là số mệnh thì tôi chấp nhận, tôi nhất định phải quay lại, cậu có hiểu không?”
An Long Nhi nhìn vào mắt Jack, thấy mắt anh đẫm lệ, gương mặt đày vẻ khấn nài, cậu càng lúc càng hiểu rõ sự khó xử của Lục Kiều Kiều khi đối diện vói vận mệnh, tới thời điểm một người phải chết, mệnh vận sẽ khiến họ nảy ra ý nghĩ muốn chết, đây chính là sức mạnh không ai thay đổi được.
An Long Nhi trông vào nhà, thấy bóng Cố Tư Văn đã đứng trước cửa nhìn bọn họ, bèn kéo Jack ra chỗ khác xa hơn, nói: “Anh là cha của A Tầm, vì con bé, anh phải sống tiếp, năm nay là năm Nhâm Tý, thủy khí vượng đến cực điểm, thiên hạ có thể đại loạn, khí hậu địa lý cũng có thể sẽ đại biến, mệnh vận mỗi người đều có thể xảy ra bước ngoặt đặc biệt, năm nay anh ở bên cô Kiều là nguy hiểm nhất, sang năm Quý Sửu ngũ hành sẽ cân bằng đôi chút, bẩy giờ hai người gặp lại, về mặt huyền học cũng dễ xử lý. Còn nữa, anh cũng chưa mấy quen thân với A Tầm, hai người cứ sống ở đây một thời gian, để A Tầm nhận thức được anh là cha nó đã.”
An Long Nhi nhắc đến A Tàm, quả nhiên khiến Jack bình tĩnh lại đôi chút, nhưng anh lập tức hỏi ngay: “Kiều Kiều có gặp nguy hiểm không?”
“Cô ấy là phong thủy sư, em cũng từng xem qua mộ tổ nhà cô ấy, hiện giờ cô ẩy có Hồng Tuyên Kiều và huynh đệ Hồng môn trông nom, không dễ xảy ra chuyện đâu... Anh cứ ở lại đây đã, được không?”
Cuối cùng Jack cũng gật đầu, nắm chặt lấy tay An Long Nhi, tay kia vỗ vỗ vào cánh tay cậu: “Xin lỗi Long Nhi, cảm ơn cậu...”
An Long Nhi khẽ cười, buông tay Jack ra, ánh mắt lộ vẻ hiu quạnh khôn kham.
Sau khi tới đây, Jack liền trở thành bảo mẫu riêng của A Tầm, vì hai người giống nhau, A Tầm cho rằng anh cũng là búp bê cùng loại với mình, nên chẳng mấy chốc đã kết làm bạn thân với Jack, đi đâu chơi cũng dẫn Jack theo. Mỗi ngày trôi qua, Jack đều hạnh phúc như sống trên thiên đường vậy.
A Tầm và Sái Nguyệt ngủ chung phòng, bình thường mặt trời chưa lên nó đã trở dậy mặc quần áo gọn gàng để cùng luyện công với các ba mẹ, gân đây trước lúc luyện công lại có một trò chơi mới là sang kiểm tra xem Jack đã dậy chưa. Trước tiên, nó sẽ dùng ngón tay chọc chọc vào mặt Jack, Jack hất tay ra, mơ màng nói gì đó rồi trở mình ngủ tiếp. Bấy giờ A Tầm sẽ vòng sang bên kia giường chọc tiếp, Jack càu nhàu vài tiếng rồi lại xoay ra phía trước, A Tầm quả nhiên không chọc chọc vào mặt nữa, mà lấy ngón tay vạch mí mắt Jack ra, xem Jack đã tỉnh chưa. Đối với người đang ngái ngủ thì cách kiểm tra này rất ác, còn ác hơn nữa là hằng ngày đều diễn ra, nhưng sự khốn khổ của Jack đổi lại được niềm vui cho thiên thần nhỏ bé này nên bất luận thế nào anh cũng không nổi giận, còn hiểu thêm những thiếu niên chưa thành thân này đã phải vất vả nhường nào mới nuôi nấng được một đứa bé.
A Tầm mải giày vò Jack, quả nhiên bớt hẳn quấy nhiễu các ba mẹ khác, trong đám ba mẹ của cô bé, kẻ mừng như mở cờ trong bụng chính là Cố Tư Văn.
Cố Tư Văn thấy Sái Nguyệt mẩy năm nay ngày nào cũng bận bịu luôn tay trong nhà, vừa giặt đồ nấu cơm vừa phải trông A Tầm, hằng ngày ra ngoài đi xa rất muốn kêu Sái Nguyệt đi cùng, nhưng lại sợ A Tàm nửa đêm đòi tìm mẹ Nguyệt, một mình An Long Nhi không xoay xở nổi. Hiện giờ A Tầm đã biết đi biết chạy, cao nhất trong đám con nít sáu tuổi ở Anh thành, còn có cả một ba Jack không bao giờ có thể khước từ nó, nên dù có việc hay không, Cố Tư Văn cũng rủ Sái Nguyệt cùng mình ra ngoài, mở sạp hàng, mua đồ, giặt quần áo, ngày ngày đều như hình với bóng.
Sái Nguyệt đã trổ mã thành một thiếu nữ duyên dáng yêu kiều, xếp hàng nhất nhì trong số các mỹ nhân Anh thành. Cô thấy Jack thích chó, cũng rất yêu trẻ con, có Jack chơi cùng A Tầm khiến người ta hết sức yên tâm, trách nhiệm trông coi A Tầm được Jack san sẻ bớt phân nào, nên thỉnh thoảng cô lại theo Cố Tư Văn ra ngoài dạo chơi.
Cố Tư Văn bản tính lạc quan hiếu động, có thể nói luôn miệng từ sáng đến tối, quả là một người bạn rất thú vị, huống hồ Sái Nguyệt biết Cố Tư Văn vẫn đem lòng mến mình, dù người cô nhung nhớ không phải Cố Tư Văn, nhưng tình cảm giữa đôi bên vẫn tuần tự tăng tiến từng ngày, nếu hiện giờ Cố Tư Văn đột ngột rời khỏi gia đình này, Sái Nguyệt sẽ rất đau lòng.
Hai năm nay, An Long Nhi đã cởi mở hơn rất nhiều, nhưng vẫn giữ thói một mình lên núi tầm long điểm huyệt, mỗi lần đi đều dắt theo A Tầm và Đại Hoa Bối, dù Sái Nguyệt đòi đi cùng, An Long Nhi cũng không đồng ý, lâu ngày Sái Nguyệt cũng chẳng nhằng nhẵng đòi theo nữa, chỉ lặng lẽ đợi An Long Nhi quay về.
Hôm nay Cố Tư Văn nói có một chỗ đầy hoa anh đào nở rộ đẹp vô cùng, rủ Sái Nguyệt cùng đi xem, Sái Nguyệt thấy mọi sự trong nhà đã được sắp xếp ổn thỏa, bèn để hai người đàn ông là An Long Nhi và Jack ở lại trông nhà và chơi với A Tầm, còn mình theo Cố Tư Văn ra ngoài.
Ánh mặt trời mùa xuân ấm áp ôn hòa, rực rỡ như từ trời cao đổ xuống, chỉ trong một đêm đã rải đầy mặt đất. Những muốn cùng người mình yêu đi giữa phong cảnh ấy thật lâu, Cố Tư Văn bèn nói băng qua mẩy ngọn núi là tới, không càn cưỡi ngựa.
Hai người đi rất lâu, Cô' Tư Văn đã huyên thuyên nói hàng tràng mà Sái Nguyệt vẫn chẳng thấy hoa anh đào đâu cả. Cố Tư Văn luôn miệng nói sắp rồi sắp rồi, lại băng qua mấy ngọn núi thấp, từ trên đỉnh núi nhìn xuống, thấy một khoảnh sườn dốc trồng đầy những cây anh đào chỉ nhỉnh hơn đầu người đôi chút. Cố Tư Văn giới thiệu: “Nhìn kìa, chính là ở đây.”
“Hoa đâu?”
“Không có hoa ư?”
“Ngươi nhìn thấy có hoa lúc nào vậy?”
“Tháng trước.”
Sái Nguyệt giận dữ: “Tức chết đi được, tháng trước còn có thể đòi người ta lì xì nữa
đó.”
Cố Tư Văn cũng không trả đũa, chỉ cởi tay nải trên lưng xuống, móc ra một túi nước đưa cho Sái Nguyệt: “Uống ngụm trà rồi chúng ta tìm tiếp.”
Sái Nguyệt lườm Cố Tư Văn, tay chống nạnh uống hai ngụm trà, vừa buông túi nước xuống, trước mặt cô đã xuất hiện một hộp mứt hạnh, thì ra trong tay nải của Cố Tư Văn toàn là đồ ăn. Đi một chặng đường cũng đã hơi đoi đói, Sái Nguyệt liền nhón miếng mứt đưa lên miệng. Cố Tư Văn đột nhiên trỏ đằng xa, thốt lên: “Ấy, ngươi xem, trên cây có anh đào kìa.”
Sái Nguyệt nghe nói vội đưa mắt nhìn theo tay Cố Tư Văn, thấy dưới tán lá xanh um thẹn thò ló ra từng chùm quả đỏ ối. “A! Đúng là anh đào rồi!” Quảng Đông không có nhiều anh đào, ở Anh Châu cũng hiếm khi thấy một vạt anh đào, Sái Nguyệt càng chưa bao giờ thấy anh đào trên cây, lần này được thấy đương nhiên vô cùng thích thú, bèn ném cả mứt lẫn túi nước vào lòng Cô' Tư Văn, rảo chân chạy xuống sườn núi, Cố Tư Văn ôm một đống đồ ăn luống cuống chạy theo sau.
Hai người chạy vào rừng anh đào, lập tức rơi vào vòng vây của những quả anh đào, ánh mặt trời rọi qua kẽ lá, xuyên qua những trái quả đỏ hồng, chín mọng đẹp đẽ. Sái Nguyệt nhẹ nhàng hái lấy một quả, dùng tay áo lau lau rồi dè dặt đưa lên miệng cắn, từ từ nhắm mắt lại để thưởng thức vị ngọt tươi mát, gương mặt đầy vẻ say sưa thỏa mãn. Cố Tư Văn đứng ngay bên cạnh ngắm Sái Nguyệt, chỉ thấy môi khô lưỡi ráo, miệng bất giác há ra, sau khi khép lại còn nuốt một ngụm nước bọt.
Sái Nguyệt mở mắt ra, bắt gặp Cố Tư Văn đang ngây ngốc nhìn mình, cô hái một trái anh đào khác, nhét ngay vào miệng Cố Tư Văn rồi cười khúc khích quan sát bộ dạng họ Cố. Cố Tư Văn đớp ngay lấy quả anh đào như cá cắn câu, niềm hạnh phúc chưa từng có xưa nay khiến mắt cậu cứ dán vào Sái Nguyệt, miệng không ngừng nhai, cảm thấy mình đã xúc động đến nỗi bím tóc cũng ngứa ran.
Nhìn bộ dạng ngốc nghếch của Cố Tư Văn, Sái Nguyệt bật cười khúc khích, để lộ hàm răng đều đặn trắng muốt, khiến tim Cố Tư Văn đập rộn lên. Cô lại vươn tay hái anh đào đưa lên miệng, tấm tắc: “Ngon ghê, ta muốn ăn nữa... Chà chà, ngọt quá ngọt quá... Anh đào ở đây do ai trồng vậy, chúng ta mua một ít về cho bọn họ ăn, hình như A Tầm chưa bao giờ được ăn anh đào...” Nói rồi, cô toan xuống núi tìm chủ rừng anh đào.
Cố Tư Văn vội kéo cô lại: “Nho nhỏ cái miệng thôi, tìm cái gì mà tìm, đống đậu phụ trong đầu ngươi thì nghĩ ngợi được gì chứ? Mau hái đi, hái xong rồi chạy...” Mồm nói tay làm, Cố Tư Văn nhanh nhẹn cởi tay nải ra, đổ hết những đồ ăn vặt bên trong xuống đất rồi luôn tay hái anh đào bỏ vào.
Sái Nguyệt định nói như vậy không được thì Cố Tư Văn đã giơ tay cốc đầu cô: “Còn nói nữa, mau giúp ta hái đi.” Tuy Sái Nguyệt không thích Cố Tư Văn hay chọc ghẹo mình, bình thường nhất định đã gây gổ, song hiện giờ cả hai đang hái trộm anh đào, nếu đánh lộn ở đây nhất định sẽ bị chủ vườn phát hiện ra, đành nín nhịn giúp cậu một tay.
Chẳng mấy chốc đã hái đầy một tay nải anh đào, Cố Tư Văn cởi áo dài ra, thắt mấy nút ở tay áo và vạt áo, làm thành một chiếc tay nải to hơn. Sái Nguyệt thấy Cố Tư Văn ăn cắp thành nghiện, bèn nắm chéo áo cậu lo lắng can: “Mau đi thôi, ngươi lấy nhiều thế làm gì, lát nữa bị người ta phát hiện thì thảm đấy.”
Cố Tư Văn khoác tay nải đầy anh đào lên lưng, rồi trải chiếc áo lên tay Sái Nguyệt, vừa bỏ anh đào vào vừa nói: “Ngươi không giúp thì cũng đừng ở đó làm phiền... Ta hái ta hái, a, chùm này to quá, hái thêm chùm nữa.”
Đột nhiên, một giọng sang sảng vang lên phá vỡ bàu không khí yên lặng trong thung lũng: “Các ngươi mần chi rứa? Đừng có chạy!”
Sái Nguyệt thường ngày chưa từng ăn trộm, vốn đã rất căng thẳng, bị tiếng quát làm cho giật nảy mình, không kìm được thét lên một tiếng kinh hoàng, vội ôm lấy đống anh đào trên tay xoay mình cắm đầu chạy. Cố Tư Văn lập tức kéo cô đứng nguyên tại chỗ, còn bản thân thì ngồi thụp xuống, ở độ cao này, các thân cây khá thưa thớt, không che lấp tầm nhìn, cậu mở to mắt nhìn quanh bốn phía, theo kinh nghiệm của cậu, nếu cứ bỏ chạy theo đường cũ có thể sẽ bị chặn đường lui bắt quả tang cả người lẫn vật, bởi vậy quan sát kỹ phương hướng của đám người đang kéo đến rồi theo đó mà bỏ chạy mới là đúng đắn.
“Người ở mô rứa? Bắt kẻ trộm!” Trong bụi anh đào, một gã nông dân chạy về phía bọn họ, tay còn cầm một cây cuốc nhỏ. Cố Tư Văn phán đoán ngay được tương quan ta và địch cùng tuyến đường bỏ chạy, vội kéo Sái Nguyệt chạy về phía triền núi. Một tay Sái Nguyệt bị Cố Tư Văn kéo, tay kia phải ôm chiếc áo dài đựng đầy anh đào của cậu, trong lúc hoảng loạn hoàn toàn không phân biệt được phương hướng nữa, chỉ biết cắm cổ chạy để khỏi bị bắt.
“Từ từ, từ từ thôi, anh đào rơi hết rồi!” Sái Nguyệt vừa chạy, anh đào ôm trong lòng vừa rơi lộp độp xuống đất. Cố Tư Văn ngoái lại nhìn: “Ấy! Ngươi vẫn còn ôm đống anh đào à, đúng là lợi hại hơn cả ta nữa, mau vứt hết đi, bằng không làm sao thoát được!” Nói rồi, cậu thò tay nhón lấy một quả anh đào trong lòng Sái Nguyệt bỏ vào miệng. Mu bàn tay lướt qua thân mình ấm áp mềm mại của cô, trong chớp mắt, thế giới của Cố Tư Văn ngập tràn hương vị thiếu nữ, hoa rừng rực rỡ đến mức sắp rụng xuống đất, bầu trời quang đãng đến mức bay lên cõi Thái Hư.
Sái Nguyệt vẫn ôm khư khư chiếc áo của Cố Tư Văn, cô cũng chẳng biết anh đào có rơi xuống đất hay không, chỉ một mực ôm chiếc áo của hắn trong lòng, để mặc kẻ tựa hồ sẽ vĩnh viễn ở bên kéo cô đi, trong thời khắc hoảng loạn này, cảm giác ẩm áp và ẩm ướt từ lòng bàn tay truyền đến khiến cô thấy an toàn thực sự, cứ để hắn kéo tay chạy mãi thế này, hẳn sẽ càng lúc càng yên tâm hơn.
Dựa vào võ công hai người sớm đã bỏ xa gã nông dân kia, song cả hai vẫn mải miết chạy, hai bóng dáng trẻ trung vừa nô đùa vừa chạy giữa núi rừng, anh đào đỏ ối rải suốt dọc đường, cả đất trời dường như chỉ có hai con người hạnh phúc ẩy.
Chạy qua mấy dốc núi, tay vẫn nắm chặt tay, Cố Tư Văn và Sái Nguyệt chạy đến kiệt sức mới ngừng lại, thở hồng hộc nhìn gương mặt đỏ bừng của người kia, cùng phá lên cười gập cả người lại. Sái Nguyệt vẫn ôm tấm áo dài của Cô' Tư Văn, đôi mắt hai người bắt đầu đăm đắm nhìn nhau, mồ hôi làm mùi cơ thể lan tỏa khắp xung quanh, khiến hai người không kháng cự nổi mà cùng xích lại gàn. Tay Cố Tư Văn từ từ ôm lấy eo Sái Nguyệt, Sái Nguyệt khẽ ngả đầu lên lồng ngực đang phập phồng dữ dội của cậu.
Thời gian dường như đã trôi qua thật lâu, ráng hồng bắt đầu lộ ra nơi chân trời, Cố Tư Văn vẫn nhắm mắt áp mặt lên mái tóc đen huyền mềm mại của Sái Nguyệt, dịu dàng hỏi: “Đằng ngươi có còn anh đào không?”
“Rơi hết rồi.”
Cố Tư Văn liền thò tay vào tấm áo dài vẫn kẹp giữa thân thể hai người mò tìm một hồi, moi ra được hai quả anh đào giơ ra trước mặt Sái Nguyệt, Sái Nguyệt vui vẻ bật cười, đưa một quả lên miệng cắn. Cố Tư Văn bỏ quả còn lại vào miệng nhai mấy miếng rồi nói: “Tiểu Nguyệt này...”
“ừ?”
“Chúng ta cũng không còn nhỏ tuổi nữa rồi...”
Cố Tư Văn vừa dứt lời, Sái Nguyệt đã dùng hai tay đẩy phắt cậu ra, ném cả chiếc áo dài vào mặt: “Ngươi mới không còn nhỏ tuổi nữa ấy.” Đoạn quay người chạy thẳng về nhà.
Hai người về đến nhà, thấy có vài vị khách đến thăm, An Long Nhi và Jack đang ngồi giữa sảnh tiếp khách, trong đó nổi bật là một ông già gầy gò râu tóc bạc trắng, bên cạnh còn hai người trẻ tuổi cũng đang ngồi, nét mặt mọi người đều trơ trơ không lộ vẻ gì, bầu không khí rất nặng nề. Cố Tư Văn vừa thấy ông già kia vội chạy tới khom lưng chắp tay cao giọng: “Con xin thỉnh an sư bá, người cũng đích thân đến ư.”
Khách chính là Hữu Hiên tiên sinh tể tướng của Hồng môn, ông không đứng dậy, chỉ gật đầu bảo Cố Tư Văn: “Thằng bé này càng lớn càng anh tuấn đấy nhỉ? Mặt hơi ửng hồng, gặp vận đào hoa rồi à?”
An Long Nhi cũng xem tướng cả Cô' Tư Văn và Sái Nguyệt: “Phải rồi, các ngươi sắp kết hôn hả?”
Sái Nguyệt thẹn thùng cười đáp: “Ai bảo sắp kết hôn, đợi lớn thêm mẩy tuổi nữa hẵng bàn, đây là anh đào con mới hái về, mời đại sư bá dùng.” Cô đặt bọc anh đào xuống, đoạn kéo A Tàm vào phòng. Mọi người nghe ra ẩn ý trong lời Sái Nguyệt, đều hiểu ý cười ồ lên, không khí lập tức nhẹ nhõm hẳn, Cố Tư Văn cũng ngây ngô cười ha hả hùa theo.
Cố Tư Văn lau mồ hôi ngồi xuống, biết được lần này Hữu Hiên tiên sinh tới đây không chỉ để thăm đồ đệ và Jack, mà còn đem tới một tin quan trọng: hôm nay ông ngang qua huyện Hoa, trông thấy đại đội quân Thanh tập kết ở đỉnh Phù Dung, quân đội vừa đến liền bắt giữ tất cả dân chúng trong vòng vây mười dặm quanh núi, đặt trọng binh phong tỏa trấn Phù Dung trước đỉnh Phù Dung. Một dải núi Phù Dung dân cư thưa thớt, hoạt động phản Thanh của Hồng môn cũng chẳng lấy gì làm sôi sục, lại là khu vực quân Thanh ở Quảng Châu có thể khống chế bất cứ lúc nào, xưa nay triều đình cũng không nôn nóng trấn áp. Lần này đại quân vô duyên vô cớ tiếp cận, Hữu Hiên tiên sinh vốn chẳng để tâm, song An Long Nhi nhắc tới việc mộ tổ của Hồng Tú Toàn nằm trên đỉnh Phù Dung, hai người suy trước tính sau đều cho rằng chỉ có một khả năng, chính là triều đình nghe theo phủ Quốc sư, ra tay phá mộ tổ của Hồng Tú Toàn, hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa Thái Bình.
Hữu Hiên tiên sinh nói: “Quân Thái Bình của Hồng Tú Toàn tác chiến ở một dải Quảng Tây, không rảnh tay lưu tâm đến chiến cục Quảng Đông, càng không thể phái binh bảo vệ long huyệt; Hồng môn và quân Thái Bình đều là nghĩa quân phản Thanh, Hồng môn chúng ta không thể khoanh tay phớt lờ, huống hồ đánh du kích trường kỳ tiêu hao binh lực quân Thanh cũng là một trong các chiến lược của Hồng môn, bởi thế vừa rồi ta đã phái mật lệnh khẩn cấp, điều nhân mã ở sơn đường gần đó lập tức xuất phát đến đỉnh Phu Dung.”
An Long Nhi nói: “Tôi ở đây đợi hai năm nay, chỉ đợi ngày này, Hữu Hiên tiên sinh, tôi nghĩ việc không nên chậm trễ, ăn uống xong tôi sẽ đi thâu đêm đến đỉnh Phù Dung.”
Cố Tư Văn hào hứng nói: “Long thiếu gia, chúng ta kìm nén bao lâu nay rồi, ta còn chưa đánh trận bao giờ, lần này để ta hiển lộ oai phong một phen.”
Hữu Hiên tiên sinh gật đầu: “ừm, ta cũng đi cùng Long Nhi, xem trước cách quân Thanh bày trận mới điều động người ngựa các sơn đường được. Long Nhi cũng tham gia việc hạ táng huyệt Ngũ Xà Hạ Dương, biết chỗ của long huyệt, chừng nào lên núi cậu dẫn đường, chúng ta cùng đối phó với phủ Quốc sư.” Nói đến đây, Hữu Hiên tiên sinh cười nhạt: “Hừ, ta cũng muốn xem phủ Quốc sư bản lĩnh đến đâu mà định phá cục thế phong thủy này.”
Jack góp lời: “Ngũ Xà Hạ Dương là long huyệt do Kiều Kiều đặt nên tôi muốn đi cùng mọi người, tôi bán súng rất giỏi, Long Nhi cũng biết mà, nhất định có thể giúp một tay.”
Hữu Hiên tiên sinh từng được chứng kiến tài thiện xạ của Jack, chỉ đợi anh tự xung phong, vừa nghe Jack nói vậy liền tiếp lời khen phải. Song An Long Nhi lại không đồng tình: “Anh Jack đừng đi, ở nhà trông A Tầm cùng Tiểu Nguyệt thôi, anh không thể gặp nguy hiểm được.”
“Có thể gặp nguy hiểm gì chứ, tôi từ miền Tây nước Mỹ bôn ba đến đây, đã giao chiến vô số lần, dạo ở trong quân Thái Bình lại từng đánh trận, tôi chính là người giàu kinh nghiệm nhất đấy. Mọi người đều chưa từng đánh trận mà, phải không?”
Cố Tư Văn cũng nói y hệt An Long Nhi: “Con gái anh cũng là con gái của tất cả bọn em, là bảo bối đấy, một mình Tiểu Nguyệt làm sao lo nổi? Anh là cha ruột con bé, anh phải trông nom cho con gái của chúng ta, tiện thể bảo vệ cả Tiểu Nguyệt nữa, đừng tưởng dễ làm nhé, nếu quân Thanh ập vào nhà này, em sợ anh không chống đỡ nổi ấy chứ?”
Hữu Hiên tiên sinh là người có tuổi, thông hiểu mọi chuyện, sau khi nghe ra chút nội tình, ông cũng vỗ vai bảo Jack: “Huynh đệ, làn này thì thôi, mỗi sơn đường chúng tôi cũng có mẩy trăm người, tổng cộng hơn ngàn người ngựa, không xảy ra chuyện gì được đâu. Không phải tôi không tin tưởng tài nghệ của anh, nhưng không thể bỏ mặc đứa nhỏ được, đừng nói cô bé tóc vàng nhà anh, mà giả dụ Tiểu Nguyệt có chuyện gì, A Văn nhất định cũng không tha cho anh đâu, anh ở nhà coi giữ cũng rất quan trọng, đợi chúng tôi trở về, chẳng tới mẩy ngày đâu mà.”
Jack nghĩ ngợi một hồi, cảm thấy mọi người nói cũng có lý, “Vậy được, tôi ở lại trông nhà, bảo đảm lúc quay về, các vị sẽ thấy tất cả đều bình an. Long Nhi, tôi đem đến một khấu cạc bin, cậu cầm đi mà dùng.”
An Long Nhi cười đáp: “Cảm ơn, súng là vũ khí sở trường của anh, lỡ ở đây gặp nguy hiểm, anh ắt phải dùng súng, còn em nếu có giao đẩu với An Thanh Nguyên thì cũng là đánh giáp lá cà, tấn công thần tốc, không kịp nổ súng đâu.”
Hữu Hiên tiên sinh cũng góp lời: “Phải rồi, trên chiến trường đâu đâu cũng là súng ống, nếu cần dùng chúng tôi sẽ kiếm được ngay, trái lại súng đạn ở nhà không đủ, bởi thế anh nên ở nhà, nếu xảy ra chuyện thì đám nhỏ A Văn còn tâm trí đâu mà đánh trận nữa, có anh trông nom mặt này, chúng không phải lo lắng, mới có thể dũng mãnh giết địch được.”
Những lời của Hữu Hiên tiên sinh khiến Jack cười ha hả, mọi người cùng kéo vào thành ăn cơm rồi Jack dắt Đại Hoa Bối, Sái Nguyệt dắt A Tầm về nhà trước, những người khác lên ngựa nhắm hướng đỉnh Phù Dung ngay trong đêm.
— CHƯƠNG 3 —
\
Quỷ anh hùng Hông môn
Mọi người ruổi ngựa gấp theo đường núi suốt đêm, đến gân đỉnh Phù Dung thì trời đã tảng sáng. Họ tới trước một ngôi làng nhỏ, Hữu Hiên tiên sinh móc trong hốc cây đại thụ ra một mầu giấy nhỏ, xem xong bèn xé vụn quăng đi, rồi quay lại bảo mọi người: “Quân Thanh tập kết dọc một dải trấn Phù Dung và thác Tây Sơn, có khoảng bốn doanh hai nghìn người, phong tỏa hết bốn phía, hiện giờ không thể cưỡi ngựa xông vào được, song nếu võ công cao cường có thể lần theo các trạm gác, giết lính canh mà lẻn vào, tới mộ tổ nhà họ Hồng xem tình hình ra sao.”
Mọi người đều gật đầu tán thành, An Long Nhi lên tiếng: “Tôi lẻn vào được, Văn thiếu gia và Hữu Hiên tiên sinh cứ đợi ở đây.”
Cố Tư Văn bưng miệng cười: “Ha ha, Long thiếu gia khách khí quá, chi bằng ngươi và đại sư bá ở đây, một mình ta đi xử lý An Thanh Nguyên.”
“Hồng môn là chỗ để giở thói anh hùng à? Đừng nhiều lời nữa, ta đi với các ngươi.” Chòm râu Hữu Hiên tiên sinh hơi vểnh lên: “Râu còn chưa đủ dài mà làm quỷ đầu to gì chứ...” Nói rồi ông bảo hai thanh niên đằng sau: “Tiểu Tứ Tiểu cửu lại đây, các ngươi đi báo cho quân của Lăng Thập Bát và Khâu Nhị Tẩu chuẩn bị...” Hữu Hiên tiên sinh ghé tai hai người dặn dò một chặp, Tiểu Tứ và Tiểu cửu nhận lệnh, lập tức chia ra phi ngựa đi báo tin. Cố Tư Văn cũng rỉ tai An Long Nhi: “ông già ấy tưởng như bây giờ là thời Tam Quốc, còn mình là Gia Cát Lượng không bằng, cứ lén lút thì thào, ra bộ thần bí.”
“Các người lén lút thì thào gì thế!” Hữu Hiên tiên sinh thình lình quát hỏi, giọng sang sảng, khiến An Long Nhi và Cố Tư Văn giật nảy mình.
Cố Tư Văn vội lấp liếm: “Con mót tiểu.” Hữu Hiên tiên sinh nhảy xuống ngựa: “Hai người cùng đi đi, tiểu xong thì buộc ngựa ở đây, chúng ta lẻn vào.”
An Long Nhi ngơ ngác hỏi: “Tôi không mót cũng phải tiểu ư?”
“Phải, trước trận chiến thả lỏng một chút, có thể làm tỉnh táo đầu óc, bình ổn tâm trạng.” Bên cạnh Hữu Hiên tiên sinh không có lính hầu, nên ông coi luôn hai người là thuộc hạ mà chỉ huy, cả hai đành ngoan ngoãn đi sang một bên giải quyết vấn đề, sau đó tìm một thung lũng giấu ngựa, ba người men theo long mạch lẹ làng lẻn vào theo hướng đầu rồng.
Núi Phù Dung trải dài, đường mòn trên núi lên xuống ngang dọc nối nhau, đặt quân mai phục vây đánh rất khó khăn. Tướng lĩnh bình thường thì chẳng nhìn ra được long mạch, chỉ có phong thủy sư chân tài thực học lại có kinh nghiệm mới có thể dọc đường vừa tầm long vừa đi, lại thêm trảm long phải trảm ở đầu rồng, An Long Nhi tất nhiên sẽ lần theo long mạch tiến vào, bởi vậy phía đầu rồng nhất định sẽ gặp quân chặn đánh, từ đó có thể đoán ra được người bày trận là ai. Ọuả nhiên trên đỉnh núi bằng phẳng Long bối khởi tinh đầu tiên sau khi tiến vào núi, đã phát hiện dấu vết quân Thanh.
Hữu Hiên tiên sinh nấp ra sau gốc cây, nhỏ giọng bảo An Long Nhi: “Trận này quả là quyết chiến bằng phong thủy, tôi chưa đánh với giống chó Thanh biết phong thủy bao giờ, lần này xem ra được thỏa lòng rồi.”
An Long Nhi cũng thì thào đáp: “Đối phương là nhân vật rất lợi hại, quốc sư triều Thanh đấy...” Cố Tư Văn ngồi xổm dưới đất chen vào: “Hắn tên An Thanh Nguyên, mấy năm trước từng giao đấu với bọn con, lúc nào cũng chăm chăm trảm hết long mạch
Quảng Đông... Ái da.” Bị An Long Nhi đá vào mông một cái, Cố Tư Văn sực nhận ra mình đã lỡ lời.
“Trảm long mạch gì cơ, long mạch có thể trảm được sao? Không phải hắn muốn phá mộ tổ nhà họ Hồng à?” Hữu Hiên tiên sinh phát hiện ra hai kẻ hậu sinh này có chuyện giấu mình, tức giận trừng mắt nhìn Cô' Tư Văn. Cố Tư Văn co người lại không dám ngẩng lên, An Long Nhi đành tìm lời lấp liếm: “An Thanh Nguyên muốn phá mộ tổ nhà họ Hồng, có điều hán cũng có bí quyết phong thủy độc môn để trảm long mạch, hì hì...” Cậu cười khan mấy tiếng tự giải vây, nhưng Hữu Hiên tiên sinh không chịu buông tha, lại gặng tiếp: “Trên đời có thuật phong thủy trảm long ư? Chỉ mình An Thanh Nguyên biết dùng thoi à?”
An Long Nhi không biết khoác lác, nhưng cũng không thể nói ra bí mật của Long quyết, đành gãi đầu khó xử: “Có thuật phong thủy như vậy đấy, dù sao y cũng biết dùng thuật đó.”
Hữu Hiên tiên sinh xỉa ngón tay vào ngực An Long Nhi đau điếng: “Thằng nhãi tóc vàng này hễ nói dối là chớp mắt, nhất định cậu biết thuật trảm long rồi, nhìn vết sẹo trên mặt cậu hẳn là đã trải qua nhiều chuyện, sao không đi trảm long mạch Mãn Thanh hả? Chém đứt long mạch của bọn chó Thanh thì bấy nhiêu người Hán khỏi phải phản Thanh phục Minh nữa, chừng nào trở về cậu phải giải thích rõ ràng chuyện này cho ta đấy.”
“Tôi... tôi cũng không biết trảm long...” An Long Nhi phân bua vẻ vô tội, thình lình miệng cậu bị Hữu Hiên tiên sinh bịt chặt, bọn họ phát hiện một tên lính Thanh đã chú ý đến bụi cây họ nấp, đang gọi những tên khác tiến lại thăm dò.
Hữu Hiên tiên sinh dùng ngón tay ấn lên đỉnh đầu Cố Tư Văn, họ Cô' liền giơ bốn ngón tay lên. Hữu Hiên tiên sinh nhìn An Long Nhi, đưa ngón trỏ lên môi rồi làm động tác đánh ngất bằng tay, lại trỏ về phía ngọn cây, An Long Nhi hiểu ý, liền tung người từ phía sau gốc cây nhảy lên. Bốn tên lính Thanh kia không thấy ai, song lại nghe thấy tiếng vạt áo bay phàn phật, lập tức chạy về phía gốc đại thụ mà họ đang nấp, quát lớn: “Ai đó? Mau ra đây!”
Từ trên cây, một sợi dây đỏ lặng lẽ bay vụt ra, chính là sợi dây xâu đồng tiền, ám khí độc môn của An Long Nhi. Tên lính chạy cuối cùng chợt thấy cổ nghẹt lại, cơ thịt ở cổ đau buốt nhưng không sao thốt được ra tiếng, liền sau đó, gáy lại nhận một đòn trời giáng. Trước khi mắt tối sầm, y trông thấy sau gốc đại thụ phía trước vọt ra hai bóng đen lướt qua ba đồng đội của mình, một người trẻ tuổi cao gầy nghiến răng nghiên lợi vung tay đồng thời chặt vào cổ hai tên lính Thanh, một lão già gầy gò trừng mắt vểnh râu trực tiếp xuất chỉ điểm vào tên còn lại, rồi nhanh như cắt điểm luôn một lượt vào hai người kia, cả bọn lập tức ngã quỵ xuống đất không một tiếng động, trong óc y lóe lên ý nghĩ: gặp ma rồi.
Hữu Hiên tiên sinh và hai hậu bối trói nghiến bốn tên lính Thanh đã hôn mê lại, cả ba thay sang quàn áo của lính Thanh, chợt nghe trên đầu núi có tiếng hỏi: “Bên đó thê' nào rồi, có chuyện gì à?”
Cố Tư Văn lớn tiếng đáp: “Không có gì, chúng ta đi tuần xung quanh một vòng, lát nữa sẽ về.” Nói rồi, từ vị trí trên đỉnh núi nhìn xuống không thấy được, ba người lẳng lặng lẻn tới tinh đỉnh long mạch tiếp theo.
Cả bọn mặc quân phục đen của lục doanh, tay cầm trường thương hông đeo đao, xếp thành một hàng dọc đi men theo khe núi bên cạnh long mạch. An Long Nhi nói với Hữu Hiên tiên sinh: “Không ngờ tiên sinh còn biết điểm huyệt nữa, thực lợi hại quá.”
Hữu Hiên tiên sinh thổi râu đáp: “Chút tài vặt ấy đáng kể gì, nhận biết được mẩy chục huyệt vị rồi luyện chừng mấy năm là làm được, biết võ công lấy một chọi một, một chọi mười thì dễ, hiểu được binh pháp, biết dùng sức một người địch được cả vạn người mới khó.”
Cố Tư Văn ngoảnh lại nói: “Đại sư bá dẫn binh đánh trận cũng lợi hại lắm đó, Long thiếu gia có dịp phải theo sư bá học hỏi đi.”
An Long Nhi nghe nói chỉ cười, cậu không thích đánh trận, cũng chẳng thấy lấy một địch vạn có gì uy phong, nếu thiên hạ thái bình thì binh pháp còn tác dụng gì chứ. Hữu
Hiên tiên sinh không nhìn An Long Nhi, nhưng từ phản ứng của An Long Nhi, ông cũng cảm nhận được gã thiếu niên này không thích giao chiến, chỉ không hiểu sao một người như vậy lại luyện được võ công cao cường đến thế.
Chẳng mấy chốc đã trông thấy mỏm núi tinh đỉnh long mạch tiếp theo, không lên thì không biết có thể xuống tay trảm long ở đây hay không, bọn An Long Nhi bèn đi chậm lại, men theo con đường nhỏ dọc long mạch từ từ tiến lên. Quân Thanh đóng trên đỉnh núi, còn dựng một tòa thành vải(1) rất lớn, An Long Nhi thấy vậy liền đề cao cảnh giác, bên trong lớp thành vải kia hoàn toàn có thể đã bày sẵn trận pháp trảm long.
An Long Nhi bước lên trước hai người kia, vờ như một đội tuần binh, tiến về phía thành vải. cả bọn mặc quân phục lính Thanh nên dễ dàng trà trộn vào đám binh sĩ đang đi lại như con thoi giữa quân doanh, sắp đi tới gàn thì thấy mấy viên quan từ bên trong vén lớp vải bước ra, trong đó có một kẻ gương mặt gầy gò, cao cỡ trung bình, dáng vẻ khúm núm, tay cầm tẩu thuốc, thân khoác áo giáp dày nặng, đầu đội mũ sắt chóp nhọn, chóp mũ cắm một trụ dài, đỉnh trụ có một dúm lông đỏ, phục trang của thiên tổng ngũ phẩm vận lên người tên này khiến người ta nảy sinh cảm giác y phục không xứng kỳ đức, An Long Nhi thoạt nhìn đã nhận ra ngay đó chính là Kim Lập Đức, đại nội ngự dụng phong thủy sư của phủ Quốc sư.
Thuở nhỏ, An Long Nhi từng mấy lần thoát chết dưới đao Kim Lập Đức, xưa nay chưa có cơ hội tìm hiểu trình độ võ công và phong thủy thực sự của hắn, song luôn thấy hắn xuất hiện trong các lần hành động của phủ Quốc sư, càng không rõ lập trường của hắn ra sao. Kim Lập Đức năm xưa nương tay tha cho một đứa bé, chưa chắc hiện giờ đã không xuống tay tàn nhẫn chấp hành công vụ, ánh mắt An Long Nhi và Kim Lập Đức giao nhau trong một khoảnh khắc rồi lập tức rời ra, cậu dẫn cả đội đi ngang qua hắn.
Kim Lập Đức trông thấy An Long Nhi thì thở dài, quay người đi vào thành vải. Một viên quan mập ú bên cạnh vội hỏi: “Hở? Kim đại nhân, không phải nói ra sau núi đánh bạc sao?”
Kim Lập Đức toan đáp thì một viên quan cao kều bên cạnh bỗng cười khanh khách nói: “Ba người các ngươi đứng lại ngay.”
An Long Nhi và Kim Lập Đức đều dừng lại, lòng cả hai tràm xuống, không hẹn mà cùng nhìn về phía người kia. Viên quan nọ cười hì hì bước tới trước Hữu Hiên tiên sinh, ghé đầu lại nhìn mặt, rồi giơ tay vuốt chòm râu bạc của ông: “Ngươi bao nhiêu tuổi rồi?”
Hữu Hiên tiên sinh thẳng thắn: “Năm mươi lăm.”
“Ta thấy ngươi phải đến bảy mươi lăm rồi ấy. Một tháng nhận lương bao nhiêu?”
Nghe câu hỏi này, An Long Nhi lo ngay ngáy, ai mà biết được quân Thanh phát lương bao nhiêu cơ chứ. Song Hữu Hiên tiên sinh lại chống trường thương ưỡn ngực đáp: “Một lạng bảy phân bạc.”
“Tốt, tốt, lính già lợi thật đấy.” Dứt lời, viên quan cao kều quay sang cười hỏi Kim Lập Đức: “Lục doanh chúng ta có hạng lính già đến thế này ư?”
Kim Lập Đức bước đến kéo viên quan kia ra nói nhỏ: “Trương bả tổng, kẻ làm quan lớn như ngài còn làm khó người già làm gì, thà trả lương thấp một chút để góp cho đủ quân số còn hơn ăn khống, bằng không lúc đánh nhau thật chúng ta moi đâu ra binh sĩ cho triều đình? Vào đây vào đây, tôi cho ngài xem cái này...” Nói rồi hắn quay sang xua xua tay với An Long Nhi: “Đi đi đi đi, phải làm gì thì làm đi, bên này không có việc gì thì sang bên kia xem xem, mau...”
An Long Nhi vẫn đứng yên bất động, mắt nhìn chầm chầm vào thành vải, Kim Lập Đức nhận thấy sát khí lạnh lẽo trong mắt cậu, biết cậu muốn kiểm chứng xem bên trong có phải đài trảm long hay không, bèn vén lớp màn vải lên, để mấy viên quan lục tục đi vào. An Long Nhi nhìn vào trong, thấy chỉ có bàn ghế và lều lán che nắng, bèn rảo bước men theo tường ngoài thành vải đi tiếp.
Đi được mẩy bước, An Long Nhi chợt nghe bên trong thành vải có người đang đi song song với mình, lại nghe tiếng Kim Lập Đức sang sảng ngâm: “Muốn trảm Liêm Trinh phá Tham Lang, quỷ tinh bên dưới sát cơ tàng, thái bình chém giết làm chi nữa, hảo hán giúp
vua khắp triều đường.”
Một giọng hỏi: “Kim đại nhân thật có nhã hứng, đây là thơ của ai vậy, sao tôi chưa từng nghe?”
Giọng Kim Lập Đức lại rời xa khỏi lớp tường vải: “Nếu ngươi nghe hiểu được thì mũ quan này của ta chẳng phải do ngươi đội rồi sao, cho các ngươi xem cái bình hút(2) này, xem định ra giá bao nhiêu đây?” Vừa dứt lời, một tràng tiếng hò hét ra giá rộ lên. An Long Nhi và Hữu Hiên tiên sinh đã hiểu ra, vội cúi đầu rời khỏi thành vải thật nhanh, chạy thẳng tới tinh đỉnh long mạch tiếp theo.
Chẳng mấy chốc đã đi qua quân doanh ồn ào như cái chợ của Kim Lập Đức, Cố Tư Văn rảo bước chạy tới bên cạnh An Long Nhi hỏi: “Tên quỷ gây gầy vừa rồi chẳng phải kẻ ở dốc Thập Tự núi Nam Côn ư? Hắn ta đọc cái gì vậy, có phải đọc cho ngươi nghe không?”
An Long Nhi vừa chạy vừa đáp: “Hắn tên Kim Lập Đức, là quan thuộc phủ Quốc sư, hồi nhỏ ta từng giao đấu với hắn nhiều làn nhưng luôn được hắn tha cho, có thể hắn cũng bất mãn với những hành động thương thiên hại lý của phủ Quốc sư. Bài thơ hắn đọc có hai phần, hai câu đầu là thơ phong thủy, bảo cho chúng ta biết nơi nào xuống tay trảm long, chỗ nào có mai phục, lát nữa đi tới ngươi sẽ biết. Hai câu sau ta cũng không hiểu, Hữu Hiên tiên sinh ông có hiểu không?”
Hữu Hiên tiên sinh gừng càng già càng cay, vừa chạy vừa nói mà không hề thở dốc: “ ‘Thái bình chém giết làm chi nữa’ nghĩa là bọn chúng không muốn lật đổ triều Thanh thông qua chiến tranh, ‘hảo hán giúp vua khắp triều đường’, câu này không phải nói triều đình toàn hảo hán, mà ý bảo chúng muốn đưa thật nhiều quan lại người Hán vào triều đình Mãn Thanh để đạt tới cục diện chính trị người Hán nắm chính sự, vua Thanh chỉ là bù nhìn, tóm lại mấy câu này ý nói không muốn chúng ta quấy nhiễu việc của phủ Quốc sư bọn chúng.”
Cố Tư Văn vội hỏi: “Vậy đại sư bá có định ra tay nữa không?”
Hữu Hiên tiên sinh lập tức lật tay xỉa một ngón vào bụng Cố Tư Văn: “Thằng nhãi này muốn hàng Thanh à, chúng vừa nói mẩy câu đã định rụt cổ lại, ngươi hỏi xem A Long có làm tiếp hay không?”
An Long Nhi chạy đầu tiên, song nãy giờ vẫn lắng nghe hai người nói chuyện, tuy không rảnh ngoái lại nhưng vẫn đáp ngay: “Chúng làm gì cũng được, nhưng không thể vì trảm long mà hại đến trăm họ.”
Xa xa về phía Nam loáng thoáng có tiếng súng nổ, ban đầu chỉ lẻ tẻ, sau lại rền vang, liền sau đó là tiếng hò reo vang dội, An Long Nhi và Cố Tư Văn biết đó là quân đội Hồng môn do Hữu Hiên tiên sinh cắt đặt đang từ bên ngoài đánh vào, có lẽ nhằm đánh lạc hướng chú ý của quân Thanh để bọn họ tiến vào núi Phù Dung theo đường núi phía Bắc. Hiện giờ họ chỉ có ba người, cũng chẳng quản được trận chiến vòng ngoài kia, chỉ có thể dẩn bước tiến lên mà thôi.
Lại vượt qua một dãy long mạch Thủy tinh đỉnh hình dạng như gợn sóng, trước mặt hiện ra một ngọn núi đỉnh tròn như chiếc nón lá, An Long Nhi bèn giơ cây thương ra ngăn phía trước, mọi người đều hiểu ý dừng lại. Hữu Hiên tiên sinh nói khẽ: “Đến nơi rồi, Kim Lập Đức nói chính là chỗ này, trước tiên cứ nấp vào bụi cỏ quan sát đã.”
Trên đỉnh núi tròn tròn phía trước thấp thoáng mẩy bóng người đang hoạt động, song không nhìn rõ là làm gì, dưới núi cũng không thấy binh sĩ nào xuất hiện. Cố Tư Văn hạ giọng nói: “Trước mặt không có binh lính, chúng ta lẻn đến đi.”
An Long Nhi ấn cậu lại: “Đừng cử động, nếu Kim Lập Đức nói thật thì bên dưới chỗ này toàn là phục binh đó.”
Cố Tư Văn tỏ vẻ bực bội: “Kim Lập Đức nói cái gì, các người đều hiểu cả, chỉ mỗi ta không hiểu...”
An Long Nhi ngồi xổm trong bụi cỏ chỉ về phía Nam, khẽ giải thích với Cố Tư Văn: “Qua mấy ngọn núi nữa thì có một cái hồ bên dưới núi, dưới đáy hồ táng thi thể Hồng lão gia. Luận về phần mộ, mỏm núi gàn nhất phía sau kháo sơn(3) được gọi là quỷ tinh, Kim
Lập Đức nói quỷ tinh bên dưới sát cơ tàng, chính là chỉ khu vực quanh đây.”
Cố Tư Văn gật gật đầu nhìn kỹ địa hình phía trước, quả nhiên trông thấy mấy đỉnh núi phía Nam trải ra mênh mông, chắc hẳn bên dưới chính là hồ: “Ra thế, mấy cái tên kỳ quặc nhiều ghê, vậy Liêm Trinh và Tham Lang là gì?”
Hữu Hiên tiên sinh nghiêm giọng máng: “Lại một tên dốt nát kém cỏi, chẳng khác gì bọn quỷ Tây Dương.”
“Đại sư bá nói vậy sai rồi, phái Giang Tướng chúng ta xưa nay chỉ chú trọng nắm bắt lòng người hòng gạt tiền, trước giờ có ai dạy con xem phong thủy đâu, vừa rồi con cũng mới biết lão nhân gia người biết xem phong thủy thật, chứ trước đây cứ tưởng người là tay đại bịp cơ đấy.”
Hữu Hiên tiên sinh gập ngón tay cốc đầu Cố Tư Văn đánh cốp, trừng mắt: “Ta không cướp của nhà giàu chia cho người nghèo thì Hồng môn lấy đâu tiền bạc chiêu binh mãi mã hả, sau này còn phải dựa vào các ngươi đi cướp đấy.”
“Thế rốt cuộc Tham Lang là cái gì?”
An Long Nhi đang định giải thích cho Cố Tư Văn thì Hữu Hiên tiên sinh đã sàm mặt hạ giọng đáp: “Hình thế núi cơ bản có thể phân thành ngũ hành cửu tinh, dãy núi nằm trên long mạch nếu có thể liên hoàn tương sinh theo ngũ hành sẽ sinh ra long huyệt có phúc lực mạnh nhất. Ngươi nhìn đỉnh núi cao vút xa nhất kia kìa, đó là núi Liêm Trinh thuộc Hỏa hình, loại kháo sơn này chủ con cháu làm quan đến Tam Công, là phúc lực mạnh nhất trong phong thủy; ngọn núi cao thẳng đỉnh tròn trước mặt thì là núi thuộc Tham Lang Mộc hình, cũng là một trong các loại núi lành, hiếm hơn là vừa khéo theo ngũ hành tương sinh lại làm vượng cho núi Liêm Trinh đằng trước, khiến long mạch tràn trề nguyên khí, bởi thế Kim Lập Đức mới nói ‘muốn trảm Liêm Trinh phá Tham Lang’, ý bảo phá long khí trên núi Tham Lang...”
“Nhổ mất cây, lửa tự nhiên sẽ tắt, ồ, có lý có lý.” Cố Tư Văn đang thông minh chen vào thì trông thấy trên đỉnh núi Liêm Trinh có sấm nổ, lan ra liên tiếp thành một vòng quanh đỉnh núi không hề gián đoạn, tới khi đỉnh núi lở ra sụp xuống, ngọn núi đỉnh nhọn nháy mắt biến thành đỉnh bằng. Ba người không hẹn mà cùng đứng phắt dậy từ trong bụi cỏ, Hữu Hiên tiên sinh từng trải trăm trận cũng sửng sốt thốt lên: “Phá phong thủy mà phải huy động trận pháp lớn thế này, xem ra bọn chó Thanh quả hận Hồng Tú Toàn tận xương tủy.”
Cùng lúc ẩy, Cố Tư Văn cũng nói: “Núi Liêm Trinh thế là toi rồi, may mà vừa nãy còn kịp nhìn một cái.”
Đỉnh Liêm Trinh bên kia còn đang nổ long trời lở đất, thì đỉnh Tham Lang gàn đó cũng vang lên một tiếng nổ, mọi người đều lùi lại nửa bước theo phản xạ. Vụ nổ lần này khác vụ trên đỉnh Liêm Trinh, chỉ thấy một cột lửa đỏ lẫn cả đá vỡ và khói thuốc súng xông thẳng lên trời, như dựng nòng pháo chỉ thiên bắn pháo mừng vậy, bàu trời lập tức hiện ra một quầng lửa đỏ, cây cỏ trên núi cũng bắt đầu rung chấn khẽ.
Hữu Hiên tiên sinh vội lẩm bẩm: “Chuyện gì thế này? Đây là điềm báo động đất mà.”
An Long Nhi nhìn vầng hồng trên trời từ từ hạ xuống, dần biến thành ánh sáng năm màu rực rỡ, rung chấn dưới đất càng lúc càng mạnh, làn sóng khí đem theo tiếng ồ ồ tràm thấp rúng động lòng người đổ ập về phía bọn họ. Cậu quay lại nói với Hữu Hiên tiên sinh: “An Thanh Nguyên sắp trảm long rồi, vừa nãy là y xuyên qua mặt đất đánh vào tử huyệt long mạch, bước tiếp theo sẽ giết đám trẻ nhỏ để máu chúng chảy vào tử huyệt trảm long, chúng ta phải đánh lên núi Tham Lang ngay bây giờ.”
Hữu Hiên tiên sinh cười nhạt: “Hừ, cả thuật phong thủy trảm long mạch ta cũng gặp rồi, coi như không sống uổng kiếp này, được, để ta xem xem y trảm long thế nào.” Dứt lời bèn theo An Long Nhi xông xuống núi, lao nhanh về phía Tham Lang.
Ba người vừa xông xuống núi, lập tức thấy đại đội quân Thanh đuổi đến đằng sau, thì ra Kim Lập Đức nghe tiếng nổ đã dẫn binh lính tới. Hắn vẫn cầm khư khư tẩu thuốc, vẫy tay về phía sau, hướng xuống núi lớn tiếng: “Bắn tên! Tất cả bắn tên cho ta!” Binh lính bên cạnh Kim Lập Đức lũ lượt giương cung lắp tên bắn về phía bọn An Long Nhi, nào ngờ họ Kim đẩy ngay mấy tên lính đang bán tên ở hai bên ra, chửi toáng lên: “Ngu lắm! Bên dưới toàn cây cối, làm sao bắn trúng người được? Tất cả bán lên trên, bán sang phía sườn núi đối diện kia kìa, ghim chết đám phản tặc đi!”
An Long Nhi vừa chạy đến chân dốc núi, đang chuẩn bị ngẩng mặt xông lên núi Tham Lang thì thấy tên bắn rào rào về phía sườn núi trước mặt, cả ba vội dừng lại. Cố Tư Văn nấp ra sau thân cây, nhìn trận mưa tên phía trước, buông nhận xét: “Tên của Kim Lập Đức toàn bán quá đầu cả, khúc dồi này buồn cười thật đấ...” Chữ “đấy” còn chưa nói hết đã thấy tên cắm phập xuống trước mặt, vừa cắm xuống đất liền nổ dữ dội, khiến Cố Tư Văn kinh hãi thét lên: “Có loại tên lợi hại thế này á?” Lập tức ôm đầu lăn ra xa, cả người lấm lem bùn đất.
Hữu Hiên tiên sinh rất thông thạo các loại chất nổ trên chiến trường, liền cao giọng đáp lời Cố Tư Văn: “Đừng xông lên, đó không phải Thiên Lôi tiễn đâu, mà là địa lôi, Kim Lập Đức bắn tên để cảnh báo chúng ta trên sườn núi toàn địa lôi.”
An Long Nhi lớn tiếng đáp: “Không đợi được nữa đâu, trên núi đang giết người đó, mà lại giết trẻ con.” Dứt lời liền tung người nhảy lên cây, rồi thoăn thoắt nhảy sang một cây khác, nhanh nhẹn chẳng kém khỉ vượn, toan chuyền theo các ngọn cây mà lên núi. Khinh công của Cố Tư Văn không được đến mức đó, cậu từ dưới đất lồm cồm bò dậy, chống trường thương nhảy luôn vào miệng hố vừa nổ hồi nãy, đoạn vung thương quét một vòng, lại kích phát hai quả địa lôi trước mặt nổ vang, ù cả hai tai.
Hữu Hiên tiên sinh quát lên: “Tránh ra!” Cố Tư Văn ngoái lại, chỉ thấy Hữu Hiên tiên sinh tay bưng một tảng đá đen lớn xông lên mấy bước, vung tay ném tảng đá lên sườn núi, lập tức một dãy địa lôi nổ tung dọc theo đường lăn xuống của tảng đá. Cố Tư Văn và Hữu Hiên tiên sinh nằm rạp xuống đất, đợi địa lôi nổ hết mới ngẩng lên nhìn, thấy An Long Nhi vẫn đang đứng trên một ngọn cây cách đó không xa, thì ra trên sườn núi nhiều cỏ ít cây, không có chỗ đặt chân để nhảy lên tiếp nữa.
An Long Nhi từ trên ngọn cây nhìn lên đỉnh núi, thấy bàu trời càng lúc càng tối sầm, lại không phải tối vì mây đen che mặt trời, mà bởi từng cuộn khí đen quỷ dị từ dưới đất bốc lên bao trùm núi Tham Lang, ánh sáng năm màu giữa đám khí đen không ngừng chuyển động, thỉnh thoảng lại có một ánh đỏ rực từ dưới đất bốc lên rồi hòa vào quầng sáng giữa không trung. Dù không tận mắt thấy tình cảnh An Thanh Nguyên trảm long, song trực giác mách bảo An Long Nhi đây là cảnh tượng sau khi giết người, mỗi lúc giết một người, sẽ có một luồng sáng màu đỏ máu bốc lên.
Cậu cũng nhìn thấy cách Hữu Hiên tiên sinh phá trận địa lôi, bèn rút đao Vô Minh đeo sau lưng ra, vung đao chặt một cành cây to bằng cánh tay ném xuống đất, lập tức kích phát một trận nổ. Tiếng nổ vừa dứt, cậu liền nhảy xuống cành cây đó, thọc hai tay xuống đất, móc ra một tảng đá đen lớn, ném về phía Hữu Hiên tiên sinh, theo đường lăn xuống của tảng đá, một con đường nổ ra ngay trước mặt Hữu Hiên tiên sinh.
Hữu Hiên tiên sinh tránh tảng đá, cùng Cố Tư Văn chạy tới bên cạnh An Long Nhi, An Long Nhi nói: “Không còn thời gian đâu, tôi đi trước ba trượng, hai người theo sau nhé.” Đoạn vung sợi dây đỏ buộc đồng tiền từ cổ tay ra, bắn lên sườn núi, rồi rút dây đỏ lại, đồng tiền vừa vào tay, trước mặt lại nổ thành một con đường. An Long Nhi lập tức rút đao, ngón giữa tay trái vuốt nhẹ vào lưỡi đao, vẽ ra một vết máu, miệng niệm mật chú, dùng máu vẽ một đạo Lục đinh u minh phù lên thân đao, đoạn không ngừng thét vang phi thân xông lên, hai tay giơ đao chém mạnh tới trước, tức thì một cơn lốc đen từ lưỡi đao cuộn thẳng lên núi, tại chỗ cơn lốc nổi lên, thân hình An Long Nhi cũng biến mất trước mắt Hữu Hiên tiên sinh, chỉ thấy một vầng lửa đỏ và một vụ nổ từ lưng chừng xộc thẳng lên đỉnh núi.
Cố Tư Văn nhìn mà há hốc miệng, Hữu Hiên tiên sinh cười nói: “Thằng nhãi này khá thật, còn có chiêu này nữa, A Văn, lên nào!”
Trong ánh lửa ngút trời, An Long Nhi nhảy vọt lên đỉnh Tham Lang, chỉ thấy trước mắt là một màn sương đen nửa mờ nửa tỏ, đoán rằng đây là kết giới An Thanh Nguyên bày ra khi thi triển trảm long, trong màn sương là một đài trảm long hình bát quái, rộng khoảng ba trượng, tám đứa bé cả trai lẫn gái bị trói trên tám cây cọc gỗ theo phương vị bát quái. An Thanh Nguyên vận áo lụa dài màu lam, ngoài khoác áo lông cáo ngắn đang bước theo canh bộ trên bình đài lênh láng máu, trường kiếm như con rán bạc nhằm vào yết hầu bé trai ở vị trí cung Cấn, lập tức cổ đứa bé phun ra một vòi máu, bắn xuống mặt bình đài, rồi theo rãnh máu đổ vào lỗ máu ở chính giữa, cổ đứa bé kia cũng oặt ra, đầu gục xuống, một luồng sáng vặn vẹo đỏ rực màu máu từ giữa đài trảm long vọt thẳng lên không.
Chỉ chớp mắt, máu trong người An Long Nhi đều dồn cả lên đầu, tình cảnh trước mặt quá sức điên rồ, cậu không thế bình tĩnh ra chiêu nữa, càng không thể quan sát đến tình thế bên cạnh, đan khí cả đời cậu đều trút vào Vô Minh đao chém ra, một con rồng đen tức thì gào rú uốn mình lao lên đài trảm long, cùng lúc đó, bốn phía xung quanh rộ lên tiếng súng nổ.
An Thanh Nguyên chẳng buồn nhìn An Long Nhi, chỉ chăm chú bước từng bước theo Vũ Hoàng canh bộ, sử ra từng chiêu Thái Ất kiếm pháp. Khi Vô Minh đao chém vào màn sương đen, mẩy luồng kiếm khí mãnh liệt cũng xói thẳng vào mặt cậu, song An Long Nhi chẳng hề né tránh, chỉ nhắm Vô Minh đao vào An Thanh Nguyên với tốc độ nhanh nhất, kiếm khí đâm vào người cậu cũng chẳng hề hấn gì, nhưng sau khi xông vào màn sương đen, cậu liền rơi vào bóng tối.
“Chướng nhãn pháp?” An Long Nhi lập tức múa đao quanh người hộ thân, miệng niệm Quang minh chú phá tà pháp. Vô Minh đao múa tít như chong chóng, bên tai cậu không ngừng vang lên tiếng đao kiếm va nhau leng keng, qua cánh tay, cậu cảm nhận được có ba luồng lực đạo khác nhau tấn công mình. Bên cạnh có ba tên địch, An Long Nhi hoàn toàn có thể dùng kết giới hộ thân hất văng đối thủ ra, song nếu đây là trung tâm của đài trảm long, xung quanh còn tám đứa bé, trong đó lỡ có đứa còn sống, nhất định không chống đỡ nổi kết giới của cậu, sẽ chết ngay lập tức.
An Long Nhi không phá ngay được kết giới của đối phương, song đã thấy được tình cảnh xung quanh. Cậu đang đứng giữa đài trảm long, nhưng chỉ thấy mỗi mình An Thanh Nguyên cách đó một trượng đang đâm kiếm vào cô bé ở cung Khôn. Vừa rồi là ai tẩn công mình nhỉ? Ý nghĩ ấy vừa lóe lên, lập tức bị đao khí của Vô Minh đao át đi, giữa lúc cấp bách, cậu không lập kết giới hộ thân, càng không nghĩ tới những vấn đề khác, cả thân tâm cậu chỉ có một đao càn chém ra nhất.
“Cà sa trảm!” An Long Nhi hét lớn, Vô Minh đao chém xéo xuống lưng An Thanh Nguyên, An Thanh Nguyên nghe tiếng đao rít gió sau lưng, lập tức rút phát trường kiếm từ cung Khôn lại, nhẹ nhàng đâm ngược ra sau, suýt soát gạt được thế đao của An Long Nhi, An Long Nhi đương vung đao chém ra, để lộ sơ hở, tức thì mạng sườn, lưng và đùi đồng thời trúng liền ba đao.
Cố Tư Văn và Hữu Hiên tiên sinh đang lần theo con đường đầy địa lôi nổ ùng oàng lửa ngút trời xông lên núi thì nghe thấy một tràng tiếng súng. Hữu Hiên tiên sinh tăng tốc, cướp đường xông lên trước, vừa chạy vừa bảo Cố Tư Văn: “Mau lên núi đi, lúc chúng lên đạn sẽ có khoảng trống.” Hai người băng qua tiếng nổ leo lên đỉnh núi thì trông thấy trong màn sương đen không ngớt vần vũ, An Long Nhi đang đứng giữa đài trảm long vung đao chém loạn xạ, song xung quanh lại không thấy tay xạ thủ nào, bèn dốc sức lao thẳng vào màn sương đen.
Vừa đến gần màn sương, cả hai đều cảm thấy da thịt toàn thân đau đớn như thể trong màn sương có ngàn vạn lưỡi phi đao đâm vào mình, cơ thịt co quắp như bị chuột rút, hai người lập tức ngã lăn ra ngoài, Cố Tư Văn kêu oai oái: “Đây là yêu pháp gì vậy...” Vừa dứt lời, xung quanh lại rộ lên một đợt súng nổ, cả hai cuộn tròn người lăn ra, Hữu Hiên tiên sinh nhắm chuẩn một đốm lửa đang nhả đạn, nhảy vọt lên vung đao chém xuống. Ánh đao lướt qua, máu tươi bán vọt lên, một người tay lăm lăm súng đột nhiên xuất hiện từ hư không, ngã quỵ xuống đất.
“Ồ, không phải chứ, còn cả phép ẩn thân nữa à!” Cố Tư Văn miệng nói chân chạy, sử hết công phu, khua thương quét hết một lượt những nơi có thể có người ấn nấp trên đỉnh núi, bước như ngựa phi, thương như rồng lượn, những nơi ngọn thương lướt qua, cây cỏ xung quanh xao động không ngớt. Hữu Hiên tiên sinh hét to: “Không được ngừng chạy, đừng để chúng nhắm trúng.” Đoạn cuộn mình lăn tròn dưới đất gạt chân một vòng, cuốn lên một đám bụi đất, cát đá bắn loạn lên bốn phương tám hướng.
Cố Tư Văn trông thấy Hữu Hiên tiên sinh múa Địa Thang quyền trên đỉnh núi, liền chăm chú quan sát những viên đá bay ra, cậu phát hiện có mấy viên đá nhỏ rơi xuống đất một cách bất thường, như đập phải một thân thể vô hình trong không trung, lập tức vung tay phóng trường thương về phía đó. Sau một tiếng kêu thảm, cây thương đâm trúng một tay súng trong không trung, Hữu Hiên tiên sinh dựa vào tiếng thét, vung đao chặt đứt đôi người hắn, tiện tay nhặt luôn khẩu súng, phát hiện súng đã lên đạn sẵn. Một người đã lên đạn thì nhất định toàn bộ phục binh cũng đã chuẩn bị sẵn sàng, Hữu Hiên tiên sinh vội hét lên: “Mau tránh ra, chúng sắp nổ súng đấy!”
Hai người lập tức chạy vụt về hai hướng khác nhau, quả nhiên một tràng súng nổ lại vang lên, lần này Hữu Hiên tiên sinh lại nhắm chuẩn một đốm lửa bên cạnh, mượn đà chạy nhảy lên không quay người nổ súng phản kích, ông nhám bắn rất chuẩn, tay súng bên kia lập tức ngã gục ngay trước mặt, Cố Tư Văn xách một khẩu súng Tây chạy lại, làn thấy túi đạn trên thi thể, cũng giơ cây súng nhặt được nhằm vào bụi cỏ bên cạnh nổ súng.
Tiếng súng và hỏa lực của cậu đều rất mạnh, thiêu cháy cả một vạt cỏ dài, cỏ xuân ấm ướt sau khi bén lửa lập tức bốc khói mù mịt khiến người ta sặc sụa. Hữu Hiên tiên sinh thoạt trông đã hiểu ngay, lúc nổ súng phải nhồi thuốc súng trước, rồi mới lắp đạn chì, song Cố Tư Văn chỉ nhồi có hai phần thuốc súng, tốc độ lên đạn sẽ nhanh hơn đám xạ thủ kia nhiều, huống hồ cậu chỉ cần bắn xả lửa phóng hỏa núi, bất luận là khói hay lửa, đều có thể ép đám phục binh xung quanh hiện hình. Thấy Cố Tư Văn thông minh như thế, Hữu Hiên tiên sinh nhủ thầm: Người phái Giang Tướng thật giỏi động não, thằng nhỏ này có tiền đồ đấy. Nghĩ vậy, ông cũng làm theo Cố Tư Văn, tranh thủ lúc chạy nhồi đày thuốc súng rồi bắn xả vào bụi cỏ đang xao động, hai người cùng ra tay, chẳng mấy chốc đã làm dấy lên một biển lửa khói mù mịt, xung quanh lũ lượt vang lên tiếng bụi cỏ xào xạc cùng tiếng ho sặc sụa, tình thế tức thì lật ngược.
Cố Tư Văn chạy về phía một lùm cỏ đang lay động, ném súng Tây đi, lật tay nắm lấy cán thương, vận sức toàn thân giơ thương ngang hông đập tới. Cậu đã tính trước, kẻ học võ thấy chiêu thức quét ngang nhất định sẽ thụp xuống né tránh, người đang ho sặc sụa thường cũng sẽ khom lưng, quật thương ngang hông như thế vừa khéo đập trúng phàn đầu đang cúi. “Binh” một tiếng, quả nhiên có kẻ la lên thảm thiết, ngã gục trước mặt cậu, tay ôm quai hàm lăn lộn dưới đất, xem ra răng đã bị cán thương đập gãy. Cố Tư Văn bước lên bồi thêm một cước vào đầu, khiến tên lính đó ngất lịm, còn hậm hực mắng: “Xem ngươi còn giả thân giả quỷ dọa người nữa thôi.”
Khinh công của Hữu Hiên tiên sinh đã luyện nửa đời, không có chút nào giả trá, ông vứt khẩu súng Tây nặng trịch xuống, nhặt thanh đao nhẹ nhàng linh hoạt lên, đâm chém liên tục như ma quỷ, hễ nghe thấy bất cứ tiếng gió lay cỏ động bất thường nào xung quanh, ông đều vung đao chém tới, chẳng mấy chốc, trên đỉnh núi đã la liệt mấy chục cái xác. Dưới sườn dốc núi Tham Lang vẫn không ngớt tiếng nổ đì đùng, hẳn là những tên xạ thủ bỏ chạy trên đường xuống núi giẫm phải địa lôi.
Thoắt chốc, trên đỉnh núi đã mù mịt khói, Hữu Hiên tiên sinh và Cố Tư Văn cũng ho sặc sụa, cả hai gắng nhịn ho càn quét thêm một vòng nữa, tới khi không còn nghe thấy tiếng kẻ khác ho mới thôi. Cố Tư Văn lớn tiếng hỏi: “Đại sư bá, khụ khụ, người không sao chứ?”
Hữu Hiên tiên sinh đã bị khói hun đến nỗi nước mắt nước mũi giàn giụa như con nghiện lên cơn vật thuốc, đáp: “Ta... Khụ khụ khụ... Không sao, mau nghĩ cách giúp A Long đi!”
Qua làn sương đen, hai người nhìn lên đài trảm long thấy An Long Nhi mình đầy vết thương đang nhảy lên đáp xuống đấu với An Thanh Nguyên, xung quanh An Long Nhi hoa lửa bắn tứ tung, phát ra tiếng leng keng không ngớt, tựa hồ có mấy người đang đồng thời tấn công cậu vậy. An Long Nhi gọi to: “Hai người mau chém đứt rãnh máu dưới đất đi, đừng để máu chảy vào tử huyệt nữa.”
Ở phía ngoài, cách đài trảm long chừng bảy trượng, trên nền đất có một cái hố lớn, đây chính là long mạch tử huyệt mà An Long Nhi nói, một hàng ống tre bắc thành con kênh nối từ đáy đài trảm long tới cái hố, trong hố, máu đã ngập đến lưng chừng, đang từ từ thẩm vào lòng đất, từ dưới hố, một cơn lốc đỏ rực màu máu bốc lên, nhằm thẳng vào vầng sáng ngũ sắc trên trời, Hữu Hiên tiên sinh vừa nghe An Long Nhi nói dứt câu, liền tung người lao về phía dãy ống tre, vung đao chém xuống, ngay lập tức, từ trên đài trảm long, hai bóng đen cũng nhào tới chém vào lưng Hữu Hiên tiên sinh.
An Long Nhi dốc sức chiến đấu trên đài, tuy ba tay đao ẩn thân kia không thể một đao chém chết cậu, song tốc độ và lực đạo xuất đao đã đủ cầm chân cậu trên bình đài nhỏ hẹp. Trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi, An Long Nhi đã tận mắt thấy An
Thanh Nguyên lách qua khe hở giữa ánh đao bóng kiếm trùng trùng của đôi bên, liên tục giết chết hai đứa bé mà mình không rảnh được khắc nào để cứu viện, lại sợ lỡ làm hại bọn trẻ nên không dám dùng đạo pháp tối cao chấn vỡ đài trảm long, hiện giờ Hữu Hiên tiên sinh đã thu hút hai tay đao đi, An Long Nhi vội chớp cơ hội tẩn công An Thanh Nguyên.
An Thanh Nguyên nãy giờ vẫn không hề quan tâm tới trận chiến ngay bên cạnh mình, chỉ chăm chú bước theo canh bộ lần lượt giết từng đứa trẻ một, giờ đã giết được bảy đứa, oán khí tử vong bảng lảng khắp trên đài, y chỉ cần một kiếm cuối cùng giết chết đứa bé trai ở cung Chấn, máu của đồng nam đồng nữ sẽ mang tà lực trảm sát long mạch, lấy đỉnh Phù Dung làm trung tâm, dấy lên một cơn địa chấn long trời lở đất trong vòng trăm dặm quanh đó.
An Long Nhi ý thức được đây là khoảnh khắc cuối cùng, bèn dùng đao pháp cực nhanh cầm chân tay đao đang ẩn thân chặn giữa cậu và An Thanh Nguyên, đồng thời cắn đầu lưỡi phun ra một ngụm máu, trước mặt cậu hiện lên một gương mặt máu me đàm đìa, thoạt trông đã nhận ra ngay chính là Sơn Đông khoái đao Lục Hữu. Thực ra khi chém giết xông lên đài, tuy không trông thấy đối thủ, song cậu sử đao rất nhanh, xưa nay luôn tự tin vào đao pháp của mình mà làn này vẫn bị đối phương bám riết, cậu đã đoán rằng đối thủ chính là y.
Lục Hữu vừa hiện thân, tất cả ưu thế đều nghiêng về phía An Long Nhi, cậu nhắm chuẩn hướng Lục Hữu tiến lên vung đao, bèn tràm người xuống, vung Vô Minh đao chém xuống mặt đài trảm long. Uỳnh một tiếng vang trời, An Long Nhi biến mất trước mặt Lục Hữu, chui tuột xuống đáy bình đài, hai chân vừa chạm mặt đất lập tức lẩn đến dưới vị trí An Thanh Nguyên đang đứng. Một loạt động tác này xảy ra chỉ trong khoảnh khắc giữa một kiếm của An Thanh Nguyên, khi trường kiếm của y chỉ còn cách yết hàu bé trai kia mấy tấc, sàn gỗ dưới chân đột nhiên vỡ tung, một con rồng đen xông ra từ dưới kiếm y, cắn nát thanh kiếm, đôi móng rồng lấp loáng vồ vào ngực y.
An Thanh Nguyên chỉ thấy tay tê rần, cả cánh tay lập tức mất hết tri giác, mở mắt ra đã thấy tuyết đen rợp trời, trong làn mưa tuyết, có hàng nghìn luồng sáng đen chém vào y. Y biết An Long Nhi không phải lo lắng gì nữa đã phát ra công lực cực hạn, trong khoảnh khắc ngán ngủi ấy, tất cả đạo pháp võ công không kịp sử ra đều là đồ bỏ cả. Ý nghĩ chờ chết vừa lóe lên, thân thể y đã bị một luồng sức mạnh cực lớn kéo sang bên, va đổ cả cọc gỗ buộc thân đứa bé, ngã nhào ra ngoài màn sương đen.
Khi y ngẩng lên, chỉ thấy An Long Nhi người đầm đìa máu giơ đao chặn ngang người, xuống tấn, băng qua miệng hố, chắn trước mặt đứa bé trai may mán sống sót, điên cuồng hướng về phía quầng sương máu mà gào thét, vô số thịt vụn bay ra từ đó, Lục Hữu nãy giờ vẫn sánh vai tác chiến với mình trên đài trảm long đã biến mất không còn tăm tích, một nửa bình đài cũng tan thành tro bụi như thể bị đại pháo oanh tạc.
Tháng trước, An Thanh Nguyên cùng Tể tướng Trại Thượng A tham gia vây công thành Vĩnh An Quảng Tây, tuy đã dùng binh pháp trảm long phá giải binh pháp ngự long của Lục Kiều Kiều, làm tiêu hao sức chiến đấu của quân Thái Bình một dạo, nhưng cuối cùng quân Thái Bình lại từ núi Đại Động phá vây xông ra, còn Trại tướng mà y khó khăn lắm mới tranh thủ được sự ủng hộ lại bị hoàng đế Hàm Phong giáng chức điều tra.
Phải nhìn nhận lại về sức chiến đấu của quân Thái Bình, lại thêm sự bất lợi trên chính trường, An Thanh Nguyên hạ quyết tâm lập tức trở về Quảng Đông chém đứt long mạch mộ tổ họ Hồng, hòng tận diệt khí thiên tử của Hồng Tú Toàn. Chỉ sau khi lấy máu đồng nam đồng nữ khắp nơi huyết tế trời đất, mới có thể nghịch thiên trảm long, song An Long Nhi lại cứu thoát đứa bé trai cuối cùng, khiến trảm long có khả năng thất bại. Có điều chỉ cần đứa bé trai kia còn đó, vầng sáng yêu dị trên trời chưa tan hết, An Thanh Nguyên vẫn còn một tia hy vọng cuối cùng.
An Thanh Nguyên lập tức chập ngón út hai bàn tay lại, đầu ngón cái kẹp chặt đốt giữa ngón giữa, kết thành Sinh Thiên ấn, miệng quát: “Cấp cấp như nam cực luyện hồn tinh quân luật lệnh sắc!” Đây là thuật luyện hồn trong Thiên Sư đạo dùng để đối phó với kẻ địch mạnh, người trúng thuật dù công lực mạnh đến đâu, cũng sẽ bị ép nguyên thần ra khỏi thân thể, khiến thân thể không sao cử động, cho tới khi kẻ thi thuật giải chú hoặc đan khí tiêu tán mới nhập lại được vào thân thể.
An Long Nhi dùng đao khí cực mạnh chém Lục Hữu thành bọt máu, chợt phát hiện bản thân đột nhiên nhảy vọt lên không trung, cậu nhìn quanh, chỉ thấy một bản thân khác đang đứng ngây ra bên dưới, An Thanh Nguyên đang lao tới phía sau mình, một đòn đánh gãy cây cọc gỗ trói đứa bé trai, rồi kẹp đứa bé xông tới hố máu tử huyệt long mạch. Cậu muốn chạy đến ngăn cản An Thanh Nguyên, song không sao điều khiển được thân thể bên dưới, muốn hét lên gọi Cố Tư Văn, song ngay chính cậu cũng không nghe được tiếng mình. An Long Nhi biết tình thế rất nguy, nguyên thân của bản thân đã rời khỏi thân thể, bị khóa chặt trên không.
Một đao của Hữu Hiên tiên sinh vừa chém đứt rãnh máu, máu bắn tung tóe trên mặt đất chỗ vết chém, hai luồng kình phong cũng đồng thời ập đến sau lưng ông. ông chẳng cách nào thu đao lại tự cứu mình, đành thuận thế xông tới mấy bước, nhảy lên không quay người lại vung đao nhằm thẳng hướng tiếng gió đâm tới. Hai người phe đối phương đều là tay đao hạng nhất do Lục Hữu ra mặt mời từ Sơn Đông tới, chuyên bảo hộ đài trảm long và phối họp với Lục Hữu khắc chế Vô Minh đao pháp của An Long Nhi. Khinh công hai bên ngang ngửa nhau, song đao pháp của hai kẻ kia nhanh hơn Hữu Hiên tiên sinh nhiều, trong chóp mắt, hai tên đã liên tiếp chém ra mẩy chục đao, Hữu Hiên tiên sinh đỡ trái hở phải, lùi đến rìa dốc núi, nếu còn lui nữa sẽ đạp phải trận địa lôi bên dưới, đành phải quyết một trận sống mái với chúng.
Cố Tư Văn không có pháp lực chém giết xông lên bình đài, nhưng đủ sức giải vây cho Hữu Hiên tiên sinh, cậu nhặt mấy khẩu súng đã lên đạn dưới đất, xông tới cạnh chỗ ba người đang hỗn chiến, nổ súng bắn vào một người trong đó. Hai tay đao sau đợt tấn công vừa rồi đã biết Hữu Hiên tiên sinh không phải đối thủ của mình, giờ cũng chẳng càn giằng co với súng Tây làm chi, vừa nghe tiếng súng nổ, cả hai vội né ra, rồi chạy tới truy kích Cố Tư Văn, chỉ đợi cậu bắn hết loạt súng sẽ ung dung chém chết. Song một tiếng nổ long trời đã phá vỡ kế hoạch của chúng, An Long Nhi vận đan khí lên đến mức cực hạn, vung Vô Minh đao chém ra, không chỉ chém Lục Hữu máu thịt tung tóe mà còn phá vỡ một nửa đài trảm long, gỗ vụn sắt vụn văng ra khiến tất cả ngã nhào xuống đất, hai tay đao kia nãy giờ vẫn quay lưng về phía đài trảm long, trực diện hứng lấy chấn động của đao khí, bị sóng khí dập cho ngất lịm.
Cố Tư Văn chống người dậy, lắc lắc đầu giũ hết đất đá, chợt trông thấy một cảnh tượng kỳ quái, màn sương đen trên đài trảm long đã tan biến, An Long Nhi đờ đẫn đứng trên nửa bình đài còn lại, An Thanh Nguyên lại thuận lợi bắt lấy đứa bé trai từ sau lưng cậu, bế nó lao về phía hố máu tử huyệt long mạch ngay trước mặt mình. Cậu toan ngồi lên, song xương cốt toàn thân như gãy rời, động chỗ nào là đau chỗ đấy, vừa nghiến răng bò dậy thì đột ngột phun ra một ngụm máu tươi, cả người mềm nhũn lại gục xuống đất. Từ dưới đất nhìn lên, cậu trông thấy từ rìa dốc núi, Hữu Hiên tiên sinh đang vung đao bổ tới An Thanh Nguyên.
Trong mắt An Thanh Nguyên chỉ có tử huyệt long mạch, y và đồng liêu đã hy sinh nhiều như thế chỉ vì lần trảm long này, dù chỉ còn một mảy may hy vọng, y cũng không thể bỏ qua. Y ném đứa bé vào hố máu, tay trái tóm tóc nó kéo giật ra sau, đứa bé ngẩng đầu rít lên the thé trong cổ họng, ngón tay phải An Thanh Nguyên chập lại như kiếm đâm xuống, chỉ mong máu của đồng nam cuối cùng này nhỏ được vào tử huyệt, dốc nốt chút cố gắng cuối cùng để hoàn thành việc trảm long.
Đao của Hữu Hiên tiên sinh đã chém tới sau lưng An Thanh Nguyên, y chưa kịp giết đứa bé đã phải tự cứu mình trước, liền xoay cổ tay phải, kiếm chỉ phát ra kiếm khí mãnh liệt đâm vào ngực Hữu Hiên tiên sinh. Hữu Hiên tiên sinh hự lên, trước ngực bán ra một vòi máu, cơn đau kịch liệt khiến toàn thân ông run lên, đánh rơi thanh đao xuống đất. Song ông không ngã ngửa ra sau mà tiếp tục nhào vào An Thanh Nguyên, quát lớn một tiếng, ôm cứng y từ phía sau lôi ra khỏi hố máu.
An Thanh Nguyên không sao tưởng tượng nổi ông già râu tóc bạc phơ này lại khỏe đến thế, hai tay y bị Hữu Hiên tiên sinh ghì chặt, lôi xềnh xệch về phía dốc núi, An Thanh Nguyên kinh hoàng nhận ra, Hữu Hiên tiên sinh muốn ôm y lăn xuống trận địa lôi cùng chết. Y muốn dùng đạo pháp giải vây song hai tay không thể kết thành thủ ấn, đành dốc hết sức lực toàn thân, sử ra Phản Cầm nã thủ, ra sức xuống tấn giằng tay ra, gỡ ngón tay phá chiêu.
Hữu Hiên tiên sinh tuy không biết đạo pháp nhưng lại là bậc cao thủ trong quyền thuật, mẩy chiêu thức này chẳng nhằm nhò gì với ông. An Thanh Nguyên xuống tẩn thì ông cũng xuống tấn; y quay người toan vùng ra, húc đầu, vung chân đều bị Hữu Hiên tiên sinh làn lượt hóa giải, sau cùng ông ôm theo An Thanh Nguyên ngã lăn dưới đất, thét lớn
một tiếng, phát lực quấn lấy đối phương cùng lăn xuống núi.
Hữu Hiên tiên sinh tận mắt chứng kiến cuộc chiến giữa An Thanh Nguyên và An Long Nhi, hiểu rằng đó là cảnh giới hạng võ phu bình thường không thể lý giải và chống cự nổi, khi lồng ngực bị kiếm khí xuyên qua, hai mắt ông tối sầm lại, tim gần như ngừng đập, nhưng ông vẫn dựa vào ý chí cực mạnh, giáng cho An Thanh Nguyên một đòn cuối cùng. Ông biết chẳng ai trên đời thoát được cái chết, trong bảy mươi lăm năm sống trên đời, ông đã chiến đấu với triều Thanh mất quá nửa, cuộc đời như vậy khép lại trong máu và lửa sau khi được tận mắt thấy thuật phong thủy tối cao trên thế gian, chính là lựa chọn hoàn mỹ nhất.
An Thanh Nguyên nổi gân xanh đầy mặt, hỏi: “Ngươi là ai?”
“Đồ chó Thanh, tao là tể tướng Hồng môn, Hữu Hiên của cửu Long đường!” Hữu Hiên tiên sinh vừa nói vừa ôm cứng An Thanh Nguyên kéo về phía dốc núi.
An Thanh Nguyên thều thào: “Ta không phải đồ chó Thanh! Các ngươi muốn phản Thanh phục Minh, các quan lại người Hán chúng ta cũng muốn giành lấy cục thế người Hán nắm quyền trong triều, đôi bên đều nhằm đoạt giang sơn về tay người Hán mà, mau thả ta ra!”
Gân cốt toàn thân Hữu Hiên tiên sinh co rút lại, từ từ siết chặt An Thanh Nguyên, máu tươi nhuộm đầy lưng áo y. ông rít qua kẽ răng: “Người Hán nhất định sẽ đoạt lại thiên hạ, nhưng quyết không thể để kẻ điên giết trẻ nhỏ của mình, trảm long mạch của mình làm quan của người Hán được!”
An Thanh Nguyên ngã lăn dưới đất, vận sức vào hai chân ưỡn người dậy đè lên Hữu Hiên tiên sinh bên dưới: “Hồng môn phản Thanh hai trăm năm nay vẫn chưa thành công là do thất bại về mặt chiến lược của các người, chỉ biết dấy binh làm loạn mỗi năm khiến dân chúng không thể sống yên... Số người Hán bị các ngươi tạo phản hại chết cũng chẳng ít hơn sô' bị triều đình giết hại đâu...”
“Có cái chết nhẹ như lông hồng, có cái chết nặng như núi Thái, lúc nước mất nhà tan, kẻ sĩ ôm chí lớn thà rơi đầu làm quỷ anh hùng còn hơn cúi đầu làm nô tài!”
An Thanh Nguyên nghe đến câu này, hơi thở càng thêm nặng nhọc, vội la lên: “Hữu Hiên, ngươi mới là đồ điên! Trăm họ trong thiên hạ chẳng càn làm anh hùng, họ chỉ muốn sống mà thôi, ngươi chỉ biết đánh trận chứ có hiểu gì đạo trị quốc, định phá hỏng việc lớn của ta ư! Mau buông ta ra!”
Hữu Hiên tiên sinh chẳng buồn nhiều lời với An Thanh Nguyên làm gì cho phí sức, mũi ông phì phì từng đợt, như đang dốc sức, cũng như đang cười khẩy.
Nguyên thần của An Long Nhi bị khóa giữa không trung, trông thấy Hữu Hiên tiên sinh và An Thanh Nguyên liều chết đẩu với nhau trên đỉnh núi ngổn ngang xác chết, cũng nghe rõ mồn một từng lời từng chữ họ nói, cậu muốn khóc mà chẳng nhỏ nổi một giọt nước mắt, muốn kêu mà không thốt được ra lời, muốn lao đến kết liễu tính mạng của An Thanh Nguyên, nhưng nguyên thần không ở trong thân thể không thể ra sức, ý thức của cậu đau đớn ghi khắc câu nói của Hữu Hiên tiên sinh: Vì sao không đi chém long mạch của triều Thanh?!
Cố Tư Văn nhìn cách đánh của Hữu Hiên tiên sinh, hiểu rõ ý đồ của ông, nhưng khi cậu cất được giọng khàn khàn gọi đại sư bá thì Hữu Hiên tiên sinh và An Thanh Nguyên đã đồng thời lăn xuống dốc núi, từ đỉnh đến chân núi Tham Lang phát ra hàng tràng tiếng nổ liên tiếp, lửa bốc ngút trời.
Nguyên thần của An Long Nhi lập tức quay về với thân thể, cậu thử vận động tứ chi, thấy tuy mang nhiều vết thương song vẫn có thể cử động như thường, bèn lập tức lao tới dốc núi nơi Hữu Hiên tiên sinh lăn xuống. Từ trên nhìn xuống, núi Tham Lang xanh rì như bị một đao chém xả chính giữa, vết chém sém đen bốc khói mù mịt. Cơn rung chấn nhẹ cùng tiếng ù ù trong không khí đã ngừng lại, xoáy lốc đỏ lòm nối liền hố máu và bầu trời cũng tan biến, xem ra Trảm long quyết đã mất hiệu lực, có vẻ sẽ không xảy ra động đất và thiên tai tiếp nữa.
An Long Nhi nôn nóng muốn xuống núi tìm Hữu Hiên tiên sinh, nhưng xung quanh toàn quân Thanh mai phục, cậu trông thấy đã có cánh quân lũ lượt đuổi đến xếp thành một hàng dọc, lần theo con đường an toàn được đánh dấu tấn công lên núi, xa xa vẫn truyền đến tiếng súng tiếng pháo cùng tiếng chém giết, sau lưng là lục doanh do Kim Lập Đức thống lĩnh. Dù Kim Lập Đức không ra tay, thì chắc gì những quan quân dưới cờ hắn đã không muốn lập công, hiện giờ phải lập tức rời khỏi nơi này. Cậu bèn kéo bé trai bị ném vào hố máu lên mặt đất, kiểm tra thấy mũi miệng vẫn còn hơi thở, mạch tượng bình thường khỏe mạnh, song vạch mí mắt lên lại thấy con ngươi trợn to, hẳn là sợ đến hồn phi phách tán, toàn thân mềm nhũn. An Long Nhi nhanh nhẹn cởi cúc áo cổ thằng bé, vẽ một đạo Hồi hồn phù lên ngực nó, rồi dùng kiếm điểm nhanh vào huyệt Quỷ cung dưới mũi, bé trai kia thình lình mở mắt tỉnh dậy, trông thấy trước mặt là một tên lính Thanh mặt sẹo, tóc vàng, toàn thân đầy máu, vội dáo dác nhìn quanh rồi kinh hãi khóc ré lên đòi tìm bố mẹ. An Long Nhi chẳng có thời gian dỗ trẻ con, kéo thằng bé đến bên cạnh Cố Tư Văn, cõng họ Cố đang hôn mê dậy, dùng áo buộc sau lưng cho chắc, tay lôi đứa bé khóc ngằn ngặt, men theo con đường máu mà Hữu Hiên tiên sinh lăn đi, lao xuống núi.
An Long Nhi vừa xuống núi vừa cao giọng gọi Hữu Hiên tiên sinh, con đường máu này cũng không dài hẳn đến chân núi, song không thấy bất cứ tung tích nào của An Thanh Nguyên và Hữu Hiên tiên sinh. Là cả hai đều bị nổ chết, hay vẫn có người sống sót? Nếu Hữu Hiên tiên sinh sống được nhất định sẽ tìm mình, còn nếu An Thanh Nguyên thoát chết, nhất định sẽ chuồn thẳng. An Long Nhi đã bắt đầu thích ứng với cách tác chiến của An Thanh Nguyên, biết được An Thanh Nguyên thường xếp đặt tầng tâng mai phục, liên kết chặt chẽ với nhau, trận thế do y bày ra chắc chắn sẽ có một đường lui an toàn, điểm này rất giống Lục Kiều Kiều.
An Long Nhi không dám tính việc sống chết của Hữu Hiên tiên sinh, song đã bói cho An Thanh Nguyên một quẻ, từ quẻ tượng biết được An Thanh Nguyên chẳng những chưa chết, mà đã đi về phía Nam, vượt qua núi Liêm Trinh bị san phẳng đỉnh, chẳng mấy chốc sẽ xuống hồ rời đi theo đường thủy. An Long Nhi cõng Cố Tư Văn, tay bế bổng bé trai, gấp rút đuổi theo.
Vượt qua núi Liêm Trinh đi tiếp về hướng Nam chính là huyệt Ngũ Xà Hạ Dương mộ tổ nhà họ Hồng, nơi năm xưa cậu cùng Lục Kiều Kiều, Jack và các anh hùng Hồng môn giao thủ với phủ Quốc sư lần đầu tiên. Dưới núi là mặt hồ rộng mênh mông, bốn bề bao quanh bởi năm dãy núi hình dáng như năm con rắn dẫn thẳng xuống nước, khói thuốc súng bốc lên mù mịt khắp nơi, bên tai chỉ nghe tiếng thác nước và súng nổ 'âm 'âm như sấm, khiến An Long Nhi đương lúc cấp bách chẳng có thời gian cảm khái cũng không sao khống chế được cảm xúc trào lên trong lòng.
Trên bờ hồ hình dạng như vuốt rồng, quân đội Hồng môn đang kịch chiến với quân Thanh, một con thuyên nhỏ nhằm thẳng về phía quân Thanh bên bờ đối diện lướt như bay, dù cách đến mấy dặm, không nhìn rõ được người trên thuyên, song An Long Nhi biết rõ kẻ đó chính là An Thanh Nguyên. Cố đuổi nữa cũng không kịp, khi An Long Nhi lao đến bờ hồ thì An Thanh Nguyên đã cập bờ bên kia, quân Thanh cũng lục tục rút lui.
Sinh long khấu hạ táng Hồng Quốc Du lão gia dưới đáy hồ năm xưa đột nhiên liên tiếp phát nổ, khiến nước và lửa trên mặt hồ đều xộc thẳng lên trời như thể trời long đất lở, dưới ánh mặt trời thình lình có mưa to trút xuống, nước hồ văng lên đến nửa dốc núi như sóng lớn ập tới, có thể thấy An Thanh Nguyên đã đặt sẵn trận địa mìn phá huyệt, chỉ đợi sau khi trảm long thì hủy huyệt. An Long Nhi cũng chẳng thể ngăn nổi thủy lôi liên hoàn quy mô lớn thế này, đành kéo đứa bé, cõng Cố Tư Văn nấp vào một nơi an toàn.
Cố Tư Văn từ từ tỉnh lại, phát hiện mình bị buộc sau lưng An Long Nhi, trước mắt là huyệt Ngũ Xà Hạ Dương trên đỉnh Phù Dung. Cậu yếu ớt hỏi: “Đại sư bá đâu rồi?”
“Vẫn chưa tìm thấy.”
“Ông ấy không chết chứ?”
An Long Nhi ngoảnh bên mặt có vết sẹo về phía Cố Tư Văn: “Ngươi cũng biết xem tướng, thấy khí sắc của Hữu Hiên tiên sinh lúc xuất phát thế nào?”
Cố Tư Văn phều phào đáp: “ừm, tốt lắm...”
“Vậy không sao đâu.” An Long Nhi xưa nay không biết nói dối, song làn này cậu không nói ra sự thật. Thực ra khi Trảm long quyết khuấy động long thần, sẽ sản sinh ra kết giới âm tà làm nhiễu loạn khí vận ngũ hành trong phạm vi mẩy dặm hoặc thậm chí rộng hơn, mệnh vận của bất cứ ai đều có thể chệch khỏi phương hướng ban đầu vì sự phá hoại của kết giới khổng lồ này, người chưa tới số chết cũng có thể mất mạng dưới hoàn cảnh cực đoan ấy. Giống như mấy chục vạn người trong thành, số mệnh mỗi người mỗi khác, song khi nạn binh đao ập đến, sẽ xảy ra kiếp nạn tàn sát toàn thành, lúc này chỉ cần là người trong thành, bất luận bát tự mệnh vận ra sao, đều khó tránh khỏi tai kiếp.
“An Thanh Nguyên thì sao?” Cố Tư Văn chợt lên tiếng cắt ngang dòng suy nghĩ của An Long Nhi, cậu đáp: “Chạy rồi...”
“Để ta xuống, chúng ta quay lại tìm đại sư bá...” Cố Tư Văn giãy giụa, nhưng cơn đau trên mình lập tức cảnh cáo cậu dù có tụt xuống cũng không sao cử động được.
An Long Nhi bình tĩnh bảo Cố Tư Văn: “Ngươi đừng cử động, giờ ta vẫn còn cõng được, trước tiên phải tìm các huynh đệ Hồng môn báo tin, để họ cùng tìm Hữu Hiên tiên sinh, sau đó chúng ta về nhà... Hiện giờ trên núi toàn lính Thanh, đợi chúng rút lui, ngươi dưỡng thương khỏe lại, chúng ta sẽ quay lại tìm.”
Cố Tư Văn gục đầu xuống vai An Long Nhi, hai tay buông thõng, yếu ớt đáp: “Giờ ngươi là đại ca, ngươi nói thế nào thì theo thế.”
An Long Nhi giao đứa bé vừa cứu được cho người của Hồng môn, nhờ họ ra sức tìm giúp cha mẹ nó, nếu không tìm được thì phải nuôi dạy nó thành người. Cậu cũng là trẻ mồ côi nên hiểu rất rõ con người không thể chết dễ dàng như vậy, chỉ cần cho người ta một cơ hội sống, một bát cơm ăn, biết đâu ngày mai đã có thể đứng dậy trở lại, mở ra một đoạn đường sinh mệnh diệu kỳ.
Mẩy ngày sau, An Long Nhi và Cố Tư Văn về đến nhà ở Anh Châu, thân thể Cố Tư Văn chỉ bị chấn động bởi đan khí, An Long Nhi giúp cậu băng bó và vận khí chữa trị, chẳng bao lâu đã bình phục. Jack và Sái Nguyệt kể bọn họ nhận được một tin khác từ Hồng môn, quân Thái Bình tại Quảng Tây đã phá vòng vây quanh thành Vĩnh An, khi phá vây còn đặt phục binh ở núi Đại Động, trong một ngày tiêu diệt hơn vạn quân Thanh, sĩ khí quân Thanh giảm sút cực độ, các quan viên đến Quảng Tây dẹp loạn đều bị giáng chức. Hiện giờ quân Thái Bình đã khuếch trương với lực lượng lớn, lại liên tiếp đánh hạ mấy thành, đang chuẩn bị tấn công lên phía Bắc nhằm vào Bắc Kinh, sào huyệt của triều Thanh. Jack bồn chồn đi đi lại lại trong sảnh, kích động bảo An Long Nhi: “Kiều Kiều rời khỏi thành Vĩnh An rồi, Nhị ca vẫn ở trong quân Thái Bình nên chắc cô ẩy sẽ không một mình bỏ đi đâu, tôi muốn đi tìm cô ấy, cậu có đi không?”
Cố Tư Văn vừa dùng dao cạo râu, vừa chăm chú lắng nghe tin chiến trận mới nhất, lúc này mới vỗ trán nói: “Thế thì tôi hiểu rồi, con cáo già An Thanh Nguyên mấy năm nay không động đến mộ tổ của Hồng Tú Toàn, là muốn xem xem long huyệt thiên tử này có hiệu quả thực không, hiện giờ quân Thái Bình đã phá vây đánh ra khỏi Quảng Tây, hán mới biết sợ, vội chạy đến phá huyệt. Mà hồ nước trên đỉnh Phù Dung nổ tung rồi, rốt cuộc đã chém đứt long mạch hay chưa?” Cậu nói dứt lời, mọi người đều đổ dồn ánh mắt vào An Long Nhi.
An Long Nhi cười hì hì: “Phương pháp trảm long của y là do bản thân y tự mò tìm ra, phải dựa theo các loại canh bộ khác nhau để giết tám đứa trẻ, hiện giờ chúng ta đã cứu thoát một đứa, làm rối loạn canh bộ của y, sau cùng cũng không dẫn tới thiên tai khủng khiếp, có lẽ chỉ tính là chém được một nửa? Ta nghĩ thế này, thông qua trận huyết chiến lần này, An Thanh Nguyên đã biết chỉ cần y có hành động ở Quảng Đông, thì Hồng môn và chúng ta đều nhìn vào, y lăn qua dốc núi gài trận địa lôi, dù không chết cũng tróc hết da, trong thời gian ngắn sẽ không nghĩ tới việc trảm long nữa đâu...”
Cố Tư Văn lại nói: “Ai dà, ngươi còn nhớ những lời hắn nói với đại sư bá không? Hán nói hán muốn để người Hán nắm chính sự, đoạt lại giang sơn của người Hán từ nội bộ triều Thanh, thực ra so với sách lược dùng vũ lực trong dân gian lật đổ triều Thanh của Hồng môn chỉ khác nhau về cách làm. Đương nhiên có thể con cáo già ấy nói dối, song nếu hắn nói thật thì trảm long mạch không phải mục đích cuối cùng của hắn, chỉ là khoản cược để hắn ăn nói trong triều mà thôi, thực ra hắn không nhất thiết phải hên tục trảm long.”
“Tôi nhớ ra một việc, có lẽ An Thanh Nguyên không biết.” Tư duy của Jack rất nhanh nhạy, nên anh không hề ngồi xuống, mà cứ đi đi lại lại trong sảnh: “Hồi ở thành Vĩnh An, tôi từng nghe Phùng Vân Sơn nói, bát tự của Hồng Tú Toàn không đủ để trở thành hoàng đế, song cốt yếu là Phùng Vân Sơn ngay từ đầu đã không định vực dậy một vị hoàng đế, y muốn xây dựng một thể chế giống như quốc hội nước Mỹ vậy, chỉ có chế độ quân chủ trên danh nghĩa mà thôi...”
Sái Nguyệt ngồi bên cạnh giơ cánh tay nhỏ nhắn của A Tầm lên, hết lác sang phải lại lác sang trái, nói bằng giọng nũng nịu: “Dù bọn xấu xa phá mộ tổ của Hồng Tú Toàn, cũng không đánh bại được quân Thái Bình đâu...” A Tầm chẳng hiểu người lớn nói gì, song thấy Sái Nguyệt lắc lắc tay mình cũng cười như nắc nẻ.
Jack lại lên tiếng: “Tôi nói chính là ý này, quân Thái Bình do quân sư thống lĩnh, Hồng Tú Toàn không phải nhân vật chủ chốt, trước mắt lãnh tụ chủ yếu là Dương Tú Thanh và Phùng Vân Sơn, thực ra bên dưới còn các quân sư khác nữa, Hồng Tú Toàn rất ít khi đích thân phát ra mệnh lệnh. Một là An Thanh Nguyên đánh phá đỉnh Phù Dung cũng chẳng ảnh hưởng gì đến quân Thái Bình, hai là nếu y cứ dốc hết tâm trí vào đỉnh Phù Dung, thì có khi đó là mưu kế của Phùng Vân Sơn hòng giữ chân y...”
An Long Nhi cười nói: “Mọi người nói đều có lý cả, có điều An Thanh Nguyên sẽ nhận ra điều này rất nhanh thôi. Linh lực phong thủy có thể phát huy rất nhanh, nếu sau khi trảm long, quân Thái Bình càng đánh càng mạnh, ắt y sẽ nghĩ tới khả năng mọi người vừa nói. Bất kể An Thanh Nguyên là chó săn triều đình hay tự xem mình là vị quan gây ra chính biến đoạt quyền từ nội bộ triều đình, y cũng đều coi quân Thái Bình, Hồng môn và chúng ta là phản tặc, chúng ta không có cái gọi là ‘ngày trời quang mây tạnh’ đâu...”
Cố Tư Văn tiếp lời ngay: “Bởi thế chúng ta nhất định phải giết An Thanh Nguyên...”
“Sai rồi.” Lời An Long Nhi nói khiến tất cả mọi người đố dồn ánh mắt kinh ngạc vào cậu: “Ha ha, ta muốn xem xem long mạch của triều Thanh một khi bị chém đứt sẽ gây ra kết quả gì, Hữu Hiên tiên sinh cũng muốn thấy điều này đó.”
Sái Nguyệt quan tâm hỏi: “Nhưng ngươi không biết Trảm long quyết kia mà?”
An Long Nhi đáp: “Phải, ngay cả Long quyết ta cũng chưa từng trông thấy, song cô Kiều biết Tàm long quyết và Ngự long quyết, ta lại biết tâm pháp Trảm long quyết, Lôi thích cũng nằm trong tay ta, thêm cả vị trí mấy lần trảm long của An Thanh Nguyên, ta nghĩ cô Kiều hoàn toàn có thể đoán ra trong Trảm long quyết viết gì.”
Jack nghe An Long Nhi nói vậy thì mừng rỡ chạy ngay tới bên cạnh khoác vai cậu hỏi: “Cậu cùng tôi đi tìm Kiều Kiều ư?”
An Long Nhi gật đầu cười khiến Jack mừng đến nỗi hôn chụt một cái lên trán cậu. Cô' Tư Văn nhìn Sái Nguyệt, nửa hỏi ý, nửa lại như tự nói một mình: “Chúng ta cũng đi cùng chứ.”
Sái Nguyệt cúi xuống nắm hai cánh tay A Tàm, hai người cùng Đại Hoa Bối nhảy nhót một vòng giữa sảnh, vừa nhảy vừa nói: “Chúng ta và A Tầm cùng lên phía Bắc ngắm tuyết rơi nào.”
Cố Tư Văn lập tức bật dậy khỏi ghế, vung dao cạo râu quát lớn: “Được, đợi ông đây tới chém đứt long mạch giống chó Thanh!”
Trảm Long - Tập 4: Thiên Địa Phong Thủy Trảm Long - Tập 4: Thiên Địa Phong Thủy - Hồng Trần Trảm Long - Tập 4: Thiên Địa Phong Thủy