Sự khác biệt giữa người thành công và những người khác không nằm ở chỗ thiếu sức mạnh, thiếu kiến thức, mà là ở chỗ thiếu ý chí.

Vince Lambardi

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Diệu Hằng
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hoang Tu
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1453 / 80
Cập nhật: 2019-06-15 23:32:03 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5 - Điều Có Thể Lĩnh Hội Được
gay sau khi lũ trẻ học xong (riêng Constance thì lảng tránh chúng), bọn chúng liền chạy lên lầu. Suốt cả buổi chiều, cuộn giấy đáng khiêu khích đó cứ thập thò trong túi áo cô Số Hai, nhưng cuối cùng thì lũ trẻ cũng được sở hữu nó. Chúng có cả tiếng đồng hồ để xử lý câu đố trước khi bữa ăn đêm bắt đầu.
Treo áo khoác vào móc, Kate mở cửa sổ (phòng của cô bé ở trên tầng ba nóng và rất bí), sau đó thu dọn hết đống áo khoác của đám bạn và treo chúng vào tủ quần áo. Đây là căn phòng gọn gàng nhất trong ngôi nhà - chẳng khó để biết ai ở trong căn phòng đó - ngay cả Constance luộm thuộm là thế cũng phải tuân theo tính cẩn thận của cô bạn cùng phòng. Kate không bao giờ để giày dép lộn xộn hay quên không đậy nắp lọ keo con voi. Vì vậy, căn phòng của cô bé - với tấm thảm sạch sẽ không tì vết - luôn luôn là nơi diễn ra cuộc họp của Hội.
Thấy Kate đã ngồi sụp xuống, Constance thúc giục. “Nhanh nhanh lên, Kate. Lúc nào chị cũng bắt bọn em phải chờ thế!”
“Chị biết rồi, đừng có nhặng xị lên thế,” Kate hờ hững đáp lời, cô bé làm một cú lộn nhào lên tấm thảm bên cạnh Constance khi Reynie và Sticky đã ngồi phía bên kia.
Reynie mở cuộn giấy ra. “Ok,” cậu nói trong lúc liếc mắt nhìn lũ bạn, và sau một thoáng chần chừ đầy căng thẳng, cậu bắt đầu đọc to:
Câu trả lời cho câu đố này có một cái hố ở giữa
Và có một số người đã ngã
Trong trò tennis, nó không là gì cả, nhưng nó có thể được nhận,
Và đôi khi một người có thể giành được nó.
Mặc dù ta không nhìn hay nghe được nó nhưng ta có thể hiểu nó,
Nó sống an nhàn như hoàng tử hay những chú ong.
Câu trả lời cho câu đố này có một cái hố ở giữa,
Và nếu không có nó, người ta không thể bắt đầu.
“Đó là một cái bẫy,” Sticky gào lên đầy hứng khởi đến nỗi Reynie giật hết cả mình, một phần chúng sợ sẽ gặp phải một trong số những Gã Số Mười đang liếc mắt nhìn vào từ lối đi, còn Kate túm lấy cái giỏ và phi ra cửa sổ.
Sticky e dè nhìn ngó xung quanh, tim đập thình thịch. “Sao thế? Có chuyện gì thế?”
Kate vẫn nhìn chăm chú xuống sân, nơi ông Bane đang ngồi trên chiếc ghế dài cắn hạt hướng dương. “Theo như tớ nắm bắt được thì bên ngoài an toàn. Constance, có ai ở sảnh không?”
“Không, em nghĩ là không,” Constance đáp, giọng run run.
“Sao cậu lại nghĩ đó là một cái bẫy?” Kate vừa đi vòng quanh hỏi vừa nhìn Sticky đầy nghiêm trọng. “Bẫy kiểu như thế nào?”
Sticky chớp mắt bối rối. Cậu quay sang Reynie, người vừa mới lấy tay che mặt. Lúc đầu Sticky nghĩ Reynie đang khóc - hai vai cậu rung lên - nhưng sau đó Reynie ngả ra phía sau cười khoái trí mãi không dứt.
“Có gì buồn cười thế?” Sticky hỏi. Sau đó hai mắt cậu mở to. “Hượm đã, các cậu nghĩ rằng tớ muốn nói đến… một cái...”
Quai hàm Kate hạ xuống. “Và cậu nghĩ rằng chúng tớ... ý cậu là cậu không nhận ra...”
Trong phút chốc cả lũ đã lăn lộn trên sàn nhà, chỉ trừ Constance chẳng thấy gì buồn cười về việc sợ quá đến nỗi mất đi sự nhanh trí cả. “Sticky ạ, về việc hét lên điều gì đó ấy mà,” cô bé phàn nàn trong lúc những người còn lại đang rên rỉ và cười như nắc nẻ, “anh không thể hét lên những chuyện như thế được! Chúng ta đã chứng kiến quá nhiều bẫy thật rồi!” Nhưng mấy đứa kia mải cười quá đến nỗi chẳng thèm để ý. (Và chúng cứ cười như thế mãi, vì sau cơn hoảng sợ đó, tiếng cười có tác dụng làm giảm căng thẳng.)
Tuy nhiên, cuối cùng cũng xuất hiện những tiếng thở dài run run và những tiếng cười khúc khích sau trận cười sặc sụa chứng tỏ chúng đã dần lấy lại tinh thần. Kate buộc lại bím tóc đuôi ngựa, Sticky chỉnh lại kính, và Reynie vuốt lại cuộn giấy nhàu nát trong tay. Phớt lờ ánh mắt hằm hằm của Constance, chúng quay trở lại câu đố.
Kate nói, “tớ không nghĩ ‘bẫy’ là đáp án, Sticky ạ. Nó chỉ phù hợp với một số dữ kiện ở đây chứ không phải là tất cả.”
“Không, giờ thì tớ hiểu rồi,” Sticky thừa nhận. “Tớ chỉ hào hứng khi nó đột nhiên nảy ra thôi, bởi vì cậu có thể sa đà vào đó, cậu biết đấy, và phần nói về cỏ ba lá nhắc cho tớ nhớ đến những cái bẫy rèm cửa làm bằng cỏ dại ở Học viện.”
“Vậy cậu nghĩ điều đó có nghĩa là gì?” Kate hỏi. “Mối quan hệ giữa hoàng tử và cỏ ba lá ý?”
“Đó là nói một cách hình tượng,” Sticky nói. “Ý nói “trong cỏ ba lá” có nghĩa là sống sung túc - như một hoàng tử ấy. Cậu có nghĩ là đáp án có liên quan đến tiền bạc không?”
Kate bật các ngón tay tanh tách. “Có lẽ S.Q. có một kho báu bí mật! Hay tài sản thừa kế hoặc một kiểu kho báu nào đó mà lão Curtain muốn được sờ vào. Điều đó giải thích tại sao ông ta lại giữ S.Q. bên mình, đúng không? Lại còn cho anh ta thêm thời gian làm việc với Máy Thì Thầm nữa?
“Cậu có thể nói một người “kiếm chác” được tiền nếu món tiền đó đến với họ đột ngột,” Sticky mơ màng, “trong trường hợp đó thì nó được ‘nhận’…”
“Và ta có thể giành được nó!” Constance buột miệng (trong lúc hào hứng cô bé đã quên mất rằng mình phải tỏ ra hờn dỗi.)
“Này, lão Curtain còn phải cần tiền để bắt đầu!” Kate nói. “Sau khi trở thành kẻ chạy trốn, ông ta nhất định phải tìm ra cách kiếm tiền, chuẩn chưa? Đó là lý do tại sao ông ta cùng Pressius thực hiện mưu đồ đen tối cướp kim cương.”
Trong một thoáng, sự hào hứng của lũ trẻ tụt hẳn xuống khi nghĩ đến Pressius, một doanh nhân giàu có với những hành động lừa đảo gần đây đã tiếp tay làm giàu cho lão Curtain - tuy nhiên ông ta biết cách luồn lách pháp luật để tránh những rắc rối do việc làm sai trái của mình gây ra. Tuy chưa bao giờ thực sự tiếp xúc với Pressius, nhưng chúng đã phải chịu đựng ông ta khá nhiều và chẳng mấy thiện cảm với ông ta cả.
Sticky đưa tay lên đẩy gọng kính, rồi lại đan tay ra sau đầu. “Có một vấn đề với ‘tiền bạc’,” cậu nói tỏ vẻ bí ẩn. “Ta có thể nhìn thấy nó, đúng không? Và đôi khi nghe thấy nó nữa - một hộp vàng có thể kêu leng keng.”
“Chuẩn, nhưng nếu như đáp án không phải là ‘tiền’ mà là ‘sự sung túc’ thì sao?” Constance gợi ý. “Ta có thể hiểu được sự sung túc là như thế nào nếu một người có xe và nhà đắt đỏ, mà không thực sự nhìn và nghe thấy nó.”
“Này, tớ nghĩ cái đó đúng đấy!” Kate nói. “Bây giờ bọn mình chỉ còn phải giải thích chỗ ‘có hố ở giữa’.” Cô bé quay qua Reynie, thường thì đến lúc này cậu đã đưa ra một gợi ý nào rồi - hoặc là một đáp án - nhưng Reynie chỉ làm ra vẻ trầm ngâm và chẳng nói gì.
“Cái hố không phải là thứ duy nhất,” Sticky nói. “Còn cả đoạn nói về tennis nữa. Và tớ cho rằng chúng ta nên cân nhắc tại sao lại có bầy ong sống sung túc chứ không phải chỉ có hoàng tử.”
Kate khịt mũi. “Nhiều lúc cậu làm tớ Sticky ạ! Cậu biết đủ thứ trên đời mà lại không biết tại sao ong thích cỏ ba lá à?”
“Tớ nghĩ điều Sticky muốn nói,” Reynie xen vào, “là phải có lý do nào đấy thì ong mới được nói đến ở đây.” Với sự lưỡng lự gây tò mò, như thể là cậu đang chờ những người còn lại lên tiếng, cậu nói thêm, “Phán đoán của tớ là điều đó nói lên rằng có nhiều hơn một cách để sống sung túc.”
“Có những cách nào khác mới được chứ?” Kate hỏi, nhưng Reynie chỉ nhún vai, và chờ tới khi không ai xung phong trả lời nữa, cô bé mới nói, “Chà, ít ra thì ong không tự động ngăn cản sự giàu có. Và tớ cũng không nghĩ tennis có thể làm thế.”
“Chúng ta bỏ qua phần đó đi không được sao?” Constance hỏi đầy hy vọng. “ ‘Trong tennis nó không là gì cả’, đúng không nào? Em cá rằng nó có mặt ở đó là để cho vần vè thôi, và tạo cơ sở cho đoạn nói về ‘nhận được’ và ‘giành được’ nữa. Em là một thi nhân mà, em có kinh nghiệm mấy chuyện này lắm!”
“Từ từ đã,” Sticky nói, mắt sáng lên. “Trong trò tennis có sử dụng lưới - và lưới thì có lỗ.”
“Ta cũng có thể rơi vào một cái lưới nữa,” Kate suy tư. “Hồi còn ở rạp xiếc tớ bị thế suốt... nhưng phần còn lại thì có vẻ như không được phù hợp cho lắm thì phải. Thế còn về ‘dịch vụ’ thì sao nhỉ? Trong trò tennis ta nhận được một cú giao bóng - và bạn có thể giành được nó nữa! Có lẽ lão Curtain giữ S.Q. bên mình vì ông ta muốn có một người phục vụ. Đó là vai trò thực sự của S.Q., các cậu biết đấy - anh ta luôn có mặt bất cứ khi nào lão Curtain cần.”
Mấy đứa còn lại ngẫm nghĩ. Lúc đầu đáp án có vẻ hoàn hảo, nhưng một vấn đề thường xảy ra với các câu đố là những đáp án sai bao giờ cũng có vẻ hợp lý ngay từ đầu, chỉ đến khi rà soát lại thật kỹ thì chúng ta mới nhận ra chúng không khớp. Ý kiến của Sticky và Kate đều mắc lỗi như vậy. “Dịch vụ” nghe có vẻ hợp lý, nhưng cuối cùng chúng đều nhận ra đó không phải đáp án đúng. Và chúng cứ lặp đi lặp lại như thế một lúc lâu, thử hết phương án này sang phương án khác mà chẳng thấy cái nào phù hợp.
“Em bỏ cuộc,” cuối cùng Constance lên tiếng. “Em nghĩ đó phải là ‘sự sung túc’. Có thể chúng ta không hiểu tại sao ong lại xuất hiện ở đây, hay cái hố ở giữa là hố gì, nhưng mà ‘sự sung túc’ vẫn có vẻ là đáp án đúng nhất.”
Kate thở dài và duỗi chân, “Ừm, bọn mình cứ quanh quẩn như thế này gần một tiếng đồng hồ rồi. Ít ra thì bọn mình có thể bàn về chuyện khác rồi quay lại câu đố sau.”
“Chúng ta không phải quay trở lại câu đố nữa,” Constance tức tối phản đối. “ ‘Sung túc’ hẳn là đáp án rồi!”
Kate quay qua Reynie. “Nào, Reynie, cậu nói gì đi chứ? Tớ không nghĩ là mình đã từng nhìn thấy cậu yên lặng như thế khi chúng ta thảo luận về vấn đề nào đó.”
“Ê, đúng rồi đấy,” Sticky nói, cậu vẫn còn đang mải mê tập trung cao độ vào câu đố đến nỗi không để ý thấy sự yên lặng của Reynie. “Đúng ra là tớ hơi ngạc nhiên khi thấy đến bây giờ cậu còn chưa giải được nó đấy.”
Reynie tỏ vẻ ngạc nhiên. “Nhưng tớ giải được nó rồi mà.”
Những đứa còn lại nhìn cậu chằm chằm.
“Tha lỗi cho tớ nếu tớ để lỡ điều gì đó,” Kate nói sau một thoáng ngừng lại, “nhưng, ừm, cậu có định nói cho chúng tớ không thế?”
“Cậu đang đùa à?” Reynie đáp. “Các cậu đã bảo tớ không được nói mà!”
“Tớ bảo ư?”
Reynie ngẩng đầu lên. “Chà, Constance bảo thế, cậu và Sticky cũng không tranh luận gì thêm, nên tớ cho là hai người đã đồng ý rồi.”
“Tất cả những chuyện này xảy ra hồi nào vậy?” Sticky vừa hỏi vừa lo lắng nhìn sang Kate.
“Khi tớ mở tờ giấy ra ấy!” Reynie than vãn. “Constance nói, ‘Em biết anh có thể giải được câu đố này, Reynie ạ, nhưng em muốn bọn em tự giải quyết nó một lần.’ Thế là tớ nói, ‘OK,’ và sau đó tớ đọc to câu đố lên, nhớ không?”
“Cậu có nói ‘OK’,” Sticky nhớ lại. “Tớ nghĩ là bọn tớ không nghe thấy Constance nói.”
“Vì em có nói gì đâu,” Constance đáp.
Kate đảo mắt. “Chà, hoặc là em nói dối hoặc là Reynie, và nếu chị phải...”
“Em đã nghĩ thế,” Constance nói, có vẻ bối rối.
“Em... em sao cơ?”
“Em không nói ra điều mà Reynie nói là em nói… Em chỉ nghĩ trong đầu thôi.”
Trong lúc yên lặng, Reynie ngả người ra đằng sau và ngẩng mặt lên nhìn trần nhà.
Sau đó Kate thì thầm, “Ôi giời ạ.”
“Vậy là bây giờ Reynie có thể đọc được suy nghĩ nữa à?” Sticky hỏi.
“Tớ không đọc được suy nghĩ của ai ngoại trừ tớ ra cả,” Reynie nói. “Constance chỉ truyền ý nghĩ của mình vào đó thôi.”
“Xin lỗi,” Constance lầm bầm. “Em không có ý đó, anh biết mà.” Rõ ràng là cô bé đang nói thật, nhưng lời nói của cô còn có chút dấu hiệu tinh quái, như thể đây là lần đầu tiên cô bé đã nhận ra năng lực của mình có thể làm được những gì.
Sau đó lại thêm một khoảng lặng thật lâu nữa, và rồi khá lưỡng lự, Kate nói, “Ok, tớ nhận thấy chuyện đọc được suy nghĩ này, hay các cậu muốn gọi việc mà Constance làm là...”
“Thần giao cách cảm,” Sticky nói bằng giọng tôn kính.
“Đúng rồi, thần giao cách cảm,” Kate nhắc nhận ra rằng đó là một vấn đề lớn. Nhưng, ừm, có ai thấy phiền nếu tớ dành vài giây để hỏi Reynie, rất nhanh thôi... Ý tớ là, tớ xin lỗi, nhưng nếu tớ mà không biết thì tớ sẽ phát điên lên mất...”
“Tình yêu,” Reynie nói trong lúc xoay mắt sang nhìn cô bé. “Đáp án cho câu đố chính là ‘tình yêu’.”
Kate thở dài nhẹ nhõm. ‘“Tình yêu,” cô bé nhắc lại, ngoác miệng cười. “Chà, thế thì sao nhỉ! Tớ băn khoăn không biết…” Kate ngừng lại, chợt nhớ ra. “Chúng ta có thể bàn về nó sau, tất nhiên rồi. Ơ, dù sao thì, cảm ơn cậu, Reynie.”
“Không có gì,” Reynie vừa nói vừa tiếp tục nhìn chằm chằm lên mái nhà.
“Trong này nóng nhỉ?” Constance hỏi vào ngày hôm sau. Cô bé đang ngồi bên bàn ăn cùng những đứa trẻ khác, hai trong số chúng đang ăn bánh nướng và kem với sự thỏa mãn tột độ.
“Thế à? Anh không để ý,” Sticky cáu kỉnh đáp. Cậu quay lưng về phía Reynie và Kate, hai người này mỉm cười với nhau rồi tiếp tục ăn. “Hãy tập trung giải quyết chuyện này đi, được chứ? Càng xong sớm, em càng sớm được thưởng.”
“Và Sticky cũng được thưởng nữa,” Kate rì rầm, giống như Reynie, cô bé đã hút một ống nước đầy và không để thừa tí nào.
Lúc đó là ngay sau bữa trưa, trong khi người lớn đã giải tán, thì lũ trẻ vẫn đang hứng thú tham gia vào một bài thử thách mà những đứa lớn hơn chỉ lưỡng lự xung phong. Trong động thái nhằm kích thích Constance, ngài Benedict đã nhờ Milligan mang về nhà gần năm lít kem và nhờ anh Moocho Brazos nướng một loại bánh trứ danh của mình. Không những vậy (đây chính là phần khiến bọn trẻ ngần ngại), ngài còn bắt những đứa lớn hơn phải nghĩ đến một kỷ niệm đáng xấu hổ nào đó - một kỷ niệm mà Constance rất thích thú phát hiện ra - và cho cô bé con một cơ hội để moi móc được bí mật đó.
Việc Constance hào hứng tham gia thử thách khiến những đứa khác run bắn cả người - chẳng cần nói cũng biết chúng sẽ xấu hổ như thế nào khi sớm bị đưa vào những bài thơ vần vè, mà có lẽ đến đời con cháu sau này vẫn còn cười mãi. Nhưng chúng còn thấy đáng sợ hơn khi nhận ra khả năng đó đang ngày một phát triển ở Constance (dựa trên những gì xảy ra với Reynie hôm qua), nên chúng cam tâm tình nguyện, cố gắng nghĩ đến những chuyện chỉ hơi xí hổ một tí chứ không đến nỗi bẽ mặt lắm.
“Nói thật đi, anh không nghĩ là trời nóng à?” Constance nói, lần này to tiếng hơn với cái liếc mắt về phía Reynie. “Có lẽ chỉ em mới thấy thế. Em nghĩ em mà không hạ nhiệt thì chắc em ngất ra đây mất.”
Reynie vẫy vẫy cái thìa. “Bỏ đi, Constance. Em không được ăn kem của anh đâu.”
Bị đánh trúng tim đen, Constance tỏ vẻ khó chịu - còn Reynie cười khúc khích một mình. Thật là một trò đùa nhỏ mọn khi để cho Constance nhìn cậu bằng ánh mắt không mấy thiện cảm, nhưng cậu vẫn quyết tâm hưởng thụ phần thưởng một mình. Đây là món bánh ngon nhất của anh Moocho khiến Reynie thích thú thưởng thức từng miếng bánh, với lớp bánh bông bên ngoài và nhân mứt bên trong, nước anh đào nóng hổi rưới lên khắp mặt bánh. Nhưng Kate tội nghiệp thì không làm thế, cô bé đã ăn xong miếng bánh của mình, sau đó ăn hùng hục món kem nên bây giờ phải ngồi ôm đầu kêu nhức.
“Được thôi, Sticky,” Constance thở dài, “thử ngó qua đầu anh xem sao.”
Cái giọng thản nhiên như không của Constance, và cả thử thách này nữa khiến Sticky nhớ lại nhiều lần đến nha sĩ với cái miệng đầy răng sâu. Cậu cố tỏ ra mạnh mẽ, nhưng Constance vừa mới nhìn chằm chằm vào mặt cậu, cậu đã gào lên ầm ĩ, “Chờ tí, chờ tí! Để anh... để anh chọn hình ảnh khác đẹp hơn.”
Constance đấm thùm thụp vào đầu gối. “Anh cứ lảng tránh thế! Đến bao giờ em mới được ăn kem đây?”
“Cho anh một giây thôi,” Sticky nói. Cậu cố gắng lục tìm trong ký ức cơ man là nhiều những kỷ niệm đáng xấu hổ của mình và cố quyết định xem cái nào nên chia sẻ và trưng nó ra như thế nào là tốt nhất. Ngài Benedict đã gợi ý rằng hình ảnh có lẽ sẽ tốt hơn lời nói - vì hình ảnh không bị gây nhiễu bởi ngữ pháp và dễ lưu giữ lại lâu hơn trong tâm trí - và ngài cũng yêu cầu lũ trẻ phải chú ý nhiều đến việc “thần giao cách cảm”, nếu nó thực sự có xảy ra, và sẵn sàng báo cáo lại bất kỳ chuyện gì khác thường.
Khi bị Constance xoáy vào những bí mật và Kate trải qua cả loạt cảm xúc từ cực kỳ sợ hãi đến vô cùng bực mình khi cô bé đạt được thành công - nhưng với Sticky, chỉ riêng chuyện này đã làm cậu thấy khó chịu lắm rồi.
“Tớ nghĩ tốt nhất là cậu nên vượt qua mặc cảm, Sticky ạ,” Reynie vừa khuyên nhủ vừa nhớ lại con mèo Seymore ở trại mồ côi khiến cậu ngã chổng quèo khi vấp phải nó trước ánh nhìn khinh bỉ của những đứa khác. Constance ngay lập tức đoán “một loại động vật uốn éo đầy lông lá, em đoán là con chồn.” Khá đúng rồi, và theo thỏa thuận giữa hai bên, việc Reynie bị ép kể lại toàn bộ câu chuyện khiến Constance rất thích thú.
Về phần mình, Kate đã hình dung ra cảnh cô bị treo ngược trên một sợi dây căng ngang và đung đưa người qua lại. Sau một hồi cân nhắc, Constance đoán đó là “một con dơi gớm ghiếc thức dậy,” điều đó có thể là một lời nhạo báng có chủ ý, hay cũng có thể là không. Tuy nhiên, bất luận thế nào, nó cũng khiến Kate phải khai ra câu chuyện mình ngã lộn cổ từ sợi dây xuống trong lúc la hét inh ỏi, may mà chân cô bé kịp túm lấy sợi dây. “Các diễn viên xiếc sẽ bị đuổi việc vì màn đó,” Kate nói rồi tự thêm vào chống chế, “Hồi tớ mới tám tuổi ý mà.”
Bây giờ thì Sticky đã sẵn sàng để thử lại lần nữa. Hít một hơi thật sâu, cậu gõ khớp ngón tay lên mặt bàn và căng thẳng như kiểu đang dồn hết sức mình để chuẩn bị chống đỡ.
“Kem phải không?” Constance hỏi. “Kem và bánh nướng ấy?”
“Tất nhiên là không rồi,” Sticky kiệt sức nói, rồi ngồi lún sâu vào chiếc ghế. “Quên chuyện bánh kẹo đi, tập trung vào anh đây này, được không?”
“Em đang tập trung vào anh còn gì! Sao mà anh biết em không tập trung được?”
“Em đoán là kem và bánh còn gì nữa, Constance!”
Bọn chúng bắt đầu cãi nhau, câu nào câu nấy lanh lảnh đến đinh tai nhức óc. Reynie thấy thật biết ơn khi anh Moocho Brazos lướt mắt qua phòng ăn, cơ bắp, râu ria và làn da ngăm đen của anh chẳng khác nào một thủy thủ. Bên ngoài chiếc áo sơ mi và quần âu được cắt may thanh lịch, anh khoác một chiếc tạp dề màu đỏ tươi được lũ trẻ tặng nhân dịp sinh nhật. Anh mang theo một muỗng kem và một cao bay (trong đôi tay khổng lồ của anh, trông chúng y như đồ chơi của trẻ con vậy) nhưng khi thấy Sticky và Constance đang cãi nhau nảy lửa, anh hạ dụng cụ nấu nướng của mình xuống và lắc đầu.
“Anh thấy hai đứa nó chưa sẵn sàng lắm,” Moocho ngâm nga. Anh cười thầm và ngồi xuống một cái ghế (nói đúng hơn là hai cái) cạnh Kate. “Anh nghĩ là em thích ăn bánh anh làm chứ?”
“Anh biết là bọn em thích mà!” Kate vừa cười to vừa với tay lên vuốt lọn tóc lòa xòa, đen mượt của Moocho. Cô bé và chàng thanh niên lực lưỡng ấy đã là bạn nhiều năm rồi, và Kate cảm thấy mình cần chăm lo cho anh ấy.
“Anh rất vui,” Moocho nhìn vu vơ chiếc dao bay và nói, “Nhân tiện, anh nghĩ rằng anh đã giải được câu đố mà em đưa ra tối qua. Đáp án là ‘tình yêu’ phải không? Nhẹ hết cả người! Nếu anh biết một chút về tennis thì anh đã giải được sớm hơn rồi, nhưng tiếc là anh đã không quan tâm đến điều đó khá lâu - phần ‘trong trò tennis nó không là gì cả’ ấy.”
“Điều đó cũng làm bọn em khốn khổ,” Kate nói. “À, vài đứa trong nhóm thôi. Làm thế nào mà cuối cùng anh cũng giải được vậy?”
“Anh tra một cuốn bách khoa toàn thư. Em không thể tưởng tượng anh ngạc nhiên thế nào khi biết trong môn tennis LOVE là biểu tượng của số điểm 0 đâu! Bỗng nhiên mọi thứ đều trở nên có nghĩa. Nói chính xác hơn là gần như mọi thứ. Hầu hết các dòng đều vô cùng dễ hiểu - về một người đang yêu - nhưng một số điều lại khiến anh không khỏi băn khoăn: cái hố ở giữa, cỏ ba lá và sự bắt đầu.”
“Bọn em nói cho anh nhé?” Reynie hỏi to để át tiếng the thé của Constance. “Hay anh muốn tự tìm hiểu?”
“Ồ không, nếu các em vui lòng thì anh rất muốn được thoát khỏi mớ bòng bong ấy. Chúng cứ lởn và lởn vởn trong đầu anh suốt.”
“Chà,” Reynie nói, “cái hố ở giữa chính là chữ O trong từ ‘love’ - tình yêu. Vì vậy, cụm từ ‘ngã vào nó’ cần hiểu là phải lòng ai đó - đúng như anh đoán - chứ không phải ngã vào cái hố. Anh có thể đọc dòng thứ nhất theo một trong hai cách
“Thông minh,” Moocho vừa nói vừa lấy dao bay viết chữ ‘love’ trong không khí. “Tuy nhiên, anh thấy chữ O không nằm ở chính giữa mà lệch sang bên trái một chút.”
“Trời ạ, Constance cũng nói y như thế,” Kate cười sặc sụa. (Moocho cứng người lại một chút.) “Nhưng dòng cuối của bài thơ thì ngược lại - nó nói đến chữ o chứ không phải chữ ‘love’.”
“Ta không thể bắt đầu mà không có chữ O ư? Sao lại không được?”
“Thử viết chữ ‘over [1]’ mà không có chữ O xem” Reynie nói. “Khó bắt đầu lắm, đúng không anh?”
[1] Nguyên văn: “start over” – đây là cách chơi chữ của ngài Benedict. “start over” có nghĩa là bắt đầu, nhưng cũng có nghĩa là bắt đầu (start) viết chữ “over”.
Moocho dùng dao bay vỗ vỗ lên trán.
“Về phần cỏ ba lá (clover),” Kate tiếp tục cười lớn, “anh nhìn kỹ từ đó đi và anh sẽ tìm thấy từ ‘love’ trong đó. Ong, hoàng tử, và tình yêu - tất cả đều sống an nhàn cả, chỉ là theo những cách khác nhau thôi.”
Moocho thực lòng cảm ơn lũ trẻ vì đã giải thích giúp anh tận tình, và sau một hồi trao đổi về thời tiết (theo Constance dự đoán sẽ có mưa vào buổi chiều), cuộc nói chuyện chuyển sang chủ đề về mấy mẩu thịt tươi mà Kate đã nhờ để dành cho Madge. Sau một thời gian dài dường như không có gì đáng để suy ngẫm, giờ đây Reynie bỗng chìm đắm vào dòng suy nghĩ, băn khoăn của riêng mình. Tối qua cậu đã nằm thao thức mấy tiếng đồng hồ để nghĩ về vụ việc lạ kỳ xảy ra với Constance, và trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại của ngày hôm nay, cậu đã cố (đúng như yêu cầu của bài thử thách) suy ngẫm về lời giải cho câu đố.
Lão Curtain giữ S.Q. bên mình vì tình yêu ư? Dường như điều đó là không thể đối với lão Curtain. Nhưng mặt khác, nếu bạn cứ cố tin tưởng thì sự chịu đựng của lão Curtain đối với S.Q. - tên Điều hành viên kém năng lực nhất, cũng là thân cận duy nhất hiện giờ của ông ta - sẽ không còn là điều quá ư bí hiểm nữa. Tuy nhiên, như ngài Benedict đã nói, câu trả lời chỉ là sự khởi đầu, và Reynie thấy đáp án của câu đố còn gợi cho cậu nhiều câu hỏi hơn so với lúc chưa được giải.
Cậu đã có thể đặt những câu hỏi đó cho ngài Benedict nhưng từ chiều hôm qua, ngài Benedict lại dành tất cả mọi khoảng thời gian thức (và chắc có cả thời gian ngủ) để làm việc với những chiếc máy tính dưới tầng hầm. Vào bữa khuya, Số Hai mang thức ăn tới cho ngài, và đến bữa sáng nay là Rhonda. Thậm chí, đến khi bọn trẻ kể cho Rhonda nghe chiến công mới nhất của Constance, chúng cũng chưa thấy ngài Benedict đâu.
“Đừng hiểu lầm chị, điều em nói với chị cực kỳ quan trọng, nhưng ngài đã yêu cầu không muốn ai làm phiền trừ một vài trường hợp đặc biệt,” Rhonda nói mà không chỉ rõ những trường hợp đó là gì. “Ngài có rất nhiều việc phải làm trong khoảng thời gian hạn hẹp và bây giờ ngài cần nghỉ ngơi một chút.”
Rhonda không nói cho chúng biết việc ngài Benedict đang làm hay tại sao việc đó lại khẩn cấp đến thế, nhưng trong cuộc họp tối qua của Hội, Constance đã đoán rằng ngài đang tìm phương pháp điều trị chứng ngủ gật của mình. Cô bé suy luận rằng ngài sẽ vuột mất cơ hội mãi mãi nếu Máy Thì Thầm bị chuyển đi. Suốt thời gian còn lại của buổi họp, Constance liên tục mắng nhiếc xỉ vả ngài Gaines và “cái ủy ban chết tiệt đó”, bởi vì Constance rất yêu quý ngài Benedict (dù chưa bao giờ cô bé nói ra điều đó) và cảm thấy muốn bảo vệ cho ngài y như Số Hai và Rhonda vậy. Thực ra, đến bây giờ Constance đã có thể là con gái nuôi của ngài nếu chính quyền công nhận sự tồn tại của cô bé, nhưng vì thiếu một số giấy tờ hành chính nên họ từ chối điều đó. Đây cũng là lý do khác giải thích tính hay cau có của cô bé. Có một số điều khiến Constance còn điên tiết hơn cả việc bị lờ tịt đi, trong đó sỉ nhục lớn nhất đối với cô là việc bị phủ nhận sự tồn tại.
“Một cái hộp rỗng!” Constance khóc lóc ầm lên làm gián đoạn dòng suy nghĩ của Reynie. Cuối cùng, cô bé và Sticky cũng giải quyết xong vụ cãi lộn và lại bắt đầu thực hiện bài thử thách. “Một cái hộp rỗng, hơi nghiêng sang bên một tẹo!”
“Đúng rồi!” Sticky thở phào nhẹ nhõm, nhưng ngay sau đó mặt cậu liền trùng xuống. “Ờ, tuyệt lắm, nhưng bây giờ anh phải nói cho em biết chuyện đó.” Lấy hết sức bình sinh, cậu bắt đầu kể, “Có một lần, trong một cuộc thi đố vui, người ta bắt anh vẽ một hình thoi. Anh đờ người ra vì căng thẳng - em biết ngày trước có mấy lần anh cũng bị thế rồi
“Ờ đúng,” Constance nói với ánh mắt tinh quái. “Ngày trước anh thường hay bị thế.”
Phớt lờ lời nhận định đó, Sticky tiếp tục, “Ừm, thay vì vẽ một hình thoi, hay còn gọi là hình bình hành có các cạnh bằng nhau - anh lại vẽ cái hộp bị nghiêng như em thấy đấy - anh lại cứ nghĩ trong đầu là mình phải vẽ một cái xe hai tầng.”
Constance chau mày. “Cái gì cơ?”
“Một chiếc xe buýt - “xe hai tầng” là từ cổ của từ “xe buýt” ngày nay. Tất nhiên là anh biết một hình thoi trông như thế nào, nhưng anh bối rối quá nên…” Sticky nhăn mặt, đưa tay lên tìm kính. “Anh nhớ mình đã cẩn thận vẽ từng bánh xe như thế nào,” cậu lầm bầm, “anh thậm chí còn vẽ những khuôn mặt bé xíu trên ô cửa sổ và nghĩ rằng mình thật sáng tạo, trong khi mọi người ở đó đều không khỏi lắc đầu ngán ngẩm, hoảng loạn vì anh cho rằng đó là một hình thoi...”
Constance nhìn Sticky thất vọng tràn trề. “Thế thôi à? Cái hộp trống rỗng của anh chỉ là một hình thoi cũ kỹ ngớ ngẩn thôi à? Đó là sự bất ngờ nhạt nhẽo nhất mà em từng nghe đấy!”
Hai mắt Sticky sáng lên, cậu đang chuẩn bị phản pháo thì chợt nhận ra mình đã khá may mắn. “Em nghĩ thế à? Chà, xin lỗi, câu chuyện là thế đấy.” Cậu ngắm cái kính một lúc, cậu đã tháo nó ra mà không nghĩ ngợi gì. Sau đó cậu lại đeo vào. “Em biết không? Bây giờ bọn mình được ăn bánh và kem rồi đấy.”
“Đúng rồi!” Constance hét lên. “Em đoán được cả ba rồi! Moocho, anh có nghe thấy không? Em đoán được cả ba rồi nhé!”
“Xin chúc mừng,” Moocho cười toe toét, quay sang Sticky và nói, “và cũng xin chia buồn với em nữa. Cho phép anh được đưa cho các em phần tráng miệng mà các em đáng được nhận.” Hai hàng lông mày của anh uốn éo thể hiện rõ sự tự mãn.
“Moocho!” Kate gào lên, vỗ tay cười ngặt nghẽo. “Đùa thế đủ rồi đấy! Ồ, giá mà em nghĩ ra cái đó sớm hơn. “Just desserts” - phần tráng miệng dành cho các tù nhân. Mọi người có nghe thấy không?” Cô bé theo anh vào bếp rồi quay trở lại, nhắc nhắc lại trò chơi chữ của anh và cười như nắc nẻ.
Giải quyết hết số kem và gần hết cái bánh được một lát, Constance nhìn chằm chằm vào mấy miếng cuối cùng mà ngấy đến tận cổ. “Moocho không cho em nhiều kem bằng anh,” cô bé phàn nàn với Sticky, “và bây giờ em chẳng còn tí kem nào để ăn với phần bánh còn lại cả.”
Tì người vào bàn, Reynie giả vờ ngó nghiêng cái bát của cô bé. “Anh nghĩ em đã tính sai tỉ lệ bánh - kem của mình rồi đấy, Constance ạ. Em ăn hai muỗng kem với một miếng bánh mà.”
“Moocho phân chia đều cả thôi,” Kate nói trong lúc trồng cây chuối ở góc phòng. “Chị nhìn thấy anh ấy xúc kem mà.”
“Không phải!” Constance cáu kỉnh. “Phần của Sticky to hơn!”
Sticky thận trọng kéo cái bát lại gần và lấy tay che nó. “Chà, em sẽ không lấy được của anh đâu.”
“Không ư? Có lẽ em cần phải đào xới thêm những bí mật đáng xấu hổ của anh.” Constance gầm gừ vươn người ra rồi chọc ngón tay vào người cậu. “Em rất hứng thú kể cho mọi người những chuyện đó đấy!”
“Constance!” Reynie và Kate ré lên hoảng loạn. “Không được làm thế!”
Giọng nói chỉ trích mạnh mẽ của hai đứa cùng biểu hiện vừa hoảng hốt, khiếp sợ lại vô cùng giận dữ trên khuôn mặt Sticky khiến Constance hơi sờ sợ. “Được rồi, được rồi,” cô bé ngồi lại nói. “Em đoán là em sẽ không làm thế.” Nhưng bây giờ cô bé tự thấy lạ khi bản thân không ngăn được sự tức giận, bực bội, và cau có đầy dữ tợn với Sticky. Constance khoanh tay, mặt đỏ tía tai, mũi nhăn lại, hai má phình căng ra, đôi mắt màu xanh nhạt thu hẹp lại như hai sợi chỉ.
Trước biểu hiện của Constance, Reynie không khỏi cảm thấy sợ hãi, còn Sticky lại chẳng có vẻ gì là để ý. Cậu không rời mắt khỏi phần kem của mình, chớp mắt lưỡng lự như thể đang cân nhắc xem có nên thưởng thức nó trong hoàn cảnh này không. Ngay sau đó, trước sự ngạc nhiên tột độ của Reynie, cậu đã đi đến quyết định
“Đây,” Sticky nói và đẩy mạnh đĩa của mình về phía Constance, cô bé nhìn phần kem với niềm hân hoan đắc thắng. “Dù sao thì anh cũng không thích vị va-ni cho lắm.”
“Cậu không thích ư?” Kate nói đầy sửng sốt. Cô bé chống chân xuống và tiến lại xem có chuyện gì xảy ra.
“Tớ tưởng va-ni là vị yêu thích của cậu,” Reynie nói.
Mắt Sticky mở to, nhìn Reynie đầy bối rối. “Nó... nó đúng là món yêu thích của tớ mà. Sao tớ lại nói là không nhỉ? Trong giây lát tớ đã nghĩ thế đấy.”
Cả lũ hoài nghi quay sang Constance và thấy cô đã ăn hết nửa số kem, hai tay ôm chặt đầu, y như Kate từng làm, cùng hai mắt nhắm chặt lại.
“Có chuyện gì thế, em bị đau đầu vì ăn kem của anh à?” Sticky nói to. “Đáng đời lắm, nếu em vừa mới làm cái điều như anh đoán. Em có làm thế không, Constance? Em làm anh nghĩ là anh không thích va-ni à?”
Constance mở mắt, xúc động đến mức khiến Sticky phải lùi lại ngạc nhiên. “Em làm đấy!” Trước thái độ ngày một sửng sốt của Sticky, cô bé kêu gào, rồi khóc òa lên, nước mắt giàn giụa. “Được chưa? Em đã khiến anh nghĩ thế đấy! Bây giờ thì làm ơn im đi! Đầu em đang nhức như búa bổ đây! Ôi, khủng khiếp, khủng khiếp lắm ý!”
“Oa,” Kate lầm bầm và nhìn Reynie đầy lo lắng. “Con bé nói là ‘làm ơn’ rồi đấy.”
Sticky luống cuống vỗ vỗ liên tục vào tay Constance, cố dỗ dành cò bé. “Ngoan nào, Constance. Sẽ ổn thôi mà. Em có thể… có thể ăn hết chỗ kem này, được không? Em không thích nó sao?”
Nhưng điều này chỉ làm Constance nức nở to hơn. “Em không thể. Em thấy mệt lắm! Đầu em... bụng em... ôi, em cảm thấy tồi tệ kinh khủng!”
Lời than vãn của cô khiến tất cả người lớn phải chạy đến, bao gồm cả đang hổn hển chạy từ trên lầu xuống. Ngay lập tức Constance được đưa vào giường, nhưng cô bé vẫn kêu gào khóc lóc ầm ĩ hơn một tiếng đồng hồ, phải đến khi ngài Benedict nắm tay cô và đám bạn đứng nghe ngóng đầy lo lắng ở ngoài cửa, cô bé mới thì thầm, “Cháu không nghĩ là cháu sẽ làm lại điều đó nữa,” và chìm vào giấc ngủ chập chờn.
Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan - Trenton Lee Stewart Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan