You practice mindfulness, on the one hand, to be calm and peaceful. On the other hand, as you practice mindfulness and live a life of peace, you inspire hope for a future of peace.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hoang Tu
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1547 / 33
Cập nhật: 2019-06-15 23:31:43 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 21 - Chiếc Hộp Của Pandora
ứng im, nếu bọn bây còn muốn giữ lại đôi tai,” một Gã Số Mười nói với cái cười xếch tận mang tai. Gã chia cho bọn trẻ xem một thiết bị hình trụ nhỏ trong bàn tay. “Tao không muốn phải dùng tới cái đèn chiếu này với bọn mày đâu - phải mất cả đêm để sạc đầy lại đấy.”
Bọn trẻ, rõ ràng thà giữ lại đôi tai còn hơn, nhanh chóng bị còng tay và đứng dựa vào bức tường hậu của nhà trú ẩn. Trong khi đó một Gã Số Mười khác mở cửa đón những đứa đồng bọn còn lại. Có tất cả bốn tên, không kể Martina (ả ta đang ôm đầu, chí ít lúc này cũng đang quá giận dữ không thốt nên lời), và đứa nào đứa nấy ăn mặc đều bảnh chọe, điềm tĩnh, và trông hớn hở như gã đồng bọn kia. Nhà trú ẩn thấm đẫm mùi nước hoa đắt tiền.
“Garrotte,” Gã Số Mười to con nhất nói với gã cầm đèn chiếu laser, “Hãy là một người bạn tốt và kiếm về cho bọn tao một chiếc đèn xách, được không? Nhân đây mày nhắc đến pin, bọn tao nhường cả đèn pin của tụi tao cũng được.”
“Ý hay đấy, McCracken,” Garrotte đáp, đó là gã có râu quai nón, tai nhọn và có cái mũi tẹt nhất. Trong bộ comple đen, gã trông bạc nhược như một con dơi khổng lồ. “Mày có muốn ít đồ ăn nhân lúc tao đi kiếm không? Chúng ta sẽ có một bữa ăn ngoài trời lúc nửa đêm chứ?”
McCracken cười khùng khục. “Chỉ cần cái đèn xách tay thôi, cảm ơn Garrotte. Tao vẫn còn no sau bữa ăn tối.”
Thể hiện đúng bản chất công việc của bọn chúng, thái độ thoải mái của mấy Gã Số Mười có phần gây bối rối hơn là thái độ giận dữ và thô bạo đáng lẽ phải có. Quả thật, khó mà tìm thấy ai bị bối rối hơn bọn trẻ lúc này đây. Thậm chí Kate cũng đang trong trạng thái cảnh giác cao độ, không phải chỉ vì chúng đã bắt giữ (mặc dù điều đó có góp phần đôi chút) mà còn bởi cô bé đã nhận ra tên của Gã Số Mười to lớn nhất - McCracken – và đã biết tiếng tăm của gã.
Milligan đã từng nhắc đến gã trước kia. Là thủ lĩnh của tất cả bọn Số Mười, McCracken là kẻ khó nắm bắt nhất (Milligan chưa bao giờ rời mắt khỏi gã), và Kate có được cái vinh dự mơ hồ được gặp gỡ gã trước cả bố mình. Gã có dáng vẻ to lớn ấn tượng: một gã khổng lồ với đôi vai bành rộng, tóc nâu cắt ngắn hoàn hảo, đôi mắt xanh lơ sắc lẹm - nhưng tiếng tăm của gã còn gây ấn tượng hơn cơ. Theo lời Milligan kể, McCracken là Gã Số Mười nguy hiểm nhất trong tất cả, và giờ gã đang đứng đây, cười cợt chúng trong bóng tối.
“Mày đã có thể mở to đôi mắt bé xíu xiu của mày được rồi, bé con,” gã nói với Constance khi cô bé đang nhắm tịt hai mắt lại, cố gắng tưởng tượng mình đang ở nơi khác. “Mày biết là bọn tao vẫn cứ thấy mày cho dù mày không thấy chúng tao mà.”
“Để cô bé yên,” Sticky rít lên, không rõ lời mặc dù cậu định hét to lên. McCracken thậm chí chẳng để ý cậu vừa nói gì. Sticky nuốt khan, cố lấy lại giọng mình. Cậu đang trải qua cảm giác từa tựa như sự tan vỡ, không phải vì sợ hãi (mặc dù cậu rõ ràng đang lo sợ) mà là từ một cảm giác tràn ngập tủi thẹn. Mọi ý nghĩ về lòng kiêu hãnh hay sự an toàn cá nhân vẫn có lâu nay giờ bốc hơi khỏi cậu. Điều duy nhất Sticky muốn là cứu được các bạn cậu tránh khỏi những điều sắp xảy ra do sai lầm tệ hại của cậu. Tuy nhiên, cậu chưa thể cứu được các bạn - tài năng của cậu không phát huy được ở đây - và tâm trí cậu còn mòng mòng trong mớ lộn xộn toàn chán nản và thất vọng.
Reynie thì đang trong trạng thái tự tranh cãi với chính mình. Điều đập ngay vào suy nghĩ của cậu - một cảm giác khó chịu nhất - đó là cách McCracken đã nhanh chóng nắm bắt rồi kiểm soát được hoàn cảnh ra sao. Chỉ mất có vài phút gã đã biết bọn trẻ đang ở trong làng, suy ngay ra chỗ chúng sẽ trốn, nấp vào đống xà gỗ đợi chúng. Chính McCracken là kẻ nói vọng ra từ trên thanh xà gỗ, giọng rất nghiêm chỉnh: bọn trẻ khá khôn lỏi thế nghĩa là McCracken quả thực rất thông minh.
Reynie hít thở sâu vài nhịp. Nếu có bất kì cơ hội nào thoát khỏi đây, thì cậu nên bình tĩnh lại và suy nghĩ.
Trong khi đó Martina Crowe đã kiểm soát được cơn giận dữ, và ả bắt đầu quát tháo ra lệnh cho mấy Gã Số Mười. Trước sự ngạc nhiên của bọn trẻ, những Gã Số Mười dường như đều răm rắp nghe lời ả ta. Không đứa nào trong bọn có vẻ thích thú chuyện đó (mặc dù McCracken có vẻ khoái trá), nhưng cứ mỗi khi Martina mở miệng là chúng lại đáp lời, “Vâng, thưa sếp” và làm những gì ả sai bảo. Ả ta hẳn không giành được quyền hành này bằng chính các chiến tích của mình - lão Curtain hẳn đã giao quyền cho ả - nhưng bất chấp tất cả, đó là quyền của ả, và rõ ràng Martina thích thú nó.
Mệnh lệnh đầu tiên mụ ta đưa ra là sai McCracken trói bọn trẻ lại để chúng không bỏ chạy lần nữa. McCracken hiển nhiên là định làm thế - gã vừa lấy một đoạn xích mỏng mảnh từ trong cặp táp ra - nhưng gã chỉ mỉm cười và nói, “Vâng, thưa sếp” và làm cái việc gã vừa định làm. Cổ tay bọn trẻ bị còng vào nhau, Kate ở một đầu, tiếp đến là Constance, Sticky, rồi Reynie. Giờ thì McCracken trói bàn tay còn tự do của Reynie vào sợi xích mảnh kia, một thứ té ra trông chẳng khác gì một đống ghim giấy nối lại với nhau - thứ đồ mà một thương gia rảnh rỗi buồn chán có thể tự tạo ra trong khi ngồi tiếp một cuộc thương thảo dài qua điện thoại. Thực tế (vì McCracken đã vui vẻ giải thích) thì chiếc xích được làm từ kim loại chịu lực căng ở mức cao, hoàn toàn không thể bẻ gãy bằng tay không.
“Đến cả tao cũng không bẻ gãy được nó,” McCracken vừa nói vừa quấn đầu bên kia của sợi xích quanh một cái cột gỗ của nhà tránh bão, rồi siết chặt nó bằng một khoá móc. Gã nháy mắt. “Ấy thế mà tao lại rất giỏi đập phá mọi thứ đấy.”
“Hãy thôi hoà đồng với chúng nữa đi, McCracken,” Martina cáu kỉnh. “Đưa tao chìa khoá còng tay.”
Ả chìa tay ra vẻ hống hách, còn McCracken, với nụ cười tự mãn không giấu giếm, đặt rất nhẹ nhàng chiếc chìa khoá vào lòng bàn tay ả. Bọn trẻ nhìn chăm chăm chiếc chia khoá, dường như nó là biểu tượng hoàn hảo cho tình thế khó khăn của chúng. Chúng giờ nằm trong tay của Martina Crowe.
Còn Martina Crowe thì ghét bọn trẻ kinh khủng.
Thực tế thì Martina Crowe căm ghét hầu hết mọi thứ. Mụ ta đặc biệt ghét bọn trẻ, nhưng bọn trẻ lại chỉ là đại diện đứng đầu của cả một danh sách dài. Mụ ta cũng ghét sự yếu đuối và ngốc nghếch, và vì mụ ta coi hầu hết mọi hành động đều yếu đuối và ngốc nghếch, nên hai danh mục này lại chia thành nhiều danh mục con, rồi những danh mục con này lại chứa tiếp nhiều danh mục con trong đó, và cứ thế cho tới khi chỉ còn rất rất ít thứ nằm bên ngoài danh sách bị căm ghét của Martina. Tuy nhiên, một trong số ít ỏi đó lại là những mệnh lệnh quát tháo. Martina rất khoái ra các mệnh lệnh quát tháo, và đặc biệt khoái quát tháo bọn Số Mười. Mụ ta cũng thích thú phân chia công bằng, thế nên không gã nào bị bỏ sót cả. Ví dụ như, sau khi đã đòi được chiếc chìa khoá từ McCraken, Martina nhìn sang Gã Số Mười có râu quai nón và đeo kính vẻ rất hống hách, “Tìm cho ta cái gì để ngồi đi, Sharpe!” Tiếp đó mụ ta ra lệnh cho Garrotte, gã vừa quay về mang theo một chiếc đèn xách tay, bảo gã đặt nó xuống sàn nhà ở giữa phòng. Và cuối cùng, mụ ta búng ngón tay về phía Gã Số Mười thứ tư (một gã hói đầu có mỗi một bên lông mày - phía bên mắt trái - khiến gã lúc nào cũng có một khuôn mặt nhăn nhở châm biếm), rồi quát tháo, “Đóng cửa vào, Crawlings!”
Reynie chứng kiến Crawlings chốt cánh cửa ra vào với cảm giác vô cùng phiền muộn, như thể cậu ở trong nấm mổ vừa bị bịt kín. Cậu hy vọng Milligan chỉ đến trễ chút thôi, nhưng khi Milligan quay lại - giả sử ông có quay lại - làm thế nào mà ông cứu được bọn chúng nếu ông bị khoá bên ngoài? Rốt cuộc, ông đã chọn ngôi nhà này vì nó chắc chắn. Và cho dù ông có vào được bên trong, Milligan vẫn bị lép vế vô cùng so với bọn Số Mười, còn bọn trẻ thì vẫn bị xích và thậm chí không thể bỏ chạy.
Crawlings nhập hội với mấy Gã Số Mười còn lại bên cạnh chiếc đèn, Martina vừa ra lệnh cho bọn chúng tập trung tại đó. Sharpe, Gã Số Mười đeo kính, không tìm thấy ghế cho mụ ta ngồi, thế là Martina nhìn chiếc cặp của gã với vẻ thèm thuồng, nhưng không nói gì. Rõ ràng những chiếc cặp táp nằm ngoài giới hạn quyền hành của mụ ta. Chắc chắn mụ ta ghét điều đó.
“Chà, McCracken,” Martina chất vấn, “mày có muốn giải thích làm thế nào cô ả bỏ trốn được không?”
“Cô ả chưa bỏ trốn được mà,” McCracken cãi. Gã đang xỉa răng bằng đầu nhọn chiếc bút chì vừa cắm phập vào xà gỗ. Reynie vừa thấy gã rút nó ra từ thanh gỗ dễ dàng như thể một người nhấc chiếc đinh ghim giấy từ bảng tin. Kate cũng thấy thế, và há hốc mồm kinh ngạc.
“Cô ả chưa bỏ trốn ư?” Martina nhại lại vẻ châm chọc. Mụ ta nhìn xung quanh nhà trú ẩn và dang hai tay ra. “Ta không thấy cô ả. Cô ta đâu rồi? Cô ta đang trốn sau một xà gỗ nào à?”
“Cô ả đang ở trong rừng. Sharpe thấy cô nàng chạy về phía rừng cây, ta mới bảo anh ta làm nổ lối vào hầm, thế nên cô ta không thể đi tắt qua phía bên kia đảo được. Chúng ta có thể nhanh chóng theo dấu cô ta bây giờ.”
“Thế sao bây giờ không theo dấu cô ả luôn đi?”
“Mày không nghĩ rằng có thể chúng ta nên đàm phán với những bé cưng này trước à?” McCracken đáp. “Mày biết bọn chúng không phải tự dưng rơi ra từ không khí được. Phải có kẻ đưa chúng tới đây. Tốt hơn là tìm cho ra ngay đó là ai, mày không nghĩ thế à?”
Martina thừa nhận điều đó với tiếng làu bàu. Sự thực - khá rõ ràng mà mọi người trong phòng đều thấy – đó là mụ ta chỉ muốn tập trung vào bọn trẻ, nhưng lại nghĩ tốt nhất nên chứng minh rằng sự thất bại khi bắt Số Hai là lỗi của bọn Số Mười và không phải của mụ ta. Quay một vòng gót chân, mụ bước tới đứng trước Kate. Trong số mấy đứa trẻ, Martina đặc biệt nhắm sự thù hằn vào Kate, người phần lớn mang lại những rắc rối cho mụ ta khi ở Học viện (không nói năng gì trong vài phút qua).
“Mày giải thích ra sao về sự có mặt ở đây hả, Wetherall?” mụ ta vặn hỏi.
“Phép màu,” Kate đáp, bình tĩnh nhìn lại ánh nhìn chằm chằm của mụ. “Nhân tiện xin hỏi trán cô thế nào rồi? Cô có muốn xoa ít đá lên đó không.”
Reynie trông thấy Kate đang len lén luồn bàn tay không bị khoá vào trong giỏ. Đừng làm gì ngốc nghếch, cậu nghĩ. Đừng để bị thương, Kate.
Martina sờ lên vết thương sưng tím trên trán. Hai mắt mụ ta Ioé rực lên. “Còn mày có muốn xem vị trí của mình hiện giờ không hả?” Mụ ta giơ ra chìa khoá còng tay mà McCracken vừa đưa cho. “Mày có thấy nó không? Tao là người kiểm soát ở đây, Wetherall ạ, và mày là kẻ bị xích, thế nên nếu mày không muốn bị... “
Kate dậm mạnh lên chân Martina, chộp lấy chìa khoá trong tay mụ ta, và húc đầu vào ngực mụ.
Martina loạng choạng lùi ra sau, tiếng kêu vì đau đớn của mụ bị chặn lại vì cú húc đầu đã đánh thốc không khí khỏi ngực mụ ta. Mụ ta ngoảnh ra nhìn McCracken, mắt trợn lên giận dữ, và chỉ tay về phía Kate, cô bé đang dùng chìa khoá quờ quạng chiếc còng tay.
“Vâng, thưa sếp,” McCracken đáp lại mệnh lệnh không lời. Gã không giấu nụ cười thích thú của mình, nhưng cũng không lãng phí thời gian khi sải bước băng qua phòng và nắm lấy cổ tay Kate. “Ta đã thích thế này, nhóc con can đảm ạ,” McCracken dọa dẫm Kate “nhưng thế không có nghĩa là ta sẽ luôn thích thế.” Gã xiết chặt tay. Kate há hốc miệng kêu đau và xoè bàn tay ra. Chiếc chìa khoá rơi xuống sàn nhà.
McCracken kiểm tra chiếc còng tay. Chúng vẫn khoá chặt. Trong khi đó Martina đã vồ lấy chiếc chìa khoá và lùi cách xa tầm với của Kate. Đã lấy được hơi, mụ ta hổn hển, “Tao muốn mày... khiến... con bé đó... phải trả giá!”
“Vâng, thưa sếp,” McCracken vừa đáp, vừa mở vali của hắn ra.
“Martina, tôi nghĩ cô muốn biết làm thế nào mà bọn tôi tới được đây,” Reynie vội vàng nói.
Martina nhìn sang cậu đầy nghi ngờ. “Đừng cố đánh trống lảng thế, Muldoon. Cô bạn kênh kiệu của mày vẫn sẽ phải đau đớn cho đù mày có nói gì hay khi nào thì nói ra.”
Reynie nhún vai. “Ok, được thôi, nếu nó không quan trọng gì với cô - hoặc ngài Curtain - thì tôi chắc chắn có thể chờ để nói cho cô biết chuyện gì sắp xảy ra.”
“Cái gì sẽ... xảy ra ư?” Martina nhắc lại. Mụ ta trừng mắt nhìn cậu. “Ý mày là gì hả?”
“Nếu chúng tôi không quay lại thuyền vào sáng mai, Risker sẽ báo cho chính quyền,” Reynie đáp. “Nên tôi gợi ý cô hãy nghĩ cho kĩ về bất kể những hành động nào cô đang định làm bây giờ.”
Căn phòng rơi vào im lặng. Thế rồi bọn Số Mười quay qua nhìn nhau và bật cười phá lên. Martina cũng cười ha hả và lắc lắc đầu một lúc lâu trước khi nói, “Risker ư? Ý mày là cái gã nhút nhát háu ăn ở Thernbaakagen? Cảm ơn mày đã cảnh báo, Muldoon - tin đó thật hữu ích đấy - nhưng bọn ta quả thực không có gì phải lo lắng về một kẻ nào như Risker cả. Tao ngạc nhiên là gã lại xung phong đồng ý đưa bọn mày tới đây.”
Reynie đang cố hết mình để tỏ ra tiu nghỉu - tiu nghỉu nhưng ương ngạnh. “Đúng thế, ông ta đã đồng ý! Chúng tôi trả ông ta nửa số tiền ngài Benedict để cho chúng tôi và đồng ý sẽ đưa ông ta phần còn lại khi chúng tôi quay lại thuyền. Nhưng nếu chúng tỏi không quay lại, ông ta sẽ... “
“Tiền ở đâu?” McCracken ngắt lời.
“Chẳng có chỗ cho ngươi lấy tiền đâu”, Reynie đáp.
“Sẽ tìm được nó ở đâu?” McCracken hỏi tiếp. Gã lấy từ trong cặp táp của mình một chiếc hộp đựng xì gà, lắc nó, rồi đặt xuống nền nhà giữa hai chân Reynie. Một tiếng lách cách sắc và lạ phát ra từ bên trong hộp, tiếp theo là một tiếng két. McCracken lấy đầu mũi giày bóng lộn hích vào nó. “Ta có nên mở nó ra không? Hay mày muốn kể cho tao biết tiền ở đâu hả?”
Reynie nhìn chằm chằm vào hộp xì gà. Cậu bắt đầu toát mồ hôi. “Nó... nó ở trên thuyền. Giấu trong túi hành lí của tôi.”
McCracken kêu cùng cục vẻ cảm thông. “Rồi Risker bỏ đi, cậu bé thân mến. Gã đã lấy tiền của mày và bỏ đi. Mày thấy gã thuộc kiểu bạn hữu thế nào rồi đấy. Ồ, chúng ta sẽ kiểm tra cho chắc, nhưng tao nghĩ mày có thể tin chắc chắn rằng gã đã quên béng mày rồi. Làm thế nào mày lại biết về Risker, hử? Làm thế nào mày biết về hòn đảo này? Kể cho tao nhanh lên, và tao có thể sẽ cất chiếc hộp đi mà không mở nó ra.”
Trong khi mấy đứa trẻ còn lại lắng nghe với vẻ mù mờ - chúng chẳng hề biết Reynie định dẫn dắt tới cái gì - Reynie kể cho McCracken sự thật. Cậu kể về việc bọn chúng đã lén trốn gia đình đi tìm ngài Benedict và Số Hai. Cậu giải thích về manh mối mà ngài Benedict đã để lại cho bọn chúng như một phần của hành trình đáng kinh ngạc, về việc bọn chúng đã hy vọng ra sao khi bám theo các manh mối cho tới khi chúng tìm thấy hai người bạn của chúng, vào lúc thích hợp bọn chúng dự định sẽ liên lạc với Rhonda Kazembe. Cậu cho McCracken biết mọi điều - mọi thứ ngoại trừ Milligan và manh mối cuối cùng - và vì những điều Reynie kể ra đều có thực nên bài tường thuật trở nên vô cùng thuyết phục.
McCracken có vẻ khá ấn tượng. “Chúng mày tự mình thực hiện hành trình đó sao, các bé con? Trời, chúng mày táo bạo đấy!” Gã nhấc chiếc hộp xì gà lên và giữ nó thật gần khuôn mặt sũng mồ hôi của Reynie. “Có chắc mày không muốn nhìn lén vào không?”
Gã kêu cùng cục và lắc cái hộp, tiếng lách cách trong hộp vang to hơn. “Không ư? Không muốn gặp Pandora à?” Gã nhún vai và đặt chiếc hộp trở lại bên cái cặp.
Garrotte cất tiếng. “Bọn mày nghĩ sao, hả? Liệu Risker có gây phiền phức cho chúng ta không?”
“Tao không tin cho lắm,” Crawlings đáp. “Nếu gã đã lấy trộm tiền của đàn chim chích này rồi, thì gã không có vẻ sẽ liên lạc với chính quyền đâu.”
“Đừng có ngốc thế,” Martina cáu kỉnh ngắt lời, mụ ta đang tức giận vì bị gạt ra ngoài cuộc tranh luận. “Chúng ta vẫn cần báo cáo việc này cho ngài Curtain. Đưa cho tao điện đàm của mày, Crawlings.”
Crawlings nhướn bên lông mày duy nhất lên. “Ôi sếp thân mến, tôi chưa từng bảo chúng ta không nên báo cáo cả, phải không? Nhưng tôi e rằng điện đàm của tôi không dùng được.” Gã giả bộ trông rất hối tiếc. “Không có sóng thu ở trong hang, nhớ chứ?”
Martina lầm bầm nguyền rủa. Cô nàng hất tóc đầy ngạo mạn, “Thế thì tao cần đến chiếc Salamander. Garrotte, mày sẽ lái xe cho tao. Đám còn lại ở nguyên đây. Bọn tao sẽ không đi lâu đâu.”
“Tại sao không mang bọn trẻ theo?” McCracken hỏi.
“Bởi vì tao ra lệnh thế,” Martina gầm lên.
Mụ đề nghị không giải thích về điều đó, nhưng Reynie cảm thấy khá chắc chắn mụ ta đang nghĩ gì. Tại đây, trong nhà trú ẩn này bọn chúng còn ở dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Martina. Điều đó sẽ đổi khác một khi chúng được dẫn tới chỗ lão Curtain, và Martina không vội gì để việc đó xảy ra ngay cả. Chắc chắn mụ ta đã có trong đầu vài hình phạt hiểm ác dành cho chúng - có thể sẽ do mấy Gã Số Mười tiến hành, những kẻ phải tuân lệnh mụ - và sẽ không muốn bỏ lỡ mất cơ hội của mình. Mụ ta có lẽ ghét phải chờ đợi dù chỉ một phút nhưng mụ không dám trốn tránh đi báo cáo cho lão Curtain.
“Trước khi ta đi,” Martina nói, vừa chĩa ngón tay cái về phía Kate, “chúng ta phải mang cái giỏ của nó đi, và lục túi của nó. Con bé là kẻ quỷ quyệt. Lại đây, McCracken, mày giữ nó trong khi tao khám người nó.”
Mụ ta thật đáo để khi sai McCracken giữ Kate, vì cô bé rất có thể tặng cho mụ vài vết răng cắn. Khi việc diễn ra, Kate không sao thốt lên lời nào, thậm chí chẳng thở nổi vì Martina khám cô bé - rất là lưỡng và không hề nhẹ nhàng - từ đầu đến chân. Khi McCracken thả cô bé ra, Kate ngã quỵ gối, tay ôm chặt bụng và thở hổn hà hổn hển.
“Đấy mới chỉ là khởi động thôi,” Martina nói với nụ cười thoả mãn. “Chờ tới khi tao quay lại - rồi thì mọi thứ sẽ thực sự vui lắm đấy. Đi thôi, Garrotte. McCracken, mày hãy để mắt thật kỹ tới chúng, nghe rõ chưa? Tao không muốn bất kì cơ hội nào để chúng trốn thoát.”
“Chúng sẽ không trốn thoát được đâu.”
“Làm như tao bảo,” Martina nói. Mụ ta cười nhăn nhở nhìn Kate, cô bé đang cố đứng thẳng dậy, rồi mụ ta với lấy chiếc giỏ và Kate có thể thấy mụ xách theo nó bỏ đi. Khi mụ ra ngoài, nối gót là Garrotte, và McCracken chặn cánh cửa phía sau chúng lại.
“Sao phải chặn cánh cửa?” Crawlings thắc mắc. “Chúng ta sẽ lại phải mở nó khi quý bà quay về.”
McCracken làu bàu. “Mày là chiến hữu tốt, Crawlings ạ, nhưng mày vẫn chưa học phải thận trọng đúng mực.”
“Tao vẫn đủ cẩn trọng mà, phải không?” Crawlings cãi. “Ồ, chắc chắn thế, tao có một hai vết trầy xước thật, nhưng tao cẩn trọng mà, McCracken ạ. Tao sẽ đánh cược rằng tao cũng cẩn trọng như mày!”
“Nhưng mà tao đang có tới hai bên lông mày, còn mày thì không.”
Sharpe khúc khích cười. “Hắn thắng mày rồi, Crawlings!”
“Dù sao đi nữa,” McCracken dặn dò, “cứ có cái gì đó trong tất cả vụ này vẫn chưa phù hợp, và khi nào ta phát hiện ra đó là gì, ta muốn phải thật sẵn sàng.”
“Chúng ta có cần kiểm lại đồ không?” Crawlings hỏi.
“Cũng chẳng mất gì,” McCracken đáp. “Với cả chí ít làm thế sẽ giết bớt thời gian cho tới lúc quý bà quay về.”
Như thể đáp lại một hiệu lệnh vô hình, cả ba Gã Số Mười nhất loạt quỳ xuống, đặt cặp táp ra trước mặt. Chúng đang ở giữa căn phòng, chỗ ánh sáng từ chiếc đèn toả ra mạnh nhất, còn bọn trẻ - cũng nhất loạt - nao núng khi âm thanh khủng khiếp từ chiếc cặp táp phát ra khi được mở.
Bên ngoài, Salamander rền vang lao ra khỏi thị trấn. Rồi mọi thứ yên ắng, ngoại trừ việc bọn Số Mười đang làm bên đống cặp táp. Đó rõ ràng là một công việc nghiêm túc, đến mức mấy gã kiểm tra bên trong chiếc cặp với biểu cảm háo hức vui vẻ, thậm chí rất hân hoan, như thể chúng đang chọn chocolate từ trong một ngăn vali du lịch. Bọn trẻ sợ hãi chứng kiến chúng phơi ra những chiếc bút chì sắc nhọn được xếp ngăn nắp theo hàng; những chiếc bút mực nhiều màu khác nhau xếp phân thành từng loại; những chiếc máy tính bóng láng; hàng đống danh thiếp trắng lấp lánh; những chiếc dao rạch giấy được cất trong bao đựng bằng da có chữ viết lồng - và, dĩ nhiên, cả những chiếc đèn chiếu laser kinh hãi.
Crawlings giơ chiếc đèn chiếu của gã lên. “Mày nghĩ sao hả?” gã hỏi, vặn vẹo bên lông mày và hất cằm về phía bọn trẻ. “Tao có nên xén lấy cái đỉnh mũi của bọn chúng không? Tao đang nghĩ tới một bộ sưu tập.”
McCracken giận dữ. “Mày sẽ lãng phí phát bắn duy nhất cho một cái chóp mũi ư? Đó chính là cái tao nhắc đến phải thật là thận trọng đúng mực đấy, Crawlings.”
“Ổ, đừng nghiêm trọng quá thế,” Crawlings xuê xoa. “Ta chỉ đang khoe khoang với bọn chíp con kia thôi mà.” Hắn cười toe toét với bọn trẻ. Rõ ràng hắn rất khoái doạ nạt bọn chúng. “Dù sao đi nữa, mày biết là tao khoái dùng tới cái này.” Gã nhấc lên một thứ có vẻ như một chiếc bìa kẹp hồ sơ thông dụng.
McCracken gật đầu đồng tình. “Đấy là vì mày dùng nó quá giỏi.”
“Đúng thế,” Sharpe đế vào, vỗ vỗ lên lưng Crawlings. “Tao chưa từng thấy ai khéo léo với một chiếc kẹp...”
“Các ngươi chẳng khác gì một bầy quái vật!” Sticky buột miệng thốt lên, nhận ra cậu đã lấy lại được giọng mình, và bọn trẻ nhìn sang cậu choáng váng. “Sao các ngươi không ghê tởm chính mình nhỉ? Ý tôi là, hãy nhìn các ngươi xem! Các ngươi thích làm người khác đau đớn! Các ngươi chỉ giỏi dọa dẫm trẻ con!”
Cậu đột ngột im lặng, vừa có chút choáng váng vì sự bột phát của mình như mấy đứa còn lại vừa cảm thấy vô cùng hối tiếc. Ngốc nghếch cỡ nào mà lại muốn khích một Gã Số Mười nổi giận cơ chứ? Cậu còn chưa kịp nhận ra cậu đang nói nữa cơ. Vừa thở hổn hển, đầu óc mụ mẫm, Sticky ráng sức chờ phản ứng đáp trả.
Nhưng mấy Gã Số Mười chỉ nhìn sang cậu với nét mặt thích thú sảng khoái, còn McCracken khùng khục nói, “Bọn tao không khoái dọa dẫm trẻ con đâu, bé cưng. Đâu phải lỗi của mày khi mày vẫn còn là một thằng nhóc, phải không nào? Mày sẽ không muốn làm xao lãng bọn tao, phải không hả? Chúng tao có thể bực mình hơn đấy.”
Sharpe dùng chiếc bìa kẹp tài liệu quạt quạt cho mình. “Mày biết không McCracken, tao thấy nóng khi bị bực bội. Nó khiến tao muốn nới lỏng cà vạt.”
“Quả thực rất nóng,” Crawlings lầm bầm, giả bộ như lau cái đầu hói bằng khăn tay. “Tao cũng phải cởi cà vạt của tao ra thôi.”
McCracken nhìn trừng trừng chiếc khăn tay. “Tao nhắc lại một lần nữa, Crawlings. Thận trọng đúng mực.”
“Ổ, ơn trời, đừng cứ như vịt mẹ thế, McCracken. Tao sẽ không hỉ mũi vào nó đâu.”
McCracken và Sharpe bật cười, và Crawlings cẩn thận gấp chiếc khăn tay và trả nó lại vào trong túi. Bọn Số Mười quay lại với cuộc thảo luận ám muội của chúng.
Sticky đang lắc dữ dội chiếc còng tay lủng xủng xoảng của cậu. Cậu nóng lòng lau cặp kính của mình, nhưng với cổ tay bị trói vào Constance và Reynie thì khó mà làm được.
“Ổn rồi,” Reynie thầm thì. “Sẽ ổn cả thôi.”
Sticky nhìn sang cậu. “Làm thế nào?”
Reynie không biết. Cậu nhìn một đường sang Constance và Kate. Constance, rõ ràng bị ấn tượng bởi cơn bột phát của Sticky, vẫn nhìn cậu ta chằm chằm như thể chưa từng gặp cậu ta bao giờ. Cô bé có vẻ vẫn giữ tinh thần khá tốt. Kate thì trái lại vẫn ôm lấy bụng, và Reynie lóe lên ý nghĩ rằng McCracken hẳn đã làm cô bé bị thương. Cậu suýt định hỏi liệu cô có ổn không thì Kate đột ngột nghếch đầu sang một bên, còn Constance thì cứng người lại. Bọn chúng vừa nghe thấy tiếng gì đó. Kate siết chặt bàn tay cô bé con - như thể để dè chừng cô bé không thốt lên - và quay ra nhìn bức tường.
McCracken ngước nhìn lên. “Có chuyện gì thế, bé cưng? Mày không thích thấy bọn tao lấy đồ ra à?”
“Tôi nghĩ mình sắp nôn.” Kate đáp.
“Ê! Có phải tao vừa làm rối loạn ruột gan mày chút xíu hả? Vẫn thỉnh thoảng xảy ra thế đấy. Chà, nếu thế thì cũng là cô bé ngoan đấy nhỉ. Mày giải quyết việc của mày bằng cách tống ra phía bức tường, chỗ bọn tao không phải dẫm phải.” Gã quay lại với công việc bên chiếc cặp. Chiếc xích đủ chùng để Reynie và mấy đứa cùng túm tụm lại gần Kate và giả vờ như để an ủi cô bé. Thực tế thì bọn chúng đang chăm chú nhìn vào cái thứ Kate vừa phát hiện thấy và đang chú ý nhìn. Một mẩu khoan nhỏ xíu đang lách qua kẽ vữa giữa hai hòn đá trên tường. Mẩu khoan chỉ tạo ra tiếng lạo xạo rất khẽ như thể nó thọc xuyên qua vữa, không khác gì một con sâu có thể đào được, và tiếng kèn kẹt đó là cái cô bé vừa nghe thấy. Sau một lúc, mũi khoan rút ra, để lại một lỗ hổng cỡ con sâu, và thế vào đó xuất hiện một mẩu giấy được cuộn chặt. Kate lấy mẩu giấy. Đó là tin nhắn của Milligan:
Ở nguyên chỗ của con cho tới lúc bố xuất hiện. Rồi chạy thẳng ra cửa. Không được chần chừ dù chỉ một giây.
Kate truyền lời nhắn cho Constance, cô bé đọc xong rồi lại truyền cho hai cậu bạn.
“Mọi thứ ổn chứ?” Crawlings gọi với sang chỗ chúng. “Tống mất bánh quy ra rồi à, hả cưng?”
“Chưa đâu.” Kate đáp lại bằng giọng nói nghèn nghẹt.
“Để cô ấy yên!” Sticky hét lên, lại quên béng bản thân mình. Cậu giơ tay lên che miệng, vô tình giật cả tay Reynie và Constance cùng giơ lên.
“Bình tĩnh, Sticky,” Reynie nhắc nhở, mặc dù cậu không thể không nhận thấy rằng Constance có vẻ được lợi nhờ hành động vô ý của Sticky. Mỗi lần cậu ta chửi mắng bọn Số Mười, cô bé trông bớt sợ hãi hơn và trông càng giống với vẻ ngang ngạnh thường lệ của cô bé.
Sharpe khúc khích cười và thầm thì gì đó với mấy gã kia về “cái gã hói đầu chỉ trực nhăm nhe cái khăn tay.” Mấy đứa còn lại thì thào tán thành.
Mấy Gã Số Mười bắt đầu cất các thứ đồ vào cặp và giờ đang nói chuyện thấp giọng, với Reynie việc này có vẻ mang điều gở đối với bọn trẻ hơn là khi bọn chúng nói thẳng toẹt ra. Cậu cảm thấy ruột gan mình cũng lộn tùng phèo như lúc nãy Kate tỏ ra là thế. Milligan đang tới cứu chúng, nhưng làm thế nào bọn chúng có thể chạy ra phía cửa được chứ? Chúng bị xích cơ mà!
Constance nhìn cậu và thầm thì, “Nhưng làm thế nào chúng ta... anh biết đấy, làm thế nào chúng ta làm thế được?”
“Cứ yên đã,” Kate nói thầm. Cô bắt đầu ho, và nôn ọe, rồi khạc nhổ. Bên kia chiếc đèn, mấy Gã Số Mười nghếch mặt cười hô hố. Kate cúi đầu về trước vài lần như con gà mổ thóc, phát ra một tiếng nôn ọe kinh tởm cuối cùng, rồi im lặng. Trong giây lát, cô đứng chống tay trên gối, hít thở nặng nhọc bằng mũi. Rồi cô nhìn sang đám bạn, nháy mắt, và tặng chúng một nụ cười tươi roi rói.
Siết chặt giữa hàm răng cô là một chiếc chìa khoá.
***
Kate đã đánh tráo một trong những chiếc chìa khoá trang trại cũ của cô với chiếc khoá còng tay. Đó là lý do tại sao Reynie lại thấy cô luồn tay vào dưới chiếc giỏ - bấy giờ bằng cách lần sờ, cô tìm một chiếc chìa có thể đánh tráo với chiếc mà McCracken đã đưa cho Martina. Lường trước sẽ bị khám người, Kate đã nuốt chiếc chìa khoá còng tay và thả chiếc khoá trang trại khi McCracken túm được cô. Reynie hiểu tất cả ngay lập tức, nhưng Constance và Sticky chỉ nhìn chằm chằm, bối rối. Sao chúng lại không thấy McCracken phát hiện ra chiếc chìa nhỉ?
“Bọn tớ sẽ giải thích sau,” Reynie thầm thì. Cậu đang lo sợ tiếng mở khoá còng tay sẽ thu hút sự chú ý của mấy Gã Số Mười, nên cậu bảo Kate tiếp tục nôn ọe, và cô mau chóng áp dụng với vẻ vô cùng thích thú. Khi cô phát ra hết tiếng nôn này đến tiếng ọe khác, bạn bè cô túm tụm xung quanh như thể để an ủi cố, Kate mở tất cả khoá tay, và điều chỉnh chúng ở mức cổ tay đủ rộng hơn thích hợp. Bọn trẻ sẽ trông như vẫn bị còng tay, nhưng có thể dễ dàng tháo ra khi thời cơ đến.
Nhưng khi nào thì nó tới? Đó là câu hỏi cấp thiết nhất bây giờ, vì chúng cần sẵn sàng khi nó tới.
Bọn Số Mười đang đứng dậy, chiếc cặp táp của chúng đã được đóng gói và khoá lại, bọn chúng bắt tay một vòng như thể vừa kết thúc một cuộc họp dễ chịu. Milligan vẫn chưa xuất hiện. McCracken cài một chiếc bút chì sau tai và tiến lại gần bọn trẻ. “Nghĩ mà xem?” gã thốt lên với giọng điệu vui mừng kích động. Gã quỳ xuống trước mặt Constance, cô bé đang co mình lại, tránh cái nhìn của gã. “Mày là một chú vịt con may mắn, bé con ạ! Mày sẽ giúp McCracken!”
“Giúp ngươi?” Constance hỏi vặn.
“Ồ, phải! Mày thấy đấy, tao vừa lướt lại mọi thứ trong suy nghĩ và tao vẫn không thoả mãn với cái cách tất cả câu chuyện của bọn mày vừa vịn với nhau đến thế. Tao nghĩ bọn mày đang giấu giếm điều gì đó với McCracken lão làng này, bọn mày là những đứa trẻ hư hỏng, và tao sẽ tìm ra đó là gì!”
“Nếu ông không thích câu chuyện của tôi đến thế,” Reynie đáp, “thì sao không nói chuyện với tôi nữa?”
McCracken không rời mắt khỏi Constance. “Bởi vì theo kinh nghiệm của tao thì đứa bé nhỏ nhất thường sẽ nói tất cả những gì người khác không định nói.” Gã đặt một ngón tay nâng cằm Constance lên. “Ta nói đúng không, bé con? Ta có thể tin rằng nhóc sẽ nói cho ta bí mật của nhóc không?”
Constance nhìn chăm chăm vào cái bút chì sắc nhọn sau tai Gã Số Mười, và môi cô bé run lên. Tuy nhiên, quyết không khóc, cô nhăn mặt lại và hét lên dữ dội vào mặt McCracken - hét đủ to để khiến hắn cau mày và lùi lại. Cô bé thét to tới lúc hết cả hơi, rồi cô nhìn nhìn gã chằm chằm, thở nặng nề, mặt mày tím đỏ như màu mận chín.
McCracken nhìn cô bé như thể rất thật vọng về cô. “Giờ thì tại sao mày lại thế, bánh bơ? Tại sao mày lại muốn làm McCracken lão làng nổi giận hả? Mày không nhận ra rằng chuyến phiêu lưu ngắn ngủi của bọn mày đã kết thúc rồi ư? Bọn mày không nhận ra rằng giờ không còn ai tới giúp được bọn mày nữa ư?”
“Đấy là ngươi nghĩ thế thôi!” Constance bật lại.
McCracken nhăn trán lại. Nheo nheo đôi mắt xanh, lão săm soi cô bé con với vẻ mặt lạnh lùng và sắc sảo. Constance trông như thể vừa nuốt phải bọ cạp và đang cầu khấn nó sẽ không chích cô trong lúc trôi xuống.
“Tại sao ư, tao không tin cái cách mày kể về kẻ giống như Risker,” McCracken theo dõi. “Ôi khỏng. Không phải anh bạn đáng thương ở tít xa xôi trên con thuyền của mình. Bọn mày đang mong chờ ai khác, phải không?”
“Đúng, thế đấy!” Reynie đáp, hy vọng McCracken có thể nghĩ cậu đang nói dối vì tuyệt vọng. “Chúng ta đang chờ...”
“Im đi,” McCracken đáp, chỉ ngón tay đe dọa về phía Reynie. “Không nói một lời lừa bịp nào nữa.” Gã quay sang bọn Số Mười còn lại. “Có ý gì về việc này không?”
Lông mày Crawlings nhướn lên. Gã búng ngón tay tách một cái, thò vào trong túi áo khoác, và lôi ra khẩu súng pháo sáng của Milligan. “Một gã hói còm nhom làm rơi nó! Tao nghĩ bọn trẻ đã dùng nó để ra hiệu cho nhau.”
“Đúng thế chứ?” McCracken vừa hỏi và gãi gãi đầu. “Một khẩu súng pháo sáng ư? Chà, mày mới ngớ ngẩn làm sao, Crawlings! Chúng không cần một khẩu pháo sáng để ra hiệu cho nhau - tất cả bọn chúng đều ở đây, trong làng này. Thế thì mày nghĩ ai là anh bạn thực sự đã báo hiệu hả?”
“Không ai cả. Hắn đã làm rơi nó trước khi kịp bắn pháo sáng.”
“Có thể, Crawlings ạ, nhưng mày có nghĩ vụ giúp chúng ta làm nổ tung lối vào đường hầm coi như một cách thay thế rồi à?” McCracken mím chặt môi. “Mày nên leo lên xà gỗ. Sharpe, mày ra mở then cửa. Chúng ta muốn cho việc vào trong này dễ dàng hơn.”
Crawlings nháy mắt với bọn trẻ bằng mắt phải - bên mắt không có lông mày - khiến khuôn mặt gã trông lệch xéo một bên thật kì quái. Tầm nhìn đó quả là đáng lo, nhưng đáng lo hơn là cách gã leo lên một trong những xà gỗ như nhện, và biến mất vào đám xà bị che khuất sáng.
Những Gã Số Mười đang sắp đặt một cái bẫy.
Reynie nhìn sang bạn mình lo lắng. Kate hết nắm lại duỗi bàn tay, không nhìn vào mắt ai cả, quá bối rối không thốt nên lời. Constance bắt đầu bật khóc, và với khuôn mặt não nề, Sticky dỗ dành cô bé đừng cảm thấy buồn, rằng bọn chúng rơi vào mớ lộn xộn này là do cậu ta chứ không phải do cô bé.
“Đúng thế,” Constance sụt sịt. Rồi cô chuyển sang thái độ rất tập trung, như thể cô bé vừa cảm thấy gì đấy, và một lát sau, bọn chúng nghe thấy tiếng ầm ầm của Salamander.
“Đấy là Garrotte và Martina,” Sharpe vừa nói vừa từ cửa đi vào và đang nới lỏng cà vạt.
“Có thể thế và có thể không,” McCracken đáp. Gã tắt chiếc đèn đi, khiến cả căn phòng chìm trong bóng tối đen. “Chúng ta sẽ chờ và xem ai bước qua chiếc cửa kia.”
McCracken nhanh chóng có câu trả lời: Rốt cuộc không có ai bước qua cánh cửa cả. Thực tế, trước sự kinh ngạc của mọi người trong nhà trú ẩn, cánh cửa tự nó không còn ở đó nữa.
Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 2: Giải Cứu Ngài Benedict Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 2: Giải Cứu Ngài Benedict - Trenton Lee Stewart Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 2: Giải Cứu Ngài Benedict