Anyone who says they have only one life to live must not know how to read a book.

Author Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Phạm Thùy Linh
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 29
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:39 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 144
ột câu của hiền thê, Tào Tháo thức tỉnh
Kìm kẹp ngoại thích
Lão thần chết oan khiến chúng nhân đều cảm thấy thương tiếc, nhưng không khí đau buồn ở Nghiệp Thành cũng không kéo dài bao lâu, triều đình nước Ngụy trở lại bình thường, kế hoạch chiếm đoạt thiên hạ của nhà Hán vẫn đang được thực hiện, có thiếu ai cũng chẳng ảnh hưởng gì. Chỉ là các quan thấy thỏ chết, cáo than khóc mà thôi, hơn nữa họ cũng đề phòng, hành sự cẩn thận hơn, ngoài việc cảm thấy mọi chuyện mờ mịt và sợ hãi ra, thì không còn lưu lại điều gì.
Nửa tháng sau khi Hứa Đô ra chiếu thư, tấn phong con gái của Ngụy Vương làm công chúa và hưởng phong ấp; tiếp đến lại nhận được tin, thủ lĩnh Phổ Phú Lô của người Ô Hoàn ở quận Đại muốn đến Nghiệp Thành chúc mừng.
Hai chuyện này có vẻ bình thường, nhưng đằng sau lại có ý nghĩa quan trọng: Từ trước đến nay chỉ có con gái của hoàng đế và con gái trong tông thất mới được phong làm công chúa, chuyện con gái của Tào Tháo được sắc phong đã phá vỡ luật lệ này, đánh dấu về mặt bản chất hoàng tộc đã chuyển từ họ Lưu sang họ Tào. Trên danh nghĩa Ô Hoàn là dân tộc thiểu số quy phục vương triều nhà Hán, nay thủ lĩnh của người Ô Hoàn không đến bái kiến thiên tử nhà Hán, mà lại đến bái kiến Ngụy Vương, có nghĩa là các nước phiên thuộc của đại Hán cũng đã thuộc về Ngụy quốc. Nói tóm lại, cùng với sự dịch chuyển về quyền lực thực tế, tất cả những gì liên quan đến triều đại nhà Hán đã dần dần rơi vào tay Tào Tháo.
Chuyện sắc phong công chúa tất nhiên xuất phát từ chủ ý của Tào Tháo, còn chuyện của thủ lĩnh Ô Hoàn đến chúc mừng cũng đã được suy tính. Khi xưa, trong số các bộ lạc Ô Hoàn che chở cho huynh đệ Viên Thượng, đối đầu với Tào Tháo, không có người Ô Hoàn ở quận Đại, mà Phổ Phú Lô chủ động đầu hàng, hơn nữa cùng với việc U Châu sáp nhập vào lãnh thổ Ngụy quốc, Ô Hoàn ở quận Đại thực tế cũng đã bị Ngụy quốc khống chế, Tào Tháo muốn triệu đến lúc nào thì Phổ Phú Lô phải đến lúc đó. Tất cả đều đã được sắp xếp sẵn, có thể Tào Tháo muốn mượn sự quy hàng của dân tộc thiểu số để tăng thêm uy phong của mình, để dựng lên cảnh quốc thái dân an, tiếng lành bay đi khắp nơi, che đậy những điều xui xẻo mà ông gặp phải kể từ khi xưng vương. Sự thật đã chứng minh, cách này đúng là có hiệu quả, ít nhất là quan dân Nghiệp Thành đã tạm quên đi chuyện nhật thực và hạn hán để hòa vào không khí mừng đón khách phương xa, chỉ trừ có một người không vui, đó là Ngũ quan tướng Tào Phi.
Những người ủng hộ Tào Phi có Từ Dịch đã bị bãi quan, Thôi Diễm, Mao Giới cũng lần lượt bị Tào Tháo bức hại, đây đúng là đòn hủy diệt. Nhiều người đã coi việc lập Lâm Tri hầu làm thái tử là vô cùng chắc chắn, những ai ủng hộ Ngũ quan tướng sẽ có kết cục không mấy tốt đẹp, ngay cả những nguyên lão đại thần như Thôi, Mao cũng khó thoát khỏi cái chết, ai còn dám bước sang phe của Ngũ quan tướng? Tào Phi có thể cảm nhận rằng mình đã trở thành một người không mang lại may mắn, những người trước đây cung kính nghênh đón giờ cứ nhìn thấy y là trốn, Lưu Trinh, Ứng Cừ trước đây thường xuyên qua lại, bây giờ cũng không đến nữa, thậm chí cả mấy Văn học thị tòng trong phủ cũng không dám đến gần y, hoặc là cáo bệnh, hoặc là từ chối, phủ đệ ngày càng vắng vẻ, tiêu điều.
Ngô Chất ở mãi tận Triều Ca, không còn hy vọng được trở về; Hạ Hầu Thượng không có quyền hành, chẳng giúp được gì; Tư Mã Ý bị Tào Tháo để mắt đến nên chỉ chú tâm làm việc, không dám đến phủ Tào Phi; Tào Chân, Tào Hưu cả ngày ở trong quân doanh, lại chịu ràng buộc vì là người thân. Bên cạnh Tào Phi không có một ai có thể dựa vào, trong lúc khốn cùng, y ngây ngô tìm đến Biện Bỉnh, hy vọng người cậu này có thể giúp đỡ…
Biện Bỉnh hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu “nguyên lão Tào doanh”, ông ta đã cùng Tào Tháo đánh nam dẹp bắc, thường xuyên đốc thúc việc quân, vì lập được nhiều công lao nên được phong làm Đô Hương hầu, nhưng chức vị cho đến nay vẫn chỉ là Biệt bộ tư mã. Có thể do Tào Tháo đã rút ra bài học từ việc nhà Hán vì trọng dụng ngoại thích mà gây loạn triều đình nên cố tình không thăng quan cho ông ta. Ba năm trước, đồn điền có xảy ra vụ án tham ô, vì Biện Bỉnh không giám sát kỹ nên bị Tào Tháo khiển trách, cảm thấy oan ức. Từ đó ông ta luôn miệng nói bản thân có bệnh, không xuất hiện nhiều, ngay cả vương cung cũng ít khi đến. Dẫu sao Biện Bỉnh cũng là em vợ của Tào Tháo, các quan đều phải đến thăm hỏi, nhưng lúc nào ông ta cũng nằm trên giường, cơm rượu vẫn ăn uống đều đều, lớn tiếng sai bảo người hầu, cũng không biết là bệnh thật hay bệnh giả.
Tào Phi trong lòng buồn bực tìm đến cữu phụ, không ngờ khi đến thăm đã thấy Lâu Khuê, bằng hữu cũ của Tào Tháo đến trước, kể lể những oan ức, lôi thôi cả nửa ngày. Xét về quan hệ riêng tư, Tào Phi vẫn phải gọi Lâu Khuê là thúc phụ, hơn nữa Lâu Khuê đang là khách của cữu phụ nên cũng không tiện quấy rầy, chỉ im lặng ngồi nghe. Nhi tử của Biện Bỉnh là Biện Lan cũng có ở đó, vừa đấm lưng cho phụ thân, vừa rót nước mời khách.
— Mê muội, đúng là mê muội. - Vị tướng quân họ Lâu có chức mà không có quân vừa nói vừa lắc đầu, chòm râu cũng đung đưa theo, - Ngay cả Mao Hiếu Tiên cũng bị ông ta làm cho tức chết, nếu không phải là mê muội thì là gì? Năm xưa huynh đệ cùng nhau đánh giặc, thân thiết như vậy, nay lại trọng dụng thằng nhãi ranh như Đinh Nghi. Nếu như ta phụ trách việc tuyển quan…
— Thôi đi, thôi đi. - Biện Bỉnh dựa vào giường, vỗ vào đùi Lâu Khuê, - Cũng có thiếu bổng lộc của ông đâu, được nhàn rỗi thì cứ nhàn rỗi, bận tâm làm gì?
— Nhưng ta tức! - Lâu Khuê nói, - Người tốt thì coi như rác rưởi, kẻ ác thì quý như ngọc vàng, cũng bạo ngược chẳng khác nào vua Trụ, đầu óc u mê. Ông ta vừa xưng vua được mấy ngày mà đã mê muội, ngày sau còn làm những chuyện gì nữa? - Theo lý mà nói, trước mặt tử tôn nhà người ta không nên nói những điều không phải về phụ thân họ, hơn nữa phụ thân của người ta lại là vua một nước, nhưng Lâu Khuê không thèm để ý, càng mắng to. Tào Phi dù sao cũng là phận con cháu, lại có quan hệ họ hàng nên cũng không dám nói gì, chỉ biết quay mặt đi.
Biện Bỉnh cảm thấy khó chịu:
— Lâu Tử Bá, lão già lắm mồm này! Nói đi nói lại cũng chỉ có mấy việc này, mà cứ đến chỗ ta cằn nhằn, khiến ta đau hết cả đầu, rảnh việc thì về nhà mà ngủ không tốt hơn sao?
— Được, được! - Lâu Khuê miễn cưỡng đứng dậy, lẩm bẩm đi ra ngoài, - Ta không ở đây làm ngứa mắt cậu cháu nhà ông nữa, uổng công bao nhiêu năm thân tình, có mấy câu cũng không muốn nghe ta nói…
Biện Bỉnh không động đậy:
— Đi đi, ta có bệnh không tiện tiễn. Khụ, khụ, khụ!… - Nói xong ho khan mấy tiếng.
Lâu Khuê quay lại cười khẩy:
— Ông giả vờ gì chứ!
— Điệt nhi xin tiễn Lâu thúc phụ. - Tào Phi vội đứng dậy.
— Tử Hoàn đứng lại. - Biện Bỉnh không ho nữa, - Lan nhi, con tiễn khách đi!
— Vâng! - Biện Lan không giống như phụ thân của mình, lúc nào cũng kính cẩn thủ lễ lại kiệm lời, vội chạy theo vén rèm cửa cho Lâu Khuê, tiễn ra khỏi phủ.
— Đến đây. - Nhìn thấy Lâu Khuê đi xa, Biện Bỉnh mới vẫy tay gọi Tào Phi, - Sau này tránh xa cái tên họ Lâu đó ra, tên này sớm muộn cũng có ngày gặp họa! Dám đem phụ thân cháu ra so sánh với Thương Trụ, nếu lời này truyền ra ngoài thì sao? Người trong nhà thì nói thế nào cũng được, nhưng ông ta là người ngoài mà dám can dự vào, không gặp chuyện mới lạ!
Tào Phi đến trước giường:
— Tiểu điệt thấy ông ấy cũng lớn tuổi, nên không để bụng được.
— Hừm! Ta thấy có mà hắn tự cho mình là cao quý, luôn cảm thấy thiên hạ không có ai bằng hắn. Phụ thân cháu được làm vua nên hắn tức giận, đố kỵ! - Vừa nói thì Biện Lan bước vào, Biện Bỉnh lại nói, - Con à, nói với nhà bếp, trưa nay ta muốn ăn gà, bảo họ hầm hai con. - Tào Phi muốn cười nhưng không dám cười, đây là mức ăn của người ốm sao?
Biện Lan rất chu đáo:
— Ngũ quan tướng đã đến, chi bằng…
— Không cần phải mời mọc. - Biện Bỉnh cười nói, - Trong lòng Ngũ quan tướng đang có chuyện, không nuốt nổi đâu, con đi đi, ta không gọi thì chớ vào.
— Vâng. - Biện Lan lễ phép chào Tào Phi, đoạn lui ra ngoài.
Tào Phi thấy Biện Bỉnh biết mình có tâm sự, đang suy tư thì ông ta lại than rằng:
— Sao ta lại sinh ra được đứa con thế này. Cháu nói xem, nó chẳng giống ta điểm nào! Hai mươi tuổi đầu rồi mà chẳng biết chuyện gì, cả ngày chỉ biết vùi đầu đọc sách, phụ thân nó có biết nhiều chữ đâu mà vẫn được phong hầu đấy thôi. Sao ta cứ nhìn thấy nó là tức quá đi!…
Trong lòng Tào Phi rối bời nhưng vẫn khuyên Biện Bỉnh:
— Tiểu điệt thấy đệ ấy am hiểu kinh thi, lại hiểu biết lễ phép, sau này ắt sẽ thành một vị quan tốt.
Nào ngờ Biện Bỉnh đột nhiên cười nói:
— Đúng vậy, người làm cha luôn cho rằng bản thân mình giỏi lắm, nhìn con cái không thấy thuận mắt, ta và phụ thân của cháu đều mắc phải tật này. Cháu có nghĩ vậy không?
Tào Phi ngạc nhiên:
— Cữu phụ…
— Hừm! Ta biết cháu từ nhỏ đến giờ, cháu có chuyện gì sao giấu được ta? - Biện Bỉnh nói, - Thôi Diễm, Mao Giới đều đã chết, không ai dám đứng về phía cháu, chưa kịp làm thái tử đã cô độc lẻ loi. Có phải cháu muốn ta nói giúp mấy lời tốt đẹp trước mặt phụ thân?
Tào Phi nghe vậy liền quỳ sụp xuống, hai mắt ngấn lệ:
— Cữu phụ, cữu phụ thương lấy tiểu điệt, oan ức quá…
— Xem bộ dạng cháu kìa! Khóc với ta thì làm được gì?
Tào Phi ôm lấy chân cậu:
— Cữu phụ thương tiểu điệt nhất, những năm qua, tiểu điệt chưa bao giờ quên hiếu kính với cữu phụ. Dù sao cữu phụ cũng đã theo phụ thân cháu hơn ba mươi năm, bên ngoài phụ thân lạnh lùng, nhưng bên trong luôn xem trọng cữu phụ! Hiện nay không còn là chuyện làm hay không làm thái tử, huynh đệ Đinh Nghi nhiều lần gièm pha, Khổng Quế giậu đổ bìm leo, Triệu thị, Lý thị cũng hùa theo, họ muốn bức chết tiểu điệt, cữu phụ phải cứu tiểu điệt! - Không cần phải giữ thể diện với người thân của mình, Tào Phi chỉ tiếc là không thể nhõng nhẽo như đứa trẻ năm xưa đòi cữu phụ cho kẹo.
— Ây dà… - Biện Bỉnh thở dài, - Ta không giúp nổi cháu.
— Cữu phụ đối với tiểu điệt tốt thế cơ mà, hay cữu phụ cũng đứng về phía Tử Kiến?
Biện Bỉnh lắc đầu, dường như đang tự nói với mình:
— Nếu nói về tình cảm đối với huynh đệ cháu, thực ra ta rất thích tính cách của Tử Kiến. Nhưng nếu chọn người làm thái tử, cháu vẫn là người thích hợp nhất!
— Tại sao? - Tào Phi cảm thấy có chút an ủi.
— Vì cháu giả dối, biết vờ vịt!
Tào Phi há hốc miệng:
— Cữu phụ nói gì vậy?
— Đừng xấu hổ, ta không có ý chê cháu. - Biện Bỉnh đẩy y ra, từ từ nói, - Cháu nhìn phụ thân cháu, ngay cả việc nhận chiếu thư cũng phải từ chối rồi trả lại ba lần, làm đến tước vương rồi nhưng vẫn mặc quần vá, đúng là vị biết giả vờ. Nói một câu rút ruột rút gan là “Đế vương luôn phải biết giả vờ”. Giả như cháu là hoàng đế, cháu muốn ăn cháo, người hầu sẽ làm cho cháu ăn, ngày nào cũng nấu cháo cho cháu; cháu muốn ăn hồng, họ sẽ ngày ngày mang hồng cho cháu. Nhưng nếu cháu thích tiền vàng, họ sẽ vì muốn thăng quan tiến chức mà mang tiền của thiên hạ đến cho cháu, như vậy bách tính liệu có để yên?
— Cữu phụ đang nói đùa sao ạ?
— Nói đùa? - Biện Bỉnh trừng mắt, - Tại sao thiên hạ của Hiếu Linh Đế lại loạn? Tấm gương ngay trước mắt chứ đâu phải là lời nói suông? Bậc quân vương nếu không biết che giấu tâm tư của mình thì sẽ gây ra rắc rối lớn. Tử Văn và Tử Kiến đều không giỏi che đậy bằng cháu, cháu biết kiềm chế trong mọi việc, giống như… Lan nhi khi đọc sách thường nhắc đến hai từ, gọi là…?
— Thận độc(*)?
— Đúng! Chính là “độc(*)” gì đó, cháu là người “độc” nhất! - Biện Bỉnh trầm ngâm rồi nói tiếp, - Hơn nữa hai đứa nó, một người giỏi văn, một người giỏi võ, đều không song toàn. Có thể Tử Kiến có phong thái khá giống phụ thân cháu lúc trẻ, nhưng tính tình thì lại không giống. Nó cũng không phải là đứa giấu giếm được mọi việc, còn rất non nớt! Văn của cháu không bằng Tử Kiến, võ không bằng Tử Văn, nhưng lại biết quan hệ tốt với các quan viên kẻ mới người cũ, nói chung mọi thứ đều có thể chấp nhận được, có một câu nói thế nào nhỉ… câu nói của nho sinh…
— Trung dung(*)?
— Đúng! Chính là cháu hữu dụng(*)! - Biện Bỉnh tuy ít chữ nhưng lại suy nghĩ rất sâu sắc, - Cháu là huynh trưởng, thiên hạ chưa định, không lập cháu thì lập ai? Phụ thân cháu định lập thứ, sau này mọi người đều bắt chước, vậy thì làm trưởng còn nghĩa lý gì? Nếu cả thiên hạ này đều là của họ Tào thì không nói làm gì, nhưng vẫn còn Lưu Bị, Tôn Quyền chưa biết bao giờ mới diệt được, giặc ngoài còn chưa trừ mà huynh đệ trong nhà đã đánh nhau mất rồi! - Chế độ tông pháp qua miệng của Biện Bỉnh được giải thích như vậy, tuy thô lỗ nhưng là sự thật.
Tào Phi nghe thấy lời này, không khỏi vui mừng:
— Vậy xin cữu phụ hãy khuyên phụ thân, lập tiểu điệt làm thái tử.
— Cháu đúng là có bệnh thì vái tứ phương. - Biện Bỉnh cười khổ, - Không phải là ta không muốn giúp cháu, mà là lời nói của ta vô dụng, phụ thân cháu sợ ngoại thích can dự vào chính sự, ta giúp cháu chính là hại cháu. Hơn nữa cả ba huynh đệ cháu đều chui ra từ bụng tỷ tỷ ta, ta thân là cữu phụ thì không thể chỉ nói giúp cho cháu. Đừng nói là phụ thân cháu không thuận mắt mà tỷ tỷ ta cũng không đồng ý!
— Ôi… - Tào Phi thẫn thờ ngồi bệt xuống đất, - Tiểu điệt phải làm thế nào đây, nay Đinh Nghi ngày càng bức ép, phụ thân lại không nghe tiểu điệt giải thích, ai có thể giúp?
— Cháu đọc sách đều vứt đi cả rồi sao! - Biện Bỉnh không giả ốm nữa, ngồi bật dậy, - Ngay cả ta cũng đã từng nghe nói, năm xưa Cao Tổ cũng tự chê mình vô dụng, muốn phế thái tử, sau đó Lã Trĩ đi tìm Trương Lương để hỏi kế sách, lên núi mời bốn lão già làm nghề buôn bán, kết quả…
— Thương sơn tứ hạo.(*) - Tào Phi chau mày, - Đó là ẩn sĩ, không phải là thương nhân.
— Ta biết rồi! - Biện Bỉnh không thể nhẫn nại thêm, - Cháu phải tìm cao nhân giúp.
Tào Phi than thở:
— Thôi Diễm còn không được coi là cao nhân sao? Lão thần trong triều cháu đều rất kính trọng, Tân Tỵ, Hoàn Giai đều nói đỡ cho cháu. Mấy ngày trước cháu còn tặng Chung Do…
— Cháu tìm mấy người đó không ích gì! Họ không hưởng bổng lộc của phụ thân cháu sao?
— Dạ? - Tào Phi ngạc nhiên, dường như đã hiểu ra.
Biện Bỉnh cười:
— Tiểu tử ngốc này, nghĩ rộng ra. Họ có tiếng tăm đến mấy cũng vẫn là quan nước Ngụy, lợi ích của gia tộc đều nằm cả trong đó! Trong mắt phụ thân cháu, những đại thần này có nói cháu tốt cũng không phải thực lòng, mà họ chỉ muốn làm công thần phò tá, nên càng giúp càng hỏng việc, nếu làm không tốt còn kéo họ vào rắc rối. Cái chết của Thôi Diễm và Mao Giới lẽ nào lại không liên quan đến việc này?
Lúc này đầu óc Tào Phi như bừng tỉnh: Đúng vậy, việc trở thành công thần phò tá sẽ mở ra nhiều cơ hội tiến thân, nếu sau này được lập, những người phò tá sẽ có nhiều lợi lộc, phú quý của gia đình họ cũng phụ thuộc vào điều này, chẳng trách phụ thân lại nghi ngờ.
Biện Bỉnh cười, vỗ vai y:
— Cao nhân tất nhiên phải mời, nhưng không phải là ta, cũng không phải là người của triều đình hay mạc phủ. Cháu phải tìm người ngoài, người mà không bị ràng buộc bởi lợi ích, tốt nhất là người có tiếng tăm, thông minh mưu trí và được phụ thân cháu khâm phục.
Tào Phi bắt đầu suy nghĩ: Người ngoài cuộc, không tính toán thiệt hơn, lại phải thông minh mưu trí và được phụ thân coi trọng, là ai mới được?
Thiên sư quy tiên
Tháng Năm năm Kiến An thứ hai mươi mốt, thủ lĩnh người Ô Hoàn ở quận Đại là Phổ Phú Lô đến Nghiệp Thành chúc mừng, tin tức truyền khắp thiên hạ. Thiền vu Hung Nô là Hô Trù Tuyền cũng ngồi không yên.
Từ khi nhà Hán rối loạn, quân Hung Nô mấy lần đối đầu với Tào thị, đầu tiên vào năm Sơ Bình, họ đã bắt tay với Viên Thuật quấy rối Duyện Châu, sau đó lại có quan hệ mập mờ với Cao Cán - cháu của Viên Thiệu, thậm chí trong chuyện Mã Siêu làm loạn cũng có bóng dáng của quân Hung Nô. Thiền vu Hung Nô Hồ Trù Tuyền cũng hiểu rõ sự chênh lệch về thực lực giữa hai bên, cho nên đành nhẫn nhịn khi Tào thị thay đổi các quận huyện của Tịnh Châu. Nay Phổ Phú Lô đến chúc mừng Ngụy quốc là tín hiệu rõ ràng cho thấy các nước chư hầu của nhà Hán sẽ rơi vào tay nước Ngụy, Ô Hoàn đã quy thuận, Hung Nô muốn được yên ổn thì không thể không theo con đường này. Vì vậy, Hồ Trù Tuyền quyết định sẽ chủ động, dẫn đầu thủ lĩnh các bộ lạc đến Nghiệp Thành chúc mừng.
Năm xưa lưu lạc ở Trung Nguyên hộ giá Lưu Hiệp về đồng, Hung Nô Hữu Hiền Vương Khứ Ty đã từng gặp mặt Tào Tháo, thế nên Hô Trù Tuyền cử Khứ Ty đi tiền trạm, đến Nghiệp Thành tỏ lòng tôn kính với Ngụy Vương, để biểu thị tấm lòng trung thành với Đại Ngụy, còn tặng một danh sách các bộ lạc Hung Nô. Tào Tháo rất vui mừng, mở tiệc khoản đãi ở vương cung, không chỉ có các quần thần liệt hầu đến dự, mà ngay cả những lão thần lâu rồi không tham dự triều chính cũng tham gia, lại sắp xếp cho Trương Lỗ ngồi bàn thứ hai, để Thiên sư tiếp khách và chúc rượu Hữu Hiền Vương. Yến tiệc vui vẻ cũng đến gần giờ hợi mới tàn.
Theo quy định của Thiên sư đạo, giáo đồ không được uống rượu, Trương Lỗ là người đứng đầu càng phải tuân theo, nhưng Ngụy Vương có lệnh lẽ nào không phục tùng? Hơn nữa, Tào Tháo còn đặc biệt chuẩn bị cho họ loại rượu hoa quả, nếu không uống làm sao có thể khiến Khứ Ty vui vẻ? Trương Lỗ miễn cưỡng phá giới, nhưng có lẽ do nhiều năm không uống, mới uống có vài chén đã say, vừa mới ra khỏi cung lên xe đã thấy chóng mặt.
Lúc đầu Trương Lỗ không chú ý, nghĩ rằng nghỉ ngơi một lúc sẽ đỡ, nào ngờ bụng dạ bỏng rát, mỗi lúc một khó chịu, giống như bị dao cứa, sau thấy mồm miệng khô khốc, hai mắt lờ mờ, mới biết là có chuyện không hay: Hẳn là trong rượu có độc! Ngụy Vương muốn trừ khử ta! Hôm đó giết Mã Thu, trong lòng ta chần chừ, lẽ nào họa là từ đây? Nếu vì chuyện này mà giết ta thì quá đơn giản, Thiên sư đạo đã có mấy vạn giáo dân, nay họ lại đi khắp nơi giảng đạo, Tào Tháo là người tàn ác, lâu nay đã muốn soán quyền nhà Hán, thống nhất thiên hạ, há lại để ta sống trên đời?
Biết rằng tính mạng đang gặp nguy hiểm, nhưng Trương Lỗ vẫn vô cùng bình tĩnh, không nghĩ cách nôn rượu ra, cũng không tìm cách giải độc; chỉ thúc phu xe đi nhanh về phủ, còn mình ngồi niệm kinh bắt quyết, chịu đựng đau đớn. Không lâu sau thì về đến phủ, Trương Lỗ cảm thấy toàn thân nóng rực, sợ độc tố phát tác nên không dám cử động, gọi người cõng về phòng, châm đèn rồi gọi người con thứ ba là Trương Thịnh đến.
Ông ta biết mình không còn nhiều thời gian, bèn đuổi hết nô bộc đi, rồi lập tức mở mảnh khăn lụa màu vàng, tay trái ôm bụng, tay phải cầm bút, nhịn đau viết một giáo chỉ ngắn. Viết xong thì cảm thấy toàn thân không còn sức lực, đầu túa mồ hôi, muốn gấp khăn lại nhưng không còn sức để làm, biết là không thể cố thêm nữa, liền khoanh chân ngồi chờ nhi tử đến.
Nói là chỉ gọi người con thứ ba đến, nhưng việc phụ thân gọi người cõng về phòng sao giấu được? Lúc này trời đã khuya, các con của Trương Lỗ đều đã ngủ hết, nghe thấy tiếng gọi tất cả đều bật dậy, không kịp mặc y phục cẩn thận, bảy huynh đệ Trương Phú, Trương Quảng cùng đến:
— Sư tôn! Sư tôn! Phụ thân làm sao thế? - Họ Trương đều là những người tu đạo, ngay cả phụ thân cũng gọi là sư tôn.
Độc tố đã lan khắp người, Trương Lỗ cảm thấy mọi thứ trước mặt đang quay cuồng, làm gì còn thời gian để nói lời vĩnh biệt, chỉ hổn hển không ra hơi:
— Thịnh nhi ở lại… Còn các con đều ra ngoài đi, đóng cửa lại…
Thiên sư đã nói không thể không nghe, sáu anh em Trương Phú đành ra ngoài quỳ chờ ở hành lang, Trương Thịnh đóng cửa lại, quay đầu nhìn - Trương Lỗ tuy đang ngồi ngay ngắn, nhưng lại đổ mồ hôi nhễ nhại, toàn thân run rẩy, môi đã chuyển sang màu tím đen.
— Ngụy Vương hạ độc sư tôn? - Trương Thịnh đã nhìn ra sự việc.
Trương Lỗ khẽ xua tay:
— Con không cần hỏi nhiều… - Nói với con phỏng có ích gì? Làm quan của Tào Ngụy, ăn cơm của Tào Ngụy, toàn gia quyến cũng ở Nghiệp Thành, mối thù này có trả được không? Ông ta không muốn kéo theo tính mạng của cả nhà vào, chỉ nói, - Ta có lời dặn dò con.
Trương Thịnh nghe vậy, run rẩy quỳ xuống trước mặt.
Trương Lỗ hít hai hơi, tay bắt quyết định thần:
— Bên giường có một cái túi, con cầm lại đây…
Trương Thịnh không dám chậm trễ, lập tức lấy đồ. Vật này không lớn, nhưng được đựng trong một chiếc túi màu vàng, bình thường Trương Lỗ không cho ai động vào.
— Mở nó ra.
— Vâng. - Trương Thịnh mở ra, nhìn thấy một ấn ngọc màu trắng, hình vuông, dài khoảng hai tấc, dày bảy phân, trên có khắc hình con ly, ở dưới có chữ triện, đây là bảo vật của người nắm quyền Thiên sư đạo, ấn Dương Bình trị Đô công(*).
— Bảy huynh đệ con ai cũng có sở trường riêng, nhưng chỉ có con là ngộ đạo nhất, chịu khó tu dưỡng nhất, sau này ắt sẽ thành công, có thể khuếch trương đạo pháp của ta. Từ hôm nay, con sẽ là Thiên sư, ta mong con siêng năng chăm chỉ, tu dưỡng giảng đạo.
— Sư tôn, đệ tử… - Trương Thịnh muốn nói một hai câu khiêm tốn, nhưng lúc này còn đa lễ gì nữa? Vội dập đầu, - Đệ tử tuân mệnh!
Toàn thân Trương Lỗ dần dần tê liệt, thều thào nói:
— Còn có… trên thư án có giáo chỉ… con hãy đưa nó cho Ngụy Vương!…
Trương Thịnh lúc này mới để ý đến chiếc khăn ở bên cạnh, nâng lên xem:
Họ Ngụy vâng mệnh trời trừ họa, đưa vạn sự đi vào trật tự, việc này đã được chép trong Hà đồ, Lạc thư(*), và thể hiện trong những tượng hình xuất hiện trên trời. Vì vậy, ta thuận theo đạo trời, lấy thân phận là quốc sư để giao phó thiên hạ cho Ngụy Vương cai quản. Đó là vinh hạnh của nước ta, nhờ vậy mà giáo đồ không bị thương vong, của cải dư dật, thọ mãi không già. Ta có bảy người con thì năm người con được phong hầu làm rạng danh nước nhà, thuộc hạ cũng không ít người được phong chức làm tướng quân, duyện thuộc, vàng bạc ban thưởng hậu hĩnh. Cha chết con nối nghiệp, anh chết em lên thay, thấm nhuần thánh ân.
Trương Thịnh run rẩy xem giáo chỉ: “Họ Ngụy vâng mệnh trời trừ họa, đưa vạn sự đi vào trật tự, việc này đã được chép trong Hà đồ, Lạc thư”, người ngoài nói những lời này cũng không sao, nhưng một giáo chủ thì không thể nói như vậy được, các giáo đồ ngoan đạo tuyệt đối tin vào mệnh trời. Nhất là câu “Ta thuận theo đạo trời, lấy thân phận là quốc sư để giao phó thiên hạ cho Ngụy Vương cai quản”, há chẳng phải nói Tào Tháo nhận sự ủy thác của Thiên sư để thống trị thiên hạ đó sao? Giáo chỉ này có ý nói tất cả các giáo đồ sẽ chuyển sang nghe lệnh Tào Tháo, coi Tào Tháo là thần thánh, Thiên sư không có quyền trực tiếp cai quản giáo chúng, vậy Thiên sư đạo có còn tồn tại nữa không?
— Sư tôn… tại sao lại làm vậy? Tào Tháo đã hại chết sư tôn mà!
— Vì an nguy của họ Trương ta, vì các giáo đồ của Thiên sư đạo, và cũng vì để các con có thể tiếp tục truyền bá Thiên sư đạo. Hãy hứa với ta, quên hết oán thù, không truy cứu chuyện này. - Trương Lỗ biết rất rõ, Tào Tháo đã có thể loại bỏ mình thì cũng sẽ không bỏ qua cho tử tôn mình và những giáo đồ của Thiên sư đạo cũng sẽ bị liên lụy. Nếu tất cả mọi người đều bị bức hại thì thà dâng cả hai tay, hy sinh bản thân để mọi người về với nước Ngụy, như vậy sẽ tránh được họa này.
— Nếu ban lệnh này ra, chẳng phải tâm huyết ba đời của họ Trương chúng ta cũng sẽ mất hết sao?
Trương Lỗ đau đớn quằn quại, nhưng vẫn gắng gượng nói:
— Đạo mà có thể nói ra được, thì không phải là đạo thường. Người theo đạo ắt cùng nhất thể với đạo. Chỉ cần một lòng một dạ tu dưỡng, bên ngoài thay đổi nhưng bên trong không đổi, như vậy có Thiên sư đạo hay không cũng có gì khác biệt? Đạo sẽ tự làm bớt sắc nhọn, tháo gỡ rối rắm, hòa ánh sáng cùng với bụi bặm…
— Phụ thân!… - Trương Thịnh run rẩy, bỏ mặc những quy định trong giáo phái, ném cả ấn sang một bên, ôm lấy Trương Lỗ òa khóc, - Phụ thân là Thiên sư, phụ thân không được đi! Chẳng phải đã nói dùng đại đạo để cứu người sao?
— Ha ha ha! - Trương Lỗ đột nhiên cười lớn, đẩy con trai ra, từ từ nhắm mắt, - Thái thượng lão quân sinh vào thời Xuân Thu hỗn loạn, nếu như ngài có thể dựa vào đạo pháp mà khiến thiên hạ này được yên ổn, hà tất phải đi về phía tây Hàm Cốc ẩn cư? Độ hóa quý ở độ tâm, tâm vui thì lòng người mới vui, người vui thì thế gian này mới vui.
Bất luận là triều đại nào, ai làm vua, nếu có thể khiến bách tính vô lo vô ưu thì đã thoát tục. Kỳ thực, con người không sống trên thế gian này… - Nói rồi Trương Lỗ thu tay lại đặt trên ngực, - Mà sống ở đây…
Trương Thịnh ngậm nước mắt:
— Nhi tử hiểu rồi…
Trương Lỗ ngồi xếp bằng ở đó, tựa như không còn cảm thấy đau khổ nữa, thân thể nhẹ bẫng, dường như linh hồn đã rời khỏi thể xác để bay lên trời, nhưng ông vẫn còn một câu nhắn nhủ cuối cùng:
— Phải biết giữ chữ tín… Sở dĩ thiên địa có thể trường cửu là bởi nó không tự sinh ra… Vật đổi sao dời nhưng nội tâm bất biến, sẽ có một ngày đại đạo được Lưu truyền muôn đời… sẽ có một ngày… - Tiếng của Trương Lỗ yếu dần, dần dần môi cũng không mấp máy nữa.
Trương Thịnh nhìn phụ thân rất lâu, không biết từ lúc nào nước mắt không còn chảy nữa. Trương Thịnh đột nhiên cảm thấy như không quen biết thi thể trước mắt. Phụ thân đã từng là một thế lực hùng cứ một phương, từng bội tín, phản lại Lưu Yên, từng giết hại Trương Tu sáp nhập giáo chúng, nhưng ông cũng từng cứu độ bao nhiêu chúng sinh, khiến họ một lòng đi theo. Lúc này phụ thân đã thực sự thoát tục, đến thời khắc cuối cùng vẫn bình thản, độ lượng như vậy, trái tim đạt đến cảnh giới tĩnh lặng như mặt hồ, vượt qua giới hạn của sinh mệnh. Quả là xứng danh nhất đại tông sư!
Nghĩ đến đây, Trương Thịnh không cảm thấy đau buồn nữa, chỉ lặng lẽ lau nước mắt, mở cửa nói lớn:
— Thiên sư đã quy tiên!…
Tiếng than khóc bi ai bỗng chốc vang lên, huynh đệ Trương Phú, Trương Quảng quỳ mọp dưới đất khóc. Trương Vệ cũng vừa phi ngựa đến, nhưng không kịp nhìn mặt huynh trưởng lần cuối, chỉ đứng đấm ngực giậm chân ở trung đình. Trương Thịnh không nói lời nào, vẫn còn nhiều việc phải làm, phải tiếp tục truyền đạo vì họ Trương, vì giáo chúng, vì di nguyện của phụ thân, tuyệt đối không thể kéo dài được. Trương Thịnh cầm ấn, gấp giáo chỉ lại, đi nhanh về phía cửa sân, nhảy lên con ngựa mà thúc phụ vừa cưỡi đến, chạy về hướng vương cung…
Trí sĩ nhập cuộc
Thực ra, không chỉ Thiên sư mới có được trái tim tĩnh lặng như hồ nước. Khi Trương Lỗ quy tiên, trong một phủ đệ không mấy hoa lệ ở ngoại thành, có một lão thần cũng đang khuyên bảo nhi tử của mình với một tâm thế tĩnh lặng, đó chính là Thái trung đại phu Giả Hủ.
Thân phận lúc này của Giả Hủ thật khó nói, với tấm thân “mang tội”, ông không phù hợp để gia nhập triều đình nước Ngụy. Giả Hủ vốn muốn cáo bệnh từ quan, nhưng Tào Tháo nhất định không buông tha, nghĩ cách vỗ về bổ nhiệm làm Thái trung đại phu. Đây là chức quan nhà Hán, không phải quan nước Ngụy. Nhưng Tào Tháo lại giữ Giả Hủ ở lại Nghiệp Thành, có gì cần còn triệu vào cung để hỏi kế sách, ông vừa ẩn cư vừa làm quan, vừa là thần tử vừa là bằng hữu, coi như là một túi khôn của Ngụy Vương.
Thái trung đại phu đâu phải là chức vị mà người thường có thể đảm nhận được, chức vị này mặc dù không có chức trách cụ thể, nhưng lại được hưởng hai nghìn thạch bổng lộc, thường thì sẽ do nguyên lão đại thần hoặc tam công đảm nhận. Mặc dù Giả Hủ năm xưa đã có hành động được coi là “hại nước”, nhưng vẫn từng làm Thượng thư lệnh, Tổng lãm triều chính ở Tây Kinh, nên có làm chức này cũng xứng đáng, chỉ có điều, năm nay ông tuổi cũng đã cao, đáng ra phải được hưởng cuộc sống an nhàn.
Giả Hủ khác với Trình Dục và Lâu Khuê, hai người họ đã từ quan nhưng vẫn tham gia mọi việc như trước. Còn Giả Hủ đóng cửa giữ mình không giao du với ai, ngay cả khi Tào Tháo mời quần thần dự tiệc, mười lần mời thì cũng có đến tám lần ông tìm cách từ chối. Một mình như thế đã đành, đằng này cả gia tộc cũng bị ràng buộc, trai gái trong nhà không kết duyên với người quyền quý, những chuyện vui trong nhà cũng không mời khách đến. Trưởng tử của Giả Hủ là Giả Mục đã gần năm mươi tuổi, đến nay vẫn chỉ giữ chức quan nhỏ ở Hứa Đô, cháu đích tôn là Giả Mô cũng đã ngoài hai mươi tuổi mà vẫn chưa ra làm quan. Tuy ông sống ở Nghiệp Thành nhưng phủ đệ thì ở nơi xa xôi ngoài ngoại thành, phòng ốc cũngđơn giản, mọi chuyện trong nhà đều do con út là Giả Phóng gánh vác, nói là con út nhưng cũng đã hơn ba mươi tuổi, vẫn chưa có chức vị gì.
Giả Phóng cả ngày phục vụ cơm nước, giặt giũ cho phụ thân, là một người con hiếu thuận, nhưng những ngày tháng như thế này còn kéo dài bao lâu? Anh ta nhìn phụ thân mỗi ngày một già yếu mà lại lo cho tiền đồ của mình, tuy rằng Giả thị vẫn là một gia tộc giàu có, nhưng anh ta ngày ngày đèn sách cũng chỉ mong có được công danh, không dám nói là kiến công lập nghiệp, chỉ cần ra làm quan để phấn đấu là được. Hơn nữa, Giả Phóng cũng là con út, không phải là con trưởng để có thể tiếp tục kế nghiệp phụ thân, muốn làm quan nước Ngụy ắt phải nhờ vào tiếng tăm của phụ thân. Nhưng lúc này đừng nói là vào triều bái kiến các quan, mà ngay cả chuyện ra khỏi cửa cũng không được phép. Tối nay, Ngụy Vương lại cho mời các lão thần, nhưng phụ thân lại từ chối. Nếu cứ như vậy sau này biết phải làm thế nào? Giả Phóng chần chừ do dự, cuối cùng mới đem những lời này nói với phụ thân, thuyết phục cả buổi tối mà phụ thân vẫn không thay đổi.
Đêm đã về khuya, Giả Hủ chỉ thắp một ngọn đèn, trong góc phòng vẫn tối om. Giả Hủ lưng hơi gù, ngồi trong bóng tối càng toát lên vẻ tuổi già sức cạn, hai mắt nhìn vào ngọn đèn, chậm rãi nói:
— Hôm nay làm thượng khách, ngay mai làm phạm nhân. Ngay cả những người như Mao Hiếu Tiên theo đại vương lập nghiệp mà cũng khó giữ được mạng, lão phu há lại không cẩn thận? Ta không phải là quan của nước Ngụy, hơn nữa lại còn mang tiếng hại nước, còn vì chuyện ở Uyển Thành mà hại cả trưởng tử của đại vương, tránh còn không được, sao có thể để con bước vào Ngụy đình?
Những lời này Giả Phóng đã nghe quá nhàm tai:
— Lời của phụ thân đương nhiên có lý, nhưng muốn hưng gia lập nghiệp thì phải có chí tiến thủ, chỉ đóng cửa ở trong nhà cũng không phải kế lâu dài.
Giả Hủ nhẫn nại nói:
— Hiện nay, chuyện đại vương lập ai làm thái tử vẫn chưa rõ, những người muốn dựa vào thái tử để trèo cao rất nhiều, không cẩn thận có khi sẽ mất tất cả. Với tài cán như con, tốt nhất nên tránh xa!
Thấy phụ thân không coi trọng tài năng của mình, Giả Phóng trong lòng không phục, nhưng lại nói:
— Mọi chuyện trên đời có cái mất cũng có cái được, con không mong được hạnh tiến, chỉ cần kết giao được với mấy người bằng hữu là tốt lắm rồi!
Giả Hủ cười:
— Chốn quan trường lấy đâu ra bằng hữu thật lòng thật dạ? Cứ chiết trung dung hòa, giữ gìn gia nghiệp mới là chính đạo!
— Ôi! - Giả Phóng biết mình không thể nói lại được với phụ thân, chỉ cười khổ, - Họ Giả nhà ta tuy xuất thân Kinh Châu, nhưng cũng đã có mấy đời làm quan. Tổ phụ Giả Cung từng là Khinh Kỵ Tướng quân, phụ thân cũng là Thái trung đại phu, không ngờ rằng lại dừng lại ở đây, phụ thân bảo thủ như thế, huynh đệ chúng con không có ngày ngẩng đầu lên được, chỉ sợ sau này khó làm nên việc.
Giả Hủ đưa mắt nhìn con:
— Việc trên đời không có gì định trước được, hôm nay không thể tính toán cho ngày mai, há có thể tính cho con cháu đời sau? Ai mà biết cơ hội gì sẽ đến? Thành bại của con người đều nằm ở chỗ phải biết nắm bắt thời cơ, nhưng không đi ngược lại với thiên thời, nên sao có thể tính toán trước được? Khi còn trẻ ta cũng chỉ làm theo khuôn phép, cố gắng phụng sự triều đình, chọn đường ngay mà phò tá quân vương, nào ngờ dọc ngang nửa đời người, cuối cùng lại đến bước đường hôm nay. Thế sự khó lường lắm… - Nói đến đây, ánh mắt trống rỗng của Giả Hủ bỗng sáng lên, dường như ông đang nhớ về những ngày tháng phò tá Lý Thôi, Trương Tú.
Giả Phóng định nói tiếp, bỗng nghe bên ngoài có tiếng bước chân, một nô bộc bẩm báo qua tấm rèm:
— Thưa đại nhân, có khách cầu kiến.
Hai cha con nhìn nhau - trong nhà ít khi có khách, muộn thế này còn có ai đến?
Giả Hủ xua tay, Giả Phóng hiểu ý phụ thân, nói vọng ra:
— Đã muộn quá rồi, mời họ hôm sau đến.
— Dạ, chỉ có một người dắt theo một nô bộc, nói rằng khó khăn lắm họ mới ra được ngoài thành, rất mong được gặp.
— Đó là người nào?
— Người đó không nói, nhưng có đưa tấm thiếp.
Giả Phóng ngáp một cái rồi đi ra cửa, vén rèm lên cầm lấy tấm thiếp bằng thẻ tre, trời tối nhìn không rõ, lại mang đến trước đèn:
— Bái Quốc Tiều huyện Ngũ quan trung… - Anh ta mới đọc được mấy chữ đã không dám đọc tiếp.
Giả Hủ cũng không nghe nữa, ông già bảy mươi tuổi không cần ai đỡ vội đứng bật dậy, cao giọng dặn dò:
— Thắp đèn! Thay áo! Đón khách!
Giả Phóng cũng vội vàng đứng dậy, không lâu sau hơn mười ngọn đèn được thắp lên, chiếu sáng cả căn phòng tù mù trước đây. Giả Hủ như biến thành người khác, tinh thần phấn chấn, đổi bộ y phục mới rồi dắt theo nhi tử ra cửa đón khách, vái lạy:
— Lão hủ không biết Ngũ quan tướng giá đáo, không nghênh đón từ xa, xin nhận tội.
Tào Phi còn khách khí hơn:
— Không dám, không dám, quấy quả tiền bối nghỉ ngơi, vãn sinh tội đáng muôn chết.
Giả Hủ cười nói:
— Tướng quân không cần đa lễ, mời…
— Đa tạ. - Tào Phi một mình bước vào nhà họ Giả, còn Chu Thước đứng canh bên ngoài.
Giả Phóng đi trước dẫn đường, đến chính đường thì tự tay vén rèm. Giả Hủ ân cần đi phía sau, mời Tào Phi bước vào trước. Trong nhà thắp bảy tám ngọn đèn sáng lóa cả mắt, Tào Phi vừa ngồi xuống đã nói:
— Thời tiết nóng nực quá, Giả công hãy sai nô bộc tắt bớt đèn đi.
Giả Hủ cười nói:
— Tướng quân là quý nhân, sao có thể tiếp khách trong nhà tối được?
Tào Phi cố ý vén tay áo:
— Vậy cho nô bộc trong này lui ra, người qua người lại nóng quá.
Giả Phóng không dám chậm trễ, vội cho nô bộc lui ra, đang định quay lại mời Tào Phi dùng hoa quả thì bỗng thấy Ngũ quan tướng quỳ xuống trước mặt phụ thân. Giả Phóng vội buông rèm rồi lui ra ngoài, đứng nấp dưới hành lang nghe trộm.
Giả Hủ dường như đã sớm đoán ra hành động này, không đợi hai đầu gối của Tào Phi chạm xuống đất, đã đỡ lấy y:
— Tướng quân chớ nên làm vậy, ngài giết lão hủ này đi còn hơn!
— Giả công xin hãy cứu ta!
— Tướng quân hà tất phải nói lời này, có gì đứng dậy rồi hãy nói.
Tào Phi giọng đầy lo sợ:
— Nay Đinh Nghi đưa lời gièm pha, khiến phụ vương không còn tín sủng ta. Vãn sinh tuổi trẻ, hiểu biết nông cạn, mong Giả công thương tình cứu giúp.
— Đây là chuyện trong nhà tướng quân, lão thần không tiện can dự. - Cho dù có giúp hay không, Giả Hủ vẫn phải thể hiện điều này.
Tào Phi khẩn khoản nói:
— Bọn chúng làm những việc hại nước hại dân, giết hại trung lương, hủy hoại xã tắc, đâu còn là chuyện nhà? Mong Giả công tương trợ. - Tào Phi đã chuẩn bị sẵn những lời này, y lồng việc của mình vào việc giết hại trung lương, có thể coi là danh chính ngôn thuận.
— Lão hủ đã có tuổi, hơn nữa cũng không phải là cựu thần của Ngụy Vương, thực sự không thể giúp được.
— Giả công hà tất phải khiêm tốn? Trên dưới nước Ngụy đều biết ngài là người mưu trí thâm sâu, theo quân bao năm hiến nhiều diệu kế. Mặc dù ngài đã lui về nghỉ ngơi, nhưng phụ vương vẫn giữ lại ở Nghiệp Thành để tiện hỏi kế sách, chỉ cần đưa ra ý kiến là nhất mực nghe theo. Nay, bọn Đinh Nghi ép người đến cùng, vị thế của vãn sinh bấp bênh nguy hiểm, lẽ nào Giả công thấy chết mà không cứu sao? - Tào Phi vừa nói vừa định quỳ xuống.
Giả Hủ tuổi đã cao, sao có thể đỡ nổi y, đành nói:
— Tướng quân không được làm thế, thần chịu ơn phụ thân của tướng quân, nghe lệnh sai khiến sao dám không theo? Mau mau đứng dậy…
Tào Phi coi như trút được gánh nặng, từ từ đứng dậy:
— Giả công chịu giúp sức cho ta?
Giả Hủ khẽ gật đầu:
— Mời tướng quân ngồi.
Tào Phi xua tay:
— Không cần phải mời mọc gì. Đêm nay vương cung mở tiệc chiêu đãi quần thần, ta mới có cơ hội ra ngoài. Nếu ta về muộn sợ rằng cửa thành đóng rồi sẽ sinh thêm chuyện, nên không dám ở lâu, chỉ xin Giả công tìm cách cứu ta thoát khỏi họa này.
— Việc này không khó. - Giả Hủ vuốt râu, - Mong tướng quân đức độ rộng lượng, cố gắng học hỏi, sớm tối chuyên cần, không làm trái đạo làm con…
— Chỉ như vậy thôi sao?
— Chỉ có vậy thôi. - Giả Hủ vuốt râu cười.
Tào Phi nhìn vị lão thần đầy nghi ngờ - Lẽ nào chỉ nói qua loa lấy lệ? Nhưng nhìn mặt ông ta có vẻ không giống vậy.
Giả Hủ biết là Tào Phi do dự, mới chậm rãi nói:
— Chuyện trong thiên hạ nên lấy ngay thẳng mà xử lý, lấy mẹo lạ mà vượt qua. Tướng quân cứ tu dưỡng đạo đức, tận tâm tận hiếu, làm việc cẩn thận, còn những chuyện khác… ngài không phải bận tâm.
Lẽ nào ông ấy đã có kế hay giúp ta? Tào Phi nửa tin nửa ngờ, nhưng vẫn chắp tay hành lễ:
— Giả công là mưu thần của quốc gia, mưu trí cao siêu, đúng là trụ cột của Đại Ngụy, vãn sinh ngày sau không dám quên công ơn này của ngài. - Lời này có ý nói, nếu như ông thật lòng giúp ta đoạt vị, sau này phụ thân chết, ta lên ngôi nhất định sẽ không bạc đãi gia đình ông. Chỉ là Tào Phi không thể nói rõ ra như vậy.
Giả Hủ há lại không hiểu ra? Vội vàng đáp lễ:
— Họ Giả nhà thần xin cảm ơn ân đức của đại vương và tướng quân.
— Trời đã muộn, không dám làm phiền nữa, vãn sinh xin cáo từ.
— Tướng quân đến hàn xá quả là vinh dự cho lão hủ, cung tiễn tướng quân. - Nói xong Giả Hủ cầm tấm thiếp trả lại cho Tào Phi.
Hai người dắt tay nhau ra khỏi cửa, nô bộc bên ngoài bối rối: Vị khách này sao thế nhỉ? Tối muộn đến đây, chưa kịp uống ngụm nước nào đã vội rời đi? Nhưng họ không biết rằng những gì cần nói đã nói hết! Giả Phóng cũng vội đi từ trong ra, cùng với phụ thân hành lễ, tiễn Tào Phi lên ngựa.
Mặc dù phụ tử Giả Hủ đã nhận lời giúp, nhưng vẫn không khiến Tào Phi hết lo lắng, y đành quất ngựa đi, nhìn con đường phía trước tối om, trong lòng rối như tơ vò. Cảnh vật, cây cối xung quanh dường như biến thành những ác quỷ cản đường… Không, không phải là ác quỷ, mà là huynh đệ Đinh Nghi, Đinh Dực, còn có cả Khổng Quế, bọn chúng tựa như mãnh hổ thú dữ, đang giơ nanh nhe vuốt trong bóng đêm! Tào Phi không khỏi cất lên tiếng than:
Lên núi trông phía xa,
Hang cốc nhiều thứ lạ.
Cây cao hơn ngàn thước,
Cỏ mọc chật lối bước.
Hoa lá tươi lóa mắt,
Năm màu khó vẽ lên.
Trĩ đua nhau khoe giọng
Hổ gầm gió rít gào.
Gấu nhảy ra chặn đường,
Răng ta va cầm cập.(*)
Nhìn thấy Tào Phi và Chu Thước cưỡi ngựa mất hút trong màn đêm, phụ tử Giả Hủ mới thở phào nhẹ nhõm, trở về thư phòng. Giả Hủ dường như lại quay về con người thận trọng lúc trước, tự tay tắt nến, chỉ để lại một ngọn đèn duy nhất, sau đó quay trở về chỗ cũ.
Giả Phóng cảm thấy có gì không đúng:
— Phụ thân vừa rồi dặn mình thế nào? Tránh xa rắc rối, chiết trung dung hòa, không tham gia vào chuyện tranh giành ngôi vị, tại sao Ngũ quan tướng vừa đến, phụ thân đã thay đổi vậy?
— Ây dà! - Giả Hủ thở dài một tiếng, nói, - Không nhận lời thì làm được gì? Lẽ nào lại đóng cửa từ chối? Vậy thì lại khác nào đắc tội. Không kết giao với Lâm Tri hầu, lại đắc tội với Ngũ quan tướng, nhà chúng ta còn được sống yên ổn sao? Ngũ quan tướng không đến thì thôi, đã đến thì ta phải theo vậy.
— Hóa ra là vậy. - Lúc này Giả Phóng mới hiểu được tâm tư của phụ thân, - Vậy là phụ thân đã tham gia vào chuyện tranh giành ngôi vị, nếu việc hiến kế cho Ngũ quan tướng mà bị Ngụy Vương biết được…
— Ta có hiến kế gì đâu? - Giả Hủ vuốt râu nói, - Ta chỉ bảo Ngũ quan tướng tu dưỡng đạo đức, không làm trái đạo làm con. Phàm là hiếu đạo phải bắt đầu từ việc phụng dưỡng phụ mẫu, sau đến dốc sức cho quân vương, cuối cùng mới là lập thân. Ngũ quan tướng vừa là thần tử vừa là nhi tử, khuyên một người làm quan phải hiếu thuận với phụ thân của mình, đó là chuyện thường tình. Những lời này truyền đến tai Ngụy Vương thì có sao?
Giả Phóng ngẩn người: Đúng vậy, khuyên một người con hiếu thuận với phụ thân mình không có gì là sai. Chuyện hôm nay, nếu Tào Tháo biết được thì cũng không có ác cảm với phụ thân. Bảo sao phụ thân nhất định phải để đèn sáng, không làm chuyện giấu giếm người khác, đúng là quang minh chính đại.
Mặc dù không có lời nào giấu giếm, nhưng Giả Hủ vẫn cảm thấy khó xử:
— Ta vốn muốn bình yên, nào ngờ cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Đóng cửa ở trong nhà thì chuyện rắc rối lại tự tìm đến cửa. Thế sự biến đổi không ngừng, con ngựa già như ta đến lúc nào mới có thể thoát khỏi gông cùm này đây?
— Cũng không có cách nào, phụ thân mệt vì danh tiếng của mình, ai cũng nói phụ thân là bậc trí sĩ kỳ tài mà! - Giả Phóng nói như vậy nhưng trong lòng cảm thấy phân vân. Lúc này Tào Thực đang đắc chí, Tào Phi không được yêu quý, lẽ nào phụ thân muốn thổi lửa vào cái lò đã nguội sao? Nghĩ vậy bèn dò hỏi, - Phụ thân nói qua loa mấy câu được rồi, lẽ nào người muốn giúp Ngũ quan tướng thật sao?
— Con định dùng những lời này để thăm dò ta? - Giả Hủ lập tức nhận ra ý đồ của con trai, - Không giấu gì con, đã đồng ý thì phải làm thật. Nếu nuốt lời chẳng phải lại kết oán càng lớn sao? Ta sắp xuống lỗ rồi, còn sợ gì có lỗi với người ta, đều là nghĩ cho các con thôi.
Giả Phóng vừa mừng vừa lo, mừng vì nếu phụ thân có thể giúp Tào Phi lên ngôi, tiền đồ sau này sẽ không phải suy nghĩ, nhưng cũng lo vì Tào Tháo đã có ý chọn Tào Thực, rất khó giúp được Tào Phi:
— Phụ thân đã có dự định gì chưa?
— Vẫn chưa có. - Giả Hủ từ từ đứng dậy, - Chuyện tranh giành ngôi vị chẳng khác nào chiến tranh, binh vô thường thế, thủy vô thường hình. Có tính toán cũng sẽ thay đổi, chỉ có thể lựa thời cơ mà hành sự. - Vừa nói, Giả Hủ vừa bước đến bên cửa sổ, nhìn lên bầu trời đêm.
Giả Phóng thấy từ đầu đến cuối phụ thân đều giữ dáng vẻ thong thả, bèn nóng ruột nói:
— Nay Ngụy Vương rõ ràng đã có ý chọn Lâm Tri hầu, sợ rằng việc này khó thành.
— Rõ ràng ư, sao ta không nhìn thấy? - Giả Hủ vẫn nhìn lên trời, không quay đầu lại, - Ta chỉ biết nửa năm trở lại đây, Ngụy Vương chưa gặp riêng từng người trong hai huynh đệ họ. Trận tây chinh vừa rồi vì sao phải mang theo nhiều người không liên quan như thế, con đã nghĩ đến chưa?
Dương Tu từng ngấm ngầm giúp Lâm Tri hầu, chuyện này đã không còn là bí mật, hắn không thể đến cửa gặp Lâm Tri hầu nữa; ta cũng nghe nói Tư Mã Ý cũng bị trách mắng, nay đã tránh xa rắc rối. Đinh Nghi làm Tây tào duyện, bên ngoài là thế lực của Lâm Tri hầu, nhưng họ Đinh sớm đã là người của mạc phủ, chịu sự khống chế của Ngụy Vương; Ngô Chất có chút bản lĩnh, những cũng bị điều đến Triều Ca xa tít tắp. Con mở to mắt mà nhìn. Bất luận là phe phái của Ngũ quan tướng hay Lâm Tri hầu đều bị Ngụy Vương phá tan tành, tả tơi, vậy ai được yêu quý, ai không được yêu quý? Nói đại vương đã chọn Lâm Tri hầu, điều này chỉ e vẫn còn quá sớm.
— Lời của phụ thân đúng là có lý… Nhưng đại vương giết Thôi Diễm, Mao Giới chẳng phải là sự thật sao? Chẳng phải vì họ sống chết bảo vệ Ngũ quan tướng đó sao?
— Lý lẽ tầm thường. - Giả Hủ cười khinh miệt, - Đúng vậy, đại vương quá tuyệt tình với họ, Tỷ Can chết là vì chống đối, Mãnh Bôn bị giết là vì dũng mãnh. Nếu cho rằng bọn họ chết vì cố sức bảo vệ Ngũ quan tướng thì quá coi thường đại vương rồi.
— Coi thường? - Giả Phóng nghĩ mãi không hiểu được vấn đề.
— Con à, ta hỏi một câu. Con nói trận Quan Độ ai mới là người thắng?
Giả Phóng cảm thấy câu hỏi này quá hoang đường, nên chau mày nói:
— Cái này phụ thân còn phải hỏi, tất nhiên là Ngụy Vương thắng.
— Ồ? - Giả Hủ hai mắt mơ màng, dường như đang chìm đắm trong quá khứ xa xăm, rất lâu sau mới lẩm bẩm, - Ông ta có thể đã thắng trên chiến trường, nhưng trị quốc thì… Nếu có ai tin rằng bản thân có thể thay đổi được càn khôn, thì quá xem thường thế đạo rồi.
Giả Phóng vẫn ù ù cạc cạc, định mở miệng hỏi, lại nghe phụ thân hỏi tiếp:
— Con à, có biết cái đau xót nhất của người nắm giữ thiên hạ là gì không?
— Mất nước?
Giả Hủ cười nhạt:
— Tự tạo nghiệp tự chuốc họa, gọi gì là đau khổ?
— Gặp phải tai họa?
— Ý trời đã định, tận sức mà làm, cũng chẳng thể nói là đau khổ.
— Trong số các con, không một ai đủ sức gánh vác cơ nghiệp?
— Hai mắt nhắm lại rồi sẽ trở về với cát bụi, công tội đã có sử sách ghi, nợ ai trả về cho người đó.
Giả Phóng thực sự đoán không ra:
— Xin phụ thân chỉ giáo.
Giả Hủ quay đầu lại, hai hàng lông mày động đậy, giọng nói toát lên vẻ trách trời thương dân:
— Nỗi đau xót lớn nhất của người nắm giữ thiên hạ, đó là… đạo trị quốc mà cả đời tìm kiếm và làm theo, đến tuổi xế chiều lại phải tự tay hủy bỏ!
Giả Phóng chưa bao giờ nhìn thấy phụ thân như vậy, nên rất đỗi ngạc nhiên.
Nhưng cảm xúc xót thương đó chỉ thoáng qua, Giả Hủ dần trở lại dáng vẻ tĩnh tại, tiếp tục nhìn lên trời:
— Gió mưa khó đoán, hình như sắp trở trời…
Nhìn thấu màn sương mù
Trên đường từ Thính Chính đường về hậu cung, Tào Tháo không khỏi thở dài: Đúng là một đêm đầy giả dối!
Kỳ thực, Tào Tháo không mấy hứng thú với Hữu Hiền Vương, điều ông mong muốn đó là Thiền vu Hung Nô sớm đến Nghiệp Thành. Ông đã bí mật lên kế hoạch, đợi Hồ Trù Tuyền đến sẽ lấy cớ khoản đãi để giữ chân ông ta, chỉ cần nắm được Thiền vu trong tay, Hung Nô sẽ không còn là mối uy hiếp nữa, đến lúc đó có thể thoải mái giúp mấy vị vương gia Hung Nô cai quản các bộ, để họ tự đấu đá lẫn nhau, không còn để ý đến việc thù hận đối đầu với người Hán, họa từ phía bắc coi như đã được loại bỏ. Vì thế, mấy ngày nay sức khỏe của Tào Tháo không tốt, nhưng vẫn cố làm ra vẻ vui vẻ để tiếp đãi Khứ Ty, và còn kéo Trương Lỗ tới tiếp rượu…
Mọi việc đều diễn ra thuận lợi, thậm chí còn tốt hơn so với dự kiến, Khứ Ty đồng ý sai sứ giả đến thúc Hồ Trù Tuyền lên đường, còn Trương Lỗ sau khi về nhà cũng đã “quy tiên”. Trương Thịnh mang giáo chỉ cuối cùng của Trương Lỗ đến cho Tào Tháo, vị Thiên sư này đúng là hiểu chuyện, Thiên sư đạo đã toàn tâm toàn ý quy phục Ngụy quốc, phần lớn bọn họ cũng đã rời Hán Trung, như thế cũng bớt rắc rối. Nhưng quân của Trương Cáp đơn độc giao chiến với Trương Phi ở ải Ngõa Khẩu, vì quân Thục nhiều quân Tào ít nên rất khó lấy được quận Ba, Hán Trung chuyển sang thế phòng thủ.
Tào Tháo hiểu rõ rằng, muốn giải quyết vấn đề Hán Trung thì phải tây chinh lần nữa, nếu không đuổi được Lưu Bị ra khỏi đất Thục, hắn sẽ không bao giờ từ bỏ dã tâm. Tất nhiên còn có Tôn Quyền, tuy quân Tào đã thắng trận Hợp Phì nhưng vẫn phải dạy cho Tôn Quyền một bài học nữa, để hắn thực sự nản chí, quay về Giang Đông đợi cho đến ngày cùng tháng tận. Nhưng… lúc này trong tâm tưởng của Tào Tháo lại có chút mâu thuẫn về cách nhìn nhận chiến cuộc. Hiện nay, sức khỏe của ông đã tốt hơn lúc ở Hán Trung, cũng gọi là tạm hài lòng, Lý Đương Chi hứa sẽ trị được bệnh, nhưng mãi cũng chưa thấy khởi sắc, lẽ nào từ nay về sau ông đành phải nhẫn nhịn chịu đựng cơn tê nhức? Đúng vậy, hơn sáu mươi tuổi rồi còn có thể mong khỏi bệnh sao? Tất nhiên, trước mắt chuyện đáng lo nhất vẫn là tiết trời…
Nghĩ đến đây, Tào Tháo gọi Nghiêm Tuấn đang cầm đèn đi đằng trước lại, vịn lên vai hắn rồi ngửa mặt nhìn lên trời: Trời tối đen như mực, không có trăng cũng chẳng có sao, không nhìn thấy gì hết, dường như cả màn đêm đen kịt đang đè xuống, khiến người ta khó thở. Trời vẫn chưa cho mưa, đã gần nửa năm rồi, một giọt mưa cũng không có, tại sao vậy? Tào Tháo xưa nay không tin có thiên mệnh, nhưng lúc này cũng đang hoài nghi, lẽ nào lại có thần linh bảo vệ vương triều đại Hán trong lúc tối tăm mù mịt, lẽ nào ông lại sắp biến thành một Vương Mãng thứ hai thân bại danh liệt?
Tào Tháo bỗng cảm thấy nực cười. Ông thực sự nghĩ lung tung rồi, là Vương Mãng thì nhất định sẽ thân bại danh liệt sao? Vương Mãng chăm lo việc nước, tài đức vẹn toàn, cho đến lúc thất thủ những người đi theo ông ta đều không có ai phản bội lại, vậy cũng được coi là anh hùng! Trước đây, Tào Tháo không coi Vương Mãng ra gì, ông muốn noi theo Quang Vũ Đế văn võ song toàn, thập toàn thập mỹ, thậm chí ông còn muốn mình xuất chúng hơn Lưu Tú, nhưng lúc này người ông nghĩ đến nhiều hơn cả vẫn là Vương Mãng - kẻ thù của Lưu Tú.
Vương Mãng ngưỡng mộ triều đình nhà Chu, muốn xây dựng vương triều của mình được vững bền, nên tất cả các chức quan, chính lệnh đều được sắp xếp dựa trên lễ pháp của nhà Chu, và còn một lòng muốn khôi phục lại chế độ tỉnh điền(*), cuối cùng kết quả ra sao? Nói dễ nghe thì “cao siêu không thể với tới”, mà nói khó nghe là “không biết thời cuộc”, hoài bão của Vương Mãng có khoảng cách quá lớn giữa mộng tưởng hão huyền và thực tế… Còn bản thân Tào Tháo thì sao?
Tào Tháo muốn đánh đổ hào cường sĩ tộc từ thời Đông Hán trở lại đây, thậm chí còn muốn xây dựng nên một nền giáo hóa ngay thẳng hơn tầng lớp nho sinh, nhưng việc này liệu có phù hợp với thực tế không? Mộng thì vẫn là mộng, lúc ông lên ngôi vương đã phát hiện ra giấc mộng này dường như đã đến lúc phải tỉnh, ông mãi mãi không thể thoát khỏi vòng luẩn quẩn của thế đạo. Sự thật là như vậy, chưa thể thống nhất được thiên hạ, còn nói gì đến những thứ cao xa? Không còn cách nào khác, Tào Tháo không muốn làm một Vương Mãng thứ hai, chỉ ôm mộng hão huyền mà để cho Ngụy quốc và tử tôn đi đến con đường hủy diệt. Ông đành chấp nhận hiện thực, tự xóa bỏ lý tưởng mà mình theo đuổi trong suốt hơn hai mươi năm qua…
Việc tiếp nhận sự thực là vô cùng khó khăn, Tào Tháo lại là một đại thần, nếu vượt qua lễ giáo mà bước lên ngôi vị thiên tử thì cũng đồng nghĩa với việc ông phải thông qua lễ giáo để mở ra một vương triều mới. Có mâu thuẫn hay không? Có buồn cười hay không? Có bi kịch hay không?
Bản thân Tào Tháo cũng cảm thấy mình vừa nực cười lại vừa đáng thương, ông đã quẳng bỏ vũ khí trị nước đi, sau này phát hiện ra nó có ích lại nhặt lại, sửa đổi, thêm thắt nhưng vẫn không tránh được rách nát. Đôi lúc Tào Tháo còn tự chất vấn bản thân, vì sao lúc đầu lại muốn xóa bỏ thế gia đại tộc? Vì bắt nguồn từ lý tưởng hay chỉ vì ông xuất thân từ gia tộc “khác người”, muốn báo thù tất cả những ai coi thường mình trước đây?
— Đại vương. - Nghiêm Tuấn cắt ngang dòng suy tư của Tào Tháo, - Trời không còn sớm…
— Ồ! - Tào Tháo cười nhăn nhó, đưa tay véo má Nghiêm Tuấn, - Ngươi giục ta đi ngủ sớm, rồi vào cũng đùa nghịch với đám cung nữ đúng không?
Nghiêm Tuấn ngạc nhiên:
— Sao đại vương cái gì cũng biết?
— Hừ! Vì đây là xã tắc của ta, là cung điện của ta, ta đương nhiên phải biết, còn có những chuyện ta không biết là vì không muốn biết… Đi thôi! - Tào Tháo thần sắc u ám: Ta không muốn biết những chuyện như Đinh Nghi đang rắp tâm gì, dù sao đó cũng là kẻ có tài, trước mắt còn phải dùng đến, còn mưu đồ của hắn có thành hiện thực không chẳng phải đều đang ở trong tay ta? Chuyện ta muốn biết nhất nhưng cũng không muốn biết nhất đó chính là tình hình bên trong phủ đệ của Tử Hoàn và Tử Kiến, biết rõ ràng cũng để làm gì? Ta đã phái Triệu Đạt, Lư Hồng đi giám sát, sau lưng còn có Lưu Triệu để mắt đến chúng. Mắt nhắm mắt mở cho qua, càng biết rõ, càng đau lòng…
Đột nhiên có tiếng sột soạt gần đó, Tào Tháo giật mình:
— Kẻ nào?
— Đại vương, đó chỉ là con mèo.
— Ây dà, đúng là thần hồn nát thần tính. - Tào Tháo cảm thấy bất an, vừa rồi cứ ngỡ nhìn thấy bóng người, hình như là Trương Lỗ, nhưng cũng giống Thôi Diễm!
Tại sao phải đẩy Thôi Diễm đến con đường chết? Tào Tháo tự hỏi, là vì ông ta công khai dâng tấu thư về chuyện tranh ngôi thái tử? Vì ông ta kiêu ngạo không phục, cương quyết phạm thượng? Vì ông ta giữ việc tuyển chọn quan lại đã lâu, nay muốn thay đổi cách làm nên phải giết ông ta để tránh hậu họa? Vì phải giết một người xuất thân từ danh gia vọng tộc để lập uy? Hay chỉ đơn giản vì những lời lẽ trong bức thư trên khăn lụa của ông ta? Có lẽ đều không phải, nhưng nếu cộng tất cả các lý do này lại thì Thôi Diễm chết là không có gì phải nghi ngờ.
Còn về Mao Giới, Tào Tháo không ngờ lại có kết cục đó, sớm biết như vậy thì đã không nên tức giận làm gì. Mao Giới chết cũng khiến ông đau lòng mãi, ông đã sai đóng quan tài loại tốt nhất, ban cho gia quyến ông ta không ít tiền, lại phong cho Mao Cơ - nhi tử của Mao Giới làm quan, hy vọng làm thế có thể bù đắp sai lầm.
Nhưng lương tâm thì sao có thể bù đắp được? Mao Giới tức giận mà chết, cũng coi như là do Tào Tháo hại chết, ông lại một lần nữa hại chết người đã cùng mình đánh dẹp thiên hạ…
Nghĩ đến đây, Tào Tháo rảo bước, không biết từ lúc nào ông cảm thấy buổi tối ở trong cung rất đáng sợ, như luôn có ma quỷ rình rập. Không lâu sau, đến Thu Tử phường, Nghiêm Tuấn dừng lại:
— Thưa, đại vương đến chỗ phu nhân nào?
Thật khó cho Tào Tháo, đi đến đâu thì tốt? Biện thị luôn là sự lựa chọn hàng đầu của ông, mặc dù bà tuổi đã cao, sắc đã tàn nhưng lại là người hiểu Tào Tháo nhất. Có điều, mấy năm gần đây Tào Tháo ít đến chỗ Biện thị, hai vợ chồng già biết nói gì với nhau? Hai người đã phải đóng kịch cả ngày, lẽ nào lúc này còn phải tìm cách không nói đến chuyện con cái ở trước mặt nhau? Đều quá mệt mỏi. Hoàn thị vẫn đau khổ vì mất Xung nhi, Tần thị cũng đang khóc thương Huyền nhi, họ đều là những người sống vì con. Còn những thần thiếp dung mạo xinh đẹp như hoa khác thì thôi, hôm nay Tào Tháo không có hứng thú với chuyện chăn gối, chỉ e càng về sau càng mất hứng.
— Hay là đến chỗ của Trần thị? - Nghiêm Tuấn bỗng chủ động đề nghị, - Thăm tiểu vương tử?
— Hừ! Thăm tiểu vương tử? - Tào Tháo cúi xuống, khẽ nói vào tai của hắn, - Nàng ta cho ngươi ăn quả ngon, có lúc còn cho bạc đúng không?
Nghiêm Tuấn sợ hãi, quỳ mọp xuống đất:
— Đại vương…
— Đứng lên! Ta đã nói rồi, ta cái gì cũng biết. - Tào Tháo đứng thẳng người lẩm bẩm, - Những thứ quả đó do ai mang đến tặng nàng ta, ta cũng đều biết. - Tào Tháo rất sủng ái Trần thị, nhưng cũng không đến mức Tào Cán vừa sinh ra đã được phong hầu, làm như vậy là bởi ông hiểu rõ rằng Tào Cán có lẽ là đứa con cuối cùng của mình, - Đến chỗ Vương thị.
Cũng không biết từ khi nào, Vương thị lại trở thành nơi tránh gió bão của Tào Tháo, người thiếp này được cướp từ Uyển Thành về, đến nay vẫn không có con cái, không già cũng không trẻ. Quan trọng hơn là nàng ta ít nói, chỉ âm thầm hầu hạ Tào Tháo, có thể đó cũng chính là điểm đáng quý nhất của nàng ta.
Vương thị hình như cũng đoán được tối nay Tào Tháo sẽ đến, nhưng nàng ta không bận rộn điểm trang giống những thế thiếp khác, mà chỉ đốt cỏ thơm, đuổi muỗi, trải chăn nệm, chuẩn bị nước ấm rất chu đáo. Vương thị cho Nghiêm Tuấn và thị nữ lui xuống, tự mình giúp Tào Tháo tắm gội, thay y phục, rồi còn xoa bóp bên vai trái, tay trái cho ông. Bệnh tình của Tào Tháo không được nói cho bất cứ thê thiếp nào, Lý Đương Chi nhát hơn thỏ đế, miệng kín như bưng, nhưng tự Vương thị biết Tào Tháo đau ở đâu. Đúng là một người phụ nữ có tâm mà ít lời.
Tào Tháo ôm Vương thị nằm trên giường, mặc dù ông mệt mỏi nhưng không buồn ngủ:
— Phòng của nàng thật yên tĩnh.
— Vậy sao? - Vương thị nhẹ nhàng nói, - Thần thiếp quen rồi, không thấy thiếu gì.
— Ta biết nàng thiếu gì, thiếu một đứa con…
Vương thị khẽ thở dài, không nói gì.
— Tên tiểu tử Khổng Quế nói, không tìm thấy Hoàng Phủ Long, nhưng biết được một vài kỳ nhân. Có một người tên là Khích Kiệm ở quận Sơn Dương, có thuật nhịn ăn, tương truyền mấy năm rồi không ăn gì. Có một người tên là Cam Thủy, người Cam Lăng, có thuật dưỡng nhan, đã gần trăm tuổi mà vẫn như năm mươi tuổi. Lại còn có người ở Lư Giang tên là Tả Từ, có thuật dẫn khí. Còn có mấy người nữa, ta định gọi hết họ đến, nếu như trị dưỡng tốt, có thể giúp nàng sinh con trai… - Tào Tháo nói vậy nhưng cũng không tự tin lắm.
— Chàng quá tin tên Khổng Quế kia chăng?
— Hừ! Ta biết hắn là đồ tiểu nhân nịnh hót, nhưng ngoài hắn ra còn ai có thể nói được những lời mà ta thích nghe? Trong lòng không vui, lẽ nào phải bịt luôn lỗ tai lại sao? - Tào Tháo vuốt má Vương thị, - Thật đáng thương, người ta không có con thì còn có họ hàng, nàng ngay đến một người thân cũng không có, sau này ta chết rồi nàng biết làm thế nào?
Vương thị không muốn nhắc đến chuyện này, hai mắt hấp háy, cố ý chuyển sang chủ đề khác:
— Hôm trước tỷ tỷ lại sai người đến thăm bà ấy.
Tào Tháo đương nhiên biết hai từ “bà ấy” mà Vương thị nói đến là chỉ ai:
— Nàng ấy có khỏe không?
— Thưa, bị bệnh rồi.
— Đúng vậy, ta năm nay sáu mươi hai tuổi, nàng ấy lớn hơn ta một tuổi, người không tìm bệnh thì bệnh cũng tìm đến người…
— Nhưng vẫn tính khí đó, tặng lụa nhất mực không nhận.
— Ây dà, nàng ta không thay đổi, ta cũng không thay đổi được. - Tào Tháo vừa nghĩ đến Đinh thị là lại nghĩ ngay đến Tào Ngang, mà nghĩ đến Tào Ngang thì lại nghĩ đến những chuyện phiền não hiện giờ.
Vương thị dường như biết Tào Tháo đang nghĩ gì, mới nói:
— Trị nước khó, trị nhà còn khó hơn.
Tào Tháo vỗ vỗ vào cánh tay nàng ta:
— Nàng cứ mở miệng ra là nói đạo lý, nàng thử nói lý lẽ của nàng cho ta xem nàng biết được bao nhiêu?
— Phận đàn bà con gái chúng thiếp hiểu gì? - Vương thị tuy nói như vậy, nhưng thực tế trong số các thần thiếp, nàng là người có sở kiến cao nhất, còn cao hơn cả Biện thị. Nàng vốn xuất thân từ gia đình quan lại ở Quan Trung, thời thế loạn lạc, cả nhà chết thảm, bị Trương Tế cướp đi, sau lại rơi vào tay Tào Tháo, nàng thuộc làu Nữ giới của Ban Chiêu, thậm chí còn đọc cả sách sử.
Tào Tháo lại vỗ vai nàng:
— Nàng không còn người thân nào thật đáng tiếc, bởi ta thấy nàng là người vợ biết cai quản việc nhà.
Vương thị ghé sát vào tai Tào Tháo, thì thào:
— Cai quản việc nhà chỉ là chuyện nhỏ, cai quản gia tộc mới là chuyện lớn, ai là chủ của một nhà thì phải xem người đó có quan hệ hòa thuận với mọi người trong gia tộc không. Con người không ai là không gặp rắc rối, thuở nhỏ thì bệnh tật, ốm đau, lớn lên thì lo chuyện đất đai, tài sản. Nếu không có quan hệ tốt với mọi người xung quanh thì muốn nhờ vả bằng hữu, dựa vào người thân cũng chẳng ai muốn giúp. Giả như huynh đệ trong họ hòa thuận, trên dưới đồng lòng, có khó khăn gì mọi người cũng sẽ chung tay. Thiếp chỉ biết có như vậy.
— Ha ha ha! Xem ra nàng hiểu biết không ít. - Tào Tháo chợt hiểu ra ý tứ trong câu nói này… Đột nhiên ông buông Vương thị ra, ngồi dậy, trong đầu lóe lên suy nghĩ.
Người trong họ? Tào Tháo chưa từng nghĩ về điều này, người kế vị mà ông muốn chọn không chỉ là chủ của gia đình này, chủ của xã tắc này, mà còn là tộc trưởng của gia tộc họ Tào và họ Hạ Hầu, việc này liên quan đến sự thịnh suy của cả gia tộc. Không! Còn có một trọng trách quan trọng hơn nữa. Việc tuyển chọn quan lại chỉ dựa vào tài năng đã không diễn ra thuận lợi, hướng đi của triều đình sau này đã thay đổi, khó tránh khỏi việc thế gia đại tộc sẽ tiến sâu vào triều đình. Vì vậy, họ Tào và họ Hạ Hầu buộc phải trở thành những gia tộc lớn mạnh, nắm chắc binh quyền và tài lực, họ Tào phải là họ lớn nhất, mạnh nhất, như thế mới có thể áp chế được bất cứ gia đình quyền quý nào. Vậy người kế thừa Tào Tháo phải là người có thể tập trung được sức mạnh của cả gia tộc. Nếu như không luận về tài trí, vậy thì Tào Phi hay Tào Thực có khả năng gắn kết đám tử tôn sau này sẽ được giao phó trọng trách như Tào Chân, Tào Hưu, Hạ Hầu Thượng, Hạ Hầu Mạo… hơn đây? Đáp án dường như đã có từ lâu…
Đùng!… đùng!…
— Có sấm rồi! - Vương thị ngồi bật dậy, sung sướng kêu lên:
— Đại vương, có sấm rồi! Có sấm rồi!
— Có sấm thì làm sao? - Tào Tháo còn đang chìm trong suy tư, nên không kịp hiểu vì sao Vương thị lại vui mừng.
— Sắp mưa rồi!
— Mưa? Ây dà… - Tào Tháo còn chưa mặc áo đã hào hứng đứng bật dậy, vén rèm nhìn ra ngoài.
— Ha ha ha! Mưa rồi… - Tất cả các thị nữ, thái giám trong cung đều vui mừng khôn xiết, lúc này họ không còn để ý đến phép tắc gì, chạy đi chạy lại khắp vườn ngự uyển.
Vất vả chờ đợi bao lâu, cơn mưa phá tan lời đồn trời cao giáng họa cuối cùng cũng đã đến.
— Ha ha ha!… Tào Tháo bám vào khung cửa cười lớn, nhưng vừa cười được mất tiếng thì một trận gió lớn thổi đến, hắt nước mưa vào mặt ông. Vương thị vội vàng lấy áo cho Tào Tháo khoác.
Tào Tháo ho mấy tiếng rồi ngẩng đầu nhìn lên: Ngột ngạt mấy tháng nay, trận mưa này lớn quá, tiếng mưa rơi vang lên đồm độp, gió lớn như muốn nhổ bật hết cây cối trong vườn, màn mưa dày đặc tựa như sương mù trắng xóa, sấm chớp ầm ầm không dứt. Tào Tháo nhìn chăm chú vào cơn mưa xối xả như muốn cuốn trôi tất thảy mọi thứ, nụ cười tắt dần, thay vào đó là một nỗi sợ không tên.
Mưa bão thổi cây cối lắc lư nghiêng ngả, giống như ma quỷ đang giơ nanh nhe vuốt, những tia chớp loằng ngoằng lóe lên rồi vụt tắt, khiến đôi mắt già nua của Tào Tháo hoa lên, còn tiếng sấm ầm ầm lại như lời ông trời đang khiển trách, làm ông sợ hãi. Trận gió lạnh kéo theo những hạt mưa đá hắt vào cửa, giống như mũi tên đang bay tới, nhắm thẳng vào tim ông. Trong tiếng mưa bão dường loáng thoáng xen lẫn tiếng khóc. Tào Tháo đã nghe ra, chỉ có ông mới nghe ra đó là tiếng khóc của Thôi Diễm, Mao Giới, Trương Lỗ, Lộ Túy, còn có cả Khổng Dung, Hứa Du, Tuân Úc, họ đang đến đòi mạng!
Tào Tháo va đầu vào song cửa, Vương thị cố gắng đỡ lấy ông, nhưng ông vẫn không đứng lên được, chỉ cảm thấy nửa người bên trái hoàn toàn tê dại. Đáng sợ, quá đáng sợ! Cuối cùng Tào Tháo cũng đã tin vào thiên mệnh, thần linh đang thể hiện uy phong với ông! Cả trời đất mù mịt, đây là lần đầu tiên trong đời Tào Tháo cảm thấy sợ hãi như vậy, con người quả thực không thể chống lại được với trời…
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9