A book is like a garden carried in the pocket.

Chinese Proverb

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Phạm Thùy Linh
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 29
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:39 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 139
ô tình nhầm lẫn, Đoạt được Hán Trung
Như có thần giúp
Đúng vào đêm Tào Tháo chuẩn bị rút quân, có hai sự kiện ngoài dự liệu đã làm thay đổi cục diện chiến trường.
Ải Dương Bình là cửa ngõ đi vào đất Thục, địa thế hiểm trở như được sắp đặt tài tình, bốn mặt bị vây kín bởi các dãy núi có hình thù kỳ dị. Có nơi núi đá lởm chởm, nhấp nhô lên xuống; nơi thì vách đá dựng đứng, không có đường lên; có nơi cỏ dại um tùm, cây cối rậm rạp; nơi thì triền núi cao vút tận trời, mây khói quanh năm bao phủ. Thành quách ở giữa rừng cây dày đặc, những cây cổ thụ cao vút tầng mây, dây leo nghìn năm đan xen chằng chịt, cứ đến tối là sương khói mờ mịt, cây đá kỳ dị tựa như yêu ma quỷ quái mang đến cảm giác âm khí nặng nề.
Trương Vệ, đệ đệ của Trương Lỗ là không phải là một mãnh tướng, cũng chẳng thể gọi là một kẻ lắm mưu nhiều kế, nhưng cũng đã cùng với huynh trưởng cát cứ đất này ba mươi năm, nắm rõ địa thế trong lòng bàn tay nên bày binh bố trận hợp lý. Trương Vệ đích thân dẫn năm nghìn quân trấn thủ cửa thành, lại phái hơn một vạn quân tản ra khắp các đồi núi ở hai mặt bắc nam, phía bắc do đại tướng Hán Trung là Dương Ngang, Dương Nhiệm trấn thủ, phía nam do các bộ tướng của Kinh Châu gồm Trình Ngân, Lý Kham, Bàng Đức trấn thủ, công sự phòng ngự dài hơn mười dặm, cự mã bố trí dày đặc, doanh trại san sát, cung nỏ, gỗ đá đầy đủ, nhờ dựa vào thế hiểm trở của núi nên chẳng khác nào tường đồng vách sắt.
Nhưng binh lực của quân Hán Trung có hạn, phòng ngự ba ngày ba đêm liên tiếp, bị quân Tào tập kích bất ngờ nhiều lần, tuy công sự không bị suy chuyển nhưng cũng đủ khiến họ bận rộn chống bên này đỡ bên kia; nhất là các đồi núi ở phía bắc bằng phẳng hơn địa hình phía nam, nên quân Tào cứ mười lần tấn công thì đánh vào mạn bắc tám lần, khiến quân sĩ phòng thủ vất vả ứng phó, không có lúc nào nghỉ ngơi. May còn có Dương Ngang, Dương Nhiệm là lão tướng của Hán Ninh rất có uy vọng, quân dưới trướng cũng đều là giáo chúng trung thành, các tướng sĩ tuy mệt mỏi nhưng ý chí không giảm sút. Có lẽ chính ý chí kháng cự mạnh mẽ của họ đã khiến quân Tào e dè. Đặc biệt là sau khi họ giết được hai tên tiểu tướng Ung Châu, thế tiến công của quân Tào càng yếu dần, kéo dài đến lúc hoàng hôn thì không thấy tiến công tiếp nữa…
Dương Ngang xông xáo chỉ huy cả ngày trời, toàn thân rã rời, cố giữ vững trận địa cho đến khi mặt trời lặn, cuối cùng cũng chờ được đến lúc giao ban. Ông ta đã giao hẹn với phó tướng Dương Nhiệm, một người phụ trách ban ngày, một người phụ trách ban đêm, binh sĩ cũng chia làm hai toán, mỗi ngày đến lúc lên đèn sẽ thay người.
Lúc này Dương Nhiệm đã ngủ đủ nên tinh thần tỉnh táo, nói nói cười cười, mặc dù đêm tối mịt mù, không thấy rõ thần sắc của ông ta nhưng cũng nhìn thấy hàm răng trắng lộ ra:
— Tối nay khá lạnh, nhưng cũng tốt, tinh thần sảng khoái càng dễ chống giặc… - Nói đoạn bước đến gần Dương Ngang, - Tướng quân vất vả rồi, quân Tào không làm loạn như hai hôm trước nữa, tiểu đệ đánh một giấc ngon lành, cứ như thế này, chẳng đến mấy ngày nữa chúng sẽ rút quân thôi.
Dương Ngang thận trọng:
— Cũng không biết được. Người ta nói Tào Tháo rất gian xảo, phải hết sức cẩn thận.
Dương Nhiệm cười:
— Chúng ta cứ tử thủ không ra, lão ta có thể làm gì được?
— Cần phải phòng kẻ địch chó cùng rứt giậu, hợp lực tấn công chúng ta, giữ được ba ngày thì dễ, nhưng ba tháng mới khó. - Lúc đầu Dương Ngang khăng khăng chủ chiến, nhưng khi hành sự mới thấy không hề dễ dàng, địa hình đúng là có lợi cho quân phòng thủ nhưng thực lực hai bên chênh nhau quá lớn.
Dương Nhiệm trẻ trung, tráng kiện lại lạc quan hơn Dương Ngang:
— Đệ nghe nói tướng quân Trương Vệ đã có thư thúc Nam Trịnh phát binh, lại tính tuyển thêm binh sĩ từ giáo chúng, không đầy nửa tháng nữa sẽ có quân cứu viện. Hơn nữa đêm nay quân lương sẽ đến, cũng đủ dùng vài tháng, binh có lương đủ, sợ gì Tào tặc?
— Mong là vậy… - Dương Ngang không tin lắm, Hán Ninh chỉ là vùng đất nhỏ, toàn bộ binh mã có thể điều động được đều đã ở đây hết, Trương Vệ chẳng qua cũng chỉ làm theo ý nghĩ chủ quan của mình, còn Thiên sư là người quý trọng danh tiết, thương xót trăm dân, lẽ nào lại để người già, phụ nữ, trẻ con ra trận? Lúc này ngoài việc cầu trời đất, khấn quỷ thần thì còn biết làm gì? Nghĩ đến đây, ông ta nhắm mắt cầu nguyện:
— Xin thiên quan giáng phúc, phù hộ cho Thiên sư đạo của chúng con qua khỏi kiếp nạn này…
— Hả? - Dương Nhiệm tay vịn vách thành, nhìn xuống quan sát, - Nổi sương mù rồi.
Rừng rậm khó tránh được ẩm ướt, hơn nữa thung lũng Dương Bình được bao quanh bởi nhiều ngọn núi nên rất dễ có sương mù, nhưng lúc này đang là tháng Bảy. Có lẽ do ảnh hưởng của tiết trời vừa nóng, vừa lạnh nên đêm nay sương mù dày đặc, trời đã chuyển tối nhưng vẫn cảm thấy từng luồng khí trắng như khói từ dưới thung lũng bay lên, không lâu sau đã bao trùm cả ải Dương Bình. Dương Ngang nhìn cảnh tượng mông lung này, ngửa mặt nhìn từng đám mây đang kéo đến che khuất ánh trăng non, không kìm được vui sướng:
— Sương mù nhiều quá, đất trời âm u! Quân Tào không thông thuộc địa hình, thời tiết này há có thể động binh? - Nói xong quỳ xuống cảm ơn trời đất, trong lòng thầm nghĩ: Tấm chân tình của ta đã làm cảm động bề trên rồi!
Dương Nhiệm còn mừng hơn:
— Có sương mù trợ giúp, đêm nay tiểu đệ không phải lo lắng gì.
— Cái gì mà sương mù trợ giúp? - Dương Ngang thành tâm nói, - Là Thiên sư đạo của ta có số được hưng thịnh, không tà ma nào có thể phá được. Sương mù này là do diệu pháp của Thiên sư đó!
— Pháp lực của Thiên sư chỗ nào cũng có, bọn phàm phu tục tử như chúng ta sao có theo được? - Dương Nhiệm bình thường ít nói, nhưng lúc này cũng hỏi:
— Tướng quân, có một chuyện đệ đã để trong lòng từ rất lâu rồi, muốn hỏi huynh, nếu như Thiên sư quy tiên, vị tế tửu nào sẽ là người kế thừa đạo thống?
Xét cho cùng, quyền thế trên thế gian này đều giống nhau, ngay cả những kẻ đầy bản lĩnh cũng không thoát khỏi “bụi trần”. Tử tôn của Trương Lỗ cũng không ít, bảy người con trai thì có năm người đã trưởng thành, đều giữ chức tế tửu trong giáo phái. Trong đó tam tử là Trương Thịnh, đức hạnh và tướng mạo khá nhất, giảng pháp luận đạo lay động lòng người, rất hợp với tâm ý của Trương Lỗ; trưởng tử là Trương Phú đang tuổi tráng niên, mặc dù đạo pháp không giỏi bằng các đệ nhưng lại hơn hẳn ở tài trị dân; còn tứ tử là Trương Dật cũng có thể làm nên chuyện, có rất nhiều người ủng hộ Trương Lỗ tuổi cũng đã cao, tuy người trong giáo phái không nói ra nhưng trong lòng cũng băn khoăn lo lắng, một khi Thiên sư quy tiên, ai sẽ là người kế vị? Chỉ e sẽ xảy ra chuyện cả ba Thiên sư cùng nắm quyền, như vậy sẽ hủy hoại danh tiếng của giáo phái, làm vấy bẩn đạo lý.
— Khụ khụ… - Dương Ngang húng hắng ho, - Chúng ta cứ trung thành bảo vệ giáo phái là được rồi, không cần quan tâm đến mấy chuyện bí ẩn kia làm gì.
— Vâng, vâng. - Dương Nhiệm không dám nhắc đến nữa.
Dương Ngang đứng dậy, bắt ấn niệm chú:
— Một lòng giữ đạo, tu dưỡng lâu dài, báo hiệu công danh, coi trọng phép tắc…
Dương Nhiệm cũng niệm theo:
— Vẻ vang mãi mãi, đời đời thông suốt, càn khôn thái hòa, vạn sự thành công… Tướng quân xin hãy nghỉ ngơi.
Sau khi tiễn Dương Ngang, Dương Nhiệm qua quýt bố trí lại quân sĩ, nhìn thấy sương mù mỗi lúc một dày, cầm bó đuốc soi mà cũng không rõ, đoán rằng thời tiết này quân Tào sẽ không dám đến, bèn ngồi xuống tảng đá đọc thần chú dưỡng tâm. Đến canh hai, chợt nghe tiếng ầm ầm sau núi, Dương Nhiệm giật mình:
— Không hay rồi! Chẳng lẽ giặc Tào lại có ma pháp tấn công ta từ phía sau?
Ông ta đứng dậy quan sát, nhưng sương mù dày dặc, chỉ nghe thấy những tiếng “loảng xoảng” không dứt bên tai - đó là tiếng tường vách, lều trại bị đổ!
Âm thanh càng gần, tiếng hét càng rõ:
— Yêu thuật tà pháp! Yêu quái ma quỷ đến rồi! - Đã tin vào đạo tất sẽ tin có ma quỷ, các giáo đồ ai nấy đều hoảng hốt, vứt bỏ vũ khí. Không ít người trong lúc hoảng loạn đánh rơi cả đuốc, làm khung cảnh càng thêm mù mịt.
Biết rằng không phải là quân Tào, Dương Nhiệm lại càng lo lắng: Lẽ nào ta vừa hỏi điều không nên hỏi, nên ông trời đã giáng họa trừng phạt? Chuyện đã đến mức này thì càng phải bạo gan, Dương Nhiệm rút gươm, kêu gọi binh lính liều một phen sống mái với “ma quỷ”, nào ngờ chưa đi nổi hai bước lại nghe thấy tiếng ầm ầm, tiếp đó là những bóng đen đang lao tới.
Dương Nhiệm nghĩ đó là yêu quái trên núi do ma quỷ phái đến, bèn vung gươm chém loạn xạ, các binh sĩ cũng liều chết xông lên, nhưng không ngờ pháp lực của “yêu quái” quá yếu, vừa mới bị chém vài nhát đã vội vàng bỏ chạy. Sau đó lại một hồi lẻng xẻng do va chạm với cự mã, tường rào, lũ “yêu quái” biến mất vào trong thung lũng, trận đại chiến đến đây kết thúc.
Nhiều người nổi lòng hiếu kỳ, muốn xem rốt cục yêu quái của núi này có hình thù thế nào, bạo gan cầm đuốc quan sát; từ chân đến lưng cao năm thước, từ đầu đến đuôi dài một trượng, to béo, lông vàng, bụng trắng, đầu giống ngựa, sừng giống hươu, cổ giống lạc đà, đuôi giống lừa - Hóa ra là một bầy nai!
— Hừ, cứ tưởng ma quỷ! - Dương Nhiệm thở phào, lau mồ hôi.
Thú hoang xuất hiện trong rừng là điều bình thường, nhất là sau khi Trương Lỗ phong tỏa đường núi, nhiều cánh rừng hơn mười năm nay không có hơi người mà chỉ toàn chim muông, cầm thú. Đám nai này từ phía đông bắc kéo đến, ít cũng phải có bốn năm trăm con, sương mù dày đặc che mất đường nên hoảng loạn lao vào doanh trại. Các binh sĩ sợ hãi, nhưng bầy nai còn kinh sợ hơn! Chúng xông vào trại đã phá hỏng nhiều công sự, giẫm đổ không ít lều trại, làm bị thương mấy chục người, khiến quân Hán Trung được phen hoảng loạn.
Dương Nhiệm vội vàng sai người đi sửa lại cự mã, tu bổ tường vách. Có một binh sĩ đề nghị: Không thể tha cho “bọn địch” này dễ dàng được, dám khinh nhờn đạo sư, phải giết lấy thịt, lột da chúng! Vừa rồi trong lúc hỗn loạn họ giết được mấy chục con, chắc là còn có những con bị thương, nên xin đi tìm rồi xử một thể. Thực ra là muốn được một bữa no nê!
— Ý hay, ý hay. - Dương Nhiệm cười đắc ý, - Mặc dù theo đạo thì phải biết kiềm chế dục vọng, nhưng nai là của trời ban, trợ giúp quân lương cho chúng ta. Hãy đi tìm kiếm nhưng không được đi quá xa, vẫn phải nhớ nhiệm vụ chính hiện nay. - Nói xong cũng nóng lòng đợi ăn thịt nướng.
Dương Nhiệm và thuộc hạ nghĩ, thời tiết nhiều sương mù thế này, quân Tào sẽ không tấn công, cho nên họ có thể yên tâm ăn thịt, tĩnh dưỡng tinh thần để tiếp tục chiến đấu. Nhưng chuyện sau này đã chứng minh, địa thế hiểm trở cửa ải Dương Bình cùng với địa vị gây dựng cả trăm năm nay Thiên sư đạo đều bị hủy hoại chỉ vì một bầy nai…
Vô tình nhầm lẫn
Sương khói mù mịt bao trùm khiến cục diện trở nên phức tạp, trong lúc đại quân Hán Trung mải mê ăn uống thì quân Tào đang căng thẳng điều động mọi việc. Chư tướng Ung Châu vốn có thù oán với Mã Siêu, giận lây sang Trương Lỗ, lại thêm việc Khổng Tín, Vương Linh chết trên chiến trường nên ai nấy đều đòi tấn công địch. Chinh tây hộ quân Hạ Hầu Uyên trực tiếp thống lĩnh bọn họ, bản tính nóng nảy, chớ nói là sẽ áp chế chư tướng, ông ta không hùa vào cùng họ đã là may lắm rồi. Tào Tháo phái Hạ Hầu Đôn, Hứa Chử đi ngăn họ lại, nhưng hai người vốn ít giao thiệp với các tướng tây bộ, may nhờ vào tiếng tăm của mình nên bàn bạc mất một canh giờ mới khống chế được bọn họ. Hạ Hầu Đôn là người có quyền hành trong quân, có thể ra lệnh hành quân mà không cần thỉnh thị, bèn quyết định nhân đêm tối thay người phòng thủ, điều Lưu Nhược, Vương Đồ, Ân Thự lên phía trước, đổi Khương Tự, Triệu Ngang, Doãn Phụng ra phía sau để tránh sự cố.
Thực ra, lúc này Tào Tháo đã sai Lưu Hoa đi quan sát thế trận để chuẩn bị nhổ trại rút quân, nhưng Hạ Hầu Đôn vẫn chưa hay biết sự tình; quân chính quy của Tào Tháo và tướng sĩ tây quân không cùng quê quán, nên cách bố trí trang bị cũng khác nhau, việc đổi quân phòng ngự không chỉ là thay đổi binh tướng mà ngay cả chiến xa cũng phải di chuyển, thế là một phen điều quân gấp rút được bắt đầu…
Dưới trướng của Hạ Hầu Uyên có một người giữ chức Giả tư mã, tên là Cao Tộ, nắm trong tay không đến nghìn quân, tập hợp thành đội quân yểm trợ, đóng tại phía bắc của doanh trại, từ khi xuất quân đến nay chưa giao chiến lần nào. Cao Tộ mong được lập công thăng chức, vốn không muốn di chuyển địa điểm đóng quân, nhưng quân lệnh như sơn nên chẳng còn cách nào khác. Đại quân điều động đông nghịt, vị trí của Cao Tộ ở bên sườn, đi về phía tây một dặm lên đến lưng đồi là doanh trại của trung quân. Ông ta nghe lệnh thì không vội vàng, cũng chẳng chen nhau với người khác, định đợi cho các bộ di chuyển xong mới đi tìm khoảng trống để dựng trại, vì vậy đã truyền lệnh nổi lửa nấu cơm, định ăn xong mới đi.
Cao Tộ nghĩ thế nhưng chưa kịp ăn cơm thì trời đã có sương mù, Cao Tộ biết tình hình không tốt: Ta không thông thạo địa hình nơi này, nếu bị lạc trong sương mù sẽ rất nguy hiểm. Thế là ông ta thúc binh sĩ ăn nhanh, đến khi thu dọn xong quân trại thì bốn bề đã phủ kín sương mù.
Cao Tộ trấn tĩnh tinh thần, dẫn quân đi về hướng tây, nhưng khổ nỗi đất đá lổn ngổn, cây cao chót vót, ngoặt rẽ mấy lần thì không phân biệt được phương hướng. May mà quân Tào đông, quân địch ít, mỗi bên chiếm giữ một quả đồi, quân Tào thắp đuốc dày đặc, chỉ cần theo hướng nào sáng nhất là được. Khởi hành không lâu, có xích hầu phía trái đến báo:
— Quân địch đang đi về hướng này!
Cao Tộ mỉm cười: Ta muốn tìm cơ hội giao chiến từ lâu, nếu đánh lui được đám địch này thì chẳng phải sẽ lập công lớn sao? Hơn nữa sương mù dày đặc, nếu không đánh nổi thì vẫn có thể tháo chạy. Nghĩ vậy liền truyền lệnh:
— Toàn quân di chuyển sang bên trái, bày trận chờ địch, không được khinh thường!
Binh sĩ đều giơ đao thương lên, định huyết chiến một trận, nhưng bỗng nhiên mặt đất rung chuyển, bụi bay mù mịt, hỗn độn không rõ, chỉ nghe được tiếng chân dồn dập. Cao Tộ kinh hãi: Lẽ nào lại có kỵ binh? Nơi thâm sơn cùng cốc sao có thể dùng kỵ binh chứ? Đang suy nghĩ thì đội “kỵ binh” đó đã ập đến, không giao chiến mà chỉ từ bên phải nhảy qua.
— Tức chết đi mất! - Cao Tộ gằn giọng, - Chúng biết quân ta ít nên khinh thường? Không đánh cho chúng một trận không được, mau phóng tên!
Tướng liều thì lính cũng liều, binh lính thi nhau bắn tên, tên bắn ra như mưa nhưng quân địch vẫn không đáp trả, cứ thế lần mất; mặc cho tiếng người la hét, chỉ vọng lại những tiếng “ô ô”. Phút chốc quân địch đã chạy xa, quân Tào đánh bạo đuổi thêm mấy chục bước nhưng chỉ nhìn thấy khắp đất toàn những thi thể hình thù kỳ dị, giương cung quan sát cẩn thận, thấy rõ là nai hoẵng mới biết mình nhầm. Nhưng sau khi giết nhầm thì lại thấy vui, quân đang thiếu lương, có thể mang về để chống đói, hơn nữa thịt nai vừa tươi lại vừa ngon.
Cao Tộ lệnh cho binh sĩ nhặt hết xác nai mang về, binh sĩ đang vui mừng hò reo, bỗng nhiên phía trước lại có kẻ đến cướp nai. Nửa đêm nửa hôm, sương khói dày đặc, người ngựa hai bên đều vì tìm thịt mà đi lạc. Dần dần có người cảm thấy có gì đó không ổn, mới hỏi:
— Các ngươi là ai?
Cũng thật kì lạ, khẩu âm của hai bên rất giống nhau, không phân biệt được địch ta, bị đối phương hỏi vậy nên không dám nói. Nhưng có người nhanh nhảu, lập tức hỏi lại:
— Vậy các ngươi là ai?
— Ta… ta đi nhặt nai của ta, ngươi quản làm gì? - Câu này đã lộ vẻ sợ hãi.
— Đánh nó, đánh nó!
— Đứa nào dám động thủ? Các huynh đệ xông lên!
Nói là động thủ nhưng chẳng ai dám đánh ai, vì chưa biết là bạn hay thù. Trong tình cảnh hỗn độn như vậy, cả hai bên đều hoài nghi, sợ hãi nhưng cũng không dám hỏi rõ, chỉ khua khua nắm đấm và suy nghĩ: Nếu đánh phải quân mình, chỉ cần không bị tử thương thì vẫn có thể giải thích; nếu đánh phải địch thì dù sao cũng là “tác chiến”, dễ bề ăn nói với cấp trên. Và thế là ngươi đấm, ta đá, kẻ ngáng chân, người túm áo, mơ hồ đấm đá lẫn nhau. Mãi lúc sau Cao Tộ mới xông ra phía trước tự mình giới thiệu, lúc này “quân địch” cũng vui mừng tung hô, hóa ra đều là quân Tào, vội vàng gọi tướng lĩnh ra gặp mặt.
Thủ lĩnh đội quân này là Giải Phiêu, quân hầu dưới trướng của Hạ Hầu Đôn, lĩnh năm trăm người, không phải tướng chỉ huy tiên phong mà chỉ phụ trách vận chuyển xe lương, là một trong những lộ quan phụ trách cấp phát lương thảo. Giải Phiêu vốn phụng lệnh vận chuyển xe lương đến cho tiền quân, nào ngờ vừa tới nơi đã có quan truyền lệnh đuổi theo nói Ngụy Công chuẩn bị lui quân, bảo ông ta chuyển xe lương về. Giải Phiêu nhận lệnh quay về, nhưng ban ngày nhìn thấy hai quân giao chiến, đoán là trong thung lũng chắc có nhiều binh đao, áo giáp rơi lại. Những kẻ phụ trách hậu cần định nhặt đồ mang về sửa chữa dùng lại, nghĩ rằng quân Hán Trung binh mã ít ỏi nên chắc sẽ không ra đánh, Giải Phiêu bèn đi đường vòng theo hướng bắc, vừa nhặt đồ, vừa rút quân. Không ngờ trời chuyển tối sương mù dày đặc, đang nhặt quân giới thì thấy xác mấy con nai, ngẩng đầu nhìn lên, lờ mờ thấy còn nhiều. Giải Phiêu vui mừng vì món lợi từ trên trời rơi xuống, dọc đường nhặt xác nai đến tận đây, hai quân không hẹn mà gặp.
Hai tướng báo xong danh tính mới biết đều là người Quan Trung, tay bắt mặt mừng. Cao Tộ thầm nghĩ: Mình là phó tướng tây chinh, hắn ta là thuộc hạ của Phục Ba Tướng quân, nên năng đi lại, nếu có thể kết mối thâm giao, sau này nhờ hắn nói giúp có khi sẽ được luân chuyển thăng chức. Nghĩ vậy Cao Tộ liền nói giọng ân cần:
— Tiểu đệ không nhiều quân nhưng có thể phòng địch, nếu quan gia đã phụng mệnh vận lương, tiểu đệ sẽ hộ tống.
Giải Phiêu vốn không hay để ý, Cao Tộ dù sao cũng là Giả tư mã, còn ông ta chỉ là một quân hầu, đối phương luôn nhận mình là “tiểu đệ”, gọi mình là “quan gia”, trong lòng cũng cảm thấy khoan khoái - Vậy phải làm phiền rồi.
— Không dám. - Cao Tộ nhìn quanh mới nói, - Chúng ta đều ở trong quân, vừa giáp mặt đã đánh nhau, chắc chắn có một bên sai. - Thực ra cả hai đều không đúng, một bên nửa đường bắn tên “phòng địch”, một bên đi đường vòng nhặt của, vừa gặp đã lao vào đánh nhau chí chóe.
Giải Phiêu vỗ ngực nói:
— Chớ nghĩ chức vụ của đệ cao hơn ta, nói về tài dụng binh chỉ e vẫn có chỗ chưa sánh kịp. - Nói xong chỉ tay về bên trái, - Đệ xem, mặc dù đường xá không rõ, nhưng nơi xa xa có nhiều ánh sáng kia, chắc chắn là ngọn núi chúa công đóng quân.
Cao Tộ muốn giao hảo với hắn nên cũng không so đo:
— Có lý, có lý, đúng là gừng càng già càng cay! - Thế là hai bên hợp quân, đi theo phía nhiều ánh sáng.
Hai tướng nói nói cười cười, chẳng lâu sau đã trở nên thân thiết, người này một câu “Giải đại ca”, kẻ kia một câu “Cao hiền đệ” nói suốt dọc đường, các binh sĩ cũng lơ là cảnh giác. Khoảng đến canh ba thì xuống đến dốc núi, nhưng là dốc núi phía tây!
Cao Tộ bất giác nói:
— Đại ca, xe lương rất nặng, để đệ gọi mọi người đến giúp! - Nói xong sai mấy người đến giúp, trước tiên khiêng xác những con nai tiến lên phía trước.
Thế núi thoai thoải, nhưng mỗi con nai cũng nặng năm sáu chục cân, vác trên vai không dễ gì leo núi, binh sĩ đang định gọi người, không ngờ ở phía trên lại có người chủ động tiếp ứng:
— Sao giờ mới quay lại?
— Ô! Các ông cũng thính thật, sớm biết có đồ ngon.
— Bọn tôi đều ăn rồi, các ông chậm quá!
— Sương dày, suýt thì lạc đường.
— Mấy người ở Quan Tây các ông không ăn thua, phải để dân bản địa. Cứ để đó cho chúng tôi, các ông lên ăn đi. - Khẩu âm của hai bên không giống nhau, nhưng từ khi Mã Siêu chạy đến Hán Trung, đã mang theo không ít binh sĩ người Quan Tây, trước mắt đều cùng chống quân Tào nên không ai nghi ngờ gì.
Cao Tộ toàn tâm kết giao, Giải Phiêu hết lời khen ngợi, cả hai người đều có ý nuối tiếc vì gặp nhau hơi muộn, cũng chẳng để ý lại có “viện binh” xuống chuyển lương, còn đỡ mình lên núi. Không lâu sau nai hoẵng đã được chuyển xong, hai quân lại tiếp tục chuyển xe lương - Quân Hán Trung được tin xe lương của Nam Trịnh hôm nay sẽ tới, nên vẫn không nghi ngờ gì; quân Tào vừa lên núi cũng đến bên đống lửa ăn uống cùng, hai quân không có chuyện gì xảy ra. Quan trọng là do sương mù quá nhiều, nhìn xa không được một trượng, cả hai quân đều mải ních cho đầy bụng, chẳng để ý xem người đưa thịt là ai.
Cao Tộ, Giải Phiêu thấy binh sĩ đang tản mát cũng không muốn nán lại nữa, đang định chắp tay chào nhau thì từ trong làn sương trắng có người đi đến, hình như là một chức quan nhỏ, tay cầm một mũi tên đến bắt chuyện:
— Hai vị vất vả rồi, nhưng tiểu đệ muốn khuyên một câu…
Quan tướng trong doanh trại nhiều vô kể, quân hầu các bộ đông đúc, sao có thể biết hết được? Giải Phiêu cũng nói mấy câu xã giao:
— Là chức trách của chúng tôi cả, sao lại nói là vất vả? Có gì xin cứ nói.
Người này ném mũi tên sang một bên, hai tay làm một động tác kỳ lạ:
— Đúng là thịt ngon, lộc trời ban tặng, nhưng không nên lấy một cách bừa bãi. Con vật bị thương, bắt giết đã đành, sao lại dùng cung tên sát sinh phá vỡ đạo trời? Nếu trời giáng tội giáo hội ta, chẳng phải là liên lụy đến mọi người sao?
Cao Tộ càng nghe càng thấy mơ hồ:
— Rốt cuộc ông định nói gì?
Ông ta lờ mờ trông thấy người này lắc đầu:
— Huynh đệ không nghe theo, tôi cũng không nói nữa, nhưng cung tên của ta có hạn, để giữ được ải này không hề dễ dàng, Dương tướng quân mà biết sẽ trách tội. Trời sáng quân Tào lại…
Giải Phiêu đúng là đần độn, còn định đứng đó nghe tiếp. Cao Tộ nghe vậy thì toát hết mồ hôi, lập tức đứng dậy, rút gươm ra, túm lấy vai của người kia rồi đâm một nhát chí mạng!
— Hiền đệ sao lại giết người? - Giải Phiêu giật mình hoảng hốt.
Cao Tộ đẩy cái xác sang một bên, trừng mắt giận dữ:
— Huynh nhầm đường rồi!
Giải Phiêu vẫn chưa hiểu ra, đã nghe xung quanh náo loạn. Lúc mới đầu mọi người còn tưởng do hận thù cá nhân, nhưng quan sát thấy không đúng. Người của Thiên sư đạo đều biết tụng kinh nên vừa hỏi đã lộ rõ chân tướng. Trong chốc lát kẻ đâm chém, người bỏ chạy, hai bên hỗn loạn lao vào đánh nhau.
Cao Tộ múa đao ra sức giết địch, hét lớn:
— Vào nhầm trại giặc, mau chạy thôi!
Giải Phiêu chân tay mềm nhũn cả ra. Lúc này hai tướng Cao, Giải có hơn nghìn quân, trong đó có đến một nửa chỉ biết vận chuyển xe lương không biết tác chiến, vào nhầm trại giặc chẳng phải là tự tìm đường chết sao? Đầu óc bọn họ loạn hết lên, lại thêm sương mù dày đặc, không phân biệt được phương hướng.
— Quân Tào vào trại!… Mau giết chúng!…
Cao Tộ, Giải Phiêu căng mắt nhìn bốn phía, đừng nói là đường xuống núi, ngay cả binh lính của mình cũng chỉ thấy được vài người. Nhưng tiếng hô giết vang lên mà vẫn không thấy quân địch lao đến - Tất thảy đều mất phương hướng trong sương mù!
Cao Tộ định nhân lúc hỗn loạn đột phá vòng vây, nhưng không phân biệt được phương hướng, đành cầm gươm chém loạn xạ, cũng không biết là giết địch hay giết người của mình, cuống cuồng nói:
— Chúng ta vào nhầm trại địch, khác nào chết không có chỗ chôn! Họ Giải kia, chớ mò đường nữa, nghĩ cách đi!
Giải Phiêu không phải là chiến tướng, run rẩy cầm gươm, mồm lẩm bẩm giáp, ất, bính, tý, sửu, mão, dậu, cố ý giả làm giáo đồ. Nghe Cao Tộ hỏi nhưng hồn bay phách lạc, đánh rơi cả gươm đao, bò xuống đất mò thì sờ được đúng mặt trống, chợt nhớ đến nhiệm vụ vận chuyển xe lương, trong lúc hoang mang bỗng chợt nghĩ ra:
— Đánh trống!
Phiêu nói đánh trống chẳng qua là để trợ giúp khí thế của quân lính, nhưng Cao Tộ cho rằng đây là một cách để tập trung binh lính trong sương mù, cũng hô to:
— Đánh trống! Mau đánh trống! - Hơn một trăm quân lính lập tức cúi xuống sờ mò dưới đất, tìm được sáu, bảy cái trống, không cần biết là của giặc hay của mình cứ ra sức đánh.
Không ngờ lần nhầm lẫn này lại làm cho quân Hán Trung hoang mang tột độ. Dương Nhiệm nghe tin địch lên núi, còn cho rằng quân đã kéo đến nơi, cầm binh đao đâm địch nhưng lại giết toàn người của mình; Dương Ngang đang ngủ cũng tỉnh dậy, hỏi rõ sự tình cũng giật mình kinh hãi, nghĩ rằng ở trong sương mù thế này khó phân biệt được địch ta, bèn nghĩ cách phân biệt quân địch và quân mình, nên truyền lệnh:
— Địch dùng trống, ta dùng chiêng!
Quân lệnh truyền xuống, binh lính dùng đồ kim loại gõ vào nhau, Dương Ngang còn hét:
— Tiếng chiêng là quân ta!
Cao Tộ càng hoảng sợ:
— Nếu địch nghe tiếng chiêng mà tập kết được thì chúng ta sẽ chết hết! Phải làm sao?
Giải Phiêu lúc này đã bình tĩnh hơn, cắn răng cắn lợi:
— Chúng dùng tiếng chiêng, vậy thì ta cũng dùng.
Thế là hai bên lại hỗn loạn!
Tiếng trống, tiếng chiêng cùng vang lên, chẳng phân biệt được ai vào với ai. Phía bắc ải Dương Bình bỗng chốc biến thành một mớ hỗn loạn, trong lúc hốt hoảng quân lính đá cả vào đống lửa, sương mù, khói bụi hòa lẫn với nhau, càng khó phân biệt địch ta. Người bạo gan nhìn ai cũng thấy là người mình, nên không đánh nữa; kẻ nhát gan nhìn ai cũng thấy là kẻ địch, đâm chém loạn xạ; cũng có kẻ xảo quyệt, nấp vào trong trại, mặc kệ bên ngoài! Sương mù còn đáng sợ hơn đêm đen, trời tối đốt lửa còn trông rõ, nhưng sương mù mà đốt lửa thì khí càng quẩn, tạo ra màu khói xám, cay mắt càng khó phân biệt. Người đánh trống, kẻ khua chiêng, trong hỗn loạn có người sờ được kèn lệnh cũng thổi váng lên - thế là trên núi ầm ĩ đủ các thứ tiếng.
Người đâm kẻ chém lẫn lộn, mười phần bị thương thì có chín phần là quân Hán Trung. Cao Tộ, Giải Phiêu nghĩ thông, đằng nào cũng đang ở trong trại giặc, đã loạn thì cho loạn luôn, càng loạn càng tốt, hơn một trăm quân lính bên cạnh, giặc đến một mạng đổi một mạng. Khoảng nửa canh giờ trôi qua, lại nghe thấy tiếng chém giết vang trời - Đại quân Tào Tháo đã đến thật rồi!
Tào Tháo phái người truyền lệnh thu binh, các doanh tiền quân đều đã thu dọn xong xuôi, đột nhiên nghe thấy phía đối diện có tiếng chiêng trống ầm ầm, còn cho rằng địch lén đột kích! Quân Tào lập tức bày binh bố trận trong đêm tối, cũng hỗn loạn không kém, nhưng chờ mãi mà chẳng thấy địch đến, lại nghe âm thanh rất to mà lại ở khá xa, cũng không thể đoán được địch có ý gì. Cho nên quân Tào bèn sai xích hầu đi do thám, nhưng cũng không tìm hiểu được chuyện gì đang xảy ra.
Bộ quân trước đây của Vi Khang ở Ung Châu là Khương Tự, Doãn Phụng, Triệu Ngang có mối thâm thù với địch, sớm đã muốn huyết chiến một trận, lúc đầu cũng do bọn họ khoác lác rằng ải Dương Bình dễ đánh, lúc này lẽ nào lại không ra tay? Diêm Hành, Cúc Diễn, Tưởng Thạch thuộc bộ quân Lương Châu vừa theo tàn quân của Hàn Toại về quy hàng, cũng đang muốn lập công chuộc tội với chủ mới. Đám binh sĩ tây bắc này nổi tiếng dũng mãnh, lại thêm có Hạ Hầu Uyên hiếu chiến, ngông cuồng. Trong sương khói dày đặc, bọn họ không rõ địch có đến hay không, đi đến nửa đường cũng không đổi sang thế phòng ngự, quân tây bắc dẫn đường, quân của Trương Cáp, Từ Hoảng, Chu Linh ở phía sau, theo hướng tây mà xông lên. Cứ đi theo nơi có tiếng trống chiêng, ắt sẽ không sai đường được.
Quân Tào từ phía đông thung lũng tiến thẳng sang phía tây, trên đường cũng không gặp địch; quân ở phía bắc thấy loạn đã tấn công lên; còn quân trấn thủ phía nam thì vẫn chỉnh tề, nhưng thấy mạn bắc hỗn loạn, tinh thần cũng hoang mang. Bên trên không thấy được bên dưới, chỉ biết lăn đá xuống; bên dưới không thấy được phía trên, may mà quân Tào nhiều tên, bắn liên tiếp - Hai quân đánh nhau hỗn loạn trong sương mù, người chết không nhiều mà chủ yếu bị thương.
Lưu Hoa vâng mệnh tuần tra doanh trại, vừa mới xuống đến lưng núi đã cảm thấy có gì đó không bình thường, cũng không nhìn rõ, tìm người hỏi mới biết đang đánh nhau, hơn nữa có người đã đi tấn công quân địch; ông ta vội chạy về trướng trung quân, hét lớn:
— Chúa công không thể thu binh! Đêm nay đánh địch tất thắng!
Tào Tháo đang mệt mỏi, ngay cả chăn gối cũng đã sai Khổng Quế thu dọn đâu vào đấy, nhưng nghe thấy lời này lại cảm thấy phấn chấn, lập tức hạ lệnh toàn quân xuất chiến. Tào Chương chỉ chờ câu nói này, người khác còn chưa động tĩnh gì, y đã dẫn một đội kỵ binh lao đi, Tào Chân, Tào Hưu không còn cách nào khác đành đi theo, các quan tướng khác cũng đuổi theo sau, sáu bảy vạn quân xông lên tiến công…
Trương Vệ trấn thủ ải Bình Dương, đêm nay không được ngủ tròn giấc. Ban đầu là tiếng chiêng trống ầm ĩ, sau đó lại thấy có quân báo, nói quân địch tấn công. Ông ta trèo lên lầu thành thì chỉ nhìn thấy màn sương mờ ảo, nhưng tiếng chém giết kinh trời động đất vọng đến - không nhìn thấy còn đáng sợ hơn là nhìn thấy, cả núi rừng vang dội tiếng chém giết, càng đẩy khí thế của quân Tào lên gấp bội! Lúc đầu họ còn bình tĩnh, nhưng phía bắc loạn, quân phía nam cũng loạn theo, âm thanh hỗn tạp bao vây tứ phía.
Trương Vệ hoảng hốt, mồ hôi đầm đìa:
— Địch làm thế nào mà vào được trại ta, chẳng nhẽ lại rơi từ trên trời xuống? Tào Tháo đúng là yêu quái! - Nếu Tào Tháo nghe được lời này chắc chắn sẽ bật cười, người đời chửi rủa ông đâu có ít, nhưng lời lẽ mắng chửi cũng có hạn, chỉ quanh đi quẩn lại là “nòi giống hoạn quan”, “lão tặc cướp ngồi”, nay lại có thêm một câu chửi mới là “yêu quái”.
Nhưng chửi thôi thì làm được gì? Quân trấn thủ trong thành chỉ có năm nghìn người, dựa vào địa thế hiểm hóc giữ ải còn được, nếu xông ra đánh khác nào hạt muối bỏ biển, Trương Vệ đành sai quân xích hầu đi thăm dò tình hình, hy vọng cầm cự được đến lúc trời sáng sương tan để nghĩ cách khác. Nhưng quân được phái đi mãi không thấy về, trong khi tiếng chém giết ngày càng đến gần. Trương Vệ nóng ruột đi đi lại lại trên thành, ông ta không tín đạo như huynh trưởng, bình thường ít khi đọc kinh tu hành, hôm nay lại niệm Thái bình kinh. - Phép tu dưỡng giữ cho tinh, khí, thần được hợp nhất là gốc của trường thọ, có thể chế ngự muôn thần, mở cửa ánh sáng… Khi đã tu dưỡng thông đạt, nếu thấy xuất hiện ánh lửa, thì mau giữ lấy, chớ nên để mất! - Nhưng lúc này có niệm chú cũng vô dụng, hồn phách đã bay hết, phép dưỡng tâm phỏng có ích gì?
Trương Vệ khổ sở chờ đến canh bốn, tên xích hầu cũng quay về, toàn thân đầy máu, mặt mũi tái nhợt:
— Bẩm tướng quân, ngọn núi phía bắc đã rơi vào tay giặc, phía nam đang kịch chiến, Dương Nhiệm đã chết trong đám loạn quân.
— Trời diệt giáo phái ta rồi! - Trương Vệ kêu lên thảm thiết, ngã vật xuống đất, mặt cắt không còn giọt máu, - Bỏ ải thoát thân thôi!…
Tiến quân vào Nam Trịnh
Tháng Bảy năm Kiến An thứ hai mươi, quân Tào phá được ải Dương Bình, chiếm được cửa ngõ đi vào đất Thục. Cả đời chinh chiến của Tào Tháo, chiến thắng lần này là may mắn nhất, cả bầy nai đột kích doanh trại, quân lính lạc đường, sương khói âm u, quá nhiều điều kỳ lạ đã làm nên chiến thắng này, có lẽ là do ông trời trợ giúp.
Nhưng đối với Trương Lỗ thì là “thiên quan giáng tội”, ải Dương Bình tập trung đội quân tinh nhuệ nhất của Hán Trung, trận chiến vừa rồi thương vong vô số, tiêu tan binh lực, bao nhiêu công sức đều đã mất hết; Trương Vệ không quản ngày đêm chạy về Nam Trịnh, nhưng cũng chẳng còn hơi sức đâu mà dàn quân chống địch. Không còn cách nào khác, Trương Lỗ đành vứt bỏ Nam Trịnh chạy về Ba Trung, đầu quân cho bộ lạc Man Di. Ông ta bỏ đất mà đi đồng nghĩa với việc dâng Hán Trung cho Tào Tháo, chỉ trong không đầy nửa tháng, sáu thành Nam Trịnh, Miến Dương, Thành Cố, Bao Trung, huyện Tích, An Dương lần lượt bị quân Tào chiếm đóng; thổ hào Thân thị ở Thượng Dung, Tây Thành không còn cách nào khác cũng phải dâng thành quy thuận; cộng với việc trong tay đã có Phòng Lăng, vậy là chín huyện của Hán Trung đều rơi vào tay Tào Tháo, tuyến đường huyết mạch nối Kinh Châu và Ích Châu đã thông suốt…
Khi Tào Tháo cùng quần thần tiến vào Nam Trịnh, những cảnh tượng trước mắt đều khiến họ kinh ngạc, giống như bước vào một cõi khác. Trương Lỗ đã trị lý ở đây ba mươi năm, pháp lệnh của nhà Hán hoàn toàn không tồn tại, tất cả mọi người đều tôn sùng giáo lý của Thiên sư đạo. Những người từ lúc sinh ra đều sống trên đất này, do Hán Trung bốn bề bao quanh bởi núi, có thể nói là “nước ở trong nước”, cho nên họ không biết thiên tử nhà Hán là ai, cũng không rõ cục diện thiên hạ ra sao.
Tuy ở đây không có luật lệnh, không có nha môn, không có tiền tệ, không có buôn bán, nhưng cuộc sống của người dân vẫn trật tự đâu ra đấy. Gạo thịt trên đường có thể tùy ý lấy, không một ai nảy sinh lòng tham; ai phạm tội thì phạt sửa cầu, làm đường để chuộc lỗi; tế tửu, quỷ tốt và dân thường bình đẳng như nhau, không phân biệt cao thấp, sang hèn… Điều làm Tào Tháo ngạc nhiên nhất đó là kho phủ, Trương Lỗ bỏ chạy không mang theo bất cứ của cải nào, vàng bạc, vải vóc chất thành núi, thậm chí còn có nhiều đồ đạc từ thời Tô Cố còn làm Thái thú, cất giữ đã hơn ba mươi năm; đặc biệt là Nam Trịnh không người thống trị mà vẫn duy trì được trật tự, không ai có ý định cướp của cải.
— Trương Lỗ lúc này đang ở đâu, đã tìm hiểu rõ chưa? - Chứng kiến cảnh tượng trước mắt, Tào Tháo nóng lòng muốn gặp vị Thiên sư này.
Tân Tỵ tâu:
— Bẩm chúa công, hắn từ núi Mễ Thương chạy về Ba Trung, nương nhờ Di Vương Phác Hồ, Tông Ấp hầu Đỗ Hoắc. - Quận Ba nhiều đồi núi, tập trung nhiều người Man Di. Trong đó Bản Thuẫn Man(*) là thế lực lớn nhất, thủ lĩnh Phác Hồ cai quản bộ lạc gồm bảy họ La, Phác, Đốc, Ngạc, Độ, Tịch, Cung, nên được gọi là “Di Vương bảy họ”. Người Tông(*) cũng là bộ lạc không thể xem nhẹ, họ là hậu duệ của nước Tông thời Ân, Thương, thủ lĩnh đã được triều đình nhà Hán sắc phong làm Tông Ấp hầu, cha truyền con nối, miễn cống nộp; thủ lĩnh hiện nay là Đỗ Hoắc giao thiệp khá thân thiết với Trương Lỗ.
Mấy bộ lạc này thực ra cũng chẳng có gì ghê gớm, chỉ vì thiên hạ đại loạn, họ nhân cơ hội tập hợp thế lực, mặc dù không có nhiều binh mã nhưng lại được lòng người bản xứ, do vậy Lưu Chương, Trương Lỗ đều có ý muốn thu phục, nhiều năm sống cùng với họ. Tào Tháo cười lớn nói:
— Khổng Khâu có câu: “Bán đi chứ, bán đi chứ! Ta đợi được giá mới bán đạt.”(*) Ta xem chừng Trương Lỗ cũng đang đợi được giá mới bán, ngươi xem những giáo dân và người Man Di kia, không có Trương Lỗ thì có được lòng dân ở đây không?
Khổng Quế đứng bên cạnh nghe, vội đáp:
— Bách tính trong thiên hạ đều cảm tạ ân đức của chúa công, tên Trương Lỗ kia có là gì? Tiểu nhân thấy hắn đúng là yêu quái, biết tội nghiệt nặng nên để lại kho phủ muốn nịnh nọt chủ công.
— Không đúng, không đúng… - Tào Tháo nhìn kho của cải mà trầm tư suy nghĩ, rất lâu sau mới nói:
— Hán Trung nhờ có Trương Lỗ trị lý mới được như vậy, hắn còn cần của cải làm gì? Một người nếu như sống mà không cần tiền vẫn có thể tồn tại thì chắc chắn không phải đang làm bộ làm tịch… - Trong câu nói của ông có hàm chứa cả sự ngưỡng mộ và đố kỵ.
Khổng Quế thấy Tào Tháo không có ý ghét bỏ, ngay lập tức chuyển giọng:
— Chúa công nói đúng, đã được gọi là Thiên sư thì ít nhiều cũng phải có đạo hạnh, có thể mấy tên giặc gạo này có bí quyết tu dưỡng trường thọ, sao chúa công không triệu đến hỏi xem?
Tào Tháo hỏi lại:
— Không nhắc đến việc này ta quên mất, đến nay đã có tin gì từ Hoàng Phủ Long chưa? - Câu này làm Khổng Quế giật mình sợ sệt, lén quay lại nhìn Triệu Đạt, Lư Hồng. Lấy được Hán Trung, Tào Tháo rất đỗi vui mừng, không còn kêu đau đầu nữa, nhưng từ tối qua khi hai bọn chúng đến bẩm tấu riêng với Tào Tháo, tính khí chúa công lại thay đổi thất thường, rốt cục chúng đã nói gì?
— Trần Quý Bật, Tân Tá Trị, các ngươi kiểm kê lại các đồ trong kho phủ, ghi chép cẩn thận, sau đó sai người chuyển về trong quân. Truyền lệnh tất cả tướng sĩ đều hạ trại đóng ở ngoài thành, không được quấy nhiễu dân chúng. Triệu tập các giáo chúng tế tửu còn lại đến cùng ta nói chuyện. - Ra lệnh xong, Tào Tháo quay người bước đi, - Đi thôi, đây không phải là nơi chúng ta nên ở lâu.
Tào Tháo và tùy tùng vừa ra khỏi cửa quận phủ đã trông thấy Tào Chân, Tào Hưu áp giải một ông già đi đến. Tào Tháo bắt dừng lại, quan sát kỹ người này rồi cười lớn:
— Lưu lão tướng quân, chúng ta đúng là có duyên, lại gặp nhau rồi!
Người đang bị áp giải chính là lão tướng Lưu Hùng, người năm xưa đã tham gia cuộc phản loạn ở Quan Trung. Thấy Tào Tháo cười chế giễu, ông ta cũng không biết nói gì, chỉ ngậm ngùi thở dài.
Tào Tháo biết Lưu Hùng tính khí hài hước, bèn túm lấy chòm râu bạc của ông ta, cười nói:
— Lão già này, cuối cùng cũng bị ta tóm được, còn muốn chạy đi đâu nữa?
Lưu Hùng xấu hổ, khẽ cười trừ:
— Ta đã bảy mươi rồi, đất sắp vùi đến cổ rồi, còn chạy gì nữa? Huống hồ lại ở chỗ ngài?…
Tào Tháo giật mạnh râu của ông ta:
— Tội này đã xử xong, mau cởi trói.
Dây thừng được tháo ra, Lưu Hùng bị giật râu đau, vội đưa tay lên xoa cằm, ấp a ấp úng:
— Tạ ơn minh công…
Tào Tháo chất vấn:
— Năm xưa quân ta tiến vào Đồng Quan, ông vốn đã quy hàng, nhưng do bộ khúc không chịu hàng nên ép ông phải theo, chuyện này có thể tha thứ. Nhưng quân đã bại trận lẽ ra ông phải trở lại với ta, cớ sao lại bỏ chạy đến Hán Trung?
Lưu Hùng cúi đầu nói nhỏ:
— Việc không thành, còn mặt mũi nào quay về gặp minh công, ta lấy làm hổ thẹn…
— Ha ha! - Tào Tháo tiện tay chỉ ra sau lưng, - Ông gặp ta thì thấy hổ thẹn, nhưng có người còn thấy hổ thẹn hơn khi gặp ông!
Lưu Hùng nhìn theo hướng tay của Tào Tháo, thấy Diêm Hành và Thành Công Anh đang đứng trong đám tùy tùng, năm xưa hai người họ một văn một võ là cánh tay đắc lực của Hàn Toại, nay đều về dưới trướng ông. Diêm Hành vì có công phản Hàn Toại nên được phong là Liệt hầu, Thành Công Anh được giữ chức Chinh tây quân sư. Hai người nhìn thấy Lưu Hùng đều cảm thấy hổ thẹn, chỉ biết cúi đầu. Quan sát kỹ mới phát hiện ra, Dương Thu, Cúc Diễn, Tưởng Thạch, Điền Lạc, Dương Quỳ cũng đều ở đây, bên cạnh còn có Khổng Quế đang hớn hở vui mừng, đều là người quen cả. Lưu Hùng lập tức thẳng lưng, mắng nhiếc:
— Đám nhãi ranh các ngươi, ngày trước ta khuyên các ngươi quy hàng, các ngươi không nghe, giờ lại trở mặt rồi sao, thật đáng hận!
Tưởng Thạch cũng cảm thấy người của mình xử sự việc này có phần không đường hoàng, bèn cười xòa:
— Lão tướng quân, cái này, cái này… chim khôn chọn cây lành mà đậu…
Dương Quỳ vốn là thuộc hạ của Lưu Hùng, cảm thấy hổ thẹn không biết giấu mặt vào đâu, chỉ mong tìm được lỗ nào mà chui xuống. Dương Thu mặt dày, còn dám cười nói:
— Lão tướng quân, ngài là bề trên, bọn tại hạ gặp ngài ai mà không kính trọng? Ngài ở Tây Châu đức cao vọng trọng, lẽ nào lại chấp mấy đứa trẻ ranh đầu óc hạn hẹp này? - Thực ra Dương Thu cũng đã hơn bốn mươi tuổi, nên mới dám mở lời.
— Đúng vậy. - Chư tướng Kinh Châu ai cũng phụ theo.
Lưu Hùng định chửi tiếp, nhưng Tào Tháo đã chặn họng:
— Họ nói đúng đấy, ông có tuổi rồi phải được nghỉ ngơi. Ta phục chức cho ông làm Kỵ đô úy, nhưng tình hình chiến sự ở Tây Châu vẫn chưa ổn định, không hợp cho ông dưỡng lão, ta đã thay ông chọn Đông Châu là nơi sơn thủy hữu tình, ông đến đó an hưởng tuổi già, chẳng phải tốt hơn sao? - Tào Tháo không hẳn chỉ có ý tốt, mà bởi Lưu Hùng từng ở Quan Tây lâu năm, dù ông ta không muốn ồn ào, nhưng cũng khó bảo đảm kẻ khác sẽ không giống Hán Siêu mượn danh tiếng của ông ta để làm loạn, nên không thể giẫm lên vết xe đổ.
Lưu Hùng biết rõ Tào Tháo nghĩ như vậy, cũng thuận nước dong thuyền:
— Xin tùy chúa công sắp xếp.
— Nghe nói Trình Ngân, Bàng Đức cũng chạy theo Trương Lỗ, lão tướng quân có thể liên lạc với họ không?
— Chúa công có ý gì? - Lưu Hùng cảnh giác.
— Hãy giúp ta chuyển đôi lời… - Tào Tháo vỗ vai Lưu Hùng, - Những chuyện trước đây coi như cho qua!
— Tuân mệnh. - Lưu Hùng khom lưng chắp tay, - Thừa tướng thực là khoan dung đại lượng, lão hủ thay mặt bọn chúng cảm ơn đại ân đại đức của ngài. - Ngẩng đầu lên đã thấy Tào Tháo dẫn tùy tùng đi xa.
Tào Tháo ra khỏi Nam Trịnh, còn chưa đến viên môn đã nhìn thấy một đám binh sĩ tay cầm gươm đao vây quanh mấy người áo đen, Hứa Chử, Vương Xán, Lộ Túy, Tư Mã Ý trấn thủ doanh trại cũng đang đứng bên cạnh. Những kẻ mặc áo đen này chắc là tế tửu, quỷ tốt trong Thiên sư đạo, không thể trốn cùng Trương Lỗ, thấy quân Tào vào thành thì kinh hoàng khiếp sợ, lúc này gọi đến, họ dám không đến sao?
Tào Tháo xua tay:
— Ta truyền lệnh mời họ đến, không phải để bắt họ, mau lui đi.
Hứa Chử chắp tay:
— Chỉ sợ bọn tà đạo sẽ gây bất lợi cho chúa công.
— Nếu như họ có tà thuật thì sớm đã dùng ở ải Dương Bình rồi!
— Rõ. - Hứa Chử cho binh lính rút.
Khổng Quế nghĩ Tào Tháo tất sẽ ra oai, vội tìm ghế để ông ngồi nói, nhưng Tào Tháo lại không ngồi, vừa đi vừa cất giọng sang sảng:
— Khi xưa Trương Giác dùng yêu pháp để mê hoặc dân chúng, đã lấy cái tên rất hay là “Thái bình đạo”, có ý phá thiên hạ của đại Hán. Nhưng ông trời không dung tha cho kẻ tội đồ ngông cuồng nên đã diệt trừ hắn, ngay cả ta cũng từng tham gia đánh dẹp. Đạo pháp của thánh vương chính là đại đức trong thiên hạ, còn lại đều là bàng môn tà đạo, hoặc là lừa đảo lấy tiền, hoặc là mưu đồ làm phản. Để cai quản đất Nghiệp, Tây Môn Báo phải giết đám thầy cúng, phù thủy; Vương Trọng Nhậm viết Luận hành, chống lại tà thuyết. Các triều đại xưa nay đều cấm tuyệt các phù thủy, thuật sĩ…
Đám người áo đen càng nghe càng sợ, run lẩy bẩy, nghĩ rằng khó thoát khỏi tội chết.
Nhưng Tào Tháo lại chuyển giọng nhẹ nhàng nói:
— Nhưng Thiên sư đạo lại khác hẳn, Trương Phụ Hán xuất thân từ Thái học sinh, vì ghét việc triều chính nên ẩn cư truyền đạo. Các ngươi ở Hán Trung cũng đã ba mươi năm mà không động đến cây kim sợi chỉ của người dân, mặc dù không phải giáo hóa chân chính, nhưng cũng khiến nơi đây ổn định trong suốt thời gian qua, bách tính cũng luôn nói lời tốt về các ngươi, có thể thấy Trương Công Kỳ không phải là phù thủy…
Nghe được những lời này, bọn họ mới yên tâm phần nào. Tào Tháo không nhắc thẳng tên của Trương Lăng, Trương Lỗ mà gọi tên chữ của họ, có thể thấy ông cũng dành một sự tôn trọng nhất định.
Nhưng Tào Tháo lại đổi giọng:
— Nhưng khởi binh cát cứ cũng là trọng tội, huống hồ lại còn giúp bọn giặc Mã Siêu, Hàn Toại gây loạn Quan Trung. Các ngươi đi theo trợ giúp nên cũng phải xử quyết!
Đám tế tửu lại run rẩy, sợ hãi.
— May mà… - Tào Tháo dừng lại rồi chậm rãi nói tiếp, - Ải Dương Bình mất, Trương Công Kỳ biết chuyện đã bỏ chạy để tránh thương vong cho dân, kho phủ của quận huyện cũng được niêm phong. Niệm tình nhân nghĩa của ông ta, ta cũng không truy cứu nữa…
Tào Tháo lúc tung lúc hứng, khiến người nghe toát hết mồ hôi, không biết còn thay đổi gì nữa không.
Tào Tháo thấy sắc mặt hoảng sợ của họ, cũng không dọa tiếp nữa:
— Từ khi loạn lạc, bách tính lê dân phải chịu muôn vàn khổ cực, mặc dù dùng đạo pháp trị lý là không đúng nhưng cũng có thể xem xét. - Nói xong, ông rút từ trong ngực ra một quyển sách, đó là cuốn Lão Tử tưởng nhĩ chú do tổ tôn họ Trương chú giải, - Trương thị có câu “Trị quốc chi quân vụ tu đạo đức, trung thành phò tá tại hành đạo, đạo phổ đức ích, thái bình chí hỹ,”(*) hay “Trung hiếu chí thành cảm thiên,”(*) những đạo lý đó mặc dù khác với giáo hóa của triều đình nhưng có thể bổ trợ cho nhau. Ta thẳng thắn tuyên cáo rằng, chỉ cần giải trừ binh mã, nộp thuế đi lính, tuân thủ pháp độ, Thiên sư đạo vẫn được tiếp tục tồn tại, thậm chí vẫn có thể truyền đạo…
Những lời này không chỉ khiến các tế tửu kinh ngạc mà ngay cả những người trong Tào doanh cũng thấy bất ngờ, ai cũng thì thầm to nhỏ, mãi mới yên lặng.
Tào Tháo mỉm cười:
— Các ngươi đều là người tu đạo, chẳng lẽ còn không hiểu thuận theo lẽ trời sẽ hợp lòng dân? Ta đã có được Hán Trung, các ngươi cũng nên thành tâm quy thuận, đó cũng là ý trời đã an bài. Ngược lại, ta há có thể làm trái lòng dân, xóa bỏ giáo lý của các ngươi? Các ngươi có công sẽ được thưởng, có tội ta sẽ phạt, không khác gì các thuộc hạ của ta cả. - Kỳ thực, ý của Tào Tháo đó là tiền đề cho sự tồn tại của Thiên sư đạo phụ thuộc vào ông, tất cả các hoạt động của giáo phái phải được ông cho phép!
Các tế tửu đều đã hiểu, thấy ông không nói gì nữa mới run rẩy đáp lời:
— Lời của Ngụy Công thực đáng thán phục, nhưng giáo chủ còn đang ở…
— Mau đi tìm ông ta. - Cuối cùng Tào Tháo cũng nói ra mục đích, - Các ngươi đi tìm ông ta, hãy nhắn lại những lời vừa rồi, ông ta vẫn sẽ là Thiên sư, hơn nữa chỉ cần Trương Công Kỳ quay trở về ta còn thăng quan phong hầu cho. Đương nhiên là với điều kiện ông ta phải biết nghe lời.
— Rõ. - Các tế tửu đều đồng thanh nói, nóng lòng đi tìm Trương Lỗ.
— Hãy khoan! - Tào Tháo gọi giật lại, - Các ngươi đã cai trị Hán Trung bao năm nay, người dân đều đội ơn, binh lính của ta cũng không phải là những kẻ hung bạo, tuy nhiên không tránh khỏi có những tên ngu đần tàn sát lương dân bừa bãi. Nếu chúng làm hại bách tính: nhất định sẽ phải trừng trị nghiêm khắc. Hiệu sự đâu?
— Có! - Triệu Đạt, Lư Hồng bước ra khỏi hàng.
— Gần đây, quân của ta có áp bức, làm hại bách tính Hán Trung không?
Triệu Đạt đột nhiên giơ tay chỉ về phía Lộ Túy:
— Quân mưu duyện Lộ Túy, tối qua dùng một xếp lụa để ép đổi lấy con lừa của một ông già ở Nam Trịnh, rõ ràng là đã bức ép lương dân!
Lộ Túy vừa tức vừa buồn cười, chuyện này có đến mức phải làm quá như vậy không? Vừa định bước ra khỏi hàng nhận tội, bỗng nghe thấy Tào Tháo quát to:
— Người đâu! Xử Lộ Túy theo chính pháp!
— Hả? - Lộ Túy giật mình kinh sợ, thậm chí còn tưởng mình nghe nhầm, còn chưa hiểu chuyện gì đã bị dũng sĩ áp giải đến nha môn, đè quỳ xuống đất.
Vương Xán vội đứng ra khỏi hàng, quỳ xuống nói:
— Xin chúa công bớt giận, tha cho Lộ Văn Úy tội chết. - Chuyện này khiến Vương Xán hối hận, thực ra ban đầu do Vương Xán thích lừa, Lộ Túy ở cùng trong mạc phủ nên ảnh hưởng tính nết của ông ta, dần dần cũng thích tiếng lừa. Nếu vì chuyện này mà xử lý Lộ Túy thì Vương Xán há có thể nhẫn tâm đứng nhìn?
Mọi người thấy vậy cũng phụ họa theo:
— Xin chúa công niệm tình Lộ Túy theo quân đã lâu, tha cho tội chết.
Nhưng Tào Tháo lạnh lùng nói:
— Không xử chết hắn, há có thể chỉnh đốn quân luật? Nhất định không tha!
Vương Xán khổ sở can gián:
— Lộ Túy mặc dù chưa lập được công lớn, nhưng cũng chuyên tâm vào việc văn thư, lại theo chúa công gần hai mươi năm, xin chúa công niệm tình…
Tào Tháo cũng không thèm quay lại nhìn:
— Ý ta đã quyết, không thể dễ dàng thay đổi, còn can ngăn nữa sẽ xử cùng tội. - Câu này khiến ai cũng sợ hãi. Chỉ vì chuyện nhỏ này liệu có đáng phải xử tội chết? Mặt ai nấy đều toát lên vẻ hoảng sợ, nghi hoặc, khó hiểu, thương xót, nhưng cũng có kẻ thờ ơ, lạnh nhạt.
Vương Xán không nhịn được, vẫn tiếp tục can ngăn:
— Thuộc hạ không dám xin tha tội cho một phạm nhân. Nhưng quân pháp cũng phải hợp lý, Lộ Túy chỉ vì ép đổi mua một con lừa mà bị xử tội chết, vậy còn những kẻ phạm tội ác không thể dung tha thì xử lý thế nào? Tội này xử quá nặng, xin chủ công thu lại mệnh lệnh!
Vương Xán đang nói lý chứ không đơn thuần là cầu xin, Tào Tháo cũng không tiện ngang ngược vô lối, từ tốn giải thích:
— Quân ta mới vào Hán Trung, còn chưa ban được ân trạch gì với bách tính, trong khi Thiên sư đạo xưa nay rất được lòng dân. Để có thể hòa hợp với những tín đồ nơi đây, chúng ta há có thể làm điều sai trái? Mặc dù là tội nhỏ nhưng đã hủy hoại thể diện của vương sư, nếu không xử chết liệu có thể làm yên lòng dân? - Kỳ thực, những lời này cũng chưa hẳn minh bạch, nhưng Tào Tháo sợ Vương Xán lại phản bác, nên trừng mắt nói, - Tuy ta mến tài ngươi, nhưng cũng chớ làm quá!
Vương Xán nghe vậy thì giật mình, ngồi bệt xuống đất, ruột gan rối bời như lửa đốt: Oan uổng thay! Đường đường một mạng người mà lại không bằng một con lừa!
Lộ Túy bị đè chặt xuống đất, muốn gào thét nhưng cổ họng nghẹn lại, ánh mắt bi phẫn nhìn mọi người. Bọn họ đều cầu xin nhưng ngoài người bạn văn đàn Vương Trọng Tuyên ra thì chẳng còn ai đứng ra bênh vực đến cùng, Lộ Túy đã ngộ ra: Bọn họ đều muốn ta chết, trong mắt họ ta chẳng có chút đáng thương nào cả! Trần Kiều là danh sĩ Đông Châu, Lưu Hoa tiếng tăm lừng lẫy Hoài Nam, còn Tư Mã thị là vọng tộc Hà Nội, mặc dù ngoài miệng không nói nhưng trong lòng đều xem thường ta, chẳng phải vì ngày xưa ta đã tố cáo để Khổng Dung phải chịu tội chết sao? Họ đều coi ta là tên ác nhân… Nhưng ta bị chúa công ép, há có thể không làm? Nếu đổi lại là các ngươi, các ngươi sẽ làm thế nào? Các ngươi đều biết Khổng Dung bị oan, nhưng có ai đứng ra nói hộ ông ta một câu? Giết Khổng Dung các ngươi đứng nhìn, giết ta các ngươi cũng đứng nhìn, các ngươi chẳng làm gì hết, thế nên các ngươi luôn đúng, luôn được đường hoàng đứng về phía đạo nghĩa. Thế đạo này sao lại như thế? Con người sao có thể thành ra như vậy?…
Đao phủ không để ý nhiều chuyện như vậy, chậm rãi vuốt râu, giương đao. Lúc này Lộ Túy đột nhiên cười như điên dại:
— Ha ha ha!… Thói đời là vậy. Hai mươi năm khổ ải cũng chẳng bằng con… - Từ “lừa” chưa kịp nói ra thì đầu đã bay xuống đất.
Những người trong Tào doanh ai cũng quay mặt nhắm mắt, không nỡ chứng kiến. Đám tế tửu thì sợ đến nỗi mặt mày trắng bệch: Đây đâu phải là xử kẻ phạm tội, mà rõ ràng là muốn để chúng ta xem, ai chống lại Tào Tháo thì sẽ có kết cục như vậy, phải mau đi khuyên Thiên sư đầu hàng!
— Các ngươi… - Tào Tháo đột nhiên chỉ về phía các tế tửu.
Họ sợ quá, chân tay mềm nhũn ra:
— Dạ, dạ… Ngụy Công có gì dặn dò?
— Những lời ta vừa nói các ngươi nghe rõ hết chưa?
— Thưa, khắc cốt ghi tâm rồi ạ.
— Thế còn không đi?
— Vâng! - Đám tế tửu chẳng khác bầy thỏ nhìn thấy thợ săn, ba chân bốn cẳng chạy mất.
Tào Tháo không thèm nhìn xác Lộ Túy, lạnh lùng nói:
— Treo đầu trước viên môn, cảnh tỉnh ba quân. - Nói xong phất tay áo đi vào trướng.
Tất nhiên Lộ Túy chết không phải vì một con lừa. Kỳ thực, đêm qua Lư Hồng, Triệu Đạt từ Nghiệp Thành vội vã trở về, bẩm báo cho Tào Tháo biết kết quả điều tra chuyện tiết lộ mật tấu. Hôm đó, Hoàn Giai, Dương Tuấn đều không nói gì, chỉ có Lộ Túy về nhà tiết lộ cho nhi tử. Nhi tử Lộ Túy lại là thường khách trong phủ Tào Phi, trong lúc nói chuyện đã kể cho Tào Phi chuyện này, đúng lúc Tư Mã Ý cũng có mặt, lại kể cho đệ đệ là Tư Mã Phu; Tư Mã Phu lại là người thẳng thắn, nên dùng chuyện này để khuyên Tào Thực phải tuân thủ lễ pháp. Tóm lại, người làm lộ mật tấu là do Lộ Túy, những kẻ khác hoặc là vô ý, hoặc là có ý tốt, hoặc không biết là chuyện cơ mật, cho nên phải trị tội Lộ Túy - Đây là kết luận cuối cùng của Lư Hồng và Triệu Đạt.
Người xưa có câu “Quân bất mật tắc thất thần, thần bất mật tắc thất thân”, Tào Tháo tất nhiên sẽ phải trị Lộ Túy tội chết, nhưng chuyện này liên quan đến danh dự của gia đình, không thể công khai xét tội, đành viện lý do khác để xử lý. Vừa hay lần này Tào Tháo muốn ban ơn, đồng thời ra uy với Thiên sư đạo nên giết người lập uy! Hơn nữa, năm xưa Lộ Túy thừa lệnh vạch tội Khổng Dung, quần thần đều phục tài năng nhưng lại sợ ngòi bút của ông ta, nay Tào Tháo mượn chuyện trừ bỏ ông ta cũng lôi kéo được nhân tâm. Kế này một mũi tên trúng ba đích, Tào Tháo há có thể không dùng? Thế nên Lộ Túy mới phải chết một cách hồ đồ như vậy…
Văn võ bá quan người thương hại, kẻ sợ sệt, người miệt thị, kẻ thở dài rồi lần lượt theo Tào Tháo vào đại doanh. Tư Mã Ý đỡ Vương Xán đang ngồi khóc lóc đau khổ ở dưới đất đứng dậy:
— Trọng Tuyên bớt đau buồn, giữ gìn quý thể. - Đoạn dìu ông ta tập tễnh đi vào nha môn.
Triệu Đạt nhìn chiếc đầu người sũng máu treo trên cột, sau đó lén nhìn Tư Mã Ý, định vào đại doanh nhưng bị Lư Hồng ngăn lại:
— Triệu huynh xin dừng bước, tiểu đệ có chuyện muốn thỉnh giáo.
Triệu Đạt liến thoắng:
— Chúng ta nói lúc nào chẳng được? Chỉ sợ chúa công có điều gì dặn dò.
— Huynh trưởng có điều gì giấu đệ chăng? - Lư Hồng nhìn chằm chằm vào hắn, hạ giọng nói:
— Nghe nói huynh mới tậu được mảnh đất rất lớn ở Nghiệp Thành, tiền ở đâu nhiều vậy?
Triệu Đạt nhìn đông ngó tây, thấy mọi người vào đại doanh hết rồi, mới cười nói:
— Nghe nói tiểu đệ cũng phát tài rồi, riêng ngựa tốt đã có hẳn mười mấy con, lại còn nạp thêm thê thiếp!
— Hừ! - Lư Hồng vỗ đùi, - Nếu chúng ta đều đã biết chuyện của nhau thì cứ nói thẳng ra. Lâm Tri hầu cho huynh đúng không? Cũng không giấu gì huynh, ngài ấy cũng cho đệ.
— Lâm Tri hầu? - Triệu Đạt mặt mày co rúm, sợ hãi nói, - Nhưng người ban cho ta là Ngũ quan trung lang tướng.
Lư Hồng cảm thấy nghi ngại:
— Chuyện gì thế nhỉ?
— Kẻ ra mặt là ai?
— Văn học thị tòng trong phủ Lâm Tri hầu. Còn huynh trưởng thì sao?
— Ngũ quan tướng ủy thác cho Tư Mã Ý… - Nói xong, Triệu Đạt ngẩn ngơ một lúc mới cười nói:
— Chẳng trách tối qua ngươi luôn miệng nói người tiết lộ bí mật là Lộ Túy, hóa ra là tìm một kẻ chết thay.
Lư Hồng day day trán, tỏ vẻ sợ hãi:
— Nhi tử của Lộ Túy đúng là có giao hảo với Lâm Tri hầu, đệ cũng không phải bịa đặt hết. Tại Dương Tu đã nói với chúa công là do Tư Mã Phu, nên lúc đó tiểu đệ sợ quá, hồn bay phách lạc, tưởng sự việc đã bại lộ. May sao huynh kịp thời nói thêm một câu:
— Nhi tử của Lộ Túy hay qua lại giữa hai phủ, tất là do Tư Mã Ý nghe được từ phủ Ngũ quan tướng nên nói với Tư Mã Phu. Đệ mới thoát khỏi tội chết! Lúc đó đệ cũng nghĩ, huynh hẳn là có nhận tiền, nhưng cớ sao cũng lại nói dối?
— Chúng ta làm việc này, ai biết ngày mai sẽ nắng mưa thế nào? Chúng ta có thể giám sát bách quan, cũng có thể đắc tội với chư tướng, nhưng nếu đắc tội với chủ nhân sau này, liệu có kết cục tốt đẹp? Không vì chút tiền đó thì cũng phải vì tính mạng gia đình mình! Nếu như vạch trần chuyện xấu xa của hai phủ, không những động chạm đến chủ nhân tương lai mà ngay đến chủ nhân hiện tại cũng sẽ mất mặt, chắc chắn sẽ trừ khử chúng ta! Có thể làm việc thiện thì cố mà làm! - Triệu Đạt nói đến đây, giọng đầy cảm khái.
— Ai nói không phải chứ… - Lư Hồng mặt mày ủ ê, - Chẳng mong thăng quan tiến chức nữa, chỉ cần giữ được cái mạng này là tốt lắm rồi.
Triệu Đạt lại nói:
— Ta nhận tiền từ tay Tư Mã Ý, nhưng Tư Mã Phu lại là đệ đệ của Tư Mã Ý, nếu hại chết huynh đệ họ thì Ngũ quan tướng ắt sẽ không tha, nên ta mới giúp đệ nói dối. Cũng may đệ tìm ra Lộ Túy, huynh đúng là vò đầu bứt tai, nghĩ nát óc mà không tìm ra được ai thay thế!
— Huynh trưởng cao minh. Gió chiều nào theo chiều ấy mà không lộ dấu vết. Nếu như tiểu đệ đoán không nhầm, chuyện Hình Ngung mật tấu là do Tư Mã Ý đứng ở giữa giật dây?
Triệu Đạt không nói gì, coi như ngầm thừa nhận.
Lư Hồng cười giễu:
— Huynh đệ nhà Tư Mã cũng thật nực cười, huynh thì mật cáo với Ngũ quan tướng, đệ lại tiết lộ với Lâm Tri hầu. Nếu không có hai phủ ra sức bảo vệ thì cả hai huynh đệ họ đã gặp nguy khốn rồi. Huynh thấy có hoang đường không?
— Hoang đường? Theo ta thấy cao minh thì có!
Lư Hồng vẫn chưa hiểu ý:
— Sao lại nói là cao minh?
— Tư Mã Ý vạch trần chuyện gian lận, được Ngũ quan tướng tin tưởng; còn Tư Mã Phu để lộ chuyện Hình Ngung thượng tấu, lấy lòng được Lâm Tri hầu. Sau đó, hai vị công tử đều bỏ tiền ra mua chuộc chúng ta, lẽ nào không phải là cao minh? Huynh đệ họ mỗi kẻ đứng một bên, lại còn có huynh trưởng là Tư Mã Lãng, giữ chức Thứ sử chỉ trung thành với Ngụy Công. - Triệu Đạt vuốt râu cười khẩy, - Chẳng đoán được cây nào sẽ có quả, nên mỗi kẻ đứng ở một cây. Đó chẳng phải là cao minh sao?
Lư Hồng cũng có thể coi là lọc lõi hiểu đời, nhưng nghe vậy cũng không khỏi sợ sệt:
— Quả là đáng nể! Nhưng Tư Mã Phu vốn là người thật thà.
— Hắn thật thà, nhưng huynh trưởng của hắn chưa chắc đã thật thà, rồng sinh chín con có con nào giống nhau?
— Triệu Đạt bóp chặt vai của Lư Hồng, khẽ nói:
— Người ta dù thế nào cũng đã đạt được kết quả như ý, chúng ta cũng phải nghĩ cách. Chúa công già rồi, sau này ai kế vị còn chưa biết, lần này hiền đệ đã giúp Lâm Tri hầu, ta cũng đã qua lại với Ngũ quan tướng, chúng ta làm việc cùng nhau hơn mười năm nay, mặc dù không phải huynh đệ nhưng cũng thân thiết chẳng kém. Thôi thì hai ta, mỗi kẻ giúp một người, sau này nếu Ngũ quan tướng thắng, huynh sẽ đảm bảo cho đệ được bình an, còn nếu Lâm Tri hầu thắng, đệ sẽ ra tay giúp huynh, ý đệ thế nào?
— Ý hay, ý hay. - Mặc dù ngoài miệng Lư Hồng nói vậy, nhưng mắt lại ngẩng lên nhìn thủ cấp treo trước viên môn: Lộ Túy chẳng qua chỉ hại chết Khổng Dung mà đến lúc cuối có được mấy người cầu xin giúp ông ta. Bọn ta đã hại bao nhiêu mạng người? Nói là sau này bảo vệ lẫn nhau, nhưng liệu có dễ vậy không? Nay Triệu Đạt coi như là cùng hội với Ngũ quan tướng, còn ta lại giúp Lâm Tri hầu, chẳng phải đã biến thành kẻ địch của nhau? Những lời này há có thể cho là thật… Nghĩ đến đây hắn cúi đầu xuống, bất giác thấy Triệu Đạt đang mỉm cười, nhưng trong mắt lại ẩn chứa ác ý.
Triệu Đạt cũng nhận ra Lư Hồng không tin lời mình, nhưng hai kẻ đều làm bộ làm tịch, ngươi gọi ta là “huynh trưởng”, thì ta cũng gọi ngươi là “hiền đệ”.
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9