Biển lặng không làm nên những thủy thủ tài giỏi.

Tục ngữ châu Phi

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Phạm Thùy Linh
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 29
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:39 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 135
ại chinh phạt Giang Đông, Thêm một lần uổng công
Khăng khăng xuất quân viễn chinh
Lưu Bị đã chết, Ưng, Lương đắc thắng, chuyện thiên hạ dường như đã đơn giản hơn. Nhưng lẽ thường không lo xa tất lại phải lo gần, chuyện lập người kế vị đang là vấn đề khiến Tào Tháo đau đầu nhất. Ngụy quốc không dễ gì mới được lập lên, phải chọn người kế nhiệm xuất chúng để gánh vác xã tắc, mà theo ông quan sát cho đến giờ, chỉ có Tào Thực tài đức vẹn toàn, biết tùy cơ ứng biến, phù hợp là người kế tục sự nghiệp nhất thống thiên hạ. Những chuyện đại sự liên quan đến họa phúc của tử tôn, tuyệt đối không thể nghe người ngoài, dù có phải bãi miễn một số đại thần cũng phải đảm bảo cho Tào Thực lên ngôi thuận lợi. Tào Tháo lòng dạ sắt đá, muốn mạnh tay áp chế quần thần, nào ngờ chưa kịp hành động, lại gặp phải chuyện bất ngờ làm xáo trộn kế hoạch - Tôn Quyền bất ngờ đánh úp Giang Bắc!
Tuy Tào Tháo hai lần chinh phạt phía nam đều không giành được thắng lợi, nhưng Tôn Quyền cũng không được yên ổn. Trường Giang cố nhiên là nơi hiểm yếu, nhưng cũng vì vậy mà hạn chế sự phát triển của Giang Đông, phía đông nam lại đối mặt với kẻ địch Trung Nguyên hùng mạnh, nói chung khó chiếm được ưu thế. Nếu không chuẩn bị tiềm lực đối đầu lâu dài thì khoảng cách thực lực giữa Tôn Quyền và Tào Tháo ngày càng lớn, hơn nữa sau lần giảng hòa trước, Tào Tháo bắt đầu thực hiện kế sách kích động phản loạn để làm hao tổn nguyên khí của Tôn Quyền. Dự Chương gây loạn, kích động vạn người, thủy tặc ở Phàn Dương còn chưa diệt tận gốc, những việc này đều khiến cho Tôn Quyền đau đầu nhức óc, Tôn Quyền nhận thức rõ việc vừa phải bảo vệ lãnh thổ vừa phải tiếp tục phát triển lực lượng, nên ngay từ đầu đã để mắt đến Kinh Châu, vì dẫu sao đất Kinh Châu cũng được coi là cho Lưu Bị “mượn”, nhưng Lỗ Túc nhiều lần đến đòi mà không được, tức nhất vẫn là chuyện Lưu Bị dấy binh cướp Thục.
Tôn Quyền từng phái Chu Du, Tôn Du hai lần đến bàn việc đánh Thục, nhưng đều bị Lưu Bị từ chối, ông ta thậm chí còn thề rằng “Các ngài mà lấy Thục, ta sẽ vào núi ở ẩn, quyết không thất tín với thiên hạ”, kết quả là Lưu Bị công khai chiếm Thục. Nhưng Tôn Quyền vẫn không thể trở mặt, cũng chẳng thể đâm sau lưng ông ta, vì nếu Lưu Bị thất bại ở Thục thì chẳng phải có lợi cho Tào Tháo sao? Tôn Quyền chỉ có thể nhẫn nhịn, quay ra dòm ngó Giang Bắc. Hoài Nam là trận địa tuyến đầu của Giang Bắc, từ lần bãi binh trước, Thái thú Lư Giang là Chu Quang đã mở rộng khai khẩn ở Hoản Thành, không còn nghi ngờ gì nữa, mục đích của việc này là tích trữ lương thảo, chuẩn bị cho cuộc chinh phạt phía nam. Đại tướng Đông Ngô là Lã Mông kiến nghị với Tôn Quyền: “Đất đai Hoản Thành màu mỡ, phì nhiêu, nếu đợi đến mùa thu hoạch, quân Tào tất sẽ được bổ sung, nên sớm diệt trừ Chu Quang!”
Sau khi chuẩn bị chu đáo, tháng Năm năm Kiến An thứ mười chín, Tôn Quyền đích thân thống lĩnh đội quân tập kích Hoản Thành. Chu Quang vốn binh ít tướng mỏng, nếu bị tập kích bất ngờ thì không cần đánh cũng tan, đành tính đến chuyện cố thủ trong thành đợi quân cứu viện, nhưng Tôn Quyền không chừa một cơ hội nào cho Chu Quang, lập tức bổ nhiệm mãnh tướng Cam Ninh làm Thành đốc, binh lính tinh nhuệ ở phía trước, đại quân dàn hàng phía sau, chỉ nửa ngày đã phá xong Hoản Thành, bắt sống được Chu Quang cùng với hơn vạn binh sĩ và dân chúng, số lương thực vừa được Hoản Thành tích trữ đã thuộc cả về Đông Ngô. Khi quân cứu viện của Trương Liêu từ Hợp Phì đến, Tôn Quyền đã sớm áp giải tù binh và chiến lợi phẩm về Đông Ngô.
Tin tức truyền đến Nghiệp Thành, Tào Tháo hết sức tức giận. Ông sớm đã dự cảm được rằng Tôn Quyền sẽ có hành động, nhưng không ngờ lại đến sớm như thế, mất thành mất lương chỉ là thứ yếu, việc này há chẳng phải làm nhụt nhuệ khí đang lên của Đại Ngụy sao? Hơn nữa Lưu Bị đã chết, không còn trở ngại gì nữa, Tào Tháo cũng muốn báo thù trận này; lại đang lúc đau đầu về chuyện lập người kế vị, nên quyết định khởi binh chinh phạt Giang Đông. Ý này được đưa ra, quần thần đều không đồng ý, Tôn Quyền dám làm chuyện này chắc chắn đã có sự chuẩn bị, vả lại giờ đang là thời điểm giao mùa giữa hạ sang thu, nước sông dâng cao không thể đánh qua Trường Giang, hơn nữa mưa rả rích cũng bất lợi cho quân phương bắc. Tham quân Phó Cán dâng thư can gián:
Đạo lớn trị thiên hạ cần có đủ văn và võ; nếu dùng võ trước phải có uy, nếu dùng văn trước phải có đức; uy, đức bổ trợ cho nhau, sau đó mới nên nghiệp vương. Trước kia, thiên hạ đại loạn, trên dưới mất trật tự, minh công dùng võ để dẹp yên, mười phần thì đã bình định được chín phần. Nay chỉ còn có Thục quốc và Đông Ngô chưa quy hàng, nhưng Đông Ngô có sông dài hiểm trở, Thục quốc có núi cao gập ghềnh, đều rất khó dùng uy để chinh phục, nên dùng đức để cảm hóa. Thần cho rằng, nên xếp áo giáp, cất binh đao, cho quân lính nghỉ ngơi, cắt đất phong hầu, luận công ban thưởng từ đó trong ngoài ổn định, người có công được khích lệ, ai cũng biết đến chế độ của ta. Tiếp đến, mở thêm trường học, giáo hóa dân chúng để họ hiểu về chính nghĩa. Uy vũ của minh quân chấn động bốn bể, nếu có thể tu sửa văn đức để bổ trợ, thì khắp thiên hạ đều sẽ quy phục. Giờ cử mười vạn đại quân đóng bên bờ sông Trường Giang, nếu địch ẩn mình không đánh, thì quân ta cũng không thể hiện được sức mạnh, mưu kế cũng không phát huy được tác dụng, như vậy uy của ngài chẳng ích gì, mà địch cũng không phục. Mong minh công suy xét kỹ, kiện toàn uy đức, dùng đạo chế địch.
Tào Tháo đọc xong rồi cười:
— Mấy lời cổ hủ này há có thể học theo?
Các quan thi nhau can gián, Tào Tháo tức giận, nghiêm giọng nói:
— Ai còn can gián sẽ xử tội chết!
Tháng Bảy năm Kiến An thứ mười chín, với quyết tâm sắt đá, Tào Tháo bắt đầu cuộc nam chinh lần thứ ba. Lần chinh phạt này, Tào Tháo phái tổng cộng mười vạn quân thủy, quân bộ thuộc trung quân, Dự Châu, Thanh Châu, Dương Châu, cử Thượng thư lệnh Tuân Du làm tham mưu, Đãng Khấu Tướng quân Nhạc Tiến làm tiên phong, điều Thái thú Nam Dương là Dương Tuấn làm quân sư nam chinh; lại lệnh cho Lâm Tri hầu phụ trách lưu thủ, còn Tào Phi và Tào Chương theo quân xuất chinh.
Ngày phát binh, quần thần ở lại ra ngoài thành tiễn quân, Tào Thực làm một bài phú cổ vũ nhuệ khí của tướng lĩnh:
Lên góc thành đưa mắt nhìn chừ,
Bốn bề liền trại vây quanh.
Cờ bay trong gió, xốn xang chừ,
Thuyền khua mái chèo, tái tê.
Ngại thân hèn, nhận chức sang chừ,
Vì trọng trách nên liều mạng.
Hỏi cớ sao lòng lại buồn chừ,
Bởi ta hành quân viễn chinh.
Oai linh của nhà vua giúp chừ,
Quân ta nhất định thắng to.
Phất cờ đỏ tiến phía đông chừ,
Vượt sông lớn khó chế ngự.
Chiến thuyên xuôi theo dòng mát chừ,
Sóng nước rẽ sang hai hên.
Nguyên soái đứng trước thuyên lờn chừ,
Uy danh vang khắp hương dã.(*)
Tào Tháo ngửa mặt cười lớn, khen tài văn chương của Tào Thực trước mặt quần thần, ngay sau đó lại tuyên bố một chuyện khiến ai nghe cũng thấy sợ hãi - Thừa tướng Ký thất Lưu Trinh, bản tính ngông cuồng vô lễ, mấy ngày trước phủ Ngũ quan trung lang tướng mở tiệc, thê tử của Ngũ quan tướng là Chân thị ra thi lễ, các quan ai cũng giữ lễ, duy chỉ có Lưu Trinh dám cả gan nhìn thẳng, bình phẩm lung tung, không giữ đạo làm tôi. Lập tức bắt lấy Lưu Trinh giao cho Đại lý tự luận tội.
Nhưng Tào Phi không coi chuyện này là điều sỉ nhục, chỉ thấy vừa giận vừa sợ: Giận là vì hôm đó Hiệu sự Lưu Triệu đến phủ chúc mừng, chuyện này ắt do hắn tố cáo, đúng là kẻ tiểu nhân bỉ ổi, chỗ nào cũng nhúng tay vào; sợ là vì không biết hà cớ gì mà Lưu Trinh bị quy tội? Phải chăng vì hắn theo hầu văn học cho Lâm Tri hầu, lại giao thiệp thân thiết với mình? Nếu đúng là như vậy, sau này ai còn dám đến phủ Ngũ quan tướng nữa?
Tào Phi muốn cứu Lưu Trinh, nhưng sợ tự chuốc họa vào thân. Việc này lại trái với lễ giáo, quần thần cũng không dám xin tha cho Trinh. Lưu Trinh dù sao cũng là thuộc quan của Tào Thực, Tào Thực cũng khá bất ngờ, thấy mọi người không ai can gián, đành mở miệng xin phụ thân khai ân. Nhưng Tào Tháo chỉ cười chứ không chấp thuận, còn dặn dò:
— Con năm nay đã hai mươi ba tuổi, khi xưa ta làm Đốn Khâu lệnh cũng bằng tuổi ấy, nhiều việc ta làm năm đó đến nay vẫn còn thấy hối hận. Con phải siêng năng giải quyết chính vụ, để tâm chú ý nhiều hơn. - Những lời này rõ ràng là công khai khích lệ người kế vị, thực khiến người khác phải suy tư không dứt…
Mặc dù thơ Tào Thực làm mang hàm ý may mắn, thuận lợi, nhưng nỗi lo lắng của quần thần về mùa mưa đã thành sự thật. Đại quân qua được Hoàng Hà thì gặp phải mưa bão, binh mã, lương thảo quá nhiều, vất vả hơn nửa tháng vẫn chưa ra khỏi đất Duyện Châu. Tình hình của các bộ quân Thanh Châu còn đáng lo hơn, giữa đường bọn họ gặp lũ bất ngờ, làm chậm ngày hợp binh, trung quân của Tào Tháo đành tạm đóng tại quận Thái Sơn. Thái thú Thái Sơn là Lã Kiền cùng với Thứ sử Duyện Châu là Tư Mã Lãng vừa mới nhận chức không dám chậm trễ, vội đến huyện Phụng Cao phục dịch. Hồi Cao Tổ mở rộng bờ cõi, quận Thái Sơn vốn chưa có huyện Phụng Cao, nhưng vì Hiếu Vũ Đế lên núi Thái Sơn làm lễ phong thiện(*), nên đã cắt đất Bác huyện và Doanh huyện để lập lên huyện này, cách thành bốn dặm về phía tây là Minh đường do Hiếu Vũ Đế xây dựng. Lã Kiền, Tư Mã Lãng có trách nhiệm tiếp giá với danh nghĩa chủ đất, sắp xếp xe lọng che mưa, tháp tùng Tào Tháo đi dạo.
Trong các vị hoàng đế nhà Hán, chỉ có Hiếu Vũ Đế từng làm lễ phong thiện. Minh đường đã được dựng hơn ba trăm năm, lại bị chiến tranh loạn lạc tàn phá, nhiều năm chưa tu sửa, nay đổ nát hoang tàn, nhưng quy mô ngày xưa vẫn còn. Tào Tháo sờ lên cột trụ đã tróc sơn, than thở: Lễ phong thiện được tổ chức để bố cáo thắng lợi với trời đất, thể hiện vinh quang của bậc đế vương chí cao, ngay cả khi đất nước lầm than, mùa màng thất bát thì cũng không thể mạo phạm thánh thần. Tào Tháo năm nay sáu mươi tuổi, Ngụy quốc mới lập, dù lúc còn sống ông có thể thống nhất thiên hạ, đưa nhà Ngụy lên thay nhà Hán thì cũng không kịp xây dựng một thời đại hưng thịnh, nên chuyện làm lễ phong thiện càng không dám nghĩ đến. Giấc mộng trong lòng Tào Tháo cũng theo đó mà hao vợi một nửa, đế vương tự ngàn xưa không chỉ cần hùng tâm tráng trí, mà còn phải phụ thuộc vào số mệnh, sinh ra trong thời loạn, há có thể mong ước gì nhiều? Cơ nghiệp vĩ đại này chỉ có thể truyền lại cho đời sau… Nghĩ đến đây Tào Tháo gượng cười, chưa nói đến cơ nghiệp vĩ đại, ngay cả việc truyền ngôi cho ai cũng còn chưa định xong.
Chuyến đi này càng khiến cho Tào Tháo thêm phiền não, trên đường về ông không nói câu nào, chỉ nghĩ đến những trắc trở trong việc lập người kế vị, nghĩ đến kế sách soán ngôi và chiến sự trước mắt. Tư Mã Lãng biết được tâm tư của Tào Tháo, cố ý nói mấy câu dễ nghe:
— Đệ của tại hạ là Trọng Đạt đang làm Nghị lang trong triều, thường viết thư nói chúa công và Ngũ quan tướng đối đãi rất tốt với đệ ấy, họ Tư Mã nhà tại hạ không biết tích bao nhiêu đức mà được ngài đối xử tốt như vậy. Tại hạ thường gửi thư phúc đáp khuyên bảo đệ ấy, phải trung thành báo đáp chúa công. - Tư Mã Lãng làm quan bên ngoài, không nắm được tình hình ở Nghiệp Thành, câu nói vừa rồi lại nhắc đến bốn chữ “và Ngũ quan tướng” quả là đã vẽ rắn thêm chân.
May mà Tào Tháo không để tâm, chỉ miễn cưỡng nói:
— Tam đệ ngươi năm nay ba mươi tuổi đúng không? Đúng lúc ta đang cần người, hãy để hắn đến Nghiệp Thành.
Ý tốt này của Tào Tháo khiến Tư Mã Lãng giật nảy mình - nhị đệ Tư Mã Ý của hắn là người thận trọng, dày dạn kinh nghiệm, thông hiểu đạo sĩ đồ; còn tam đệ Tư Mã Phu thì lại trái ngược hoàn toàn, ba mươi tuổi đầu mà vẫn chưa làm quan, chỉ đóng cửa ở nhà đọc sách, nếu đến Nghiệp Thành, với bản tính ngay thẳng ấy chắc chắn sẽ rước họa cho toàn gia!
Tư Mã Lãng đang suy nghĩ xem nên thoái thác thế nào, bỗng nhìn thấy Lã Kiền chỉ tay về phía trước nói:
— Thưa chúa công, sắp đến đại doanh rồi, chúa công muốn vào xem hay là về thành?
— Về thành. - Kỳ thực trong lòng Tào Tháo hiểu rõ, mưa dầm mấy ngày nay, đường xá lầy lội, binh sĩ không muốn đánh xuống phía nam, nếu gặp bọn họ bây giờ ông sẽ lại thấy xót thương. Nhưng ông đã quyết định dù chết cũng phải tái chiến Giang Đông nên không muốn phí lời, những ngày này đã giao doanh trại cho tướng lĩnh, còn mình dẫn theo các quan lại, trọng thần chuyển đến quận phủ của Lã Kiền, chỉ đợi mưa ngớt là lập tức nhổ trại khởi binh.
— Mưa dầm liên miên, binh sĩ rất vất vả… - Lã Kiền cũng có ý can ngăn cuộc nam chinh lần này, như chỉ dám nói vế đầu, còn vế sau để Tào Tháo tự hiểu.
Tào Tháo không thèm để tâm, chỉ chăm chú nhìn mưa rơi rả rích ở bên ngoài. Lã Kiền muốn nói hết ý vừa rồi, nhưng nghĩ đi nghĩ lại lại thôi - Lã Kiền vốn là nguyên lão trong Tào doanh, khi Tào Tháo ở Duyện Châu đã hết lòng phục vụ, lập bao nhiêu công trạng, ngay cả lệnh “ai can gián sẽ bị xử tội chết” cũng không làm gì được ông. Nhưng Lã Kiền lại có một vướng mắc trong lòng, từ khi kiến đô ở huyện Hứa đến nay, những tướng lĩnh khác đánh đông dẹp tây, công lao hiển hách, duy chỉ có mình ông chuyển nhiệm làm quan địa phương, hơn nữa đã hai mươi năm không được rời khỏi đất Duyện, Từ, Tào Tháo đánh trận Hà Bắc, Xích Bích đều không cho ông tham gia, đến khi lập tướng phủ, dựng công quốc cũng không được thăng quan. Lã Kiền cho rằng chắc chắn có nguyên nhân, liệu có phải Tào Tháo nghi kỵ ông là cường hào Duyện Châu nên không muốn trọng dụng? Cũng không đúng, vì nếu như vậy, Tào Tháo không thể giữ ông ở lại Duyện Châu, sau khi Lý Điển chủ động giải tán bộ khúc riêng, Lã Kiền cũng noi theo, đáng lẽ cũng được tín nhiệm mới phải. Có điều dù không cho Lã Kiền tòng quân, nhưng Tào Tháo vẫn biểu tấu làm Đình hầu, cử làm Mậu tài, lại còn cho giữ chức Kỵ đô úy, tuy không thể sánh với Vu Cấm, Trương Liêu nắm phù tiết trong tay, nhưng cũng không thua kém Lý Điển, Từ Hoảng. Nhưng tại sao Tào Tháo lại sắp xếp cho ông ở Thái Sơn mà không để ông đi chinh chiến? Lã Kiền suy nghĩ bao lâu mà vẫn không hiểu, thế nên có nhiều việc không dám nói thẳng ra.
Ba người mỗi người một suy nghĩ, không lâu sau xe ngựa vào thành Phụng Cao, chưa đến cửa quận phủ đã nhìn thấy Lư Hồng, Triệu Đạt đang đứng ở ngoài đường, ướt như chuột lột - quận phủ không giống với mạc phủ, nếu so ra thì quy mô nhỏ hơn nhiều, mặc dù Tào Tháo đã dẫn bọn Tuân Du vào ở trong phủ, nhưng không thể đuổi thuộc hạ của Lã Kiền đi. Một là đông người sẽ dễ gây họa, hai là nơi Ngụy Công ở phải tăng cường bảo vệ, cho nên nếu không được phép thì không thể bước vào trong. Thực ra mọi người đều biết Lư, Triệu là người của mạc phủ, có vào trong để tránh mưa cũng là bình thường, nhưng do bọn chúng thường làm chuyện tàn ác, nay hành quân bên ngoài, giám sát các tướng sĩ không theo phép tắc, lại càng đắc tội với nhiều người. Vệ binh nhân cơ hội này báo thù: “Ngụy Công không có ở đây, Lã quận tướng cũng vậy… Không được phép thì không thể vào, đây là quy định… Định làm lỡ việc à? Cho các ông vào chúng tôi sẽ lỡ hết việc! Sau này các ông lại cáo tội chúng tôi lơ là chức trách, chúng tôi nói một là một, hai là hai…” khiến Lư, Triệu chẳng còn cách nào khác, vào thành không được mà về trại thì sợ hỏng việc, chỉ còn cách đội mưa đứng đợi ở cửa. Khổ nỗi huyện thành Phụng Cao thông suốt với đường lớn dài tận hai dặm, ngay cả mái hiên cũng không có, muốn đứng dưới cổng trú mưa lại bị binh sĩ đuổi ra ngoài. Đúng là tự chuốc họa vào thân!
Lúc này vừa trông thấy xe ngựa, Lư, Triệu đang ấm ức vội vã chạy lại dìu Tào Tháo. Nhưng phu xe cũng biết họ là hạng người gì, bèn quất roi:
— Đứng gọn vào! Cái tay bẩn thỉu kia mà cũng dám chạm vào chúa công? - Lư Hồng bị roi quất kêu oai oái.
Tào Tháo được Tư Mã Lãng và Lã Kiền đỡ xuống xe:
— Các ngươi có chuyện gì cần bẩm tấu?
Cơn giận trong lòng Lư Hồng có cơ hội được trút ra:
— Khải bẩm chúa công, mấy tên lính ngoài thành thực không ra sao, nhân lúc ngài không ở đây đã gây chuyện ầm ĩ. Cần phải chỉnh đốn!
Triệu Đạt thì cẩn thận lôi ra một quyển giấy đã bị nước mưa thấm đến nhòe cả mực, vậy mà hắn vẫn đọc được:
— Đêm qua, có một tên quân hầu họ Tôn dưới trướng Phấn Uy Tướng quân Đặng Triển nói “Các ngươi đều mong tạnh mưa, còn ta lại mong mưa cả tháng, có như vậy chúa công mới thu binh.” Sáng nay phu xe của Trung hộ quân Hàn Hạo nói “chúa công nhiều lần nam chinh mà chẳng thắng lần nào, còn cố chấp tiếp tục gì nữa?” Còn có cận vệ của Bình Nam Tướng quân…
— Câm miệng! - Tào Tháo quắc mắt, - Mấy chuyện vụn vặt đó cũng phải bẩm tấu với ta?
Lư Hồng sợ quá, vâng vâng dạ dạ:
— Ngài dạy đúng lắm ạ, tiểu nhân sẽ tìm Pháp tào duyện, lập tức đem những kẻ này đi xử lý…
— Khốn kiếp! - Tào Tháo tức giận, - Các ngươi muốn ép binh sĩ tạo phản hả?
— Tiểu nhân không dám! - Lư, Triệu lí nhí đáp. Đúng là uổng công vô ích, đã ướt như chuột lột lại còn bị ăn mắng.
Kỳ thực khi nghe những lời này, Tào Tháo cũng rất tức giận, nhưng không thể trách phạt tướng sĩ, bèn nén cơn giận:
— Về doanh nói với các tướng, quản giáo binh sĩ không được ăn nói lung tung. Ai đã trót nói rồi thì cho qua, nhưng nếu sau này còn có kẻ dám làm dao động lòng quân, sẽ bị nghiêm trị! - Mặc dù Tào Tháo nói như vậy nhưng chắc chắn sẽ không nghiêm trị quân sĩ, mà chỉ có ý răn đe.
— Rõ. - Hai tên ưng khuyển cúi đầu đáp, định quay người bước đi.
— Khoan đã. - Tào Tháo gọi Triệu Đạt lại, - Ngươi đến tìm Đông tào Lệnh sử Từ Mạc, ta muốn phong Tư Mã Phu làm quan, bảo ông ta thảo lệnh. - Tư Mã Lãng không ngờ Tào Tháo nói là làm, cũng không dám từ chối; thực ra, do ông ta không nhìn ra được tâm tư của Tào Tháo, khi xưa phụ thân ông ta là Tư Mã Phòng thờ ơ với Tào Tháo, không cho Tào Tháo làm Lạc Dương lệnh, chuyện này thiên hạ đều biết, nay Tào Tháo trọng dụng người nhà họ Tư Mã chẳng phải là muốn thể hiện mình độ lượng, không so đo những hiềm khích trước đây sao? Dù sao thì vẫn còn chức quan bỏ không, nên đem ra mua chuộc lòng người.
Hai tướng của châu, quận tháp tùng Tào Tháo vào phủ, thay y phục sạch sẽ rồi định đi thăm Tuân Du đang ốm, nhưng chưa ra khỏi cửa thì Độ Liêu Tướng quân Tiên Vu Phụ xin gặp.
— Khải bẩm Thừa tướng, Tang Bá, Tôn Quan, Ngô Đôn của Thanh Châu dẫn theo sáu nghìn binh mã đã tiến vào địa phận quận, sáng sớm mai sẽ đến nơi, nhưng nước sông dâng cao, xe quân nhu bị hỏng nặng, sợ rằng thủy quân phải đợi hai, ba ngày nữa. - Tiên Vu Phụ thừa lệnh đốc thúc quân Thanh, Từ, vừa từ huyện lân cận quay về.
— Được rồi. - Ông trời không thuận cho, Tào Tháo cũng đành chịu.
Tiên Vu Phụ báo cáo xong nhưng vẫn chưa đi:
— Nghe nói không chỉ có phương bắc mưa dầm mà phương nam còn mưa lớn hơn, Lý Điển đang tập trung binh sĩ gia cố lại tường thành ở Hợp Phì. Các binh sĩ trong doanh bị bệnh không ít, Tuân Thượng thư chẳng phải cũng đổ bệnh rồi sao? Chỉ mong đừng bùng phát dịch bệnh…
— Ha ha!… - Tào Tháo vừa tức vừa buồn cười, - Chớ dùng mấy lời này để dẫn dụ ta, ý ta đã quyết. Quốc sự đã được giải quyết xong, không còn phải đề phòng hậu họa, lần nam chinh này không thắng không về, kể cả có phải mất cả năm ta cũng chấp nhận.
Tiên Vu Phụ là quan võ, tâm tư của ông ta làm sao qua mắt được Tào Tháo, nghe câu vừa rồi bỗng thấy nản lòng. Đang định nói thì nhìn thấy Triệu Đạt la hét ầm ĩ chạy vào khách đường:
— Chúa công! Chúa công! Tên Từ Mạc đó thật quá đáng, nhất định phải xử thật nặng!
Triệu Đạt vuốt nước mưa trên mặt:
— Vừa rồi tiểu nhân phụng lệnh chúa công đi tìm Từ Mạc, nào ngờ hắn đang uống rượu mới với mấy vị Công tào trong phủ. Uống rượu trong lúc xuất chinh là trái với quân lệnh, tiểu nhân nói: “chúa công có việc giao cho ngươi.” Nhưng hắn không thèm để ý, thần gọi mấy lần, hẳn cũng chỉ nhìn thần cười ngây dại. Thần lo quá, mới hỏi có phải hắn bị điên không, thì hắn nói: “Ta không trúng bệnh, ta say thánh nhân!” Lẽ nào lại nhẹ tay với tên ngông cuồng này?
— Say thánh nhân? Thật to gan! - Tào Tháo đang tức giận sẵn, - Mau trói hắn lại cho ta!
Tiên Vu Phụ và Từ Mạc đều là nhân sĩ U Yến, khi chưa đầu quân cho Tào Tháo đã quen biết nhau, há có thể thấy chết không cứu? Vội khuyên:
— Chuyện này cũng không có gì to tát, những người uống rượu trên đời đều ví rượu trắng là “thánh nhân”, rượu đục là “hiền nhân”, Từ Cảnh Sơn xưa nay là người thận trọng, hôm nay chắc quá chén, chúa công hà tất phải tính toán với con sâu rượu đó?
Lã Kiền cũng quen biết với Từ Mạc, liền họa theo:
— Chúa công còn nhớ chăng? Từ Cảnh Sơn lần đầu ra làm quan đã giữ chức Phụng Cao Huyện lệnh, mấy vị Công tào trong phủ tại hạ có quen biết với Từ Mạc cũng chính bởi ông ta là một vị quan tốt, lại lâu rồi huynh đệ không gặp nhau nên mới cùng ông ta uống rượu. Hơn nữa, cũng không phải tụ tập ở trong doanh, mong chúa công tha cho ông ta.
— Hừ. - Tào Tháo phất tay áo, - Nếu không nể mặt hai ngươi, nhất định ta sẽ trị hắn một trận. Thôi, tha cho hắn! - Tình nghĩa giữa đám quan văn không có gì đáng nói, nhưng chẳng lẽ lại không nể mặt hai viên đại tướng. Tào Tháo có thể tung hoành thiên hạ đều là nhờ đám võ nhân này, ba mươi năm nay số quan văn hận ông nhiều đếm không xuể, còn võ tướng thì chẳng có ai một lời oán trách ông. Trọng gươm đao hơn ngòi bút, xét cho cùng cũng là một cách cai trị.
— Đa tạ chúa công. - Tiên Vu Phụ cười nói, - Đợi hắn tỉnh rượu, mạt tướng sẽ bảo hắn đến nhận tội. - Nhưng trong lòng buồn bực. Ông ta vốn muốn đến khuyên Tào Tháo bãi binh, nay lại phải xin giúp người khác, nên không còn cách nào mở miệng.
Tiên Vu Phụ không dám khuyên tiếp, nhưng lại có kẻ dám làm. Vừa lúc đó có bốn sai nha đội mưa từ doanh trại đến cầu kiến, dẫn đầu là một người khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, dáng người béo lùn, râu ria xồm xoàm, hai mắt sáng rực, tay cầm thư tín, dáng đi đĩnh đạc, có vẻ là một kẻ can trường. Tào Tháo đương nhiên biết người này, đó là Hành quân chủ bạ Giả Quỳ, Giả Lương Đạo, theo sau là các chủ bạ của ba quân tiền, trung, hậu.
Bốn người vừa quỳ ở khách đường vừa dâng thư, đừng nói là Tào Tháo mà ngay cả Tiên Vu Phụ cũng đoán được tám chín phần - quả là bạo gan, đúng lúc chúa công đang tức giận còn cố tình tìm đến, chẳng phải là đổ thêm dầu vào lửa? Ông ta định ngăn họ nhưng cũng chẳng có cách nào.
Cơn phẫn nộ đã lên tới đỉnh điểm, nhưng Tào Tháo vẫn cười nhạt, hỏi cho ra lẽ:
— Muốn tâu chuyện gì?
— Thưa chúa công, thời tiết bất lợi, binh sĩ oán trách, khẩn cầu chúa công bãi binh! - Không biết Giả Quỳ vô tình hay cố ý mà giọng nói rất vang, - Đây là bản tấu thư, xin chúa…
— Ai viết?
— Xin chúa công xem. - Giả Quỳ vẫn cố nói hết câu.
Tào Tháo chộp lấy:
— Ai viết thư can gián này?
Giả Quỳ cắn chặt răng:
— Chính là tại hạ.
Tào Tháo không thèm xem, tức giận ném luôn xuống đất:
— Người đâu!
— Dạ. - Hứa Chử và Đoàn Chiêu dẫn thị vệ đang ở dưới thềm, nghe thấy tiếng gọi lập tức xông lên.
— Đem nhốt Giả Quỳ vào ngục, sáng mai xử tội trước ba quân!
Lã Kiền, Tư Mã Lãng há có thể khoanh tay? Giơ tay định ngăn lại, nhưng Tào Tháo nói:
— Một là một, hai là hai. Ta đã có lệnh “ai can gián sẽ bị xử tội chết”, lẽ nào lời ta nói đều không coi ra gì? Ta đã tha cho Từ Mạc, nếu các ngươi còn xen vào, chớ trách ta không nể tình!
Giả Quỳ mặc dù bị hai binh sĩ giữ chặt, nhưng vẫn lớn tiếng kêu gào:
— Chủ hồ đồ, thần nịnh nọt, chủ anh minh, thần thẳng thắn! Thương Trụ Vương không nghe can gián nên gặp nạn ở Mục Dã; Ngụy Văn hầu nghe theo can gián mà binh mạnh nước giàu. Tại hạ có thể chết, nhưng xin chúa công hãy nghĩ cho phúc họa của ba quân, lập tức thu!…
— Lôi hắn đi! Lôi hắn đi - Tào Tháo liên tục phẩy tay, lại quay sang hỏi ba vị chủ bạ còn lại, - Các ngươi nghĩ thế nào?
Ba người sợ xanh mắt - Giả Quỳ không phải tầm thường, năm xưa đánh bại Cao Cán, liên tiếp lập công; sau được giữ chức Thái thú Hoằng Nông, khi Tào Tháo đánh xuống Quan Trung ở phía tây đã luôn miệng khen ngợi: “Nếu như các quan hưởng lương hai nghìn thạch trong thiên hạ đều được như Giả Quỳ, ta cần gì phải lo lắng?” Khi xưa, chính Tào Tháo tự coi Giả Quỳ là tấm gương mẫu mực, giờ lại muốn giết là giết, chúng ta tốt nhất là chớ học theo Giả Quỳ nữa! Ba vị chủ bạ run rẩy, sợ sệt:
— Chúng tại hạ không dám…
— Cút! - Tào Tháo hai mày nhíu chặt, - Triệu Đạt! Mau đến doanh trại truyền quân lệnh, bất luận là người của mạc phủ hay bộ tướng trong quân, ai dám can gián, lập tức hành hình!
— Rõ! - Cả ngày nay Triệu Đạt chịu bực tức, cuối cùng cũng được giao nhiệm vụ rất đắc ý. Lã Kiền, Tư Mã Lãng, Tiên Vu Phụ quay ra nhìn nhau, chẳng ai nói gì…
Trên đường áp giải Giả Quỳ xuống nhà lao, sau khi đi đến sân, Đoàn Chiêu lệnh cho binh lính nới tay:
— Giả đại nhân, ngài đúng là có ý tốt! Nhưng bề trên lệnh xuống, tại hạ cũng không có cách nào, ngài đừng trách tại hạ. - Đoàn Chiêu làm việc lâu năm nên rất giảo hoạt.
Giả Quỳ cười gượng:
— Không cần nói vậy! Quan văn chết vì can gián, quan võ chết vì chiến trận, đều có lý cả.
— Tại hạ nghĩ cũng không đến mức ấy. Ngài là người kết giao rộng rãi, hẳn lát nữa sẽ có người nói đỡ.
Câu này đã nhắc nhở Giả Quỳ:
— Nhờ tướng quân giúp cho một việc, nếu có người muốn xin cho ta thì hãy ngăn lại, hôm nay thần sắc của chúa công không tốt, nếu cầu xin tất sẽ bị liên lụy.
— Ây dà! - Đoạn Triệu thở dài, - Ngài đúng là người tốt mà! Nhưng chúa công đã có lệnh, ngài chịu khó vào nhà lao chịu khổ vậy.
— Chớ làm mất thời gian nữa, đi thôi. - Không cần lính áp giải, Giả Quỳ tự bước đi.
Nơi đây không phải Hứa Đô, Nghiệp Thành, không có đại lao nên chỉ có thể nhốt vào phòng giam của quận phủ. Giả Quỳ vừa bước vào, cai ngục đã sợ đến run cầm cập. Đây là nơi chỉ để giam giữ mấy tên tiểu nhân làm chuyện xằng bậy, thi thoảng mới có kẻ giết người phóng hỏa, hôm nay lại đưa đến chủ bạ của mạc phủ, lại từng giữ chức Thái thú, cái phòng giam bé tí này há có thể giam nổi đại quan? Cai ngục không biết nói gì cho phải, ngay cả tên lính cũng liên mồm gọi họ là “đại nhân”.
Đoàn Chiêu thấy tên cai ngục này thì cũng không cần phải dặn dò đối đãi cẩn thận, sợ Tào Tháo sinh nghi, vội quay về phục mệnh. Cai ngục không dám để Giả Quỳ ở phòng giam, nhất quyết đưa đến phòng mình, còn mình thì đến ở phòng giam.
Giả Quỳ vội ngăn lại:
— Ấy, vị huynh đệ, ta với ngươi không thù không oán? Hà cớ gì muốn đẩy ta vào chỗ chết?
— Không dám… Không dám… - Cai ngục nói còn không được Lưu loát.
— Nghe lời ta! Mau đeo gông vào cho ta, càng nặng càng tốt, phòng giam nào bẩn nhất thì đưa ta đến.
Cai ngục cũng không biết ông ta nói thật hay đùa, cung kính nói:
— Ngài đừng trách tội, phòng này là tốt nhất ở đây. Ngài phạm tội gì, chúng tiểu nhân không dám hỏi, chỉ cần ngài ở đây, chúng tiểu nhân sẽ hầu ngài như hầu cha mẹ. Xin ngài ở tạm vậy.
— Hừ! Ngươi tốt với ta chính là hại ta! - Giả Quỳ cầm lấy tay cai ngục, - Ngụy Công tính vốn đa nghi, gần đây lại hay nổi giận, muốn xử ta để nguôi giận. Nhưng ngài biết là là quan lớn, sợ các người không dám trói ta, nên nhất định sẽ phái người đến giám sát. Nếu biết ta chịu khổ, cơn giận của ngài sẽ nguôi, ta còn đường sống; còn nếu thấy ta an nhàn vô sự, vậy coi như ta đi đời rồi!
— Sao ạ? - Cai ngục nghe xong không hiểu.
Giả Quỳ hết kiên nhẫn, túm lấy cổ áo hắn dọa rằng:
— Ngươi không đeo gông cho ta là hại chết ta! Không chỉ ta chết mà ngươi cũng đừng mong sống!
— Dạ… - Câu này thì hắn hiểu.
Cai ngục vẫy tay gọi đám lính canh. Họ nhanh chóng gỡ mũ mão, tháo búi tóc ra, dùng gông của tử tù đeo cho Giả Quỳ, nào dây, nào cùm trói ba bốn vòng, cả người và xích nặng hơn trăm cân, bước đi không nổi, ba người phải khiêng Giả Quỳ vào ngục. Phòng giam này vừa tối vừa bẩn, toàn mùi nước tiểu hôi thối, cửa đóng then cài, cai ngục dẫn theo lính canh quỳ sụp xuống:
— Xin đừng trách chúng tiểu nhân, là do chủ ý của ngài!
— Mau đứng lên, đứng lên, mọi người ngồi đi. - Giả Quỳ thẳng thắn nói, - Ta lành dữ chưa rõ, nhưng mạng của các ngươi coi như đã được bảo toàn.
Nói ra cũng thật linh, cửa ngục vừa đóng, một lúc sau đã thấy Triệu Đạt tới, hắn khệnh khạng bước đến trước phòng của Giả Quỳ, nhìn thấy bộ dạng của ông ta hắn rất sửng sốt. Thấy phòng tối đen, hôi thối, chỉ bịt mũi đứng một lúc, nổi cáu với lính ngục một trận rồi bỏ đi.
Ở đời có ai không ham sống? Giả Quỳ mặc dù cả gan can gián nhưng cũng không muốn vì việc này mà mất mạng. Mặc dù thấy Triệu Đạt đã đi xa nhưng trong lòng vẫn cảm thấy bất an, toàn thân cùm xích cũng không nằm được, ngồi dựa vào tường không nói năng gì, cai ngục đưa cơm cũng chẳng muốn ăn. Ông cứ ngồi như vậy cho đến lúc thắp đèn, nhưng vẫn thấy xung quanh mù mịt, toàn thân đau nhức, muốn ngủ mà không ngủ được, càng lúc càng vô vọng, đột nhiên nghe thấy tiếng chân gấp gáp - Đoàn Chiêu lại đến.
— Ngụy Công có lệnh, chủ bạ Giả Quỳ tuy đã can gián nhưng không có ý xấu. Phục hồi chức vụ, lập tức thả ra! - Đoàn Chiêu đọc xong giáo lệnh, tươi cười nói, - Giả đại nhân, chúc mừng ngài…
Cai ngục cũng nói đùa:
— Trong ngục mà nói “chúc mừng” là đại kỵ, ngài xin chớ nhắc đến nữa. - Nói xong mở ngục, gọi người tháo gông cùm cho Giả Quỳ.
Gông đã được tháo ra, nhưng vác cả trăm cân suốt cả ngày, Giả Quỳ đứng ngồi không xong, vừa bước đi đã ngã dúi xuống, Đoàn Chiêu mỉm cười đỡ lấy:
— Cẩn thận, cẩn thận chứ! Vất vả lắm mới giải quyết được cho ngài, ngài chớ gây rắc rối cho tại hạ. Chúa công vẫn thương ngài, chẳng cần ai khuyên, tự ngồi một chỗ tư lự rồi cũng nghĩ thông.
— Đồng ý thu quân phải không? - Giả Quỳ chỉ quan tâm đến việc này.
— Tha mạng cho ngài là tốt lắm rồi, còn chuyện bãi binh là không thể.
Giả Quỳ mím môi đáp:
— Phiền tướng quân vất vả đi trước báo với chúa công, ta sẽ tới tạ tội, và vẫn sẽ trình thư can gián…
— Ngài đúng là cứng đầu! - Đoàn Chiêu vô cùng cảm phục, - Đừng đi nữa, theo tại hạ nghĩ, ngài cứ nghỉ ngơi ở đây một đêm, đợi trời sáng hãy về doanh. Chúa công cũng đã có tuổi, tính khí khó đoán, lại có tên tiểu nhân Triệu Đạt gây khó, tự nhiên mất mạng mà chẳng được tích sự gì. Ngài cứ suy nghĩ đi. - Nói xong quày quả bước đi.
Giả Quỳ vẫn muốn nói thêm đôi câu, nhưng cai ngục cũng khuyên:
— Đại nhân nên thôi đi, đừng nghĩ ngài là quan to, những chuyện trong lao ngục ngài không thể hiểu bằng tiểu nhân. Ngài giữ chức quan nào thì tiểu nhân không rõ, cũng không dám hỏi, nhưng tiểu nhân làm ở đây đã hơn mười năm, đã gặp quá nhiều kẻ chết oan, chết nhục, chết vì ngông cuồng!… May thay Lã quận tướng vốn là võ tướng nhưng lại giữ chức quan văn, là một vị quan thanh liêm, chính trực, nếu đổi là nha môn khác, ngài có dám nghĩ đến sẽ như thế nào? Chẳng phải ai cũng được may mắn như ngài đâu!
Giả Quỳ thở dài, lắc đầu cười khổ.
Tam Tào đồng tâm
Giả Quỳ bị nhốt vào ngục suýt chút nữa mất mạng, Tào Tháo hai lần hạ lệnh từ chối can gián, không ai dám công khai phản đối việc nam chinh nữa. Sau khi trung quân và binh mã Thanh Châu hợp nhất, lại tiếp tục tiến xuống phía nam, dọc đường mưa bão không ngớt, các tướng sĩ chỉ có thể cắn ráng chịu đựng. Đến tháng Mười năm Kiến An thứ mười chín, đại quân đến Hợp Phì, binh mã Hứa Đô, Nam Dương cũng lục tục theo sau, đội quân tiên phong của Tào doanh đóng ở cửa Nhu Tu, còn Tôn Quyền cũng điều động xong quân ở bờ nam, hai bên khó tránh khỏi một trận huyết chiến.
Nhưng so với những lần xảy ra chiến sự trước đây, lần nam chinh này lòng quân bất ổn. Thời tiết mưa dầm, đường đất khó đi chẳng qua chỉ là một cái cớ, năm xưa bắc chinh Ô Hoàn, tây chinh Quan Trung đường còn khó đi gáp nhiều lần, nguyên nhân chính khiến tướng sĩ không muốn nam chinh là vì họ thấy mơ hồ, thiếu tự tin. Trận đại bại Xích Bích, trận Nhu Tu tay không trở về, quân phương bắc càng đánh càng sợ, vừa nghe đến từ “nam chinh” đã thấy đau đầu váng óc, hơn nữa Lư Giang nhiều lần bị tập kích, Nam Dương đề phòng Kinh Châu nghiêm ngặt, thế mà bấy lâu nay cũng không tạo dựng được đội quân tinh nhuệ về thủy chiến, lúc này cần phải làm thế nào? Đại chiến sắp xảy ra mà binh lính canh cánh lo âu - lết được đến Hợp Phì, nhưng ai biết được có sống mà trở về hay không?
Tướng lĩnh cũng lo lắng thấp thỏm, Tào Phi càng hoang mang không biết khi nào mới kết thúc việc này, lần nam chinh này quá bất lợi đối với y. Dụng ý của phụ thân rất rõ ràng, giờ là thời điểm then chốt để lập thế tử, phụ thân đưa mình ra khỏi Nghiệp thành khác nào mang cá lên bờ? Không thể gặp được các đại thần nguyên lão, thuộc hạ phủ đệ. Biết đâu Tào Thực lại nhân lúc mình không có nhà mà ra tay lôi kéo, mua chuộc lòng người? Việc xây dựng Băng Tỉnh đài đã chuyển cho Tào Thực, tất cả công lao, mọi điều tốt đẹp đều quy hết cho hắn!
Trận chiến này càng kéo dài, Tào Phi lại càng bất lợi. Giả sử đánh nhau vài tháng hay một năm nữa thì Nghiệp Thành còn lại mấy người ủng hộ y? Mấy lần Tào Phi muốn vạch tội của Dương Tu với phụ thân, nhưng không có chứng cứ, dễ bị cho rằng ghen ghét đố kỵ với tiểu đệ, nên định nói lại thôi. Năm tháng chẳng buông tha ai, Tào Tháo cũng đã sáu mươi tuổi, dọc đường vất vả cảm thấy mệt mỏi, đã vào ở trong thành, ngay cả cơ hội gặp phụ thân cũng ít, mà cũng không biết khi nào mới khai chiến.
Tào Tháo chuyển vào trong thành, hội họp các mưu sĩ bàn kế phá địch, mọi chuyện trong doanh đều để lại cho huynh đệ Tào Phi, Tào Chương. Nhưng đó cũng chỉ là giao việc trên danh nghĩa chứ không phải thực quyền, Trung hộ quân Hàn Hạo, Hữu hộ quân Tiết Đễ đã đảm nhiệm hết, nếu có việc gì thì phải hỏi qua họ. Cũng không biết Tào Tháo có ý đồ gì, lại sai quân mưu duyên Triệu Tiễn làm Tư mã cho Tào Phi, dặn dò Tào Phi có việc gì cũng phải bàn bạc với Triệu Tiễn, khiến y đã không thể làm chủ được đại doanh mà ngay cả thuộc hạ cũng không được phép quản, cả ngày chỉ đi đi lại lại trong doanh trại. Binh lính thì tưởng rằng Tào Phi đích thân đi tuần doanh để giám sát kỷ cương, nên càng nơm nớp lo sợ, chứ đâu biết là do y quá buồn chán.
Sáng hôm ấy, Tào Phi vừa đi đến cửa hậu doanh thì trông thấy một viên tướng dáng người to béo, tóc mai rối bời đang cầm mấy con cá tươi bước ra:
— Ngũ quan tướng lại đích thân đi tuần, thực là tận tụy quá! - Người này là Diêm Nhu, cựu tướng của U Châu. Đã mười năm trôi qua, tiểu tướng năm xưa giờ đã cao lớn thế này, mặt mũi đầy râu, bụng béo sắp xệ cả xuống. Năm đó trong lần viễn chinh biên cương, Tào Tháo đã từng khen Diêm Nhu: “Ta coi ngươi như nhi tử, cũng mong ngươi coi ta như phụ thân.”
Câu này truyền đi, Diêm Nhu coi như có số hưởng phúc, chư tướng đều nghĩ hắn như con nuôi của Thừa tướng, không ai dám chọc giận, cả ngày được ăn no uống say, há lại không béo?
Nhưng Diêm Nhu cũng là kẻ biết trước biết sau, kính trọng bề trên, yêu quý kẻ dưới, đặc biệt có quan hệ thân thiết với các vị công tử. Ngựa tốt, lừa quý trong phủ của các công tử đều do Diêm Nhu đưa từ chỗ người Ô Hoàn về, ba năm trước Diêm Nhu còn giúp Tào Phi bình định được trận phản loạn ở Hà Gian, do đó cũng thân thiết với Tào Phi hơn các công tử khác.
— Mạt tướng đang định đến trại trung quân bái kiến, không ngờ gặp ngài ở đây. Trong doanh trại có binh sĩ vừa câu được mấy con cá kỳ lạ này, có người bảo đó là cá cháy, quý lắm đấy! Cá ngon thế này mạt tướng ăn không hết, xin biếu ngài mang về thưởng thức!
Tào Phi cúi đầu nhìn, sợi dây xâu mười con cá, loại này há có thể bắt dễ như vậy? Chắc chắn là nhờ ngư dân địa phương bắt, cố ý mang đến làm quà. Nghĩ đến đây, y cười gượng. Ta sa sút đến mức này, ai cũng nhìn ra, vậy mà Diêm Nhu còn đối tốt với ta, đây mới đúng là bằng hữu! Nhưng cũng không tiện nói ra:
— Cảm ơn ý tốt của ngươi, nhiều cá thế này ta cũng ăn không hết.
Diêm Nhu sớm đã tính toán đâu ra đấy:
— Nếu ngài sợ nhiều, thì giữ lại hai con, tặng chúa công hai con, tam công tử hai con, Tuân Thượng thư hai con, tướng quân Tào Chân, Tào Hưu mỗi người một con, chẳng phải là xong sao?
Các thân binh cười khúc khích. Hắn để cho Tào Phi tặng người khác, còn mình thì không cần đến, nhưng Tào Phi lẽ nào lại không nhắc đến đây là đồ của hắn tặng?
— Cũng được - Tào Phi đang bận suy nghĩ nhiều chuyện, không có tâm trạng nào để tán gẫu với Diêm Nhu, gọi thân binh nhận cá, nói thêm mấy câu xã giao rồi đi, nhưng cũng không vội trở về mà đi xa hẳn đại doanh, cưỡi ngựa đi dạo bên ngoài. Cho đến chính ngọ khi khói bếp bay lên, thân binh mới giục:
— Ngũ quan tướng, chúng ta về thôi, đến bữa cơm rồi!
— Ta không muốn ăn, các ngươi mang cá đi tặng theo lời của Nhu tướng quân… Hai con cá của ta cũng chia cho Tào Chân và Tào Hưu.
Mấy binh lính theo lời dặn đi chia cá, còn người ở lại vẫn khuyên:
— Ngài ra ngoài được nửa ngày rồi, xin hãy trở về.
Tào Phi không để ý, vẫn quay người về phía bắc hứng gió - Hợp Phì đã tạnh mưa nhưng trời vẫn âm u, đầu đông gió lạnh phảng phất, làm cây cỏ đung đưa, run rẩy. Phương bắc xa xôi mờ mịt, những cánh đồng sau khi thu hoạch trải dài tới tận chân trời, tạo thành một cảnh tượng hỗn độn. Y ngẩng đầu nhìn trời xanh, thấy một đám mây cô độc đang chầm chậm trôi, lòng càng thêm phiền não, bèn ngâm một bài thơ:
Tây bắc có mây bay,
Tựa như chiếc lọng che.
Tiếc thay không gặp thời,
Gặp trận gió cuốn bay.
Thổi ta đến đông nam,
Tới Ngô Cối đi mãi.
Nào phải quê hương mình,
Sao ở lâu được mãi?
Dứt bỏ những chuyện cũ,
Khách sợ hỏi cố hương.(*)
Tào Phi ngâm xong bài thơ, trầm mặc hồi lâu, thẫn thờ nhìn đám mây cho đến khi trôi qua mới thở dài quay đầu, lại thấy sáu bảy binh lính đang tròn mắt nhìn y. Đám người thô lỗ này há có thể hiểu được ý tứ của bài thơ? Tào Phi lặng lẽ không nói gì, lại nghe thấy giọng của một tên lính trẻ nói:
— Tướng quân ngâm thật hay.
— Ngươi hiểu được bài thơ này? - Tào Phi không tin.
— Dạ, tất nhiên là hiểu. - Tên lính nói, - Câu “Nào phải quê hương mình, Sao ở lâu được mãi?” ý nói Giang Nam không phải địa bàn của chúng ta, nhiều lần đánh không được. Hẳn là tướng quân không tán thành việc chúa công nam chinh… - Nói được nửa câu mới biết lỡ lời, tự vả luôn vào miệng, - Tiểu nhân sai rồi, tiểu nhân ăn nói hồ đồ!
Tào Phi muốn ví đám mây kia chính là mình, nhưng không thể nói toạc ra, chỉ cười gượng:
— Giải thích như vậy cũng không phải không có lý, không có tội, không có tội.
Tên lính này lựa gió bỏ buồm, cười giả lả:
— Ngài đã nói tiểu nhân giải thích đúng, thì thưởng cho tiểu nhân đi…
Tào Phi cũng không muốn đôi co với hắn, chỉ nói:
— Có voi đòi tiên… Ngươi muốn gì?
Tiểu binh cười nói:
— Xin ngài mau về trại ăn cơm nghỉ ngơi. Không giấu gì ngài, Triệu Tư mã đã dặn chúng tiểu nhân phải chăm sóc việc ăn uống, ngủ nghỉ của ngài, nếu ngài không ăn sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, chúng tiểu nhân cũng không sống nổi. Nhà tiểu nhân ít người, mỗi mình là độc đinh, cha mẹ ông bà đều yêu quý, tiểu nhân có mệnh hệ nào thì họ cũng đau lòng lắm!
— Ồ! - Tào Phi chợt mềm lòng. Người nghèo cũng yêu thương con cháu của họ, ta đường đường là con nhà công hầu sao lại thành ra thế này? Mọi người đều nói, được sinh ra trong danh gia vọng tộc là phúc lớn, nhưng danh gia vọng tộc cũng có nỗi khổ riêng, không phải người trong cuộc thì ai có thể hiểu?
— Xin Ngũ quan tướng giữ gìn quý thể. - Những binh lính khác cũng họa theo.
— Nghe lời các ngươi, về doanh. - Tào Phi lẩm bẩm vài câu rồi lên ngựa trở về.
Các binh sĩ này đúng là không may mắn, về đến doanh thì bếp đã tắt lửa từ lâu. Tào Phi đến trước đại doanh trung quân thì xuống ngựa, nghe thấy đằng sau có tiếng người nói:
— Tử Hoàn, huynh lại muộn phiền sao?
Tào Phi quay lại nhìn, thì ra là Tào Chân, bèn cười nói:
— Không được đánh trận, không buồn sao được? - Nói xong ra hiệu cho thân binh lui xuống.
Tào Chân tiến gần hơn:
— Trong lòng huynh nghĩ gì, đệ đều biết cả, chớ nên vội vàng, dục tốc bất đạt.
Tào Phi quay lại nhìn vào trong doanh. Bên trong không có một ai. Tào Chương cứ được đi đánh trận là hào hứng vô cùng, trời chưa hửng sáng đã dẫn thân binh ra ngoài, không thèm bẩm báo với Tào Tháo mà chỉ nói là đi thám thính quân địch, cũng không biết đi dâu.
Tào Chân ngượng ngùng nói:
— Gần hai năm nay, huynh không thường qua phủ đệ, đệ cũng có thể hiểu được chỗ khó xử của huynh.
— Ta hiểu! - Tào Phi nhìn trong doanh không có ai, binh lính cũng đã đi xa, cuối cùng mới nói thẳng, - Dù sao đều là huynh đệ, nói gì ai gần ai xa? Ta đều hiểu.
— Nhưng năm ngón tay còn có ngón dài ngón ngắn, khi xưa chúng ta cùng nhau bắt chim, đá cẩu, bọn Tử Kiến còn chưa biết đi. Trận Uyển Thành nguy hiểm như vậy, chúng ta hai người một ngựa chạy thoát thân, lúc đó Tử Kiến ở đâu? - Tào Chân thật biết khơi gợi tâm sự.
— Ta biết, ta đều biết. Nhưng ta không dám nói, bọn Lư Hồng, Triệu Đại, Lưu Triệu ở cả trong doanh, ta không phân biệt nổi ai đáng tin, ai không đáng tin, giờ ngay cả lúc ngủ cũng không dám nói mơ, không biết câu nào sẽ gây ra họa! - Tào Phi cầm lấy tay Tào Chân, hai mắt bất giác đỏ hoe.
Tào Phi và Tào Thực tính cách đều không giống phụ thân của mình, Tào Tháo là người gian giảo nhưng ít khi để tâm sự trong lòng, bình thường ái ố nộ hỷ cũng lộ hết ra ngoài; Tào Thực là người thẳng thắn, rất ít khi đối xử hai mặt với ai; Tào Phi thì không giống vậy, y sống nội tâm, vui buồn không hiện ra mặt, đừng nói là cử chỉ ngày thường mà ngay cả trong văn thơ cũng luôn có phần cẩn thận, dè dặt. Lúc này Tào Chân thấy y như vậy, biết là đã chạm đến nỗi đau của huynh, vội nói:
— Đừng buồn, đừng buồn… chúng ta vào trong nói.
Tào Phi lắc đầu, kéo Tào Chân ra chỗ buộc ngựa. Nơi này thoáng đãng, binh sĩ đi qua đều có thể nhìn thấy hết, lúc này phu ngựa cũng đã đi ăn cơm, xung quanh chẳng còn ai, Tào Phi mới kể lại chuyện Dương Tu ngầm giúp Tào Thực cho Tào Chân nghe. Tào Chân cũng tặc lưỡi:
— Quả là không dễ, không có bằng chứng thì không giải thích rõ được, trừ khi có thư hoặc tín vật…
— Không có! Chuyện đã qua mấy tháng, dù có cũng đã đốt đi rồi. Hơn nữa, những chuyện này lẽ nào lại là trò đùa? Hai người họ nói chuyện riêng, ai có thể nghe thấy?
Tào Phi còn chưa nói hết câu, đã nghe phía sau chuồng ngựa có tiếng người nói:
— Lời của hai người, ta có thể nghe thấy!
Hai người sợ bủn rủn chân tay, Tào Chân theo bản năng rút kiếm ra, nhưng thấy sau chuồng ngựa bước ra một người trên dưới ba mươi tuổi, đang mỉm cười - đó là Tào Hưu!
— Thu lại, thu lại đi. - Tào Hưu chỉ vào cây kiếm, - Tử Đan à, huynh được lắm, bảo là được tặng hai con cá, phải đến cảm ơn Tử Hoàn huynh. Nhưng ta càng nghĩ càng thấy có gì không đúng, mới lén đi theo xem, hóa ra chạy đến đây trò chuyện to nhỏ!
— Văn Liệt, đệ đều nghe thấy hết rồi?… - Tào Phi vừa sợ vừa lo.
Tào Hưu không cười nữa, vội vàng nói:
— Hai người định coi ta là người ngoài phải không? Tử Đan, trong doanh này ai chẳng biết nơi nào có huynh, nơi đấy có ta? Cũng may ta vốn là người họ Tào, nói về quan hệ thân thích ta còn hơn huynh một bậc. Ngũ quan tướng của đệ, huynh cũng quên đệ sao? Khi xưa theo huynh xông vào Viên phủ, huynh có được phu nhân, còn đệ suýt bị một trận đòn!
Nghe vậy Tào Phi cũng yên tâm hơn, vội chắp tay:
— Nếu như đệ chịu giúp, ta có nằm mơ cũng không nghĩ đến.
Tào Hưu nói:
— Đệ đã nghe thấy hết rồi, chẳng phải có chút chuyện vặt này thôi sao. Dễ thôi, mau đi tìm Hình Ngung!
Tào Phi ngẩn người: Phải rồi, sao ta không nghĩ đến? Hình Ngung là Gia thừa của Lâm Tri hầu, trên danh nghĩa là chủ quản mọi việc trong phủ Tào Thực, bao gồm cả việc tiếp khách. Dương Tu nửa đêm bí mật vào phủ thì gọi là hành động gì? Gia thừa có nên quản không? Ông ta là người của phủ Tào Thực, nói chắc phụ thân sẽ tin, không cần biết Dương Tu nói gì, chỉ cần là cận thần mà đêm hôm mò đến hầu phủ là có tội. Hơn nữa, phụ thân nhiều lần dặn dò tam đệ phải tôn trọng Hình Ngung, nếu Hình Ngung chịu lộ diện tố cáo, ắt phải có hiệu quả!
Tào Chân cũng gật đầu:
— Những lời này có lý. Năm xưa Hình Ngung xuống núi hiến kế bình định Ô Hoàn, chúa công không ở Nghiệp Thành, là Tử Hoàn đã tiếp đãi ông ta. - Khi đó Tử Hoàn tiếp đãi trọng thị, mời cơm đãi yến, lẽ nào ông ta lại quên tấm chân tình này?
Tào Phi đã chắc chắn được mấy phần, nhưng cũng không dám hoàn toàn tin tưởng:
— Ông ta nhiều năm nhận chức ở bên ngoài, vừa chuyển về Nghiệp Thành, còn làm quan trong phủ tam đệ, chưa chắc đã chịu giúp.
— Đệ nghĩ ông ta nhất định sẽ giúp. - Tào Hưu nói chắc như đinh đóng cột, - Thứ nhất, ông ta là một nhân sĩ có tiếng nên chắc chắn sẽ tuân theo tông pháp, lập Tử Kiến làm thái tử tức là phế trưởng lập thứ, đạo lý này khó được chấp nhận. Thứ hai, ông ta cũng có ý hạnh tiến, nếu không sao phải ở trong núi chờ thời, rồi chạy đến đây làm gì? Điền Trù làm xong việc thì lui về ở ẩn, sao ông ta còn ra làm quan? Nếu giúp được huynh lập lên đại nghiệp, sau này ông ta sẽ là tả mệnh công thần, cơ hội tốt thế này há có thể bỏ qua?
— Được, nhưng… - Tào Chân gật đầu, nhưng lập tức chau mày, - Nhưng chuyện này không thể để Tử Hoàn đích thân xuất đầu lộ diện, chúng ta dù sao cũng là huynh đệ thân thích. Hạ Hầu Thượng cũng không được.
Tào Hưu nói:
— Nên viết thư giao việc này cho Chu Thước làm.
Tào Chân bĩu môi:
— Không được, Chu Thước hiện chỉ là quản gia trong phủ Tử Hoàn, còn Hình Ngung thân phận cao quý. Sao có thể để gia bộc đi gặp danh sĩ nói lý lẽ? Hơn nữa, mọi người đều biết hắn là người của Tử Hoàn…
Tào Hưu suy nghĩ hồi lâu mới nói:
— Đám duyện thuộc trong phủ không tin tưởng được, bọn họ phần lớn đều quen biết với người trong phủ của Tử Kiến, vả lại chưa chắc đã không có tai mắt của thúc phụ. Ai vừa có thân phận, vừa đáng tin, lại có thể hành sự bí mật? Ây dà! Nếu Ngô Chất còn ở Nghiệp Thành thì tốt…
Hai người bàn tính mãi, trong khi đó Tào Phi không nói câu nào, thực ra trong lòng y đã nghĩ đến một người thích hợp, chỉ không muốn nói ra, vì dù sao chuyện này càng ít người biết càng tốt.
— Ngũ quan tướng! Nhị công tử! - Đột nhiên có tiếng thân binh cất lên.
Cả hai lập tức im lặng, Tào Phi không nói gì, đưa tay sờ lên cổ ngựa, giả vờ nói:
— Hai đệ xem con ngựa này, ta đoán chắc là của Diêm Nhu tặng ta… Ngươi có chuyện gì bẩm báo?
Thân binh hốt hoảng:
— Tuân đại nhân… Tuân đại nhân… ông ấy…
— Làm sao?
— Tuân đại nhân thổ huyết, nôn ra rất nhiều máu, sợ rằng…
Khi tỏ khi mờ
Trước lúc xuất binh, Thượng thư lệnh Tuân Du sức khỏe đã không tốt nhưng vẫn phải theo quân, đường sá gập ghềnh lại gặp mưa lớn kéo dài, nên cuối cùng bệnh đã ngấm vào xương tủy. Thực ra, ông ta có đi theo quân hay không cũng có khác gì nhau? Tuân Du không tham gia vào việc can gián nam chinh, không trả lời khi được hỏi về việc lập người kế vị, giờ cũng không được bày mưu tính kế. Từ khi bình định được Nghiệp Thành, ông ta rất ít khi bày mưu hiến kế, còn sau cái chết của Tuân Úc, ông ta càng hành sự thận trọng, lúc nào cũng như đi trên băng mỏng, sớm đã không còn là vị quân sư được tín nhiệm và có thể quyết định kế sách như năm xưa.
Tuân Du gầy gò, ốm yếu nằm trong quân trướng, mặt mày trắng bệch không chút cảm xúc, hai mắt lờ đờ nhìn lên như muốn xuyên qua mái trại để với tới trời xanh. Cạnh giường đặt một chiếc chậu đồng, bên trong là máu vừa nôn ra, tới gần nửa chậu!
Nếu để so sánh, Tuân Du không thể sục sôi ý chí, yêu ghét phân minh như vị tộc thúc ít hơn ông sáu tuổi. Ông ta làm việc luôn thận trọng và lặng lẽ, lúc sắp rời khỏi nhân gian này cũng không đau buồn, lưu luyến gì, chỉ âm thầm chịu đựng. Thực ra, cả đời Tuân Du đều sống trong nhẫn nhịn: năm xưa, ông ta cùng Hà Ngung lập mưu giết Đổng Trác, chuyện bại lộ bị bắt vào nhà lao, Hà Ngung sợ hãi mà thắt cổ tự tử, Tuân Du thì nhẫn nhục chịu đựng, đến khi Đổng Trác bị Lã Bố giết, ông mới được nhìn thấy ánh mặt trời. Sau này triều đình Tây Kinh có loạn, Lý Thôi, Quách Dĩ làm phản, Tuân Du tiếp tục sống những ngày khổ ải, đến khi được giữ chức Thái thú Thục quận mới rời khỏi Trường An. Nhưng đất Thục sớm đã bị cha con Lưu Yên chiếm đóng, đường xa chia cắt, ông ta lại phải chôn chân ở Kinh Châu, tiếp tục nhẫn nhục, đến khi nhận được thư của Tào Tháo mời về Hứa Đô nhận chức. Từ đó cho đến khi Tào Tháo bình định được Hà Bắc, Tuân Du sống trong thoải mái, hết lòng hết sức phụng sự Tào doanh; tất nhiên cũng có lúc phải nhịn vì thời thế bất lợi, hành quân gian khổ, chiến sự nguy hiểm, tính khí của Tào Tháo, nhưng những điều đó có là gì với một người mang hoài bão lớn lao? Tận đến khi Tào Tháo bãi chức Tam công, lên làm Thừa tướng, rồi làm Ngụy Công, Tuân Du lại bắt đầu phải nhẫn nhục, nhưng ông ta cũng biết rõ, lần nhẫn nhục này sẽ không có hồi kết, và cách duy nhất để kết thúc mọi chuyện chính là cái chết. Có sợ hãi cũng để làm gì? Cứ để mọi chuyện dần dần kết thúc trong sự chịu đựng vậy…
Các duyện thuộc vây quanh ông, mọi người biết chuyện gì sắp xảy đến nên ai nấy đều im lặng; Tân Tỵ và Tuân thị là thông gia, ông ta ngồi trước giường, kéo nhẹ tay Tuân Du an ủi:
— Ngài sẽ đỡ thôi, cứ yên tâm. - Thân binh đang sắc thuốc trong góc cũng nhẹ tay, sợ gây tiếng ồn.
Rèm trướng được vén lên, Tào Phi tiến vào, mọi người lần lượt hành lễ, nhưng Tân Tỵ không đứng dậy, chỉ đưa tay ý nói giữ yên lặng. Tào Phi nhẹ nhàng bước đến trước giường:
— Tuân công, đã đỡ hơn chưa?
Tuân Du đờ đẫn nhìn Tào Phi, thì thào nói:
— Không ổn rồi…
Tân Tỵ chau mày:
— Chớ nói lời không may.
— Ta đã biết cả rồi… - Tuân Du không giấu giếm.
Tào Phi cũng khuyên:
— Tuân công chớ ăn nói hồ đồ, hãy tĩnh tâm dưỡng bệnh. Ngài còn nhớ Chu Kiến Bình tiên sinh không? ông ta nói ngài phải sống được mười năm nữa.
Tuân Du mỉm cười, miễn cưỡng lắc đầu:
— Chu Kiến Bình quả là kỳ nhân… ông ta nói một tuần, nhưng lại đưa một ngón tay ra… lúc đó ta đã hiểu… chỉ còn một năm… Ta sớm đã gửi gắm hậu sự cho Chung Nguyên Thường… - Nói đứt quãng được hai câu, rồi bắt đầu thở dốc.
Tào Phi nhìn bộ dạng khổ ải của Tuân Du, trong lòng không khỏi thương xót - Tuân Du tử tôn thưa thớt, chỉ có hai người con trai, trưởng tử là Tuân Tập đã chết cách đây nhiều năm, thứ tử là Tuân Thích, còn nhỏ lại hay đau ốm, Tuân Du chết đi, họ Tuân coi như chẳng còn ai. Tào Phi trong lòng vốn đã u oán, càng nghĩ càng thấy đau buồn, không kìm được nước mắt.
Tuân Du thấy y khóc, hổn hển nói:
— Con người ai cũng phải chết… công tử… không cần như vậy…
Tào Phi quỳ sụp xuống:
— Tuân thúc phụ, người phải bảo trọng! - Thân phận y lúc này đã khác trước, vừa là Ngũ quan tướng, vừa là trưởng tử của Ngụy công, nên việc dùng lễ đệ tử để quỳ bái thực không hề tầm thường.
Tuân Du cảm thấy ngực đập mạnh, muốn nôn nhưng không nôn được, quay đầu nhìn Tào Phi, hổn hển nói:
— Công tử ráng… sống tốt… - Vế sau nói không thành tiếng.
Tào Phi cầm tay Tuân Du, nghẹn ngào nói:
— Tuân thúc phụ, kế sách của người làm uy danh quân ta, chấn động bốn phương, để có được ngày hôm nay, phụ tử ta mãi không quên công lao của thúc phụ. Tiểu điệt… tiểu điệt…
— Nói nửa lời rồi ngưng lại. Tào Tháo trưng cầu ý kiến của quần thần về việc lập thế tử, đến nay vẫn còn Tuân Du chưa trả lời. Hiện đang có không ít quần liêu ở đây, nếu trước lúc chết mà ông ta có thể nói một hai câu có lợi cho Tào Phi thì hẳn rất có sức nặng. Nhưng Tuân Du đã như ngọn đèn sắp cạn, Tào Phi há có thể nhẫn tâm nói thẳng? Chỉ biết cúi đầu mà khóc.
Tân Tỵ vốn thân thiết với Tào Phi, nhìn cảnh này đã hiểu dụng ý, vuốt ngực cho Tuân Du rồi nói:
— Công Đạt huynh, huynh xem Ngũ quan tướng thật là nhân nghĩa! Ngụy Công một đời anh hùng, có được nhi tử như vậy thật đúng tâm nguyện!
Khi Tân Tỵ nói ra những lời này, Tuân Du dù đang đau đớn nhưng không hề rối trí, chỉ nhìn vào mắt Tào Phi là biết y đang nghĩ gì. Nhưng ông ta không nói gì, cũng chẳng còn hơi sức đâu mà nói, thậm chí cũng không gật đầu - Ai là thế tử? Đơn giản vậy sao? Ai ngồi vào ngôi vị của Tào Tháo nghĩa là người đó sau này sẽ lên ngôi cửu ngũ, và có được thiên hạ sao? Nhưng thiên hạ này là của ai? Là của nhà Hán chứ không phải người khác!
Tuân Du không nhìn ai nữa, khe khẽ nhắm mắt lại; vào thời khắc cuối, ông bắt đầu chán ghét cuộc đời mình: Ta rõ ràng là quan nhà Hán, tại sao không từ chối Tào Tháo? Tại sao đã theo Tào Tháo lại không toàn tâm toàn ý ủng hộ ông ta làm hoàng đế? Sự lựa chọn của ta và Văn Nhược có đúng hay chăng? Cuối cùng thì không hẳn theo nhà Hán, cũng không hẳn theo nhà Ngụy, có khác gì bắt cá hai tay? Trung thành với nhà Hán xuất phát từ tâm can, hay chỉ vì một chút danh tiết? Thân tâm ta quả thực đã mệt rồi… Tào Tháo gian xảo, lọc lừa, nhưng ta chẳng phải cũng đang lừa người khác sao? Không những lừa người khác mà còn lừa cả bản thân. Ôi, dù ta đã thừa nhận, nhưng không biết trên đời này vẫn có bao nhiêu kẻ sống trong sự huyễn hoặc, tự lừa mình dối người!
Tuân Du không nói thêm câu nào nữa, chỉ nhẫn nại chờ đợi cho đến khi tất cả những điều đang nghĩ và chưa kịp nghĩ chìm vào cõi u minh… Trong trướng bắt đầu vang lên tiếng khóc.
Mọi người vội vàng chuẩn bị tang lễ, bận rộn phủ vải trắng lên cửa trại, thân binh đều đã mặc tang phục, tướng lĩnh các bộ cũng lần lượt đến hành lễ. Tào Phi dập đầu ba cái, lau nước mắt rồi bước ra khỏi trướng, trong lòng nặng trĩu không biết là vì người chết hay vì bản thân. Y vội cùng Tào Chân, Tào Hưu ra khỏi doanh trại, vào thành báo tin cho phụ thân.
Doanh trại cách Hợp Phì không xa, chưa đầy canh giờ thì tới nơi. Lúc này, Tào Phi vừa muốn lại vừa sợ gặp phụ thân. Y xuống ngựa, đứng ngoài cổng huyện thị, hít một hơi dài để trấn tĩnh rồi mới bước vào. Nào ngờ vừa vào đến cửa đại đường đã thấy bát rơi trên đất, canh cá hất đẩy sàn; ngẩng lên thấy Tào Tháo đang hằm hằm nổi giận, bên trái, bên phải bọn Trần Kiều, Lưu Hoa, Tưởng Tế cũng đang nhíu mày không nói, tất cả như những pho tượng đất.
Tào Phi biết lúc này phụ thân đang nổi cơn lôi đình nên càng cẩn thận, khẽ nói:
— Bẩm phụ thân, Tuân công bệnh đã qua đời… - Y sợ nói năng bất cẩn, vừa không dám xúc động quá, lại không dám tỏ ra vô tình, thật khó thể hiện.
Không ngờ Tào Tháo không lộ chút xúc động, chỉ đấm vào chân cười khổ:
— Lại thêm một hung tin, chẳng có lấy một chuyện hay!
Tào Phi nghe vậy thì không dám hỏi lại, quay ra hỏi người bên cạnh vừa xảy ra chuyện gì, Lưu Hoa nói nhỏ, Tào Phi nghe xong không khỏi kinh ngạc - Lưu Bị vẫn chưa chết!
Thì ra tin báo của các tướng ở Ưng Châu có sự nhầm lẫn, ở Lạc Thành đúng là có người trúng tên mất mạng, nhưng người chết không phải Lưu Bị mà chỉ là Trung lang tướng Bàng Thống, quân sư thay Lưu Bị chỉ huy tác chiến.
Lưu Bị không những không chết mà còn lấy được Lạc Thành, bắt giết tướng Thục là Trương Nhiệm. Lạc Thành là tuyến phòng ngự cuối cùng của Thành Đô, thành trì này bị chiếm, phụ tử Lưu Chương chỉ có thể bó tay chịu giam hãm ở Thành Đô; còn các bộ tướng Kinh Châu như Trương Phi, Triệu Vân, Gia Cát Lượng đều đã đưa quân đến, mấy lộ đại quân đồng loạt tiến vào Thành Đô, việc lấy Thục chỉ còn chờ định ngày là xong.
Trên đời có nhiều chuyện như vậy, nếu như không có tin báo sai thì quân Tào vẫn có thể thản nhiên đối mặt, nhưng chính vì tin mừng hão huyền đó khiến cho họ khó mà chấp nhận được sự thật. Nỗi buồn của Tào Tháo không chỉ dừng lại ở đây, ông vốn cho rằng Lưu Bị mà chết thì Tôn Quyền cũng không thể tồn tại, chẳng bao lâu nữa sẽ lấy được thiên hạ, ngoài việc lập thế tử và soán ngôi nhà Hán ra, không còn gì đáng phải suy nghĩ, nhưng giờ nhìn lại, thấy giấc mộng đoạt được thiên hạ vẫn còn xa vời. Hơn nữa một khi diệt được Lưu Chương, cướp được đất Thục, Lưu Bị sẽ cát cứ cả một vùng rộng lớn là Kinh Châu và Ích Châu, phía đông có sông Trường Giang hiểm trở, phía tây đường vào Thục khó khăn, nếu Lưu Bị bắt tay với Tôn Quyền thì đúng là không biết bao giờ thiên hạ mới có thể thống nhất, khi nào Tào Tháo có thể khoác long bào bước lên ngôi vua?
Mọi người đang thở vắn than dài, bỗng một vị quan viên khoảng bốn mươi tuổi nói:
— Chuyện đã đến nước này, rất mong chúa công xét lại quyết định nam chinh…
Tào Phi liếc nhìn người đó, người này họ Dương tên Tuấn, tự là Quý Tài, người Hoạch Gia, Hà Nội, là môn sinh của Biên Nhượng, danh sĩ Trần Lưu đã bị Tào Tháo giết năm xưa. Năm đó, Tào Tháo giết bọn Biên Nhượng, dẫn đến việc Trương Mạc, Trấn Cung tạo phản ở Duyện Châu, có lẽ Tào Tháo có ý muốn bù đắp nên đã chiêu mộ môn sinh của họ là Dương Tuấn làm quan, lại cho làm Mậu tài. Dương Tuấn nhiều năm làm Huyện lệnh, sau làm Thái thú Nam Dương, ông ta cho mở nhiều trường dạy học, công tích không nhỏ; lần nam chinh này, Tào Tháo đích thân bổ nhiệm ông ta làm Chinh nam quân sư, cùng tham gia bàn bạc việc quân.
Chức quân sư hiện nay ngày càng không có giá trị, ngày xưa chỉ có Tuân Du là quân sư, sau này có đến bốn người (Trung quân sư Tuân Du, Tiền quân sư Chung Do, Tả quân sư Lương Mậu, Hữu quân sư Mao Giới), nay nam chinh cũng có quân sư. Tào Phi mặc dù mới chỉ gặp Dương Tuấn mấy lần nhưng rất ác cảm, không phải vì ghét tính cách, tác phong mà vì ông ta xuất thân là văn sĩ, lần nào gặp Tào Tháo cũng nhắc đến thơ phú của Tào Thực rồi khen ngợi, ca tụng, khiến Tào Phi bất mãn. Đặc biệt gần đây Dương Tuấn ngày ngày ở bên cạnh Tào Tháo, nghe nói Tào Tháo còn muốn điều ông ta về Nghiệp Thành để tham dự vào các việc của Thượng thư đài, nên Tào Phi lại càng ghét. Nhưng lúc này thấy Dương Tuấn chủ động đề cập đến chuyện bãi binh, được nhanh chóng trở về Nghiệp Thành bây giờ có khác gì chuyện đại hỷ? Vì vậy Tào Phi không lên tiếng.
Từ lúc chưa ra khỏi Nghiệp Thành, Phó Cán đã dâng thư phản đối nam chinh, dọc đường những tiếng phản đối không ngớt bên tai, Giả Quỳ cũng vì chuyện này mà suýt mất mạng, nhưng vẫn không lay chuyển được Tào Tháo, thế mà câu nói không rõ ràng của Dương Tuấn lại khiến ông động lòng. Lý do không phải vì Dương Tuấn ăn nói khác người mà vì tình thế đã thay đổi - nếu Lưu Bị đã chết thì ông có thể thoải mái đọ sức với Tôn Quyền, đánh vài tháng đến một năm cũng chẳng vấn đề gì; nhưng nay Lưu Bị chưa chết, lại sắp bình định được đất Thục, tình hình không còn giống lúc trước nữa.
Tào Tháo không trả lời Dương Tuấn mà vẫy tay gọi Lưu Hoa:
— Mang quân báo sáng nay đến đây.
— Dạ. - Lưu Hoa tìm đi tìm lại trên án thư mới rút ra một quân báo. Thì ra, từ khi Hạ Hầu Uyên đánh tan được Mã Siêu, Hàn Toại, hợp binh với quân Ung Châu, tình hình Tây Châu khá tốt; còn Trương Ký sau khi nhận chức Thứ sử đã kêu gọi được các bộ lạc Khương, Đê đầu hàng, lại dẫn quân của Hạ Hầu Uyên tiến vào quận Kim Thành ở phía tây, tiêu diệt bọn thổ phỉ Tống Kiến. Thế lực của Tống Kiến không lớn, nhưng ngay từ năm Trung Bình nguyên niên đời Hiếu Linh Đế (năm 184 sau Công nguyên) đã bắt đầu cát cứ, đến nay đã ba mươi năm, tự xưng là Hà Thủ Bình Hán Vương, sau này còn đổi niên hiệu, lập ra bách quan giống như hoàng đế. Có thể trừ khử được tên ngông cuồng này cũng làm hả hê lòng người.
Tào Tháo xem xét cẩn thận quân báo này lần nữa, miệng lẩm bẩm:
— Nay Diệu Tài đã vào Kim Thành, phía bắc Ung Châu không còn gì đáng lo, chỉ còn Hàn Toại vẫn đang nhen nhóm ở Tây Bình, có thể hắn đã liên kết với Đậu Mậu, thủ lĩnh của người Đê ở quận Vũ Đô…
Mặc dù Tào Tháo đang tự lẩm bẩm, nhưng mọi người đều hiểu ông đang nghĩ gì - Đánh đông nam lúc này không quan trọng, mà trước mắt cần phải giữ được tây bắc. Lưu Bị bình định được Thục, nhất định sẽ mưu tính phía bắc, nếu hắn liên kết với Trương Lỗ, Hàn Toại, lại cùng bắt tay với tộc Đê thì đất Ưng Châu khó khăn lắm mới bình định được sẽ lại rơi vào loạn lạc. Điều cấp bách hiện nay là phải dẹp yên nội loạn tây bắc trước khi Lưu Bị hành động, tốt nhất là lấy được Hán Trung, khống chế thế lực của Lưu Bị. Nam chinh e rằng phải biến thành tây chinh rồi!
Suy nghĩ hồi lâu, Tào Tháo mới nói:
— Ở mặt tây Diệu Tài đánh không tồi, ta phải đích thân truyền lệnh, ban thưởng toàn quân. - Nói xong lập tức hạ bút viết: Tống Kiến tạo phản đã ba mươi năm, mà tướng Uyên vừa xuất quân đã tiêu diệt được hắn, uy danh lừng lẫy một vùng Quan Hựu, dù đánh đến đâu cũng chẳng ai cản nổi. Trọng Ni có câu: “Ngô dữ nhĩ bất như dã.”(*)
Tống Kiến cố nhiên ngông cuồng, nhưng chẳng qua cũng chỉ là thổ phỉ một quận, Tào Tháo ca ngợi Hạ Hầu Uyên như vậy, lại còn dẫn lời Khổng Tử để khen, xem ra cũng hơi nói quá. Nhưng giờ ông đang cần danh tiếng, lần nam chinh này vấp phải nhiều dị nghị, nay lại nhận được tin Lưu Bị chưa chết, tin tức này truyền đi sẽ ảnh hưởng tới lòng quân, ông phải dùng cách này để cổ vũ chí khí của quân sĩ, càng phải âm thầm hướng tâm tư của họ về phía tây bắc.
Mọi người nghe xong chiếu lệnh, ai cũng gật đầu. Lưu Hoa xử lý công việc thật khéo, tự biết tìm cho Tào Tháo một lối đi, nói rằng:
— Tống Kiến đã bị tiêu diệt, ở Tây Châu chỉ còn có Mã, Hàn. Mã Siêu cũng đã nương theo Trương Lỗ, Hàn Toại vẫn còn ở Tây Bình, mặc dù lực lượng đã suy yếu nhưng có quan hệ mật thiết với tộc Khương, Đê. Thủ lĩnh người Đê ở quận Vũ Đô là Đậu Mậu lại thường xuyên trao đổi tin tức với Trương Lỗ, tuy bọn chúng chỉ là đám quân ô hợp nhưng số lượng khá đông, nếu không cử đại quân đánh dẹp, e rằng khó diệt được tận gốc.
— Tất nhiên phải cử đại quân chinh phạt. - Tào Tháo theo lời của ông ta, quyết ý chuyển sang tây chinh, - Nhưng trước khi xuất chinh, ta còn phải chặn thế lực của tên lão tặc Hàn Toại. Đội quân thiện chiến nhất dưới trướng hắn đều là thuộc hạ của Diêm Hành, kẻ này trước nay đã luôn có ý chống đối việc nổi loạn. Năm xưa, khi ta xử lý người nhà của chư tướng Quan Trung đã không giết gia quyến của Diêm Hành, mà chỉ tống giam vào ngục. Tốt nhất là gửi thư cho hắn qua bọn tộc Đê đã đầu hàng, nếu có thể khiến hắn quy hàng thì sẽ làm giảm thế lực của Hàn Toại; còn không vẫn có thể khiến Hàn Toại nghi ngờ, cũng là việc hay.
— Chúa công thực tính toán như thần. - Lưu Hoa không quên nịnh một câu.
Sắp xếp xong mọi chuyện, Tào Tháo thở dài.
Dương Tuấn cho rằng bực tức trong lòng Tào Tháo chưa nguôi, bèn khuyên:
— Thiên hạ vốn nhiều chuyện nhiễu nhương, chúng tại hạ sẽ dốc sức sửa trị, xin chúa công chớ nên lo nghĩ nhiều.
Tào Tháo cười nhạt:
— Ta không lo nghĩ vì chuyện của đất Thục, chỉ là đang tiếc thương Tuân Công Đạt.
Mọi người đều cảm thấy ngạc nhiên. Bọn họ bị những chuyện vừa rồi làm cho loạn óc nên quên mất tin buồn mà Ngũ quan tướng mới báo. Giờ nhớ ra, ai nấy đều ngậm ngùi.
Tào Tháo động lòng than rằng:
— Ta và Tuân Công Đạt đã giao thiệp hơn hai mươi năm, ông ta xưa nay chưa tính sai chuyện gì, nay chết đi thật đáng tiếc… - Người chết thì cũng đã chết, không nên tiếc mấy lời tốt đẹp. Tuy những năm gần đây Tào Tháo có nhiều khúc mắc với Tuân Du, nhưng dẫu sao ông ta cũng lập được nhiều công lao, hơn nữa Tuân Du cũng không công khai phản đối ông đoạt lấy xã tắc của nhà Hán, trên danh nghĩa vẫn là Thượng thư lệnh của Ngụy quốc, có thể nói đối với Tào Tháo, Tuân Du không có gì đáng chê trách.
Tào Phi vội vàng khom lưng bẩm tấu:
— Trong quân đã trải lều viếng, phụ thân có muốn đến…
— Tất nhiên ta phải đến viếng. - Tào Tháo không đợi y nói hết, - Các ngươi cũng thay y phục rồi cùng ta đi. Nhà Tuân Công Đạt ít người nhưng lễ tang không được đơn giản, xuề xòa, tổ chức lễ viếng ở đây ba ngày, sau ba ngày ta sẽ đích thân dẫn quân chở linh cữu quy táng. - Mười vạn quân chở lĩnh cữu? Kỳ thực đây chính là bãi binh, ông không muốn nói thẳng ra nên đành mượn cớ đưa linh cữu về.
— Rõ. - Mọi người hành lễ rồi lui ra, giờ đã có thể thở phào nhẹ nhõm, người tính không bằng trời tính, tướng sĩ vốn không muốn nam chinh, cuối cùng cũng được trở về. Nhưng họ không thể thoải mái được lâu vì phải chuẩn bị cho tây chinh, nghĩ đến đất Ưng, Lương xa xôi đã thấy đau đầu váng óc.
Lúc này chỉ có mình Tào Phi vui vẻ, cuối cùng cũng có thể về Nghiệp Thành để thực hiện kế hoạch của mình. Y đang ủ mưu tính kế, chợt nghe phụ thân nói:
— Tử Hoàn, con đi gọi Lư Hồng, Triệu Đạt đến đây, ta có việc dặn dò bọn chúng.
— Dạ? - Tào Phi ngớ người, không biết lại có ai sắp gặp xui xẻo đây.
Tào Tháo nhắm hờ hai mắt suy tư: Dọc đường Triệu Đạt và Lư Hồng đã chèn ép tướng sĩ, gây bao oán hận, không thể để hai tên ưng khuyển này nhúng tay vào việc quân nữa, lúc này ta đang cần sai bọn chúng đến Hứa Đô. Hai con gái của Tào Tháo vào cung sắp được một năm, đã đến lúc ép Phục hậu nhường ngôi…
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9