Books are lighthouses erected in the great sea of time.

E.P. Whipple

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Phạm Thùy Linh
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 29
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:39 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 133
ùy cơ ứng biến, Tào Thực cao hơn một nước cờ
Bổ nhiệm công khanh
Tháng Năm năm Kiến An thứ mười tám, Tào Tháo được tấn phong làm Ngụy Công, được cắt đất ở mười quận Ký Châu để lập quốc. Tháng Bảy mùa thu, xã tắc tông miếu Tào Ngụy xây xong, thờ ba đời tiên tổ Tào Manh, Tào Đằng và Tào Tung, tổ chức lễ cúng tế thái lao(*); cùng tháng đó, thiên tử hạ chiếu bố cáo nạp ba con gái của Tào Tháo làm quý nhân, cử Đại tư nông Vương Ấp, Tông chính Lưu Ngải làm sứ giả đến Nghiệp Thành cầu thân, Tào Tháo đương nhiên vui vẻ phụng chiếu. Nhưng do tuổi tác ba cô con gái của Tào Tháo chênh lệch, nên ông quyết định để Tào Hiến, Tào Tiết vào cung trước, Tào Hoa còn nhỏ, tạm thời ở lại Ngụy quốc với thân phận quý nhân để đợi đến tuổi xuất giá. Tháng Chín, Kim Hổ đài xây xong, Tào Tháo cùng Ngũ quan trung lang tướng Tào Phi, Lâm Tri hầu Tào Thực lên đài duyệt binh, quân sĩ, dân chúng Nghiệp Thành nô nức đi xem, cảnh tượng toát lên vẻ “thay triều đổi đại”.
Sau khi duyệt binh, các nghi lễ tượng trưng cho việc thành lập Ngụy quốc cơ bản kết thúc, tiếp theo là đại lễ phong quan ban chức. Bởi vì tất cả chế độ của “thuộc quốc” đều giống như các chư hầu vương thời đầu nhà Hán, cho nên quan viên đều do Tào Tháo tự bổ nhiệm, thậm chí còn thiết lập cả chức vị Tướng quốc và Liệt khanh, một số duyên lại trong tướng phủ cũng theo đó mà có thêm cơ hội thăng tiến, nên ai ai cũng vui mừng. Nhưng những người muốn leo cao thì nhiều mà chức quan lại có hạn, huống hồ còn không ít nhân sĩ có danh vọng muốn ngồi vào những vị trí quan trọng đó. Tào Tháo nhiều lần đắn đo suy nghĩ, đám liêu thuộc cũng họp bàn nhiều lần, đến tận tháng Mười một mới quyết định việc này.
Ngụy quốc lần đầu phong quan, tạm thời bổ nhiệm lục khanh và chức Thượng thư, Thị trung. Viên Hoán phong làm Lang trung lệnh, cai quản việc bảo vệ Ngụy cung; Quốc Uyên phong làm Thái bộc, phụ trách việc xa giá, nghi trượng; Chung Do phong làm Đại lý, nắm giữ tư pháp, hình ngục; Vương Tu phong làm Đại tư nông, trông coi kho lương, hàng hóa; Vương Lãng phong làm Thiếu phủ, phụ trách chi tiêu cho cung đình; Trình Dục phong làm Vệ úy, phụ trách phòng vệ cửa cung. Được bổ nhiệm lục khanh phải là những người có tài trù hoạch, đức cao vọng trọng, hoặc công thần của Tào doanh, chức trách mặc dù không mấy quan trọng nhưng lại là những tiêu chuẩn chiêu hiền nạp sĩ của Tào quốc. Còn các chức danh tam khanh là Tông chính, Đại hồng lư và Thái thường, vì liên quan đến đặc quyền của thiên tử nên không bổ nhiệm, đấy cũng coi như giữ chút thể diện cho thiên tử nhà Hán.(*)
Tiếp đó bổ nhiệm Tuân Du làm Thượng thư lệnh, xử lý việc triều chính; Lương Mậu làm Phó thượng thư, lĩnh chức Thượng thư bộc xạ; Mao Giới, Thôi Diễm, Thường Lâm, Từ Dịch, Hà Quỳ làm Thượng thư, cùng tham gia việc chính sự. Đây đều là các quan lâu năm, dạn dày kinh nghiệm, trực thuộc có ngũ tào, bao gồm Lại bộ, phụ trách tuyển chọn quan lại; Tả dân, cai quản hộ tịch; Khách tào, quản lễ nghi; Ngũ binh, quản việc binh; Độ chi, quản tài chính.
Sau đó phong cho bốn người là Vương Xán, Đỗ Tập, Vệ Ký, Hòa Hiệp làm Thị trung, tham mưu mọi việc. Người đảm nhiệm chức vụ này không những phải có kiến thức uyên bác mà còn phải được Tào Tháo sủng tín. Ví như Vương Xán, năm Kiến An thứ mười ba mới cùng Lưu Tông hàng Tào Tháo, tuy lai lịch thấp kém nhưng nhờ tài thi phú hơn người mà được ông yêu quý, chưa đầy bốn mươi tuổi đã được xếp vào danh sách các đại quan lập quốc. Ngoài quan lại thuộc Thượng thư đài ra, còn bổ nhiệm thứ tự cấp bậc của hơn mười người làm Nghị lang, Đại phu, Lang trung, đều là những nhân sĩ tài đức hàng đầu.
Tào Tháo còn chính thức xác lập Nghiệp Thành làm quốc đô của nước Ngụy, chia Ngụy quận thành hai bộ đông tây, đều phái một Đô úy quản lý trị an. Nghiệp Thành lệnh Dương Bái bị chê trách nhiều nhất lại không hề bị hỏi thăm, Vương Tu được thăng chức, Triệu Nghiễm là người tính tình ôn hòa, suy nghĩ thấu đáo được phong chức Thái thú Ngụy quận, có lẽ Tào Tháo hy vọng sự cương, nhu của hai người họ sẽ bổ sung cho nhau. Nhưng thú vị nhất phải là việc Tào Tháo quyết định tạm thời không lập chức Tướng quốc, vốn dĩ các quần thần đều cho rằng Đổng Chiêu là người đã bỏ ra nhiều công sức nhất để lập ra nước Ngụy, chức Tướng quốc chắc chắn phải thuộc về Đổng Chiêu, kết quả là ngay cả chức Thượng thư, ông ta cũng tuột mất. Khổng Tử nói “Quá nhiễu bất cập”(*), có thể chính vì Đổng Chiêu dốc quá nhiều công sức giúp Tào Tháo, lại là người chường mặt ra nhiều nhất, cho nên không được ban trọng trách gì!
Việc phong quan đã bố cáo trong thiên hạ, trong đó vinh dự nhất là Chung Do, Vệ Ký, những người khác đã giữ chức lâu ở Quan Đông nên công lao của họ ai cũng đã rõ; Chung, Vệ nhiều năm chỉ huy ở cửa ải Hoằng Nông, có thể coi là một mình một phương. Nay Chung Do được phong Liệt khanh, Vệ Ký được đặt ngang hàng với ba đại thần được Tào Tháo sủng tín là Vương Xán, Đỗ Tập, Hòa Hiệp, đó coi như là sự khẳng định với công lao vất vả bấy lâu của họ.
Từ khi Chung Do đến Nghiệp Thành, bằng hữu và vãn sinh tấp nập đến cửa bái kiến, cả ngày khách khứa nườm nượp, Tào Phi cũng không bỏ lỡ cơ hội đến chung vui. Trưa hôm đó trời xanh mây trắng, y dẫn theo Bào Huân, Lô Dục đến phủ bái kiến. Kể cũng kỳ lạ, phủ đệ ban cho Chung Do lại chính là phủ cũ của Tào Phi, tất cả các phòng xá không thay đổi chút nào, duy có bức hoành đổi từ “Ngũ quan trung lang tướng phủ” thành “Đại lý tự”, gợi lên vẻ cảnh cũ người xưa.
Ngũ quan tướng đến thăm, lính giữ cửa không dám chậm trễ, vội đỡ lấy dây cương trong tay y, cung kính mời ba người vào phủ. Vừa bước qua nhị môn đã nghe thấy tiếng nói cười, nô bộc trong phủ cố ý lấy lòng Tào Phi, còn cách xa tám trượng mà họ đã cao giọng hô lớn “Ngũ quan trung lang tướng tới!…”, tiếng cười nói trong nhà lập tức im bặt, lũ lượt một đám quan lại kéo ra, trẻ có, già có, xếp hàng xuống thềm nghênh đón. Thượng thư lệnh Tuân Du, công tử Tào Bưu, văn sĩ Ứng Cừ đều có mặt, sau màn chào hỏi, mọi người đưa Tào Phi vào trong nhà - hóa ra hôm nay Tào Bưu mang đến rất nhiều hoa quả quý hiếm, thơm ngon tặng Chung Do, vừa hay Tuân Du cũng có ở đấy, nên cùng nhau thưởng thức.
Tào Phi vỗ vai đệ đệ, trêu chọc:
— Người yêu tiền quý bạc như đệ mà cũng có ngày đi tặng quà cho người khác kia đấy.
Tào Bưu thật thà cười nói:
— Huyền ca bệnh, đệ sai người mua ít hoa quả để huynh ấy ăn, số hoa quả còn lại tất nhiên là muốn hiếu kính mấy vị lão thần. - Tây Hương hầu Tào Huyền do Tần thị sinh ra, nay đã đến tuổi trưởng thành, gần đây mắc bệnh.
Chung Do làm quan nhiều năm, rất hiểu lễ nghi, mời Tào Phi ngồi lên phía trên, Tào Phi đâu chịu đồng ý. Chung Do liền sai người kê thêm ghế bên cạnh ghế chủ nhà, rồi mời y ngồi; Bào Huân, Lô Dục biết điều cũng đứng dựa gần cửa, nơi không có ghế ngồi.
Chung Do mời rượu cảm ơn chư vị:
— Lão hủ nhận ân đức của Ngụy Công, được bổ nhiệm làm Liệt khanh đã là may mắn nhất đời. Nay công văn còn chưa xem qua mà đã quấy quả các vị, đúng là không hợp lẽ. Hôm nay coi như bữa rượu cuối, ngày mai lão hủ sẽ thăng đường xử lý công việc. - Chung Do tính cách ôn hòa nhưng lại rất cương nghị, hôm nay thấy Tào Phi, Tào Bưu đều đến, nếu không nhanh chóng đóng cửa miễn tiếp khách thì không biết còn có bao nhiêu công tử nữa tới phủ, tội cấu kết này sao có thể gánh nổi!
Tào Phi sớm đã có dự tính, lần này dẫn theo hai người không phải thân cận là Bào Huân và Lô Dục đến để họ làm chứng, trong lúc chuyện trò không có lời nào mờ ám, nếu có truyền ra ngoài cũng không tổn hại gì. Do vậy, y cười nói:
— Chung công nói thế là chưa phù hợp rồi. Ngài tọa trấn phong nhã thì tốt hơn, thăng đường xử lý công việc có khi lại không hay. Ngài vốn là Đại lý, nắm quyền hình ngục. Các vụ án thường ngày đã có tam quan xử lý, nếu để ngài phải đích thân lên công đường, chẳng phải là đã xảy ra đại án kinh thiên động địa rồi sao? - Mọi người nghe xong đều cười rộ lên.
Chung Do cũng cười nhưng lại ngầm chuyển chủ đề, nhấp một ngụm rượu rồi thuận miệng nói:
— Ứng tiên sinh từ Dự Châu đến, không biết Giang Đông gần đây có động tĩnh gì chăng, không phiền thì có thể kể cho mọi người nghe?
Ứng Cừ là đệ đệ của Ký thất Ứng Sướng, năm nay vừa tròn hai mươi tuổi, mặc dù xuất thân tầm thường nhưng cũng là nhân sĩ có tiếng ở quê nhà Nhữ Nam, thường xuyên đến Nghiệp Thành để thăm huynh trưởng, cũng kết giao được với không ít quan lại quyền quý. Hôm nay hắn đến phủ Chung Do lại tình cờ gặp huynh đệ Tào Phi, cùng nhau uống rượu đã là may mắn lắm rồi, há lại dám nói gì? Nghe Chung Do hỏi vậy, ứng Cừ bèn đứng dậy cung kính đáp:
— Tại hạ mang một tin tức tốt lành đến cho công tử và chư vị đại nhân, hiện nay Giang Đông đang có loạn bên trong. Đồn điền đô úy Tạ Kỳ kết giao với hào sĩ, lấy đại nghĩa kêu gọi các hào kiệt đất Dự Chương như Bành Tài, Lý Ngọc, Vương Hải dấy binh chống lại Tôn Quyền, nghe nói đã tập hợp được hơn vạn người, đang giao chiến kịch liệt với đại tướng Hạ Tề của Tôn Quyền. Đây cũng chính là nhờ đại ân đại đức của Ngụy Công, nên các bậc trung nghĩa trong thiên hạ đều lũ lượt theo về. - Lời này hẳn là có ý xu nịnh, thực ra chỉ là Tạ Kỳ kích động nội chiến ở Giang Đông, những kẻ tạo phản như Bành Tài nào phải trung nghĩa hào kiệt gì, chẳng qua toàn là bọn sơn tặc, thảo khấu. Nhưng bất luận thế nào, chiến lược tiêu hao quân Giang Đông của Tào Tháo dường như đã có hiệu quả.
Bào Huân nói chen vào:
— Cục thế của Kinh Châu và Ích Châu cũng chưa rõ ràng! Lưu Chương dẫn Lưu Bị vào Thục đã lâu, Ích Châu lại không phái sứ giả đến, hiện không rõ hành động. Trong dân gian không ít lời truyền, có người nói hai tên họ Lưu tranh chấp, đấu đá lẫn nhau, có người lại nói đất Thục bên trong hỗn loạn, Lưu Bị đến giúp Lưu Chương dẹp loạn, nhưng cũng có người nói hai tên họ Lưu thông đồng cấu kết với Trương Lỗ, Mã Siêu, có ý chiếm Ung Châu của ta. Đều là những tin truyền miệng, không biết thật giả thế nào.
Tào Phi liếc nhìn Bào Huân, bực mình vì đúng lúc này hắn lại dội cho một gáo nước lạnh. Tuy nhiên Chung Do lại rất chú ý:
— Nếu đúng là Lưu Bị, Trương Lỗ, Mã Siêu cấu kết với nhau thì không hay rồi. Ta nhận lệnh điều động của Ngụy Công, lúc rời khỏi Hoằng Nông cũng đúng lúc Hạ Hầu tướng quân phát binh đi cứu Vi Khang. Tính ra Ký huyện đã bị vây khốn hơn nửa năm, cũng không biết Vi Khang có thể trụ được đến khi có cứu viện không, Hàn Toại lại rục rịch manh động, thật đáng lo ngại! - Nói rồi liếc nhìn Tuân Du.
Tuân Du chưa nói câu nào, nghe những lời này chỉ lặng lẽ cúi đầu. Kể từ khi quan hệ giữa Tuân Úc và Tào Tháo rạn nứt, ông ta hiếm khi bàn luận việc chính sự, sau khi Tuân Úc chết càng không dám nhiều lời. Lần này Tào Tháo phong ông ta làm Thượng thư lệnh chưa chắc đã thật lòng tin cậy, mà chẳng qua là xét lai lịch nên được như thế. Tuân Du sớm đã không còn chí tiến thủ như năm nào, nay lại càng thận trọng hơn nữa. May mà Thượng thư đài còn có Lương Mậu, Mao Giới, Hà Quỳ xử lý công việc, ông ta có đưa ra quyết sách hay không cũng chẳng quan trọng lắm, đến chào Chung Do chẳng qua là vì tình đồng hương. Hơn ba mươi năm trước, danh thần tiên triều Âm Tu nhận chức Thái thú Dĩnh Xuyên, phong Chung Do làm Công tào, Tuân Úc làm Chủ bạ, Tuân Du làm Hiếu liêm, Quách Đồ làm Kế lại. Hôm nay, các bằng hữu cũ đa phần đều đã qua đời, chỉ còn lại Tuân Du và Chung Do, nhân sinh ngắn ngủi như vậy, thử hỏi sao không bùi ngùi?
Tào Bưu cũng không muốn bàn việc quân, địa vị không bằng huynh trưởng, không có tước vị cũng chẳng có chức quan, chỉ là con của trắc thất, ngay cả mấy kẻ tâm phúc bên cạnh cũng không có, vạn nhất nói sai câu nào làm phụ thân không vui, sẽ có kết cục không hay, bèn nhân cơ hội nâng chén mời Ứng Cừ:
— Ứng huynh, tại hạ kính huynh một ly.
Ứng Cừ tỏ vẻ lo sợ khi được mời rượu, vội rời khỏi chỗ ngồi:
— Công tử làm tại hạ tổn thọ rồi.
Tào Bưu lại rất thân thiết, dí dỏm nói:
— Khách sáo cái gì? Ta thân phận bình dân, huynh cũng bình dân mà có thể vào phủ đệ của công khanh kiếm chén rượu là phúc lớn rồi, há lại không ghi nhớ việc này? Ngồi cùng với huynh không biết là vị nào, có thể giới thiệu chăng?
Ứng Cừ xuất thân bình dân nên chỗ ngồi cũng ở hàng sau, lại đến khá sớm, do vậy nhiều người không chú ý đến người bên cạnh hắn là ai, hơn nữa người này biết mình thân phận thấp kém nên cũng không nói câu nào, đột nhiên được Tào Bưu hỏi đến, mọi người mới để ý. Người này vận bộ y phục đen, đầu quấn khăn vải, khuôn mặt to sụ, hơn năm mươi tuổi, cằm đầy râu, lúc nào cũng cười híp mắt, trông chẳng khác gì một tên lái buôn, Ứng Cừ giới thiệu rằng:
— Vị này là Chu Kiến Bình, là đồng hương với công tử, tướng sĩ(*) người Bái Quốc.
Mọi người nghe thấy hai từ “tướng sĩ” đều không nhịn được cười - trong chốn quan trường thường có đám thuật sĩ giang hồ, tự xưng là có khả năng dị thường, có thể đoán được vận mệnh thăng tiến của người khác, miệng thao thao bất tuyệt những điều kỳ lạ, thần bí. Nếu như may mắn đoán trúng thì được ăn được uống, ra vào chốn nhà cao cửa rộng, giở những trò vòi vĩnh, từ đó kiếm chác ít tiền chứ thực sự chẳng có bản lĩnh gì.
Ứng Cừ không biết mọi người cười gì, còn khen ngợi:
— Vừa mới bước vào cổng, Chu tiên sinh đặc biệt chú ý đến tướng mạo của Chung công, lén nói với ta rằng Chung công phú quý trường thọ, sẽ hưởng thọ tám mươi tuổi!
Chung Do không muốn làm hắn mất hứng, nên cúi đầu cười:
— Đa tạ lời may mắn của ngài.
Bào Huân tính tình thẳng thắn, không thích bọn lừa đảo giang hồ, muốn lật tẩy chân tướng của người này, cười khẩy nói:
— Từ khi Vương Mãng mưu đổ phản nghịch cho đến nay, các loại phương thuật như sấm vĩ(*), phong giác(*), tử vi chỗ nào cũng có, còn tạm chấp nhận có vài phần may rủi, duy chỉ có tướng thuật là hoàn toàn lừa gạt, rặt những lời thừa cơ nịnh hót.
Chu Kiến Bình không hề tranh cãi, chỉ mỉm cười không nói. Nhưng Ứng Cừ lại thay ông ta giải thích:
— Những lời vị đại nhân này nói quả không sai, nhưng Chu tiên sinh không phải là thuật sĩ giang hồ, ông ta của cải đầy nhà, gặp người xem tướng là tùy duyên, xưa nay chưa nhận của ai đồng nào, cho nên những lời tiên đoán mười phần thì tám, chín phần là đúng.
— Ồ? Nếu như vậy ắt là Ứng huynh đã mời Chu tiên sinh xem tướng, không biết ngài ấy nói thế nào? - Bào Huân vẫn muốn tìm ra sơ hở.
— Chu tiên sinh nói ta sẽ thọ sáu mươi hai tuổi, trước kia làm quan không hiển đạt, nhưng đến lúc sắp chết sẽ được nhận chức Thường bá. Còn nói một năm trước khi chết, ta sẽ nhìn thấy một con chó trắng đi qua trước nhà, nhưng ngoài ta ra thì không ai nhìn thấy.
Bào Huân nhíu mày: Đúng là tà môn, thế gian vẫn còn những kẻ xem tướng như vậy, làm quan to rồi chết, chẳng phải là đang trù ẻo người ta sao? Nhưng lại nghĩ hắn chỉ cố ý nói ra những lời kỳ bí, Ứng Cừ là đệ đệ của Ứng Sướng, việc làm quan về sau còn khó dự đoán được, đợi Ứng Cừ sáu mươi hai tuổi thì tên họ Chu kia cũng sớm đã xuống mồ rồi, đoán đúng hay sai lúc đó còn ai hỏi tới?
Ứng Cừ tin tưởng không chút nghi ngờ:
— Ông trời coi như cũng công bằng với ta, đến trước khi chết một năm còn cho chó trắng đến thông báo, đến lúc đó ta nhất định sẽ vui vẻ lên đường, hưởng tận phúc phần. Nhưng vừa làm đến Thị trung đã chết thì cũng có chút không cam lòng - Nói xong lại quay ra nói với Chu Kiến Bình, - Bào Thúc Nghiệp tính cách thẳng thắn, lại có đôi phần phong thái của hủ nho, tiên sinh chớ nên để bụng.
Chu Kiến Bình chỉ cười, vuốt râu rồi đáp:
— Tiên sinh cứ yên tâm, ta sẽ không tranh biện với họ Bào kia. Không giấu gì tiên sinh, nhìn tướng mạo người này chắc chắn sẽ đắc tội với quý nhân, chưa chắc đã được chết an lành.
Tào Bưu cảm thấy rất hiếu kỹ, lập tức đứng phắt lên, bước về phía Chu Kiến Bình:
— Chu tiên sinh, nhờ ngài xem tướng giúp, xem ta có thể thọ được bao lâu?
Tào Phi đứng bên cạnh cười:
— Đệ cũng định góp vui đấy à?
Tào Bưu nhanh trí nhưng cẩn trọng, lập tức nói thêm:
— Xem thử cũng không sao, chỉ hỏi xem sống được bao lâu, đệ bất tài vô đức, cũng chẳng cần xem vận công danh.
Tào Phi vừa nhấp ngụm rượu, nghe vậy suýt phun ra ngoài - Tên tiểu tử này bụng dạ ngày càng thâm sâu, biết là dự đoán tước vị sẽ làm cho phụ thân nghi ngờ nhưng vẫn viện được lý do, sau này ta cũng không thể xem thường được!
Chu Kiến Bình chắp tay vái lễ, hốt hoảng đáp:
— Tại hạ chỉ là hạng thảo dân, nào dám mạo phạm công tử?
— Không cần phải chối từ, có gì tiên sinh cứ nói thẳng, hôm nay mọi người tụ họp ở đây, coi như trò giải trí.
— Nếu đã như vậy thì tại hạ nói cho vui, công tử cũng nghe cho vui. - Chu Kiến Bình không quan sát kỹ Tào Bưu, chỉ xem ngũ quan, liền nói, - Công tử sẽ giữ nước chư hầu, đến năm năm mươi bảy tuổi sẽ có họa binh đao, phải phòng bị cẩn thận.
Tào Bưu cũng chẳng buồn nghe xem mình sống được bao nhiêu tuổi, chỉ nghe thấy mấy từ “giữ nước chư hầu” là trong lòng đã nản hẳn. Thực ra y cũng có ý muốn tranh ngôi, nếu không thì hà tất phải cất công đến phủ trọng thần? Ba vị huynh trưởng là Tào Phi, Tào Chương và Tào Thực ở ngôi trên, lớn hơn Tào Bưu một chút là Tào Huyền, nhưng do đang lâm bệnh nên không có hơi sức đâu mà tranh giành, còn các huynh đệ khác hoặc là còn nhỏ, hoặc là tài chí thấp kém, hoặc là thể trạng yếu ớt, cho nên vị trí thứ tư của y cũng được coi là vững vàng. Nhưng đứng thứ tư khó mà xuất đầu lộ diện, trong lòng phụ thân, vị trí của y không cao không thấp, so lên thì kém mà so xuống thì hơn, do vậy cũng không dám biểu lộ dã tâm tranh ngôi đoạt vị. Chỉ khi Tào Phi và Tào Thực hai hổ cắn nhau, một con què một con bị thương, còn Tào Chương không được yêu quý thì lúc đó mới đến lượt y. Nhưng Chu Kiến Bình đã mở miệng nói y “giữ nước chư hầu”, thì dù không đoán tước vị cũng coi như chỉ rõ rồi, nếu được làm thế tử thì sau này há lại phải ra ngoài cai quản nước chư hầu? Việc kế thừa ngôi vị cũng chớ mơ tưởng nữa.
— Thú vị, thú vị. - Chung Do vuốt râu nói, - Chu tiên sinh đã có thể đoán được tuổi thọ của lão già này, cũng phiền xem cho Tuân đại nhân. - Chung Do đã có tính toán, nếu như gã họ Chu này có bản lĩnh đó thì cũng tốt, mà nói mò cũng được, dù sao đã đến đây rồi nên giữ cho hắn chút thể diện, giả thì cũng coi như thật, nếu không khi truyền ra ngoài, lại nói Chung phủ chứa chấp tên lừa đảo giang hồ thì người mất mặt chính là mình!
Tuân Du thấy nhắc đến tên mình, muốn ngăn lại nhưng chuẩn bị mở lời thì lại do dự. Chu Kiến Bình không dám để Tuân Du phải đứng dậy, liền bước đến chỗ của ông ta, bốn mắt nhìn nhau một lúc, đoạn chắp tay nói:
— Tại hạ vô cơ nói xằng, nếu có chỗ nào đắc tội xin đại nhân mở lòng khoan dung.
— Có gì cứ nói. - Tuân Du cũng khá thoải mái.
— Đại nhân không thọ bằng Chung công. - Chu Kiến Bình giơ một ngón tay lên, - Chỉ có thể sống thêm được một tuần(*).
Mọi người đều im lặng, nhưng Tuân Du lại cười xòa:
— Sống được thêm mười năm nữa cũng đã qua tuổi sáu mươi, không phải đoản thọ, ta thấy thế là đủ rồi. - Nói đến đây lại thấy nghi ngờ: Chu Kiến Bình sao không nói thẳng là mười năm, hà tất phải nói một tuần, lại còn giơ một ngón tay lên? Chẳng lẽ… Nghĩ đến đây lại thấy thư thái, dẫu sao thì cũng đang ở thế khó xử, sống thêm được bao lâu nữa cũng chẳng khác gì. Tuân Du quay lại nói với Chung Do, - Trong những bằng hữu tri kỷ trước đây, chỉ còn lại ta và ngài, ta không thọ bằng Nguyên Thường huynh, chuyện sau này phải nhờ Nguyên Thường huynh quan tâm rồi.
Chung Do cho rằng Tuân Du nói đùa, bèn cười lớn:
— Những lời này chỉ nghe cho vui, chớ nên để tâm. Nếu đúng như vậy để ta lo hậu sự cho ngài, quan trọng nhất là mau gả trắc thất A Vụ của ngài đi.
Mọi người đều cười ồ lên. Khi xưa phụ tử Tào Tháo nạp người nhà Viên thị làm thiếp, kéo cả Tuân Du đi, rồi thưởng cho ông ta một tì nữ xinh đẹp tên là A Vụ, đến bây giờ Tuân Du vẫn còn xấu hổ, vội xua tay:
— Chớ lấy làm trò cười nữa!
Tào Phi vẫn đang mải cười thì bỗng thấy Tào Bưu đề nghị:
— Chu tiên sinh, mời tiên sinh xem cho huynh trưởng nhà ta.
Tào Phi định từ chối, nhưng thấy mọi người phụ theo nên cũng không khỏi tò mò, giả bộ ậm ờ:
— Chỉ nên nói tuổi thọ thôi.
Chu Kiến Bình chủ động tiến lên trước hành lễ, sau mới xem tướng. Kể ra cũng lạ, với người khác ông ta chỉ quan sát trong chốc lát, đến khi xem cho Tào Phi thì lại lâu nhất. Chu Kiến Bình hai mắt cụp xuống, nghĩ ngợi hồi lâu mới tươi cười nói:
— Ngũ quan tướng sống đến năm tám mươi tuổi, nhưng năm bốn mươi tuổi sẽ có hạn ách nhỏ, chú ý giữ gìn sẽ không sao.
Tào Phi cười thầm: Cuối cùng đã lộ chân tướng, biết ta thân phận cao quý, nói thọ được bát tuần nhưng lại sợ bị nghi ngờ nên nói bốn mươi tuổi gặp hạn. Phàm đã là người thì tránh sao được bệnh nhẹ hạn nhỏ, sao không nói năm nào mắc bệnh? Tuy bụng nghĩ vậy nhưng lại không tiện vạch trần, chỉ luôn miệng cảm ơn.
Chu Kiến Bình lại nói:
— Số trời mù mịt khó đoán, vừa rồi tại hạ uống hơi quá chén, có đoán đúng hay chăng cũng mong bỏ quá cho.
Ứng Cừ mượn hơi rượu cũng bạo gan, quên cả thân phận của mình, nói lớn rằng:
— Thực ra có thiên mệnh nhưng cũng phụ thuộc vào ý người, chỉ cần các vị công khanh làm nhiều việc thiện, lo gì không trường thọ? Tại hạ những lúc nhàn rỗi có nghe các bậc niên lão ở quê trò chuyện, từ đó viết tạm thành Trường thọ ca, nhân dịp này cũng xin mạn phép ngâm lên để mọi người cùng nghe. - Nói rồi cao giọng ngâm:
Xưa có kẻ đi đường,
Gặp được ba lão nông.
Đều đã ngoài tuổi trăm,
Vẫn cuốc đất làm cỏ.
Bèn dừng lại hỏi thăm,
Làm sao được trường thọ.
Một ông cười híp mắt:
Vì vợ tôi tướng xấu.
Ông bên cạnh tiếp lời:
Chớ để bụng chịu đau.
Ông còn lại đáp rằng:
Không trùm chăn kín đầu.
Bởi kinh nghiệm quý báu,
Cho nên mới sống lâu.(*)
Bài thơ này được viết khá khôi hài, dí dỏm, kể rằng lấy vợ xấu mới chính là bí quyết để trường thọ, khiến cho ai nấy đều vui vẻ. Chu Kiến Bình cũng vuốt râu đùa rằng:
— Xem ra tại hạ đoán Ứng tiên sinh sống đến năm sáu mươi hai tuổi là hơi ít, nếu cứ theo bài thơ này mà phán, có khi lại sống thêm được một năm! - Mọi người lại cười phá lên.
Đang lúc ngà ngà say, nô bộc bỗng dẫn vào một viên quan nhỏ, Tào Phi, Tuân Du đều biết đó chính là nhi tử của Thái thú An Định Quán Khâu Hưng tên Quán Khâu Kiệm, mới được giữ chức Lệnh lại ở trung đài. Quán Khâu Kiệm thần sắc hốt hoảng, hành lễ rồi nói:
— Khải bẩm Chung đại nhân, tây bắc có quân báo khẩn cấp, Ngụy Công mời chư vị đại nhân vào cung nghị sự… Ngũ quan tướng và Tuân đại nhân cũng có mặt ở đây thì tốt quá rồi, mời tất cả vào cung.
Ba người không dám chậm trễ, lập tức đứng dậy, những kẻ khác cũng không tiện lưu lại, đường ai nấy bước. Lúc sắp rời đi Tào Phi cũng không quên lung lạc lòng người, đợi Bào Huân và Lô Dục đi rồi, vội kéo tay Ứng Cừ cười nói:
— Lệnh huynh là thường khách của phủ ta, sau này nếu có thời gian, hãy đến chỗ ta chơi, chúng ta không câu nệ thân phận, cùng nhau nói chuyện thơ ca thì hay biết mấy. - Ứng Cừ nghe vậy thì rất cảm động, liên tục chắp tay vái lễ, khen Ngũ quan tướng hiền minh…
Vừa gần vừa xa
Thật không may, những lo âu của Chung Do về chiến sự Tây Bắc trong lúc trò chuyện lại trở thành sự thực. Ký huyện bị vây hãm đã hơn nửa năm, lương thực trong thành sắp cạn, sứ giả được phái đi cầu viện lại bị Mã Siêu bắt giết, Thứ sử Ung Châu Vi Khang không nghe lời Biệt giá Dương Phụ, đành mở cửa thành đầu hàng để bảo toàn tính mạng. Không ngờ Mã Siêu trở mặt vô tình, lập tức giết chết Vi Khang, tự xưng là Chinh Tây Tướng quân, lĩnh chức Châu mục, giám sát việc quân ở Kinh Châu. Quân cứu viện của Hạ Hầu Uyên cũng gặp nhiều bất lợi, Hàn Toại xúi giục thủ lĩnh Dương Thiên Vạn của Đê tộc vốn đồn binh ở huyện Hưng Quốc tạo phản, thông đồng với Mã Siêu, lại có thuộc hạ của Trương Lỗ là Dương Ngang hỗ trợ, binh mã mấy nơi cùng liên minh chặn đánh quân Tào. Hạ Hầu Uyên vượt đường xa gấp rút cứu viện, trở tay không kịp nên bị bại trận, thiệt hại hơn nghìn quân, đành rút về Trường An. Tin này truyền đến Nghiệp Thành, Tào Tháo vội vàng triệu kiến quần thần, bàn bạc đối sách.
Trong khi Tào Phi cùng hai người vội vàng vào Thính Chính đường thì Mao Giới, Thôi Diễm, Từ Dịch, Giả Hủ, Lương Mậu, Dương Tu sớm đã có mặt, Vương Xán đang đọc quân báo cho mọi người:
— Quân ta bại trận ở tây cương, địch ngày càng ngông cuồng, e rằng thế lực sẽ mạnh lên, mối họa từ vùng Tam Phụ đang lan rộng ra. Ngụy Công ân đức soi rọi, nhìn thấu vạn dặm, khẩn cầu sớm ban lệnh, trừ bỏ nguy nan. Nếu được như vậy sẽ là phúc của thiên hạ, phúc của vạn dân…
— Đủ rồi! - Tào Tháo vừa bực vừa buồn cười, - Diệu Tài biết được mấy chữ, tự nhiên lại viết quân báo kiểu này, đã thua trận còn múa bút văn vở. Chư vị có cao kiến gì không?
Dương Tu cướp lời nói trước:
— Hai tên giặc Mã, Hàn dã tâm không đổi, ta nên phái đại quân nhanh chóng tiêu diệt. Trận chiến năm xưa nên nhổ cỏ tận gốc, chỉ vì tha cho chúng nên mới có họa hôm nay!
Tào Tháo nghe câu này cảm thấy không vui: Lần trước tây chinh do gặp phản loạn nên phải dang dở giữa chừng, nói như vậy chẳng phải là lôi lại chuyện cũ để làm khó ta sao? Từ Dịch và Tào Phi quan hệ thân thiết, liền mở lời:
— Mặc dù Mã, Hàn ngóc đầu nổi dậy, cũng không thể trách năm đó không diệt trừ hậu họa. Lúc đầu Mã, Hàn cậy có các bộ ở Quan Trung, nay lại dựa vào người Khương, Hồ, Đê, hẳn là còn có bộ lạc Đồ Cách của Hung Nô, Trương Lỗ là kẻ cầm đầu đứng sau, chuyện này sớm muộn gì cũng sẽ đến. - Từ Dịch thản nhiên bỏ qua câu nói của Dương Tu.
Kỳ thực lúc này Tào Tháo cũng không còn lòng dạ nào truy hỏi chuyện xưa, chỉ lẩm bẩm:
— Bây giờ là lúc dấy binh sao?
Thôi Diễm cất tiếng:
— Để yên lòng dân, không ngại gian khổ. Từ khi nam chinh trở về đến nay đã được nửanăm, chắc hẳn tướng sĩ cũng đã nghỉ ngơi đầy đủ, may mà Giang Đông vô sự, lúc này dấy binh chỉ chưa đầy một năm tất sẽ đánh tan Mã, Hàn. Mong minh công lấy thiên hạ làm trọng. - Thôi Diễm nói toàn những lời oai phong lẫm liệt, bộ râu rồng cũng rung theo.
Nhưng câu này lại không hợp ý Tào Tháo, Ngụy quốc vừa thành lập chưa đầy nửa năm, cần phải chấn hưng binh mã, nếu không sẽ gây ảnh hưởng xấu và cũng không may mắn. Nhưng tình hình chiến sự như vậy, nếu không đích thân ra trận thì còn có cách nào khác?
Lúc này Lưu Hoa mới xen vào:
— Lời của Thôi công rất có lý, nhưng Hạ Hầu tướng quân binh hùng mã hậu, Mã, Hàn dù có thắng cũng khó đánh thêm trận lớn nữa, dấy binh không nên vội vàng manh động. Hoặc nếu có dấy binh cũng không cần Ngụy Công phải đích thân ra trận, phái một tướng đi thay là được. - Ông ta quan sát sắc mặt của Tào Tháo để dò đoán tâm ý.
Tào Tháo há lại không biết Lưu Hoa gió chiều nào theo chiều ấy? Mặc dù gật đầu nhưng ông vẫn không yên tâm, bèn đưa mắt về phía Chung Do. Chung Do cũng là người dạn dày kinh nghiệm trị lý ở Quan Trung, thông hiểu tình hình thực tế, suy tính một hồi mới nói:
— Thần cho rằng Mã Siêu chưa chắc đã được như ý. Hiện nay, binh lính Mã Siêu nắm trong tay phần lớn là người Khương, Hồ, lại có giặc gạo ở Hán Trung. Những kẻ này không phải người Lương… Ung Châu. - Mười ba châu đã đổi thành chín châu, Lương Châu đã là Ung Châu, nhưng Chung Do quen gọi đã lâu nên khó thay đổi, - Từ lần chinh phạt trước, quân sĩ Quan Tây đã đầu hàng, một là giữ đạo trung hiếu với triều đình, hai là họ là người bản địa, lẽ nào dễ dàng để cho bọn người Khương, Hồ tranh quyền đoạt lợi? Mã Siêu vào Ký huyện đã giết chết Vi Khang, đủ thấy hắn không biết thu phục lòng người, nhân sĩ Lương… Ung Châu hẳn sẽ không nghe theo sự chi phối, lâu ngày tất sẽ sinh nạn từ bên trong…
Cách nghĩ này quả là thấu đáo, Tào Tháo mỉm cười:
— Ngươi nói Lương Châu, Ung Châu gượng quá, nếu không thuận miệng thì đổi lại tên cũ là xong. - Ban đầu, đổi chín châu là để trải đường cho Tào Ngụy dựng nước, nay đã được như ý, biên giới của Ngụy quốc đã được xác lập thì những vùng đất khác của nhà Hán dù gọi thế nào cũng có gì quan trọng? Nói đoạn, Tào Tháo lại nhìn Tuân Du, Giả Hủ, hai người vẫn cúi đầu không nói. Tào Tháo không gọi Tuân Du mà hỏi Giả Hủ, - Văn Hòa có ý kiến gì không?
Giả Hủ cúi đầu:
— Tại hạ tài hèn sức mọn, thực không biết…
— Có gì cứ nói, dù sai cũng không trách tội, thân làm quân mưu lẽ nào lại thoái thác? - Tào Tháo thường trò chuyện với Giả Hủ nên sớm đã hiểu rõ, ông ta chẳng khác gì quả hồ đào, không ép thì sẽ không ra dầu.
— Rõ. - Lúc này Giả Hủ mới chậm rãi nói, - Từ trận Đồng Quan, hai tên giặc Hàn, Mã đã nảy sinh hiềm khích, nay Mã Siêu lại câu kết với Trương Lỗ, Hàn Toại liên minh với người Đê, hai nhà mệnh ai đấy lo. Mặc dù hai bên gặp quân ta thì hợp lực chống cự, nhưng không phải cùng hội cùng thuyền. Hơn nữa, Trương Lỗ có ý chiếm Hán Trung, dùng Mã Siêu làm hậu thuẫn; người Đê lại mưu đồ chuộc lợi để tranh cướp của cải chứ không có ý tranh giành thiên hạ. Đó chỉ là đám quân ô hợp, hơn nữa bách tính gốc Ưng, Kinh không khuất phục thì kéo dài được bao lâu? Theo tại hạ thấy, kế sách hiện nay là đánh càng nhanh thiệt hại càng ít, nếu trì hoãn tất sẽ sinh biến. Trận trước thất bại, giờ nên bổ sung thêm ít binh mã, lại gửi thư dặn dò kỹ càng, xem xét thời cơ mà hành động, trận này tất sẽ thắng.
— Lời của Văn Hòa rất hợp ý ta. - Tào Tháo lệnh cho Vương Xán lập tức gửi thư cho Hạ Hầu Uyên. Tào Tháo biết vị huynh đệ của mình học vấn kém nhưng vẫn nói toàn điều văn vở, đại ý là: Nhà ngươi cứu viện chậm trễ nên mới bại trận, ta vốn định trị tội, nhưng niệm tình kết giao bao năm mà cho ngươi một cơ hội sống. Cấp thêm cho ngươi mấy nghìn binh mã, chớ vội rửa nỗi nhục lần trước, phải chọn đúng thời cơ mới đánh, chớ để thất bại lần nữa!
Sau khi sắp xếp xong mọi chuyện, Tào Tháo mới gằn giọng nói:
— Bại trận cũng không làm ta hận bằng việc Vi Khang phụ lòng ta. Sớm biết hắn là kẻ nhát gan như vậy đã không để hắn nhận chức Thứ sử, chết trong tay Mã Siêu cũng đáng lắm! Hắn được giữ chức này là do Tuân Lệnh quân tiến cử, Lệnh quân đúng là hại ta rồi! - Tuân Úc đã chết rồi, ông vẫn muốn đem tội tiến cử nhầm người đổ vấy lên đầu ông ta, quả là có chút tàn nhẫn. Tuân Du nghe vậy chỉ biết lặng lẽ nín nhịn.
Tào Tháo thấy Tuân Du không nói gì, cũng không buồn nhắc nữa mà chuyển chủ đề:
— Bang quốc mới lập, công việc phức tạp, chức trách cũng nặng nề hơn nhiều, xem ra phải thay đổi đôi chút.
Trên thực tế, do nhà Hán và Ngụy quốc cùng tồn tại, Tào Tháo được phong tước Ngụy Công, nhưng về chức quan vẫn là Thừa tướng nhà Hán, cho nên cấp dưới mới xuất hiện hiện tượng một người kiêm nhiều chức vụ. Ví như Chung Do, chức vụ trong triều đình là Thủ tư lệ hiệu úy, chức vụ ở mạc phủ là Tiền quân sư, nay lại được phong làm Đại lý Ngụy quốc; hay như Trình Dục, được phong quan làm Phấn Vũ Tướng quân, tham mưu việc quân cho Thừa tướng, nay lại được gia phong làm Trung úy Ngụy quốc. Với tình hình hiện nay, Tào Tháo muốn bọn họ từng bước thoát khỏi quan hệ với nhà Hán, từ bề tôi nhà Hán chuyển sang làm quan cho Ngụy quốc. Ngay cả Mao Giới, mặc dù không làm quan cho nhà Hán nhưng ở mạc phủ lại kiêm nhiều chức vụ, Tả quân sư kiêm Đông tào duyện, bây giờ lại là một trong những Thượng thư của Ngụy quốc. Ở tình thế này, Tào Tháo phải bỏ bớt chức trách, chức vụ quan trọng thì ủy phái cho người khác, còn nếu chức trách không nặng thì phải hủy bỏ kiêm nhiệm, bởi vì đã có triều đình Ngụy quốc, những thuộc viên trong mạc phủ sẽ không còn quan trọng nữa, sau khi tinh giản có thể chuyên tâm bồi dưỡng những nhân tài tiếp bước.
Tào Tháo sớm đã có chủ ý:
— Phàm là những người đã làm quan trong cung Tào thì chỉ được kiêm nhiệm không quá một chức vụ trong mạc phủ. Mao Hiếu Tiên sau này chuyên phụ trách việc của Tả quân sư, Đông tào duyên sẽ do Từ Quý Tài kiêm nhiệm, Quý Tài không phải làm Quân mưu tế tửu nữa. Những thuộc lại cùng giữ chức Tế tửu nếu có thể bỏ thì bỏ hết đi, còn người có tài sẽ về trung đài làm Lệnh sử.
— Rõ. - Từ Dịch vâng mệnh.
Tào Phi rất vui mừng: Thôi Diễm vốn coi trọng trưởng tử thì đã ủng hộ mình, còn Mao Giới công bằng không vụ lợi, xét cho cùng cũng không giúp được gì. Nay Mao Giới đổi vị trí cho lão thần Từ Dịch có quan hệ thân cận với mình, sau này cả Đông tào duyện và Tây tào duyện đều có vây cánh của mình, thật thuận tiện biết bao. Nhưng chưa vui mừng được bao lâu lại nghe phụ thân nói:
— Tối qua ta nhận được tin Đinh Xung qua đời, chết vì uống rượu. Cả đời hắn nghiện rượu, thời trẻ từng ngông cuồng nói rằng: cả đời chỉ mong được uống rượu đến chết, không ngờ nay lại đúng như ý nguyện…
Đinh Xung và Tào Tháo vừa là đồng hương vừa là bạn cố giao, đã lập công lớn trong việc nghênh đón thiên tử về đông, tuy từ trước tới nay làm quan nhà Hán nhưng thực ra là tâm phúc của Tào Tháo. Nay đột nhiên say rượu mà chết, về tình về lý Tào Tháo đều thấy đau lòng. Huynh đệ cùng thời lại chết đi một người:
— Sáng nay huynh đệ Đinh Nghi, Đinh Dực vào cung báo tang, nhìn chúng khóc lóc ta rất đau lòng. Nhưng thấy nhi tử của thân hữu đã trưởng thành, cũng được an ủi phần nào. Đinh Nghi vốn giữ chức Lệnh sử trong mạc phủ, ta cũng ít gặp mặt, sáng nay đã quan sát cẩn thận, người này có thể dùng được. Ta đã nhận lời cất nhắc hắn lên làm Tây tào thuộc (cấp phó của Tây tào duyện), còn đệ đệ là Đinh Dực sẽ đảm nhiệm chức cũ của huynh trưởng, ta dặn chúng không cần câu nệ lễ cư tang, đợi làm đám tang cho phụ thân xong thì quay lại nhận chức. Việc này phiền chư vị nhớ giúp. - Nói rồi liếc nhìn Tào Phi, - Khi xưa Đinh Nghi bị mù một mắt, không thể làm con rể của ta, nhưng nay cha nghĩ lại, có gì mà không được, một nam nhi tuấn tú, có tài như thế, cho dù cả hai mắt không nhìn thấy cũng nào có gì không xứng? - Tào Phi gật đầu, không dám nói gì.
Đinh Nghi thăng chức làm phó quan, Đinh Dực cũng được đưa vào mạc phủ, đây không phải tin tốt lành. Tào Phi phiền não: Chẳng trách phụ thân thản nhiên cho Thôi Diễm, Từ Dịch cai quản hai Tào duyện, hóa ra sớm đã sắp xếp chân trong, ý định nhờ vả cũng chớ nghĩ tới nữa! Đang thẫn thờ nghĩ ngợi, lại nghe thấy tiếng cáo từ, các quần thần đến nghị sự đã ra về, y vội vàng nói theo:
— Nhi tử xin cáo lui. - Ra đến ngoài, lại nghe tiếng Giả Hủ nói ở phía sau, - Thuộc hạ có việc, khẩn cầu được tâu riêng với Ngụy Công… - Tào Phi cảm thấy ngạc nhiên, con người này quả là kỳ lạ, xưa nay ít khi mở lời, hôm nay sao thế nhỉ? Y muốn nghe trộm nhưng không dám, đành theo Chung Do, Thôi Diễm ra về.
Lúc này trên điện chỉ còn có Tào Tháo và Giả Hủ. Tào Tháo ngồi trên ngai không hề động đậy, Giả Hủ cúi người cung kính, không ai nói với ai câu gì. Đợi cho Tào Phi và mọi người đi xa hẳn, Giả Hủ mới mở lời:
— Hạ thần không dám nói mình đã già, nhưng thân có bệnh tật, nay xã tắc Ngụy quốc đã được lập, có thể nhìn thấy tương lai thiên hạ ổn định, khẩn cầu Ngụy Công cho thần rút về chốn rừng xanh, an hưởng tuổi già.
Tào Tháo mỉm cười, nói:
— Ngươi thì có bệnh gì?
Giả Hủ đáp:
— Hạ thần cũng không rõ, chỉ là hay cảm thấy hoa mắt chóng mặt, khó thở, trong một năm thì có đến hơn nửa năm không bước được ra khỏi cửa.
— Ha ha ha!… Hay cho việc không bước được ra khỏi cửa, có phải tâm bệnh chăng?
Giả Hủ lập tức quỳ xuống:
— Thiên tử thánh minh khoanh tay trị nước, Ngụy Công hiền năng phò tá trong triều, các công tử đều nhân hiếu, tướng sĩ bách quan phụng mệnh quên mình, dân chúng an cư, còn dư khấu không có gì đáng lo. Hạ thần không lo việc nước, cũng không buồn vì chuyện phú quý, vợ hiền con thảo đều an phận, sao lại mắc tâm bệnh được? - Ông ta thật biết viện cớ, đem cả chuyện công chuyện tư ra cùng một lúc, ai còn bắt bẻ được gì nữa?
— Thật vậy sao? - Tào Tháo phá lên cười, đoạn đưa mắt nhìn Giả Hủ.
Giả Hủ cũng từ từ ngẩng đầu nhìn Tào Tháo:
— Thật sự là vậy, hạ thần đã sống bảy mươi mùa xuân, đã đến lúc tuổi già sức cạn…
Hai người cứ thế nhìn nhau, không ai nói gì, đại điện chìm trong im lặng.
Giả Hủ sao lại không có tâm bệnh? Năm xưa ông ta hiến kế cho Lý Thôi, Quách Dĩ, đưa quân vào Trường An giết chết Vương Doãn, cho đến nay vẫn có người xem ông ta là kẻ cầm đầu gây loạn thiên hạ; trận chiến Uyển Thành, ông ta hiến kế cho Trương Tú làm quân Tào đại bại, trưởng tử của Tào Tháo là Tào Ngang, cháu trai là Tào An Dân, ái tướng Điển Vi đều chết trong trận này. Tội gây họa cho xã tắc, mối thù giết con, cái nào cũng đáng lấy mạng. Tào Tháo càng lớn tuổi, vây cánh càng đông, địa vị được nâng cao, tất cũng thêm kiêu ngạo, hôm nay Tào Tháo chưa tính sổ với Giả Hủ, nhưng khó biết ngày mai sẽ nắng hay mưa. Hơn nữa Tào Phi và Tào Thực ai sẽ kế nghiệp còn chưa ấn định, nếu không cẩn thận bị cuốn vào thì họa phúc khó lường, chẳng phải đây là lúc từ giã sự nghiệp để hưởng cái chết yên lành?
Cách nhìn của Tào Tháo đối với Giả Hủ có nhiều mâu thuẫn. Giả Hủ quả là bậc trí sĩ hiếm có, việc khai quốc phong quan cũng góp công lớn, nhưng ông ta lại là tội đồ của xã tắc. Thực ra, nếu không có chuyện ông ta giúp Lý Thôi đưa quân vào Trường An, thiên tử Lưu Hiệp sao có thể rơi vào tay Tào Tháo, nhưng việc gây họa cho nhà Hán thì không thể đường hoàng tính là công lao khai quốc Tào Ngụy, nếu mà được phong chức to tất sẽ khiến người đời cười chê. Hơn nữa, nỗi đau mất con khắc cốt ghi tâm, sâu thẳm trong lòng Tào Tháo vẫn bất mãn với Giả Hủ. Nhưng Giả Hủ đã giúp Tào Tháo thuyết phục Trương Tú đầu hàng, chỉ rõ huyền cơ trong trận Quan Độ, lại hiến kế tây chinh Đồng Quan, những công lao đó há có thể quên? Phải trọng dụng nhưng không có cách nào trọng dụng, phải hận nhưng hận cũng chẳng xong!
Hai người nhìn nhau là biết đối phương nghĩ gì, họ đều là những bậc sĩ nhân từng trải trong chốn quan trường, nhìn thấu thói đời nóng lạnh nên có thể ngầm hiểu ý nhau.
Phải rất lâu sau, Tào Tháo mới lạnh nhạt đáp:
— Nếu đã có bệnh… thôi thì thuận theo ý ngươi.
— Đa tạ minh công. - Giả Hủ khẽ thở phào nhẹ nhõm.
— Nhưng ngươi không được về quê, dù sao cũng theo ta bao nhiêu năm, sao có thể cứ thế về quê được? - Tào Tháo mỉm cười, - Ta sẽ biểu tấu với thiên tử cho ngươi làm Thái trung đại phu, ngươi cũng không cần tới Hứa Đô để nhận chức, mà cứ ở Nghiệp Thành dưỡng bệnh. Sau này ta gặp chuyện gì khó có thể hỏi ngươi, hoặc nếu ngươi thấy buồn chán thì lại vào cung.
Thái trung đại phu phụ trách việc giải đáp những thắc mắc của thiên tử, nhưng không có chức trách gì cố định, chỉ nghe chiếu chỉ để hành sự, nay Giả Hủ không phải đi Hứa Đô nhận chức, lại không gặp được thiên tử nên cũng chẳng có việc gì để làm, chỉ ngồi không hưởng một ngàn thạch lương. Với thân phận này, Giả Hủ ở lại Nghiệp Thành không phải là quan nước Ngụy hay quan trong mạc phủ, mà có thể coi như là cố vấn riêng của Tào Tháo. Sắp xếp như vậy vừa gần lại vừa xa, vẫn giữ chân được Giả Hủ mà khiến ông ta không phải lo lắng vì việc làm quan, có thể nói là vẹn cả đôi đường.
— Hạ thần đa tạ hậu ân của minh công. - Giả Hủ khấu đầu bái tạ, run rẩy đứng dậy, - Vậy hạ thần xin về nhà dưỡng bệnh…
— Đi đi. - Tào Tháo xua tay.
Giả Hủ chắp tay thi lễ lần nữa:
— Hạ thần cáo lui. - Rồi chậm rãi bước ra khỏi điện.
— Ôi… - Tào Tháo nhìn theo dáng lưng còng của Giả Hủ, nét mặt đăm chiêu, thở dài cảm khái. Nhìn phong thái này, ai có thể đoán đây là nhân vật từng làm rung trời chuyển đất? Cổ nhân thường nói “Quân thần ngộ hợp, thậm vi nan đắc”(*), ban đầu Tào Tháo không tin, nay xem ra quả là không sai. Cho dù yêu mến nhân tài, trọng dụng hiền sĩ đến mấy, cũng còn phải tùy duyên phận.
Tiếp tục phân cao thấp
Diễn biến chiến sự đúng như những gì Chung Do, Giả Hủ dự liệu, Mã Siêu mặc dù đánh hạ Ký huyện nhưng không được lòng nhân sĩ Ung, Kinh. Theo mưu sách của Biệt giá Dương Phụ, bộ tướng Ung Châu đóng quân ở Lịch Thành là Khương Tự dấy binh phản lại Mã Siêu, ngay sau đó Triệu Ngang, Doãn Phụng, Diêu Quỳnh, Khổng Tín, Vương Linh cũng lần lượt hưởng ứng, hợp binh được hơn một vạn quân đóng tại Kỳ Sơn. Mã Siêu nghe được tin này thì nổi cơn đại nộ, lập tức xuất binh đánh dẹp, nhưng không ngờ bộ tướng Lương Khoan, Triệu Cù trấn giữ Ký huyện đã sớm thông đồng với Dương Phụ, đợi Mã Siêu dẫn quân đi khỏi, lập tức đóng cửa thành, đem giết sạch vợ con, thân quyến hơn ba mươi mạng người nhà họ Mã. Mã Siêu vô cùng căm phẫn, nhưng trước sau đều bị tấn công không còn đường thoát, đành chạy đến đầu quân cho Trương Lỗ.
Tình hình phía tây bắc có biến động nhưng không nguy hiểm, năm Kiến An thứ mười chín (năm 214 sau Công nguyên) có thể nói là một năm cát tường, vui vẻ. Ngày thành hôn đã đến, Hứa Đô phái Hoàng môn thị lang, Dịch đình lệnh, Trung thường thị mang sính lễ như xa giá, lụa là đến Nghiệp Thành đón dâu; trao ấn tín của hai quý nhân Tào Hiến và Tào Tiết tại tông miếu Tào Ngụy. Ngụy quốc cử Lang trung lệnh Viên Hoán làm sứ giả đưa dâu, dẫn theo Bác sĩ, Thừa hoàng cứu lệnh (chức quan coi ngựa trong cung Tào) và duyện thuộc lũ lượt kéo đến Hứa Đô, trên đường nườm nượp vấn an sứ giả. Hai quý nhân vào cung, thiên tử lại lệnh cho Ngự sử đại phu Hy Lự dẫn đầu các quan hưởng lương hai nghìn thạch chiêu đãi sứ giả Ngụy quốc. Trên đại điện của hoàng cung, các đại thần Ngụy quốc và công khanh nhà Hán ngồi đối diện nhau, giống như huynh đệ địa vị bình đẳng trong một nước, quả là trong bốn trăm năm tồn tại của nhà Hán cũng chưa từng có “cuộc hội ngộ long trọng” nào hơn thế.
Tào Tháo rất mãn nguyện, ở Nghiệp Thành lại tổ chức lễ tịch điền. Tịch điền bắt nguồn từ lễ chế của nhà Chu, là lễ do thiên tử dẫn đầu tam công chư hầu đích thân cày ruộng, không chỉ nhằm khuyên răn bách tính coi trọng việc nhà nông, mà còn bao gồm cả phần tế lễ. Từ khi nhà Hán ra đời, Hiếu Văn Đế, Hiếu Minh Đế, Hiếu Chương Đế đều cử hành nghi thức này, Tào Tháo bắt chước tất cả chế độ cũ của tiên triều, nên cũng lập đàn tế lễ thần nông vào tháng mạnh xuân (tháng đầu tiên của mùa xuân), dẫn liệt khanh, liệt hầu và các công tử của Ngụy quốc đi cày, sau cùng ban bố giáo lệnh, yêu cầu Thái thú các quận khuyến khích bách tính cày cấy. Lễ ký có viết: “thiên tử tam thôi, tam công ngũ thôi, khanh chư hầu cửu thôi.”(*) Tào Tháo “tuân thủ” lễ pháp, không tế ở đài Nam Giao theo chế độ dành cho thiên tử, mà tế ở đài Đông Giao và cũng theo cấp bậc tam công cày năm luống, liệt khanh như Vương Tu, Vương Lãng hay các công tử như Tào Phi, Tào Thực đều cày chín luống. Mọi người đều khen ngợi Tào Tháo là người có đức, thân là Ngụy Công vẫn giữ đúng lễ tiết của bậc bề tôi nhà Hán, mà hình như quên mất rằng lễ tịch điền chỉ có thiên tử mới được chủ trì, nghi lễ này rõ ràng đã lạm quyền.
Lễ tịch điền kết thúc, cũng đã vào tháng Hai. Lã lãm nói: “Thị nguyệt dã, canh giả thiểu xả, nãi tu hạp phiến, cẩm miếu tất bị. Vô tác đại sự, dĩ phòng nông công.”(*) Ngụy quốc mới được lập, mọi thứ đều mới nên không có gì cần sửa chữa, nhưng phải làm yên lòng dân, không quấy nhiễu việc nông. Tông miếu họ Tào đã xây xong, việc thờ cúng không được thiếu sót, theo lễ chế, tháng Hai phải cúng tế dê non và băng cứng. Hán cung có phòng chuyên để cất giữ băng, Ngụy cung không có nên phải khai thác bảng đá trên sông từ Bắc quận, tiêu tốn nhiều nhân công. Tào Tháo không muốn năm nào cũng thế, bèn nghĩ đến kiến nghị của Tào Thực về việc xây thêm đài, bỗng nảy ra ý tưởng cho đào một giếng sâu ở phía bắc Đồng Tước đài để cất giữ đá lạnh, bên trên xây lầu, lấy tên là “Băng Tỉnh đài”.
Nhưng khó hiểu ở chỗ, Tào Tháo lúc trước tuyên bố việc xây cung sẽ giao cho Tào Thực giám sát, nhưng chuyệnnày đến lúc cuối lại giao cho Tào Phi, còn cho Tào Thực phụ trách kiểm tra việc canh tác ở các quận. Từ khi Tào Phi làm Ngũ quan trung lang tướng, việc quân của đất nước không được làm chủ, nhưng những chuyện như kiểm tra canh tác thì đã phụ trách hai lần, chuyện này sẽ bàn bạc với các quan Kế lại, Công tào do các quận của Ký Châu phái đến, ghi rõ hạng mục đốc thúc nông canh, sau đó tập hợp tình hình canh tác vụ xuân của các nơi viết thành sách giao cho mạc phủ dùng khi tính thuế.
Phụ thân sao lại sắp đặt như vậy? Lúc đầu Tào Phi chưa hiểu, sau khi nhận lệnh về phủ suy ngẫm lại mới ngộ ra: Tam đệ là người phong nhã, không giỏi chính sự; còn ta có nhiều kinh nghiệm giải quyết chính sự, nhưng lại kém đệ ấy về mặt văn chương. Phụ thân cố ý hoán đổi chức trách của hai huynh đệ, đều đánh vào những mặt yếu thường ngày, đây chính là cách để so tài.
Nghĩ kỹ việc này, Tào Phi càng không dám chậm trễ, vội triệu tập Lưu Dực, Tô Lâm, Từ Cán, Hạ Hầu Thượng đến để bàn bạc. Bình thường, khi phủ Ngũ quan trung lang tướng không có việc gì gấp thì đám người này cũng chỉ vào phủ hầu chuyện, đốc thúc chuyện đèn sách của Tào Phi, ít khi phải dùng trí, thế nên nhận nhiệm vụ này ai nấy đều nóng lòng muốn thử sức. Người theo hầu văn chương Tào Phi là Tô Lâm hằng ngày vẫn nghiên cứu cổ văn, ít khi giao Lưu với người khác, Tào Phi cũng không thường xuyên bàn chuyện cùng, có thể coi Tô Lâm nhận bổng lộc để nuôi học vấn cho bản thân, giờ bỗng dưng có đất dụng võ, bèn hồ hởi nói:
— Thời xưa đã có người xây đài trên giếng, quy mô thế nào tại hạ đã biết, để tại hạ cầm bút vẽ phác thảo.
Nhưng Tào Phi lại nói:
— Hình dáng Kim Hổ đài do tam đệ thiết kế, Băng Tỉnh đài ta nhất định tự vẽ, ngươi đứng bên cạnh chỉ cho ta là được.
Bào Huân không khỏi lo lắng:
— Ngụy Công xưa nay luôn coi trọng việc tiết kiệm, hơn nữa giếng băng là thứ thực dụng, không thể quá xa hoa.
Tào Phi cười hắn không hiểu chuyện: Đây là cuộc thi tài nghệ, há có thể qua loa đại khái? Kim Hổ đài có một trăm lẻ tám phòng, Băng Tỉnh đài chỉ có thể hơn, không thể kém!
Xong xuôi thì mỗi người một việc, người tra sách cổ, kẻ hạch toán vật liệu, tập hợp thợ giỏi, bận rộn mất mười mấy ngày mới phác thảo xong. Đài cao tám trượng, có một trăm bốn mươi phòng lớn nhỏ, gỗ tốt làm gác, vách tường sơn đỏ, bậc thang bằng bạch ngọc, mái vòm khắc đầu rồng, đầu rắn, đầu thú; chính giữa xây ba phòng chứa băng, còn giếng băng sâu mười lăm trượng, dùng cất trữ lương thảo, băng đá, muối ăn, than chì, có thể chứa được hơn mười vạn thạch - tập hợp thành kho lương thực, lầu gác liền một khối, đúng là tòa đài đẹp nhất trong ba tòa Đồng Tước đài. Vẽ xong phác thảo, Tào Phi đích thân cầm bản thiết kế trình cho phụ thân, Tào Tháo gật đầu không chỉ ra khuyết điểm nào.
Qua cửa ải thứ nhất, tiếp theo chính là việc xây dựng, Tào Phi sớm đã phân công: Hạ Hầu Thượng từng làm Tư mã trong trung quân, có khả nâng trù bị, do đó phân cho việc tập hợp thợ mộc giỏi, giám sát thi công; Tặc tào(*) Quách Hoài là người Tịnh Châu, phân cho việc tới quận Thượng Đảng chặt gỗ; Lô Dục từng giữ chức Lệnh sử, là người có tài về kinh tế, phân cho giám sát tài toán; Tô Lâm, Lưu Dực, Từ Cán bổ sung những thiếu sót về lễ nghi, phong nhã.
Mỗi người phụ trách một việc, bàn bạc rồi khởi công, Tư Mã Ý mới được bổ nhiệm là Nghị lang có ý ngăn lại:
— Ngụy quốc mới lập, chưa tạo được nhiều ân đức với dân, hơn nữa tháng Hai nông canh, không hợp để xây dựng lâu đài. Nếu lúc này khởi công e rằng sẽ làm trái với lễ tịch điền của Ngụy Công, tất sẽ bị trách tội!
Tào Phi giật mình kinh hãi, lúc này mới hiểu phụ thân đã gài bẫy y; rồi lại nghĩ liệu ông có gài bẫy Tào Thực không? Ngụy quốc mới lập, quan lại các nơi muốn thể hiện tất sẽ khai khống số lượng ruộng đất được khai khẩn, Tào Thực phải kiểm tra từng chỗ một, đúng là khó khăn không ít. Được nhắc nhở về điều này, Tào Phi liền làm chậm lại, mỗi ngày chỉ lệnh cho thợ mộc đo đạc, thiết kế, còn y mang theo Hạ Hầu Thượng đến phủ Biện Bỉnh nhờ chỉ giáo kinh nghiệm. Tào Tháo thấy nhiều ngày đã qua mà chưa khởi công xây dựng, mới hỏi nguyên do, Tào Phi vội đáp do không thể làm trùng vào thời gian nông vụ, quả nhiên Tào Tháo nhìn y với thái độ khác hẳn:
— Con có thể nghĩ đến việc này, hẳn là tiến bộ không ít.
Đợi đến đầu tháng Ba, Tào Phi mới chính thức điều động dân phu, khởi công công trình.
Muốn làm tốt mọi việc, khâu chuẩn bị là vô cùng quan trọng, quả nhiên khi đã tính toán chu đáo thì việc thực hiện sẽ không khó. Hạ Hầu Thượng nhờ có Biện Bỉnh nên đã tập hợp được thợ mộc giỏi, trong đó có Tô Việt là người Ngụy quận vốn rất có tiếng tăm, phân cho chỉ huy đám thợ búa rìu, phát huy được tài cán. Quách Hoài là người Thái Nguyên, Tịnh Châu, phụ thân của ông ta là Quách Uẩn từng giữ chức Thái thú ở Nhạn Môn, vì có mối quan hệ rộng từ quan đến dân, ông ta tự tìm bằng hữu giúp đỡ nên số gỗ kiếm về còn nhiều hơn trăm lần số lượng dân phu vận chuyển; Lô Dục là nhi tử của Lô Thực - Thượng thư tiên triều, nhị huynh gặp phải nạn Khăn Vàng, Lô Dục xuất thân danh môn, đọc nhiều kinh sách nhưng lại rất thực dụng, từng làm Lệnh sử có tiếng ở Trung đài, các công việc thu chi đều đã quá thành thạo; Tô Lâm, Lưu Dực là hai người tham mưu học vấn rất tận tâm, đọc nhiều sách cổ, ngay cả nơi nào trong lầu đài cần chạm khắc hình mỏ diều hâu, bị hí, tì hưu(*) đều có thể phác thảo được; ngay cảBào Huân cũng theo giờ giấc của cấm vệ quân trong cung, ở ngoài cổng để giám sát vật liệu.
Mặc dù đã sắp xếp như vậy nhưng Tào Phi vẫn không dám lơ là, mỗi ngày hai lần sáng tối đều đến vườn phía tây để giám sát, nhiều lúc còn bàn bạc với Tô Việt về việc thi công; hễ có thời gian lại mời các trọng thần trong triều đến xem, nói là nhờ họ chỉ bảo, nhưng thực ra là để họ tuyên dương y đã dốc nhiều tâm sức vào việc này.
Ngoài điều đó ra thì Tào Phi còn có ý muốn nghe ngóng tình hình phía Tào Thực, nhưng kết quả không hề lạc quan, không ngờ đám người chỉ biết múa may ngọn bút như Lưu Trinh, Nhiệm Hỗ khi làm chính sự cũng đâu ra đấy, đặc biệt kẻ theo hầu văn chương cho Tào Thực là Trịnh Mậu, không hổ danh là nhi tử của Trịnh Tần, đệ đệ của Trịnh Hồn, hắn ta vô cùng nhanh nhẹn, đã hỗ trợ cho Tào Thực - vị công tử xưa nay vốn luôn ôn hòa thể hiện được “uy phong” của mình, mắng chửi một lượt Kế lại các huyện, kiểm tra hết lại sổ sách thống kê. Nghe nói, Trịnh Mậu còn đưa ra kiến nghị riêng với Tào Thực, làm thành hai quyển về ruộng đất, một quyển khai không, một quyển thực tế, xem theo thái độ của lão ngài để quyết định nên trình quyển nào, tính toán rất kỹ lưỡng.
Nếu như vậy thì sao phân được cao thấp? Tào Phi quyết định tiếp tục nỗ lực, cần cù để cảm hóa phụ thân, ngày nào cũng ở công trình từ sáng đến tối, hơn nữa những việc phải làm so với hạch toán ban đầu ngày càng nhiều nên y luôn dành thời gian ở tây viên. Thậm chí còn chuẩn bị cả chăn nệm để chuyển đến ở tạm Đồng Tước đài, tinh thần hăng hái không khác gì vua Đại Vũ trị thủy trước đây. Có lẽ do cảm động trước tinh thần đó của Tào Phi mà tiến độ làm việc của thợ thuyền cũng rất nhanh, chưa tới mười ngày đã đào xong giếng băng, móng đài cũng cơ bản hoàn thiện.
Vào một buổi tối, khi nhà nhà đã lên đèn, Tào Phi vẫn còn ở tây viên giám sát công trình, có nội thị đến báo:
— Ngụy Công mời Ngũ quan tướng lập tức vào cung.
Đúng lúc muốn khoe khoang thành tích, Tào Phi vội vàng bàn giao công việc đang làm dở cho Hạ Hầu Thượng, theo nội thị vào cung; nhưng lại thấy Thính Chính đường tối thui, hóa ra Tào Tháo cho triệu y đến hậu điện. Tào Phi đoán phụ thân cho vời đến hậu điện chắc là chuyện nhà, có lẽ sẽ liên quan đến việc lập người kế vị.
Quả như dự đoán, vừa vào đến cửa hậu cung, Tào Phi đã nhìn thấy hai tướng Đoàn Chiêu, Nhậm Phúc đang đứng dưới bậc thềm, Dương Tu cũng đứng bên cạnh, cười nói:
— Ngũ quan trung tướng xin dừng chân, Lâm Tri hầu đang ở trong, Ngụy Công nói ngài đợi một chút.
Có chuyện gì mà gặp từng người một? Tào Phi chưa hiểu sự tình, cũng ngại dò la tin tức từ họ, đành chắp tay đi đi lại lại, đang nghĩ ngợi lung tung, lại nghe thấy tiếng bước chân, Tào Thực dẫn theo hai tên nội thị rảo bước đi ra:
— Tam đệ…
Tào Thực chỉ xua tay:
— Phụ thân phái đệ đi làm việc gấp, không thể chậm trễ. Có thể người cũng có nhiệm vụ cho huynh, huynh mau vào đi. - Nói xong vội vã đi luôn.
Tào Phi càng thêm nghi hoặc, vội vàng vào hậu cung như thể muốn bay đến Hạc Minh điện. Nào ngờ Tào Tháo còn vội hơn:
— Không cần đa lễ, ta có việc gấp. Triều đình phái ba vị Trung úy Hình Trinh, Tả trung lang tướng Dương Tuyên, Yết giả bộc xạ Bùi Mậu đến Nghiệp Thành gia ân cho ta, không ngờ giữa đường bị bệnh… - Tào Phi ngẫm nghĩ, ai bệnh? Chả lẽ cả ba người đều bệnh sao? Tào Tháo cũng không cho y mở miệng hỏi, lại nói tiếp, - Trên đường ăn ở sơ sài, muốn nhanh đến Nghiệp Thành, có lẽ tối nay sẽ vào cung. Khâm sai đến lúc nửa đêm là không đúng phép tắc, nhưng do có người ốm nên cũng không quá câu nệ. Lần này đáng lẽ ta phải đích thân đi đón, nhưng lại có việc không đi được, con mau dẫn theo người đi đến dịch đình ngoài thành thay ta tiếp đãi. Chờ chút ta sai binh lính đi cùng. - Tào Tháo thao thao bất tuyệt một tràng, cuối cùng rút ra một phong thư.
— Vâng. - Tào Phi vội đón lấy bức thư.
Tào Tháo có vẻ rất vội, lại càu nhàu:
— Cũng không biết họ đi cửa tây hay cửa nam, vừa rồi ta có sai Tử Kiến đi đón ở cửa tây, con đi cửa nam, mau đi nhanh! - Lúc này Tào Phi mới biết tại sao Tào Thực lại hoảng hốt như vậy, rồi cũng vội vã cáo lui, hai tên nội thị đã đợi sẵn bên ngoài.
Ra khỏi cung thì trời đã tối đen, Tào Phi không dám chậm trễ, cũng không về phủ lấy ngựa, mượn của vệ binh ba con ngựa và một cây đèn, phi thẳng đến cửa nam. Cửa bắc và cửa nam Nghiệp Thành chỉ cách nhau năm dặm mà tường cung đã chiếm gần một nửa, buổi tối lại vắng vẻ, chớp mắt đã đến Trung Dương môn. Cửa thành sơn màu đen sớm đã đóng im lìm.
Tào Phi thét lớn:
— Ta phụng thư của Ngụy Công ra ngoài làm việc công, mau mở cửa! - Nói xong, y sợ chưa đủ uy phong, bèn nói thêm, - Ta là Ngũ quan trung lang tướng!
— Tham kiến đại nhân. - Một tên lính giữ cửa bước ra nghênh đón.
— Mau mở cửa!
Tên lính này nói:
— Tiểu nhân không dám trái ý đại nhân, nhưng… nhưng tiểu nhân không tự quyết được.
— Ta có thư tay của Ngụy Công!
Hắn liền quỳ xuống:
— Khải bẩm đại nhân, hôm nay Dương Huyện lệnh và Thành môn hiệu úy đều có lệnh truyền đến, cho dù là ai cũng không được mở cửa.
Tào Phi trợn mắt:
— Có thư tay của Ngụy Công như có lão ngài ở đây, ngươi dám không theo?
— Tiểu nhân thực không dám tự quyết…
— Vậy mau gọi người có thể quyết ra đây! - Tào Phi không muốn phí lời với hắn.
Tên lính vội chạy lên thành, lát sau có một tên binh trưởng đi đến, cũng vẫn nói y như vậy, Tào Phi uy hiếp thế nào cũng không có tác dụng. Cuối cùng tên binh trưởng nói như sắp khóc:
— Ngũ quan tướng minh xét, Dương Huyện lệnh và Thành môn hiệu úy cũng nhận giáo lệnh của Ngụy Công, nếu tiểu nhân mở cửa thì cái đầu này không còn! Hơn nữa, ngài đi nghênh giá lại chỉ mang theo có hai người, tối muộn thế này cũng không an toàn. Tiểu nhân khuyên ngài hãy về cung hỏi rõ ngọn ngành, để Thành môn hiệu úy mở lời, tiểu nhân sẽ lập tức mở cửa.
Nghe vậy Tào Phi cũng nguôi giận, trong lòng thầm nghĩ: Hẳn là ban ngày phụ thân đã hạ lệnh không cho mở cửa, nhiều việc quá nên quên. Hơn nữa, Dương Bái là tên ma đầu phiền phức, chấp pháp như sơn, quân sĩ vì quá sợ hắn nên mới như vậy. Nếu cứ thế này trở về thì sẽ bị khiển trách, chi bằng ta nghĩ cách khác, cứ tìm Thành môn hiệu úy nói rõ là được.
Nghĩ đến đây, y cũng chẳng trách cứ tên binh trưởng nữa, lập tức phi ngựa theo hướng tây, nháy mắt đã tới Phượng Dương môn, nhưng binh lính vẫn từ chối như ở Trung Dương môn, lại còn không tìm thấy Thành môn hiệu úy, đến binh trưởng cũng chẳng xuất hiện. Tào Phi lo túa mồ hôi, lại chạy về phía đông, định đến Quảng Dương môn xem thử, chưa đi được vài bước, đột nhiên có người đón đường:
— Phía trước có phải Ngũ quan tướng?
Trời tối nhìn không rõ, nhưng Tào Phi nghe ra giọng của Nhậm Phúc:
— Phụ thân ta sai ngươi đi truyền lệnh mở cửa phải không?
— Ây dà!… - Nhậm Phúc thở dài, không dám thất lễ, liền xoay người xuống ngựa, - Chúa công sai mạt tướng đến nói với ngài, không cần đi nghênh giá nữa, ngài có thể về phủ.
Tào Phi nghe vậy cảm thấy nhẹ nhõm, phá lên cười rồi xuống ngựa:
— Ta đang lo lắng vì chuyện này, giờ thì tốt rồi. Tam đệ thế nào?
Nhậm Phúc giọng không mấy thiện cảm, đáp:
— Lâm Tri hầu bị chặn, lệnh cho nội thị giết luôn tên lính giữ tây môn, tự mình mở cửa thành ra ngoài.
— Ồ! - Tào Phi kinh ngạc, - Sao tam đệ lại tức giận thế? - Nói xong lại cảm thấy buồn cười: Phụ thân đã truyền lệnh không cần đi, tên lính đó đúng là chết oan uổng, tam đệ hành xử như vậy e rằng sẽ gây thù chuốc oán với Dương Bái.
Nào ngờ Nhậm Phúc liếc nhìn y, vẻ mặt tiếc nuối, liên tục lắc đầu. Do có ánh đèn nên Tào Phi nhìn thấy rõ:
— Nhậm huynh, rốt cuộc xảy ra chuyện gì?
— Không có gì. - Nhậm Phúc toan quay người đi.
Tào Phi càng thấy có điều không ổn, chuyện tối nay đúng là kỳ quặc, liền ngăn lại:
— Giữa chúng ta không thể nói hết ra sao?
Nhậm Phúc rơi vào thế bí, chuyện này Tào Tháo đã dặn không được để lộ, nhưng tộc muội của Nhậm Phúc lại gả cho Tào Phi, một người làm quan cả họ được nhờ, cuối cùng đành nói bâng quơ rằng:
— Ngài đã phụng thư của Ngụy công, sao còn bỏ dở giữa chừng?
Tào Phi nghe thấy câu này, giật mình tỉnh ngộ: Đó chỉ là cách phụ thân thử tài ứng biến của mình! Làm gì có chuyện khâm sai bị bệnh giữa đường, nửa đêm vào thành? Sao lại trùng hợp với việc ban ngày có lệnh không mở cửa thành? Rõ ràng là đã sắp đặt trước, đây hẳn là cố ý thử tài của hai huynh đệ ta. Một tên lính thì có nghĩa lý gì đâu, phụ thân nào có để ý gì đến mấy mạng người đó, nếu đây là việc quân cấp bách thì sao có thể chậm trễ? Sao ta có thể hồ đồ như vậy chứ? Tự dưng lại thua tam đệ… Không được! Tuyệt đối không được!
— Bây giờ ta sẽ về cung xin chịu tội với phụ thân!
— Không cần nữa. - Nhậm Phúc mặt mày nhăn nhó nhảy lên lưng ngựa, - Chúa công dặn rằng trời đã tối, các ngài nên về phủ nghỉ ngơi, chúa công không gặp ai đâu. - Nói rồi vẫy hai tên nội thị cầm đèn đi.
Tào Phi buông thõng cánh tay, bức thư rơi xuống đất mà vẫn không hay biết, thẫn thờ đứng trong bóng đêm…
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9