Người ta không đánh giá tôi bởi số lần tôi vấp ngã mà là những lần tôi thành công. Bởi thành công đó chính là những lần tôi thất bại nhưng không bỏ cuộc.

Tom Hopkins

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Phạm Thùy Linh
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 29
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:39 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 130
am chinh khó khăn, Tào Tháo thở dài bất lực
Liên tục gặp trở ngại
Thủy quân phương bắc đến được Trường Giang không hề dễ dàng, tuy hơn mười năm nay Tào Tháo đã mở rộng, cải tạo đường sông, nhưng để một đội thuyền hùng hậu kéo xuống phương nam thì không phải dễ. Đội quân chính quy của Tào Tháo xuất phát từ Nghiệp Thành, qua Bạch Câu, tiến vào Hoàng Hà, hội hợp với thủy quân Thanh Châu đến từ Bột Hải, sau đó vượt qua kênh Lang Đãng, từ Qua Thủy vào sông Hoài, lại đi đến Phì Thủy, qua đất Thọ Xuân, Hợp Phì, vượt Sào Hổ, vào sông Nhu Tu mới có thể đến được Trường Giang. Thuyền chỉ chở các binh sĩ và đồ quân nhu nên không mấy phức tạp, tuy nhiên do đường đi quanh co, khúc khuỷu nên thủy quân di chuyển chậm, lại thêm mùa đông nước cạn, lòng sông hẹp, phải chờ đến đầu xuân thuyền mới di chuyển được, do đó đến chậm một bước.
Thanh thế của đội thủy quân này rất lớn, cờ quạt san sát, buồm giáng như mây, thuyền lớn thuyền nhỏ dày đặc xếp dài bên bờ sông, tướng sĩ quân Tào trông thấy thủy quân đến thì tâm trạng phấn chấn hẳn lên. Đội tuyển uy phong nhất thuộc thủy quân Thanh Châu, năm xưa Tào Tháo bại trận Xích Bích, đã bí mật lệnh cho bộ quân Thanh Châu điều động, tập trung các tướng sĩ có tài thủy chiến ngày đêm miệt mài luyện tập. Đội quân này được huấn luyện trên biển, trực tiếp đương đầu với sóng to gió lớn, không chỉ dũng cảm thiện chiến mà còn có thể điều khiển tàu bè nhẹ nhàng thuần thục, từ tướng quân cho đến binh sĩ ai cũng chèo thuyền như bay, bẻ lái điêu nghệ.
Tang Bá dẫn bộ binh trợ chiến đi trước, thống soái thủy quân là Tôn Quan. Tào Tháo muốn thể hiện uy phong, động viên chúng sĩ nên đích thân dẫn đầu các quan văn võ đến bờ sông khao thủy quân. Tôn Quan ưỡn bụng to tròn, từ xa nhìn thấy đại giá liền nhảy từ trên thuyền lên bờ trước tiên, quỳ xuống hô to:
— Hạ thần Tôn Anh Tử xin khấu đầu trước Thừa tướng! - Hắn xuất thân thấp kém, sức khỏe như trâu, tướng mạo hung dữ nhưng rất mực trung thành, quy hàng Tào Tháo mười mấy năm nay, được giữ chức quận tướng nhưng vẫn không bỏ tên gọi hồi còn làm thổ phỉ.
Tào Tháo rất quý mến, bước lên trước đỡ dậy nhưng Tôn Quan dập đầu ba lần mới đứng lên, đột nhiên ngẩng đầu lên nhìn, không ngừng xuýt xoa:
— Chao ôi! Mấy năm không gặp, Thừa tướng ngày càng già đi, râu đã bạc phơ cả rồi!
Nếu là kẻ khác nói ra những câu này, Tào Tháo nhất định sẽ cho một bạt tai, nhưng biết Tôn Quan tính tình bộc trực, mau mồm mau miệng, Tào Tháo chỉ cười gượng nói:
— Thiên hạ này, có người nào không già?
— Thấy ngài gầy đi nhiều quá, mạt tướng rất đau lòng... - Tôn Quan tuy to béo, thô lỗ nhưng rất chân thành, nói những lời này hai mắt đã đỏ hoe.
Tào Tháo cảm kích trước tấm lòng của hắn, chậm rãi vỗ vai nói:
— Lần này nếu đánh thắng Giang Đông, bắt được Tôn Quyền thì bình định thiên hạ chỉ là chuyện trong ngày một ngày hai, chúng ta sẽ cùng nhau hưởng phú quý, lo gì già lão? Trước đại chiến chớ nên nói những lời lâm ly.
— Ngài nói đúng! Là do cái miệng thối của mạt tướng! - Tôn Quan vội vàng gạt nước mắt, tát thật mạnh lên má. Tay hắn vừa to vừa khỏe, trên mặt hằn rõ năm đầu ngón tay.
Các quan văn võ ban đầu còn thấy hứng thú, nhưng nhìn thấy cảnh này lại lấy làm lạ - Đúng là một tên hung hãn!
Lúc này các tướng lĩnh thủy quân đều ra bái kiến, Tôn Quan cũng lần lượt giới thiệu. Chu Diệu, Quản Dung, Lý Thư, Trương Thiệp đều nắm trong tay hàng trăm chiến thuyền, trực tiếp chỉ huy tác chiến. Bốn tướng này kẻ nào kẻ nấy mặt đầy râu ria, tướng mạo xấu xí, ăn nói thô lỗ nhưng dáng vóc lực lưỡng, rất có uy phong, nhất là cánh tay của họ còn to hơn cả bắp đùi những người khác, vừa nhìn cũng biết là do nhiều năm chèo thuyền, lăn lộn trên biển. Các quan văn võ nhìn trận thế này cũng đã đoán ra tám chín phần: Tôn Anh Tử vốn là thảo khấu, đám người này xuất thân không rõ ở đâu, e rằng đều là hải tặc.
Tào Tháo quan sát cử chỉ, lời nói của họ há còn chưa hiểu rõ? Nhưng lúc lâm trận phải cần đến đám giặc này, nên ông chẳng những không bóc mẽ mà còn luôn miệng khen rằng:
— Quả nhiên đều là những anh hùng! Lão phu cùng các ngươi lên thuyền, quan sát động tĩnh của quân địch.
Thừa tướng bước lên thuyền, các quan văn võ cũng lên theo, trong lòng ai nấy đều thầm cười - Đây đúng là bước lên thuyền giặc rồi.
Thủy quân Thanh Châu chiến thuyền không lớn, đa số đều nhỏ và dài, cho dù sóng to gió lớn thì các binh sĩ vẫn di chuyển dễ dàng như đi trên cạn, hầu như không thấy lắc lư. Bọn họ ở trên biển lâu ngày thành quen, chút sóng gió trên sông nào có hề hấn gì. Tuy nhiên, những binh sĩ này không hiểu lễ nghĩa, chẳng biết tôn ti, nhìn thấy đại quan lên thuyền nhưng người nào vẫn làm việc nấy, có kẻ tựa vào mạn thuyền ngâm nga hát, có người tay cầm cần câu giết thời gian, có kẻ lại quỳ trên khoang tàu mài dao. Chu Diệu phải thét to một tiếng mới dẹp được quân sĩ sang bên, nhưng bản thân hắn cũng không biết phải tiếp đãi Thừa tướng thế nào, bèn dẫn đến chỗ cột buồm, vén chiến bào ra sức lau, rồi chắp tay:
— Xin mời Thừa tướng.
Tào Tháo tay nắm lấy cột buồm ở phía mạn thuyền, phóng mắt nhìn sang bờ đối diện - Mấy ngày nay Tào Tháo đã nhìn không biết bao lần, nói là muốn cùng chư tướng quan sát quân địch, nhưng kỳ thực là muốn nghe đối sách của bốn tướng. Tình hình bên Giang Đông khác xa so với quân Tào, Tôn Quyền cho rằng cửa Nhu Tu là trọng trấn tấn công và phòng ngự, nên một năm trước đã cho dựng xưởng đóng tàu, lại cho đóng đinh lũy dọc bờ sông, tấn công chắc chắn không dễ dàng gì. Tào Tháo không có bụng dạ nào để xem cảnh này, đang muốn hỏi kế sách bốn tướng, đột nhiên sau lưng vang lên tiếng cười, bèn quay lại hỏi:
— Ngươi cười cái gì?
Chu Diệu chỉ về phía chiếc thuyền năm lầu của Đổng Tập, cười nói:
— Tên nhãi ranh Tôn Quyền có ý làm chuyện huyễn hoặc. Từ trước đến nay, thuyền nhiều nhất cũng chỉ có đến ba tầng, đóng tàu to như vậy, đi lại chậm chậm lại hao tổn binh lực, muốn dọa hổ hay dọa người đều không thành, mà có đánh nhau cũng sẽ chẳng dùng đến. Mời Thừa tướng nhìn, con thuyền đó quá cao, trời yên biển lặng mà còn lắc lư như thế, nếu gặp mưa to gió lớn, có khi chúng ta chưa cần động thủ, nó đã tự lật rồi!
— Ha ha ha!... - Lời này làm cho Quản Dung, Trương Thiệp và những người khác đều ngửa mặt cười lớn.
Gần đây, Tào Tháo luôn vì con thuyền này mà lo sợ bất an, nghe Chu Diệu nói vậy, ông nghĩ lại cả đời mình tuy chỉ đánh được mấy trận thủy chiến, nhưng cũng đã đọc qua sách sử, chưa từng nghe nói chiến thuyền năm lầu bao giờ, nên trong lòng cảm thấy an tâm hơn đôi chút, lại nói vài lời xem trọng mấy tên hải tặc này:
— Lời tướng quân nói có lý lắm, nhưng Tôn Quyền đã bố trí lâu như vậy, có khi là một kế sách để đánh quân ta.
— Thừa tướng xin chớ lo. - Quản Dung cao giọng, - Lũ giặc tép riu đó có gì phải sợ? Không cần nghĩ nhiều, mạt tướng đã có chủ ý!
Tào Tháo không khỏi kinh ngạc:
— Thật sao?
Quản Dung cười hì hì rồi chỉ tay về phía thượng du cách đó vài dặm, nói rằng:
— Ngài nhìn xem! Bên kia có một hòn đảo giữa sông, cách bờ địch đóng không xa. Đêm nay chúng ta đến chiếm lấy nó, thuyền mạt tướng cập bờ thì Thừa tướng phát binh theo sau, ta lên đó lập doanh trại, công sự. Đợi khi hai bên giao chiến, Thừa tướng phái thuyền lầu và chiến thuyền của ta tấn công thuyền địch từ phía chính diện, mạt tướng sẽ từ trên đảo dẫn theo các thuyền nhẹ xuôi dòng đi xuống, tấn công vào trận địch chém tướng cướp thuyền, lại có thêm huynh đệ đóng ở trên đảo bắn cung nỏ yểm trợ, nhất định sẽ đánh cho Tôn Quyền sợ chết khiếp, kêu cha khóc mẹ.
Chiếm giữ các hòn đảo chính là mánh khóe xưa nay của bọn hải tặc, Quản Dung vốn đã tinh thông ngón nghề này nên tuôn luôn một tràng.
— Kế này của Quản tướng quân có được không? - Tào Tháo quay đầu nhìn Hòa Hiệp, Lưu Hoa, các mưu sĩ đều không trả lời. Bọn họ không thông thuộc thủy chiến nên cũng không rõ việc này.
— Đương nhiên là được! - Quản Dung vỗ ngực, nói vẻ tự tin, - Mạt tướng từ nhỏ đã tung hoành trên biển, thân trải trăm trận, cách này nhất định dùng được. - Quản Thừa, người cùng tộc với hắn là một tên trùm hải tặc khét tiếng vùng duyên hải Thanh, Từ, lúc vàng son nhất có hơn ba nghìn quân, đã từng cùng với Thái thú Liêu Đông công Tôn Khang đối đầu với Tào Tháo, sau khi thua trận quy hàng triều đình, Quản Dung cũng đầu quân vào đội quân thủy Thanh Châu.
— Đúng vậy! - Lý Thư cũng hùa theo, - Phá được thuyền địch là có thể lên bờ, xông vào tận sào huyệt của chúng, đến lúc đó mạt tướng xin lĩnh ấn tiên phong, một mình một đao, cắt đầu lũ giặc man di đó đem về!
Tào Tháo cũng không thèm để ý đến câu nói thô tục của hắn, cúi đầu suy nghĩ: Binh pháp đã dạy “Hiểm hình giả, ngã tiên cư chi, tất cư cao dương dĩ đới địch”,(*) ở trên bộ dụng binh cũng phải dựa vào lợi thế của địa hình, thủy chiến có lẽ cũng như vậy. Ông nghĩ vậy nên cho rằng lời của họ cũng có lý, liền gật đầu:
— Cao minh! Các vị quả là những người thông thạo thủy chiến, xin cùng lão phu về trại, chúng ta sẽ bàn bạc kỹ lưỡng kế sách xuất binh.
— Còn phải bàn gì nữa? - Trương Thiệp trừng mắt, giậm chân nói, - Tối nay bọn mạt tướng xuất binh chiếm đảo, sáng mai sẽ đánh thẳng vào trận địch, ngày kia ắt sẽ mang đầu giặc về!
Các quan văn võ nghe vậy thì không nhịn được cười - Há có thể dễ dàng thế được? Nếu chỉ trong ba ngày là có thể đánh bại được quân Ngô thì bấy lâu nay chúng ta đều uổng công vô ích sao?
Tào Tháo cũng buồn cười:
— Khí khái của Trương tướng quân quả đáng khen ngợi, nhưng cần tránh cái lợi trước mắt. Việc dụng binh can hệ đến thắng thua, há có thể ngạo mạn?
Trương Thiệp ngẩn người ra không đáp, quay lại thét lớn với bộ hạ:
— Các huynh đệ! Chúng ta chịu đại ơn đại đức của Thừa tướng, dốc sức vì triều đình, trên để báo đáp ân nghĩa, dưới để cơm no rượu say. Việc quân cấp bách cần xông pha khói lửa, các huynh đệ có dám liều mạng một phen?
Hải tặc có quy định riêng, điều đại kỵ trên thuyền là đồng đảng xung đột lẫn nhau, do đó thuyền trưởng nói một là một, hai là hai, điều này xưa nay luôn được bọn họ tôn trọng. Đám binh sĩ này đều là thủ hạ của bốn tướng hải tặc, nghe thấy những lời này của đại ca, tất cả lập tức dừng mọi việc đang làm, đồng thanh đáp:
— Dám!
Trương Thiệp vẫn chưa thôi:
— Các ngươi nói to lên cho ta! Ta hỏi lại lần nữa, có dám xông pha khói lửa không?
— Dám!...
Tiếng hô vang vọng khắp trời đất, làm các thuyền nhỏ xung quanh cũng phải dập dềnh; ngay cả thuyền tuần tra của địch cũng nghe thấy, còn cho rằng quân binh mã của Tào Tháo định tấn công. Vội vàng quay thuyền, cố sống cố chết chèo vào bờ.
Tào Tháo cũng dao động trước khí thế hăng hái của đám hải tặc, lại nghĩ: Thủy quân vừa mới đến, nếu đêm nay hành động, quân của Tôn Quyền sẽ không kịp phòng ngự, hơn nữa lời của mấy tên tướng kia cũng có lý, tập kích bất ngờ chưa hẳn đã không phải kế hay, cho dù không thắng thì rút về cũng không sao. Nghĩ đến đây, Tháo quyết định:
— Được, nếu bốn vị tướng quân đã có ý quyết chiến thì sẽ theo ý của các vị. Canh hai đêm nay xuất phát, các vị thống lĩnh thủy quân Thanh Châu đi trước, lão phu sẽ phái ba nghìn tinh binh cùng quân nhu theo sau. Nếu thuận lợi sẽ lên bờ đóng trại; nếu không thuận lợi lập tức rút lui, không được tùy tiện ứng chiến làm giảm nhuệ khí quân ta.
Chu Diệu xua tay:
— Thừa tướng yên tâm, mạt tướng đoán sẽ chẳng có chuyện gì đâu!
— Việc cướp đảo lên bờ khác gì nhổ râu miệng cọp, lão phu sẽ ban thưởng rượu thịt để khích lệ tướng sĩ.
Quản Dung hùng dũng nói:
— Không có công nào dám nhận lộc, đợi đánh bại Tôn Quyền, đạp bằng Giang Đông, chúng mạt tướng sẽ cùng Thừa tướng uống suốt ba ngày!
— Ha ha ha!... - Tào Tháo cười lớn, - Tướng quân đúng là trang hảo hán!
Tào Tháo nghe theo, chấp nhận kế chiếm đảo của bốn tướng Thanh Châu. Mọi việc bố trí đâu vào đấy, canh một nửa đêm ăn cơm, canh hai xuất phát. Bốn tướng Chu, Quản, Lý, Trương dẫn đầu binh sĩ, mỗi người một thuyền dẫn đường, hơn nghìn chiến thuyền khác theo sau, trên thuyền không chỉ chở ba nghìn tinh binh mà còn có quân nhu, lương thực, lều bạt và các vật dụng đóng trại.
Đêm hôm đó bầu trời âm u, không có ánh tráng, trời yên biển lặng, bốn bề tĩnh mịch không một tiếng động. Bờ bắc sông Trường Giang đèn đuốc tối thui, không khí nặng nề. Thực ra, Tào Tháo đã cùng cận vệ trèo lên núi cao để quan sát toàn cục. Nhưng trời và biển đều một màu đen sì, tĩnh lặng như tờ, không gian vô hạn, không phân biệt nổi đâu là sông đâu là bờ, chỉ có lác đác ánh sáng phát ra từ mấy đốm lửa đong đưa ở phía tây bắc - Lúc xuất quân, Tào Tháo hạ lệnh cách một thuyền đốt một ngọn đuốc, nối đuôi nhau tiến vào, như vậy cho dù quân địch có phát hiện ra thì cũng tưởng rằng đây chỉ là một con thuyền xích mã(*) của quân Tào.
Từ doanh trại của Tào Tháo đến đảo phải đi ngược dòng, nhưng thủy quân Thanh Châu đều là các tay lái thiện nghệ, chút sóng gió này đâu có nhằm nhò? Ai cũng cảm thấy mình dư sức, chèo thuyền như bay, tranh nhau lên trước, không thèm để ý đến lời dặn dò của Tào Tháo, không lâu sau đoàn thuyền biến thành cảnh tượng trăm đầu đua nhau tiến lên. Giang Đông cũng có thuyền xích mã, nhìn thấy cảnh này há lại không hoài nghi? Chẳng mấy chốc đã có hơn chục chiếc thuyền từ phía đối diện lao tới.
Quản Dung, Lý Thư đi đầu thấy còn cách đảo không xa, mấy tên giặc này lẽ nào lại chịu từ bỏ? Quản Dung tay cầm đại đao, quay lại thét lớn:
— Quân giặc đang đến, xông lên diệt hết chúng đi!
Vừa nói dứt lời, các chiến thuyền phía sau đều hưởng ứng, đám lính hải tặc tính cách ngang tàng, lại tự phụ muốn được ban thưởng nến nôn nóng lập công, vội vàng châm đuốc, nhằm thẳng chiến thuyền Giang Đông mà đánh. Quân Ngô nhìn thấy các đốm lửa phủ đầy mặt sông, biết mình thân cô thế cô khó chống đỡ nên vội quay thuyền lại. Nhưng liệu có thể chạy thoát? Chiến thuyền Thanh Châu vừa nhỏ vừa nhanh, chớp mắt đã đuổi kịp. Đám thủy tặc này đánh nhau cũng có đòn riêng, không cần dùng đến thương dài kích lớn, cùng lúc tung ra phi câu, bọn họ thân thể cường tráng, miệng ngậm dao sắt, tóm lấy dây thừng, nhảy hai ba bước đã lên được chiến thuyền Giang Đông, gào thét om sòm, múa kiếm giương đao, chém giết điên cuồng. Quân Đông Ngô không ngờ rằng quân của Tào Tháo vẫn còn những binh sĩ hung hãn như vậy, trước mắt đều bị vây chặn, đầu thuyền, đuôi thuyền, mạn trái, mạn phải ngày càng có nhiều quân Tào nhảy lên, các thuyền ở giữa sợ sệt, không thể chống đỡ, ánh đao loang loáng, tiếng kêu gào thảm thiết, chỉ trong chốc lát quân Ngô đều vong mạng dưới lưỡi đao; trừ hai chiến thuyền phía sau may mắn thoát nạn, những chiến thuyền còn lại đều rơi vào tay quân Tào.
Chưa lên bờ đã cướp được hơn mười chiến thuyền, Chu Diệu, Quản Dung vui mừng khôn xiết:
— Các huynh đệ, bọn nam man chẳng qua chỉ có thế thôi, đều là một lũ giá áo túi cơm, chúng ta quay lại cướp đất dựng trại!
Thuyền to, thuyền nhỏ lập tức chuyển hướng đi về phía đảo nổi, toàn bộ quân lính chen nhau vào bờ, lũ lượt lên đảo reo hò ầm ĩ. Chiếm đảo là thói quen của hải tặc, để tránh sự truy sát của quan binh, hải tặc phải tìm nhiều nơi ẩn nấp, chiếm lĩnh nhiều đảo lập hang ổ phòng bị, địch đến thì dựa vào địa thế hiểm trở để chống đỡ, nếu đánh không lại thì bỏ đi nơi khác. Phía đông nam gần biển nên số lượng đảo nhiều vô kể, hải tặc đi lại như thoi đưa, xuất quỷ nhập thần, người truy đuổi cũng không biết đường nào mà lần.
Bốn tướng dương dương tự đắc, nào biết Tào Tháo ở trên ngọn núi bên bờ bắc đang cau mày nhăn mặt: Nhìn tình hình có vẻ là thắng rồi, nhưng đám thủy tặc này không nghe theo quân lệnh, không có chiến thuật, hành động lộ liễu, quả thật đáng lo. Ông chăm chú nhìn những ngọn đuốc sáng tập trung ở một chỗ trên sông, không hiểu sao trong lòng thảng thốt, bất an, hình như lại thấy bên bờ đối diện ánh lửa di chuyển rất nhanh, có vẻ như đại đội chiến thuyền đang dịch chuyển. Tào Tháo giật mình, thét lớn trong bóng đêm:
— Mấy tên vô mưu lỗ mãng hiến kế ngu ngốc, làm hỏng đại sự của ta! - Ông biết rõ là đã muộn, nhưng vẫn sai cận vệ, - Mau đi truyền lệnh, bảo chúng thu quân! Đi mau!
Ở bên này Tào Tháo vội vã kêu thét, binh sĩ trên đảo vẫn ngông nghênh tự đắc. Chiến thuyền Thanh Châu đã cập bờ, ba nghìn binh sĩ đều lên đảo, bận rộn vận chuyển quân nhu, lương thực chuẩn bị hạ trại. Bốn tướng khoác vai nhau nói cười vui vẻ, không ngờ chỉ ít lâu sau, thuyền địch cũng kéo về hướng này. Quản Dung không chút sợ hãi, quát mắng kêu gọi huynh đệ chiến đấu, Trương Thiệp nói:
— Giết gà cần gì đến dao mổ trâu, công lao này nhường tiểu đệ.
Nói xong tự mình lĩnh hơn mười chiến thuyền nhỏ đi về phía quân địch. Nào ngờ khi đến gần mới phát hiện quân địch quá đông, thuyền bè san sát, dày đặc, Trương Thiệp vẫn không sợ, kêu gọi huynh đệ giở mánh khóe cũ để cướp thuyền địch, nhưng lại nghe thấy những tiếng “rào rào”, một trận mưa tên từ phía đối diện bay lại - Hóa ra, thủy quân Đông Ngô đều có quy củ, giữa các thuyền chiến đều có thuyền hộ vệ, không để cho quân địch vào được trung tâm.
Trương Thiệp đứng ở đầu thuyền nên trúng một tên vào bả vai, cố chịu đau, thúc quân xông lên. Không ngờ hai chiến thuyền lớn của địch nhất loạt đâm tới, thuyền của Trương Thiệp lập tức bị lật, binh sĩ trên thuyền rơi hết xuống nước. Đám hải tặc khác nhìn thấy thuyền chủ bị lật, ai cũng tức giận, đám người này xưa nay vẫn mưu sinh bằng nghề đâm thuê chém mướn nên cũng không coi trọng tính mạng bản thân, nhất tề xông vào trận địa của địch. Đáng tiếc, lần này thuyền địch quá đông, đao chém, rìu bổ, cung tên phối hợp, bởi vậy phần lớn phi câu đều bị chặt đứt, số người rơi xuống sông nhiều không đếm xuể, kể cả những kẻ đã lên được thuyền thì vẫn mất mạng. Hơn nữa, chiến thuyền của Đông Ngô to lớn, nên đâm vài phát, quân của Trương Thiệp đã tả tơi, tan tác.
Ở bên kia quân Tào vẫn đang dựng trại, cũng cảm thấy sự việc có gì đó không ổn, đại đội chiến thuyền của Giang Đông đã gần cập bờ. Quản Dung, Lý Thư hoàn toàn không biết đại họa sắp ập đến, còn cười khẩy:
— Chẳng lẽ Trương đệ lại thất bại? Đám Ngô Việt kia đúng là có chút bản lĩnh, chúng ta quyết chiến với chúng một phen.
Chu Diệu nhanh trí hơn một chút, tự mình suy xét: Chu vi của đảo không quá nửa dặm, dựa vào nơi này mà cự địch liệu có nhỏ quá không? Thuyền của Đông Ngô thì cao, mà đảo lại thấp, nếu như bốn mặt nhất loạt bắn tên... Hắn vừa nghĩ ra thì thuyền địch cũng đã đến.
Chiến hạm, tàu bè đan xen, từ mạn bắc đánh bọc sườn, quân Thanh Châu chưa kịp lên thuyền đã bị mưa tên bắn trúng, chỉ trong chốc lát, đảo nhỏ đã bị quân Đông Ngô bao vây, ngay cả những thuyền đang đậu ở bờ sông cũng chẳng thể di chuyển. Người trên thuyền địch thét lớn:
— Các ngươi tự tìm chỗ chết, còn không mau đầu hàng, định đợi lúc nào nữa?
Quản Dung, Lý Thư lúc này mới biết đại sự không ổn, vào thời khắc sinh tử, bản tính ngông cuồng trỗi dậy, mỗi người nhấc một thanh đại đao, gọi các huynh đệ của mình cùng liều mạng xông lên trước màn mưa tên.
Hai tướng đúng là liều mạng, hết nhảy sang trái lại chuyển sang phải trên con thuyền nhỏ, bám được vào mạn thuyền của quân địch mà trèo lên, trời đất tối mù vẫn điên cuồng đâm giết, chỉ một lát máu me đã bắn khắp người, cố gắng mãi cũng cướp được một chiến thuyền. Nhờ có ánh đèn trên thuyền, họ vừa nhìn đã thấy lớp lớp binh giáp, không đếm xuể Đông Ngô có bao nhiêu chiến thuyền! Hai tướng không dám thờ ơ, dẫn đám thân binh tiếp tục liều chết xông lên giết địch, đám người này nhảy trước lùi sau, thân thủ nhanh nhẹn, hành động mau lẹ, chẳng mấy chốc đã giết hết binh sĩ trên hai chiếc thuyền nữa. Họ dũng mãnh, gan dạ, tiếc là thân cô thế cô, chẳng bao lâu sau đám thân binh đã bị tử thương gần hết, hai tướng trúng vô số vết thương, ngã lộn nhào, lập tức bị quân Ngô dùng đao phanh thây.
Ba nghìn bộ binh trên bờ không có được bản lĩnh đó, tay ôm đao kích trốn sau mấy bức tường trại chưa kịp dựng xong, không biết làm gì. Chu Diệu sợ quân địch kéo lên bờ thì không thể chống đỡ, nên miễn cưỡng dẫn vệ binh xông ra, chặn đánh hết bên trái lại bên phải, vung đao múa kiếm, gạt mưa tên bay tới, muốn kéo dài thời gian để chờ quân cứu viện - Thực ra Tào Tháo đã nhìn ra chỗ sơ hở, lẽ nào lại không cứu? Thuyền cứu viện sớm đã đến, nhưng đang bị mắc kẹt giữa trùng vây của chiến thuyền Giang Đông, không thể qua được.
Chu Diệu phải huyết chiến trên đảo, phút chốc vô số thân binh đều đã chết và bị thương. Tận mắt nhìn thấy quân Ngô lũ lượt kéo lên bờ, trong lòng hắn lo lắng, một mũi tên lạc bắn trúng đầu gối, chân hắn khuỵu xuống, kế đến lại có mấy mũi tên xuyên thẳng vào cổ và ngực, không thể đứng lên nổi. Chu Diệu toàn thân đau đớn, sức cùng lực kiệt, quân Ngô sợ tên tướng này chưa chết, liền bắn tên điên cuồng sau lưng, chỉ trong nháy mắt, trông hắn chẳng khác nào con nhím. Trong lúc sắp chết, hắn vẫn hoài nghi lẩm bẩm một mình: “Mẹ kiếp... ông mày trải qua biết bao nhiêu sóng to gió lớn trên biển... Sao lại... chết trên sông...”
Tận mắt nhìn thấy ba tướng quân mất mạng trong chốc lát, quân Tào sợ vỡ mật. Lại nghe quân Ngô thét lớn:
— Quân Tào hãy nghe cho rõ, nếu không đầu hàng thì kết cục của các ngươi cũng giống như bọn chúng!
Ba nghìn quân sĩ mắt thấy tai nghe, tiếng leng keng vang lên khắp nơi, toàn bộ đã vứt bỏ vũ khí...
Đại chiến trên sông Trường Giang
Sau hai canh giờ kịch chiến, kế hoạch cướp đảo đã thất bại thảm hại. Ba nghìn quân Tào bị bắt làm tù binh, đội thủy quân Thanh Châu được huấn luyện mất bao thời gian gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Hàng trăm con thuyền lớn nhỏ gồm cả thuyền chở quân nhu, lương thực đều rơi vào tay Tôn Quyền. Ba tướng Chu Diệu, Quản Dung, Lý Thư đều chết trận, chỉ còn một mình Trương Thiệp trúng tên rơi xuống sông được cứu thoát, mặc cho thân thể bê bết máu, vẫn quỳ xuống nhận tội trước mặt Tào Tháo.
— Hừ! - Tào Tháo run lên vì tức giận, - Ngươi khoác lác mà không biết ngượng mồm, xem Tôn Quyền biến ngươi thành bộ dạng gì đây?
Quân Tào thua trận cũng không đến mức nhục nhã, mà nhục nhã vì đầu óc ngu muội đánh một trận hồ đồ ngớ ngẩn, bỗng dưng biếu không chúng ba nghìn người ngựa. Thủy quân Thanh Châu cố nhiên hữu dũng vô mưu, nhưng toàn là những lực sĩ thao luyện đã lâu, nếu nghiêm khắc dạy dỗ hẳn là có thể lập công, không ngờ chỉ một trận đánh này mà tâm huyết bao năm nay đã tan theo dòng nước.
Trương Thiệp không phục cũng không phẫn nộ, ôm vết thương trên vai, thở hổn hển:
— Mẹ kiếp! Tôn Quyền lấy đông hiếp ít, thắng chẳng vẻ vang, xin Thừa tướng hãy cho mạt tướng thêm ba nghìn chiến thuyền, để ngày sau...
— Câm miệng! - Tào Tháo tức giận đập soái ấn, - Ngươi thua chưa đủ thảm hại sao? Bọn thảo khấu các ngươi dạy quân không nghiêm, chỉ biết dùng sức chém giết, hiểu thế nào được phép dụng binh? Cái cồn đất giữa sông rộng không quá một tấc, lại còn đóng quân trên đó, chẳng phải là lùa dê vào miệng cọp sao? Cồn đất đó gần đồn địch, xa doanh ta, nếu có thể đóng quân thì Tôn Quyền sớm đã chiếm rồi! Gặp mùa xuân, nước sông ắt dâng lên, lúc đó quân ta chưa chết vì địch thì đã chết đuối cả rồi! - Đánh xong trận này, Tào Tháo cũng đã nghĩ thông, hối hận vì bản thân đã bị lũ lỗ mãng này làm hại, - Lão phu đúng là có bệnh thì vái tứ phương, đi tin những lời quỷ quái của các ngươi! Ngươi có hiểu thế nào là phép dùng thủy quân không?
— Mạt tướng... Mạt tướng... - Trương Thiệp vẫn còn mơ hồ, trong lòng bối rối. Khi xưa ở trên biển đều dùng kế này, nhìn thấy đảo là chiếm, xông lên thuyền giết địch, luyện binh cũng theo cách này, vẫn còn phép gì khác sao? Nghe Thừa tướng hỏi, hắn muốn nói hiểu lại ngại mở miệng, nếu nói không hiểu thì thực chẳng ngẩng mặt lên nổi.
— Đáng ghét! - Tào Tháo nhìn bộ dạng ủ dột của hắn thì đã hiểu ra hết, tức đến nỗi râu cũng run lên, - Người đâu, đuổi ngay tên sâu dân mọt nước này đi cho ta, từ nay về sau cấm bén mảng tới doanh trại ta!
Đám vệ sĩ hổ báo kỵ nghe lệnh, Trương Thiệp bị đấm đá la lối om sòm, vừa bò vừa lết chạy ra khỏi đại trướng.
— Ây dà!... - Tào Tháo ngồi vật xuống ghế, - Tức chết đi được!
— Thừa tướng bớt giận. - Các quan văn võ cùng nhau quỳ xuống.
Tào Phi vội vàng chạy qua bóp vai, đấm lưng cho phụ thân. Tào Tháo trong lòng buồn bực, không chỉ tức người khác mà hận bản thân mình. Bất luận bại trận do nguyên nhân nào thì thân làm thống soái cũng khó thoái thác trách nhiệm, nếu không vì vội vã muốn thắng trận thì với trí óc tinh thông của mình, Tào Tháo há có thể làm chuyện hồ đồ như vậy? Tào Tháo thở hắt ra, nhíu mày suy tư, lôi từ dưới soái án ra một lá thư trắng, cầm bút viết: Trống nổi một hồi, quan quân nghiêm chỉnh; trống nổi hai hồi, toàn quân lên thuyền, chỉnh hạ mái chèo, giữ chắc vũ khí, trở về vị trí. Kéo cờ căng buồm, theo sát tướng quân. Trống nổi ba hồi, thuyền lớn thuyền nhỏ xuất phát. Đến lượt, trái không lấn phải, phải không lấn trái, trước sau trật tự. Ai làm sai, chém!
Ông viết xong, thuận tay ném về phía trước soái án, nghiêm nghị nói:
— Quân pháp không nghiêm là điều đại kỵ. Từ nay về sau, thủy quân đều phải chiếu theo luật này hành sự, nghiêm cấm phá vỡ đội hình, tiến lùi bừa bãi. Ai sai lệnh, chém!
Cho dù có khắc phục thế nào thì quân Tào cũng đã thua trận, bất lực với sông lớn, chưa tìm được kế sách, chút sĩ khí vừa mới có giờ đã tan biến cả. Chiến thuyền lệnh truyền đến thủy quân, tướng lĩnh các bộ đều nghiêm chỉnh tuân theo, binh sĩ bên bờ sông yên lặng, nhẫn nại chờ thời cơ. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, quân Giang Đông thắng trận, trong lòng muốn ra sức đánh cho quân Tào sa cơ thất thế, ngày nào cũng sai đội thuyền đến bờ bắc khiêu khích, hôm nay bắn một trận tên, hôm sau gióng một trận trống, hôm sau nữa lại đến đối diện doanh trại của Tào Tháo để nhục mạ chửi bới, khiến quân Tào phiền phức không chịu nổi. Tào Tháo chưa có kế gì khả thi nên không dám ứng chiến, lệnh cho tướng sĩ không được xuất kích, chỉ bắn tên chống cự qua loa.
Cứ như vậy được bảy hôm, đến trưa ngày thứ tám đột nhiên có tiếng huyên náo vang lên, thủy quân Giang Đông ồ ạt xuất binh, khí thế ngất trời tiến về phía bắc. Tào Tháo bị bất ngờ, không dám tùy tiện cho quân ra chặn đánh, chỉ lệnh cho thủy quân dàn trận dọc bờ sông, bộ binh cũng tập kết ở gần bờ, nhẫn nại chờ địch mệt mỏi mới tấn công, còn ông đích thân dẫn quân đến bờ sông quan sát trận thế; nhưng nhìn thấy mây đen kéo đến cuồn cuộn, gió lớn thổi từng hồi, dưới bầu trời âm u đó là cờ quạt san sát, tiếng chiêng trống ầm ĩ, hàng trăm chiến thuyền lớn nhỏ dàn thành trận trường xà(*), cùng tiến lên song song, kéo dài hàng dặm đang tiến về phía bắc. Nếu đánh qua đây cũng dễ đối phó. Quân Tào đã giương cung đợi sẵn, địch đến nơi sẽ đánh một trận dữ dội, nhưng họ lại không đến, thuyền của quân Ngô chỉ qua quá nửa sông thì dừng lại, cách quân Tào khoảng hai mươi trượng. Ở khoảng cách này quân Tào nhìn rõ bên địch, nhưng bắn tên không tới, đành nheo mắt nhìn bọn họ dương oai múa vỗ, hò hét khiêu chiến, chẳng giống đánh trận gì cả, mà rõ ràng quân Ngô cố ý chọc giận.
Tào Tháo từng trải trăm trận, thắng rất nhiều mà thua cũng không ít, trước giờ đều là ông khích đối phương xuất trận, hôm nay lại bị Tôn Quyền nhân lúc khốn đốn làm cho mất mặt, chứng kiến cảnh này, ông tức đến bầm gan tím ruột, tuy nhiên đầu óc vẫn giữ được sự tỉnh táo. Thủy chiến vốn không phải sở trường của quân phương bắc, trong khi sĩ khí quân địch đang mạnh, một khi giao chiến tất chuốc lấy bất lợi, nếu còn làm tổn hại nguyên khí thì trận sau sẽ càng khó đánh. Cho nên ông đành nén cơn giận, truyền lệnh cho tướng sĩ:
— Nếu địch đến thì giương cung chờ sẵn. Nếu hò hét khiêu chiến thì cấm được xông ra, tuyệt đối không được chủ động xuất chiến!
Không khí của trận chiến vô cùng kỳ lạ, trên sông diễu võ dương oai, hò hét kêu gào, trên bờ yên ắng, không một tiếng động, vốn dĩ Tào Tháo phải đánh Tôn Quyền, nhưng tình thế hiện nay người tấn công, kẻ phòng thủ lại hoàn toàn đảo ngược. Binh sĩ Giang Đông lũ lượt đứng trên mũi thuyền múa cờ chế giễu, quân Tào không dám đánh trả nên họ lại tiếp tục chửi, càng chửi càng khó nghe, sau đó không rõ nói gì vì thổ âm Ngô quá nặng. Lần nam chinh này, quân Tào liên tiếp gặp bất lợi, nửa đêm bị Cam Ninh cướp trại, thủy quân Thanh Châu bại trận thảm hại, giờ lại bị quân địch đứng chặn chửi bới, tướng sĩ ba quân há lại không thấy tức giận? Nhưng tên bắn không tới, theo quân lệnh không được xuất chiến, họ đành nghiến răng nuốt giận vào trong, đến lúc không chịu nổi nữa thì bắn tên, chửi mắng lại. Hai bên đánh nhau bằng võ mồm, nào là lão tặc Tào Tháo, nào là thằng nhãi Tôn Quyền, những lời thô tục đều vảng ra hết, người chửi bọn mọi phương nam, kẻ chửi bọn ngọng phía bắc!
Cứ như vậy suốt nửa canh giờ, đột nhiên hai bên trái phải đội tuyển dạt ra, từ giữa trận lao ra một con thuyền lớn. Chiến thuyền này có hai tầng, dài ba trượng, có hai cột buồm, đầu thuyền chạm trổ hình rồng, cắm một lá cờ lớn, ở trên có dòng chữ “Thảo Nghịch Tướng quân”. Tào Tháo nhận ra đây là thuyền của Tôn Quyền.
Nhìn con thuyền khua chèo vun vút như chim nhạn sa bầy, một mình tiến về bờ bắc, Tào Tháo ngây ra: Tôn Quyền điên rồi sao? Lẽ nào muốn một mình gây chiến với lão phu?
Các binh sĩ không cần nghĩ nhiều như thế, thấy thuyền địch đến gần lập tức bắn ra hàng vạn mũi tên. Bên tai chỉ nghe tiếng “cạch cạch cạch”, vô vàng mũi tên cắm vào thuyền của Tôn Quyền. Con thuyền có tấm chắn, các binh sĩ chèo thuyền đều nấp mình phía sau, Tôn Quyền và các binh sĩ khác thì ngồi trong khoang thuyền, mũi tên không thể bắn tới.
Quân Tào nhẫn nhục bấy lâu, lúc này toàn bộ cơn giận đều trút ra hết, bất luận là thủy quân hay lục quân đều dồn sức bắn tên liên tiếp hết trận này đến trận khác vào chỗ Tôn Quyền ngồi. Nhưng con thuyền đó vẫn ung dung, chậm rãi như tiến vào chỗ không người, quay ngang thuyền đón lấy tất cả mũi tên bắn tới. Nhìn thấy cảnh tượng này, quân Tào càng thêm phẫn nộ, chẳng bao lâu sau hai bên mạn thuyền đã cắm đầy tên.
— Bắn! Tiếp tục bắn cho ta! - Tôn Quan ưỡn bụng, chạy về phía bờ sông. Mấy tướng của thủy quân Thanh Châu xưng huynh gọi đệ với hắn nay đều đã chết và bị thương, há có thể nén hận được? Hắn vốn chỉ huy hậu quân, nhưng lúc này đã đem vệ binh chạy lên phía trước, nhìn thấy đám lính bắn không đủ để trút giận, bèn chộp lấy cung tên trong tay một tên lính, tự mình phóng tên.
Trong nháy mắt, thuyền của Tôn Quyền đã trúng hàng vạn mũi tên. Con thuyền mạn trái hướng phía bắc, mạn phải hướng phía nam, mũi tên của quân Tào đều cắm vào mạn trái, cả vạn mũi tên ở một bên làm sao giữ được thăng bằng? Con thuyền nghiêng dần. Quân Tào lại dốc sức bắn tên, nghĩ rằng nếu tiếp tục bắn thêm sẽ khiến cho con thuyền lật đổ, dìm chết tên nhãi Tôn Quyền. Nào ngờ đối phương đã lắc lư chuyển thân tàu, thành bên phải đỡ tên, quân Tào vẫn không hề hay biết, lại thêm mấy trận mưa tên nữa, con tàu trông chẳng khác gì con nhím, dần dẫn lấy lại cân bằng.
Tôn Quan bực tức nghiến răng, bẻ đôi cây cung ném thẳng xuống đất, không màng quân pháp, đẩy đám hổ báo kỵ ra, chạy đến bên cạnh Tào Tháo:
— Thừa tướng, hà tất phải phiền phức vậy! Tên nhãi nam man này tự đến nộp mạng, chúng ta qua đó giết hắn!
— Không được khinh suất. - Tào Tháo nhíu mày nhìn về phía mặt sông, - Tôn Quyền muốn dụ chúng ta xuất quân, lão phu sẽ không cho hắn được toại nguyện.
— Thật tức chết đi được! - Tôn Quan giậm chân bình bịch, nói năng lộn xộn, - Họ Tôn ta không giết họ Tôn kia, thề không làm người!
Tào Tháo buồn cười nhưng không cười nổi:
— Ngươi nhẫn nhịn cho ta. Cổ nhân có câu “Vi sĩ giả bất võ, thiện chiến giả bất nộ.”(*) Không nhẫn nhịn việc nhỏ ắt sẽ làm hỏng mưu lớn. - Tuy nói là vậy, nhưng kỳ thực lần này ông cũng chưa rõ âm mưu của địch.
— Thằng nhãi Tôn Quyền quá sức ngông cuồng, rõ ràng là không coi quân ta ra gì, há có thể nhẫn nhịn? - Nhạc Tiến cũng hằm hằm xông tới, - Mạt tướng khẩn cầu xuất quân, nhất định sẽ mang được đâu Tôn Quyền về!
Tào Tháo hít một hơi sâu, không để ý đến bọn họ: Chuyện này liệu có dễ như lời hắn nói? Đội thuyền Tôn Quyền ở phía sau, nếu giờ phái thuyền tập kích, quân địch chen nhau lao đến, ta lại phải phát binh cứu viện, một trận thủy chiến ắt sẽ nổ ra. Hẳn là không hay...
Tào Tháo đang mải suy tư thì thuyền Tôn Quyền đã dần đi xa, chẳng những không bị bắn chìm mà còn đem theo mấy vạn mũi tên của quân Tào, những mũi tên này nhổ ra vẫn có thể dùng bắn lại quân Tào, lấy gậy ông đập lưng ông, đáng hận hay không? Lúc này không chỉ có Tôn Quan, Nhạc Tiến, mà tất cả các tướng lĩnh đều tức nổ phổi, ai cũng rút gươm chém xuống đất xả giận. Lại nghe quân địch ở phía đối diện hô lớn:
— Đội ơn Tào Thừa tướng tặng tên!
Ngay cả đám lính hổ báo kỵ cũng không thể nhẫn nhịn nổi.
Trung lĩnh quân Hàn Hạo giận dữ nói:
— Thừa tướng cả đời anh minh, nào đã từng chịu nỗi nhục lớn đến vậy? Hôm nay ai cũng phẫn nộ, lòng quân như một, lẽ nào không đủ để đánh địch?
Tào Tháo chậm rãi vuốt râu, hồi lâu không nói, lặng lẽ tính toán lợi hại.
Đúng lúc thuyền của Tôn Quyền vừa quay lại, lần này không những rêu rao trước mặt quân Tào mà còn tấu lên khúc nhạc khải hoàn, chiến tướng đàn ca, dương dương tự đắc. Tiếng chửi bới của quân Tào lập tức vang lên không dứt:
— Phải liều mạng thôi! Liều mạng với thằng nhãi Tôn Quyền!
— Thà chết trên sa trường chứ không thể chịu nổi nỗi nhục này!
— Tôn Quyền không coi ai ra gì, phải qua đó băm vằm cho hả giận!
Lúc này cơn đại nộ của Tào Tháo cũng đã bốc lên, đúng như lời Hàn Hạo nói, cả đời dụng binh ông chưa từng phải chịu nỗi nhục lớn đến vậy, ngay cả trận Xích Bích năm xưa cũng thua trận một cách đường hoàng, chưa bao giờ để địch bức bách đến nỗi không dám xuất trận. Tận mắt thấy tên nhãi Tôn Quyền ngông cuồng như vậy, biết rõ là hắn cố ý kích động nhưng cũng không thể chịu nổi nữa, lại thấy các tướng sĩ chửi nhau với địch mấy ngày nay, nếu không cho xuất trận, về sau bọn họ liệu còn có ý chí chiến đấu nữa không? Hơn nữa, đến giờ ông vẫn chưa có kế sách gì phá địch, nhưng lúc này tướng sĩ đang bị kích động, kẻ giận dữ tất sẽ dũng mãnh, chưa hẳn đã không thể thử một phen... Nghĩ đến đây, Tào Tháo bỗng rút gươm ra, gằn giọng nói rành rọt từng từ:
— Không thể nhịn được nữa, xông lên cho ta!
Các tướng chỉ đợi câu nói đó, lệnh vừa truyền xuống, mười mấy tàu chiến đều hướng về phía thuyền của Tôn Quyền. Quả như Tào Tháo dự liệu, Tôn Quyền trông thấy quân Tào xuất trận, đàn không tấu nhạc, trống cũng không đánh nữa, vội vã quay đầu rút chạy về sau. Chiến thuyền này ban nãy còn di chuyển từ từ, không nhanh không chậm, lúc này lại như tên bắn ra khỏi cung, mặc dù trên thân tàu chứa cả vạn mũi tên, nhưng chỉ cần lắc lư mấy cái đã lùi sâu vào trong trận thế. Tiếp đó là những tiếng chém giết vang lên dữ dội, thủy quân Giang Đông từ hai bên đánh bọc sườn, bao vây mười mấy chiến thuyền kia ở giữa trận. Quân Tào không chịu bỏ thuyền, tiếp tục lệnh cho mấy chiến thuyền đằng trước chống cự, tiếng gào thét bên bờ sông vang lên khắp nơi - Cuối cùng trận chiến đã nổ ra đúng như ý nguyện của Tôn Quyền.
Một bên liên tiếp thắng trận, khí thế ngất trời, một bên uất hận xung thiên, liều mạng chém giết, trận đánh này ngay từ đầu đã vô cùng ác liệt. Khi giao chiến, quân Giang Đông ngay cả cung cũng không giương, hầu như chỉ đâm nhau với thuyền của quân Tào, chiến thuyền hai bên rung lắc ầm ầm, do thuyền của quân Tào ngắn hơn nên vừa lắc đã có không ít người rơi xuống nước; nhưng quân Tào đang hằm hằm tức giận, không cần biết dịch nhiều ta ít, vẫn gào thét xông lên thuyền đối phương, quân Ngô cũng xông lên thuyền quân Tào, chốc lát đã thành một màn hỗn chiến, đâu đâu cũng đâm chém kịch liệt, không phân rõ thuyền của ai. Những thuyền ở đằng sau liên tiếp bắn tên, không phân biệt đâu là địch là ta.
Quân Tào mấy hôm trước đã chỉnh đốn quân luật, vốn nghe tiếng trống lệnh để hành động, trái không được lấn phải, phải không được lấn trái, nhưng lúc lâm trận thì đều bỏ ngoài tai. Trên sông đang lúc hỗn loạn, trống lệnh cũng chẳng nghe rõ. Còn quân Ngô khi giao chiến đều có chiến thuật. Đao thương giao nhau, tên bay như chấu, chiến thuyền lắc lư, mặt sông dậy sóng, tất cả đều mơ hồ hỗn độn; tiếng trống, tiếng chém giết, tiếng kêu gào, tiếng thuyền đâm nhau, tiếng nước cuồn cuộn hòa vào làm một.
Chiến thuyền đâm vào nhau khiến các mảnh gỗ bay tứ tung, tấm chắn phòng vệ cũng không còn, quân hai bên cầm đao nhảy tới nhảy lui, thuyền lớn năm tầng của Đổng Tập lắc lư tiến vào trận địa, đi qua chỗ nào là mưa tên bắn ra chỗ đó, chẳng khác gì một lầu tên di động. Có chiến thuyền bị quân Ngô cướp, binh sĩ Tào không chịu đầu hàng, cố thủ ở cửa thuyền, sống chết với địch; có thuyền xích mã bất hạnh rơi vào trận địa, bị thuyền lớn hai bên va phải, lập tức thân tàu vỡ vụn, mấy binh sĩ rơi xuống nước kêu cứu; còn có thuyền nhỏ theo sóng nước rời trận địa, các phu thuyền đều đã chết, mái chèo cũng đã trôi, chỉ có hai binh sĩ người bê bết máu vẫn cố chiến đấu; lại có mấy thuyền ngấm ngầm tiến vào, binh sĩ ngậm lấy đao mác, không hề lên tiếng, ẩn mình trong khoang, nhẹ nhàng khua mái chèo lên lên xuống xuống, kẻ địch không biết tưởng đó là thuyền trống, nào ngờ cứ ai xông lên là lập tức bỏ mạng!
Tào Tháo đưa mắt nhìn chiến trường, lòng bàn bất giác túa đầy mồ hôi. Lúc đầu hai quân cờ trống tương đương, chém giết một hồi, quân Tào lộ số thế bất lợi. Quân Đông Ngô dày dạn kinh nghiệm tác chiến trên thuyền, giỏi đánh giáp lá cà, quân Tào tuy dũng mãnh nhưng dần dần bị hạ gục; người Ngô giỏi bơi lội, khi bị vây đánh thì nhảy xuống nước là giữ được mạng sống, con người miền bắc cho dù biết bơi nhưng khi rơi xuống sông phần lớn cũng chẳng thể sống sót.
May là quân Tào có hơn mười vạn quân, lại chuẩn bị số lượng lớn thuyền bè cho trận chiến này nên mới có thể liên tiếp xông vào trận địa. Ban đầu chỉ điều thuyền chiến thông thường đi, sau đó ngay cả thuyền dân, thuyền cá cũng được trưng dụng. Đội bộ binh tuy hùng hậu, dũng mãnh hơn nhưng lúc này không có đất dụng võ, cũng kêu gào cổ vũ các chiến hữu, mặc dù quân Tào không thắng nhưng cũng không rơi vào thế bại trận. Cả một đoạn sông máu nhuộm lênh láng, xác binh sĩ trôi nổi đầy mặt nước.
Đột nhiên có một trận cuồng phong xuất hiện, thổi cờ xí đổ rạp xuống thân tàu, tiếp đó một tiếng sét vang trời - mưa bão lại ập đến!
Tào Tháo không thể đứng nhìn, vội vàng truyền lệnh thu binh. Nhưng liệu có dễ dàng như vậy? Tiếng trống thu quân sớm đã chìm nghỉm giữa tiếng ồn ào của trận chiến, thủy quân không giống lục quân, rút lui cần theo thuyền hoa tiêu, tàu bè đánh giết lẫn nhau không ngừng, làm sao có thể phân biệt rõ ai với ai? Hơn nữa thuyền cũng đang tắc ở giữa trận, muốn lui cũng không lui được.
Mưa lớn như hắt nước xuống trận chiến hỗn loạn, trong lúc đó, mặt sông vốn tĩnh lặng bỗng dậy sóng ầm ầm, nước bắt đầu dâng lên. Bất luận là quân Tào hay quân Giang Đông, tất cả chiến thuyền đều bị sóng gió đánh chòng chành, nghiêng ngả. Tiếng ù ù của gió, tiếng rào rào của mưa, còn cả tiếng ầm ầm của sấm tra tấn lỗ tai của chúng nhân, không ai còn nghe được âm thanh của trận chiến. Tào Tháo cũng bị nước mưa làm mờ mắt, chỉ thấy binh sĩ lờ mờ sau làn nước, còn con thuyền to lớn năm tầng lúc này cũng lắc trái lắc phải tựa như con ngựa hoang khó cưỡi, dường như muốn cuốn tất thảy xuống sông.
— Thu binh! Mau thu binh! - Người trên bờ uổng công kêu gọi, chỉ có số ít binh sĩ chưa đi ra xa mới vào được bờ, nếu không thì ngay cả họ cũng chẳng có cơ hội trở về.
Tào Tháo mình mẩy ướt sũng, vội vàng nhìn trên mặt sông, nghển cổ ngóng trông binh sĩ mau trở về, nhưng chẳng có mấy người may mắn sống sót. Không biết ông đứng như vậy bao lâu, Tào Phi, Tào Chân, người bên trái, kẻ bên phải đỡ lấy ông, kiên quyết đưa vào trướng để tránh mưa, vừa quay đi thì bỗng nghe thấy một âm thanh lớn vang lên, con thuyền năm tầng chao đảo đổ vật xuống lòng sông, bắn tung một khoảng bọt nước trắng xóa.
Nhìn sông thở dài bất lực
Trận ác chiến ở cửa Nhu Tu, đất trời u ám, máu nhuộm Trường Giang, tổn thất của quân Tào vô cùng nặng nề, tướng sĩ tử thương gần một vạn. Sau trận chiến này, Tào Tháo đã không đủ lực lượng để chủ động xuất kích, đành phòng thủ chặt chẽ bờ bắc, có lúc Tôn Quyền sai đội thuyền nhỏ tới thăm dò, quân Tào chỉ bắn tên chứ không ra ứng chiến, lâu dần quân Giang Đông cũng không đến nữa. Quân phương bắc tuy binh mã hùng hậu nhưng không vượt qua nỗi rãnh trời Trường Giang, phòng thủ thì thừa mà tấn công thì thiếu; quân phương nam mặc dù thủy chiến thắng lợi nhưng binh lực lại yếu, nếu giao chiến trên bộ chắc chắn sẽ gặp bất lợi, cho nên cũng không mong đợi lập công mà chỉ cầu không xảy ra sơ suất.
Ác chiến đến độ này đã khiến hai bên rơi vào cục diện bế tắc, quân Tào tin chắc lần này có thể rửa sạch nỗi nhục lần trước, diệt được Tôn Quyền, không ngờ lại bị họ đánh chặn ở phía bắc con sông. Thủy quân gần như bị diệt sạch, ngay cả khi có mười vạn đại quân trong tay cũng không qua nổi sông Trường Giang thì nói gì đến việc dụng võ? Ban đầu quân Tào là bên chủ động tấn công, bây giờ lại rơi vào thế phòng thủ, sĩ khí của binh lính ngày càng giảm sút. Chưa cần nói đến những bậc trí sĩ tinh thông chiến lược, mà đến một binh sĩ tầm thường cũng có thể nhận ra - không thể đánh được quân Ngô.
Nhưng Tào Tháo vẫn không can tâm, tuy quân Tào không thể chủ động xuất kích, bờ bắc sông Trường Giang án binh bất động nhưng dường như ông vẫn muốn quyết chiến đến cùng. Thực ra, Tào Tháo trong lòng cũng thầm tính toán, đối diện với tình thế này, ông sớm đã không còn ôm mộng san bằng Giang Đông nữa, nhưng đường xa vạn dặm tới đây không thể không lập công trạng gì đã rút. Triều đình đã chia lại chín châu, gần đây còn chuẩn bị tấn phong ông lên tước công, nếu lúc này lập được chiến công, áo gấm thêu hoa, há chẳng phải thêm phần vinh quang? Thế nên, ông vẫn muốn đợi thời cơ, chỉ cần miễn cưỡng thắng một trận nhỏ hoặc cướp được vài tấc đất là có thể thuận nước dong thuyền, danh chính ngôn thuận lui binh.
Chớp mắt đã nửa tháng trôi qua, Tào Tháo không tìm được bất cứ cơ hội nào, Tôn Quyền bố trí phòng tuyến bờ nam chẳng khác gì một cái thùng sắt, không mảy may lộ chút sơ hở, hơn nữa họ cũng không phái đội quân lớn đi tấn công, nên ngay đến một cơ hội mơ hồ để phản công cũng không có cho Tào Tháo. Đúng lúc này lại nhận được tin báo từ hậu phương: Ở Tây Kinh, dư khấu đã quay trở lại làm loạn, Mã Siêu được Trương Lỗ giúp khởi binh ở Lũng Thượng đánh chiếm thành trì, cướp đoạt đất đai, bao vây Thứ sử Ung Châu là Vi Khang đang đóng quân ở huyện Ký. Quan Thứ sử tượng trưng cho sự cai trị của triều đình, nếu như Vi Khang gặp nạn, cục diện của cả Ung Châu sẽ bị dao động, Hạ Hầu Uyên đóng quân ở Trường An có ý cứu viện, nhưng đáng tiếc Hàn Toại đã lén vào Quan Trung chiêu mộ quân cũ, làm loạn khắp nơi, đại quân đang bận dẹp loạn, chưa thể dứt ra, huyện Ký rơi vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc.
Hơn một năm trước, khi Tào Tháo thu binh ở Lương Châu, Biệt giá Dương Phụ đã nhắc nhở ông, Mã Siêu là một mầm họa, sớm muộn sẽ lại khởi binh dậy sóng, hôm nay những lời nói đó đều thành sự thật. Tào Tháo mượn cớ dẹp quân phản loạn mà tru diệt con tin hai nhà Mã, Hàn ở kinh sư. Vệ úy Mã Đằng tất nhiên đáng bị xử theo hình pháp vì nhi tử tạo phản, nhưng bản thân ông ta không trực tiếp tham gia việc này, ít nhiều cũng có chút đáng thương, vì thế Tào Tháo đã kết nên mối thù không đội trời chung với Mã Siêu. Mã Siêu hai lần gây chiến không chỉ xuất phát từ dã tâm mà còn muốn báo thù cho phụ thân, hơn nữa lại có ý lấy công làm thủ. Bất kể từ góc độ nào, Mã Siêu và Lưu Bị cũng giống nhau, đều là những kẻ mà Tào Tháo không thể bỏ qua, chỉ còn cách quyết tâm liều mạng với họ.
Từ Nhu Tu đến huyện Kỹ đường sá xa xôi, hơn nữa lúc này có khải hoàn trở về cũng chẳng giúp được gì, Tào Tháo đành phó mặc cho Hạ Hầu Uyên ứng phó, nhưng ngay bản thân ông cũng không yên tâm với vị “bạch dinh tướng quân” hữu dũng vô mưu, mù chữ như Hạ Hầu Uyên. Mã Siêu dũng mãnh, thiện chiến, Hàn Toại gian thần xảo quyệt. Hai kẻ này giao thiệp rộng ở Tây Châu, lại có Trương Lỗ làm chỗ dựa, Hạ Hầu Uyên có ứng phó nổi không? Tào Tháo chỉ có thể gửi thư đến Trường An nhắc nhở Hạ Hầu Uyên hành sự thận trọng, bỏ ngọn giữ gốc, lấy việc cứu viện Vi Khang làm trọng.
Tiền phương không thể tấn công, hậu phương lại có họa, mười vạn đại quân chôn chân ở bờ sông, ngày rộng tháng dài, dù Tào Tháo có nóng lòng lập công cũng chẳng nhẫn nại nổi, manh nha ý định rút quân, đang lúc do dự thì có sứ giả Giang Đông tới, mang theo thư của Tôn Quyền đích thân gửi Tào Tháo. Trong thư viết rõ: Thế nước vào mùa xuân đang thịnh, ngài còn không mau rút về? Ý nói nếu kéo dài thời gian, nước sông dâng cao, ưu thế của thủy quân càng rõ, quân Tào càng khó bề lập công, cứ cố tình không rút thì chắc chắn sẽ bại trận thê thảm. Tào Tháo cầm bức thư mà thở dài chán nản: “Điểm yếu của ta đã bị hắn nhìn thấu!” Nghĩ đoạn, bèn triệu tập các mưu sĩ bàn việc rút quân.
Đỗ Tập tính tình bộc trực, tâu đầu tiên:
— Đại quân chinh chiến bên ngoài, tiêu hao hàng vạn binh sĩ, không thể tiến công lại hao mòn sĩ khí. Hơn nữa, hậu phương vẫn còn họa chưa trừ được, Tuân Lệnh quân vừa mới qua đời, việc triều chính chưa ổn thỏa, thực sự là không nên lưu lại đây lâu. Thực ra tại hạ sớm đã nghĩ tới việc lui binh, do Thừa tướng vẫn có ý muốn đánh nên tại hạ không dám khuyên ngăn. - Ông ta không phải là người cơ mưu nên có sao nói vậy.
— Lời của Tử Tự có lý, tại hạ cũng cho rằng lui binh lúc này là thượng sách. Khi xưa, Tần Mục Công tiến đánh phía đông, ba lần cất quân mà không thắng, về sau tập trung chăm lo việc nước, cuối cùng cũng nên nghiệp lớn, mong Thừa tướng lấy đó làm gương. - Vương Xán cũng tán thành, nhưng khẩu khí ôn hòa hơn nhiều.
Thực ra mọi người đều đã có suy nghĩ này nhưng e ngại không nói, may thay Thừa tướng đã nói thẳng ra nên ai cũng tán thành. Lưu Hoa là người lanh lợi nhất, vội nói:
— Mặc dù quân ta chưa vượt được sông, nhưng cũng đã tập kích đánh tan trại địch ở phía bắc sông, giết được Công Tôn Dương, đâu hẳn là không có công? Hơn nữa việc bãi trận là do Tôn Quyền đưa ra, đủ thấy binh mã của hắn đã yếu, sợ hãi cầu hòa. Thừa tướng có đức hiếu sinh, tấm lòng độ lượng, nghĩ đến nỗi khổ của tướng sĩ, lẽ nào không nhẫn nhịn. Tạm thời rút quân về, sau này lại đánh tiếp, há lại không được?
Lời Lưu Hoa nói không phải là không có lý, Giang Đông tuy đã thắng trận nhưng cũng chẳng có gì đáng mừng. Binh lực Giang Đông không thể sánh với quân Tào, trận ác chiến lần trước thiệt hại nghiêm trọng, gần một nửa chiến thuyền bị hư hỏng, nhất là thuyền chiến năm tầng bị đổ, đại tướng Đổng Tập chết chìm dưới sông khiến Tôn Quyền vô cùng đau xót. Nếu cả hai bên không màng hậu quả, tiếp tục quyết chiến, chỉ e đến cuối cả hai đều cùng thảm bại. Cho nên Tôn Quyền cũng mong Tào Tháo lui binh, nhưng tuyệt đối không giống như Lưu Hoa khoa trương nói rằng “sợ sệt cầu hòa”. Lưu Hoa bản tính rất mực thận trọng, ông ta không chỉ nói để nịnh nọt mà trong lòng đã thầm tính toán.
Tào Tháo há lại không hiểu Lưu Hoa nói như vậy là giữ thể diện cho mình? Nhưng trong lòng ông vẫn buồn bã không nguôi, cảm thấy mình bất đắc dĩ phải rút quân, thực quá mất mặt, lật đi lật lại bức thư của Tôn Quyền, đột nhiên nhìn thấy sau thư có dấu mực đen, tỉ mỉ xem xét, ông bỗng ngửa mặt cười lớn:
— Ha ha ha! Tôn Quyền không ép ta, có thể rút quân.
Mọi người đều rất ngạc nhiên, chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra. Hóa ra phía sau lá thư Tôn Quyền còn viết tám chữ lớn: “Túc hạ bất tử, cố bất đắc an.”
Đây là câu chửi Tào Tháo: “Lão già ngươi không chết, ta cũng không được yên.” Nhưng Tào Tháo đọc xong câu này không những không phẫn nộ mà còn giải tỏa được mây mù trong lòng. Lời nói thật lòng, đọc qua là hiểu, Tôn Quyền không hổ danh là chủ soái thông minh, biết được Tào Tháo nghĩ gì. Tôn Quyền hiểu rõ nếu cứ quyết chiến đến cùng, hai bên ắt cùng thiệt hại, lại biết được Tào Tháo sẽ do dự khi chưa lập được công đã rút quân, nên đã viết câu này kèm theo thư. Ngoài mặt là chửi bới, nhưng thực tế lại thể hiện thái độ mềm dẻo với Tào Tháo: Ngài chớ vì thể diện mà kéo dài thời gian, thực tình ta rất sợ ông, ông mà không chết thì Giang Đông mãi không bao giờ được yên, cứ yên tâm rút quân, sẽ chẳng ai chê cười cả!
Nước cờ này của Tôn Quyền không những chủ động cho Tào Tháo con đường rút mà còn giữ thể diện cho ông, Tào Tháo há lại không nhận? Ông bèn sai người cùng sứ giả Giang Đông qua sông đưa thư, thỏa hiệp bại trận của hai bên coi như đã thành. Mọi người ai cũng thở phào nhẹ nhõm, Vương Xán cười nói:
— Thừa tướng hóa can qua thành ngọc thạch, từ nay hai nhà bãi trận, tu binh dưỡng mã, chúng ta sớm sẽ dẹp được phản loạn.
— Hừ, ngươi không hiểu rồi. - Tào Tháo cười nhạt, - Đất bắc rộng còn Giang Đông nhỏ, nghỉ ngơi lâu ngày, tích lũy sức lực, sớm muộn sẽ có ngày lão phu san bằng Giang Đông, nhưng ta tuổi đã niên lão. Còn Tôn Quyền hừng hực ý chí, sức lực dồi dào, há có thể ngồi chờ bị diệt? Giao Châu đã rơi vào tay Tôn Quyền, Lưu Bị ở Kinh Châu và hắn có quan hệ như môi với răng, còn Giang Đông không có đất để mở rộng. Chớ nói Tôn Quyền có ý xưng hùng hay không, cho dù để bảo vệ đất của mình, hắn cũng sẽ lấy công làm thủ, tiếp tục quấy nhiễu, đình chiến chẳng qua là kế sách tạm thời. - Tôn Quyền thông minh, Tào Tháo cũng chẳng hồ đồ, ông sớm đã nhận ra mưu đồ của Tôn Quyền, lẽ nào lại không có phòng bị? Ngay lập tức cấp bảy nghìn quân, lệnh cho Trương Liêu, Nhạc Tiến, Lý Điển tiếp tục đóng quân tại Hợp Phì. Kinh Châu đã bị Lưu Bị chiếm, Tương, Phàn có Tào Nhân đóng giữ, Tôn Quyền muốn xâm phạm phương bắc chỉ có một con đường duy nhất là đi qua đất Giang Hoài, bất kể Tôn Quyền mưu tính Trung Nguyên hay muốn lấy Từ Châu, đều phải đoạt được Hợp Phì trước mới có thể đứng vững. Tào Tháo chia quân đến Hợp Phì đồng nghĩa với việc chặn đường xuất quân của Giang Đông, cho dù Tôn Quyền có oai hùng cỡ nào mà không có được Hợp Phì thì trước sau gì cũng luôn ở thế bị động.
Ngoài ra, Tào Tháo lại bổ nhiệm Tòng sự Dương Châu là Chu Quang làm Thái thú Lư Giang, Tạ Ký làm Đồn điền đô úy, lệnh cho Chu Quang khai khẩn ruộng đất ở Hoản Thành, tích góp lương thảo để chuẩn bị cho lần chinh phạt phía nam tiếp theo; Tạ Ký tuy làm quan cai quản đồn điền, nhưng nhiệm vụ thực sự lại là liên lạc với bọn giặc cỏ ở trong địa phận Giang Đông, xúi giục chúng quấy nhiễu Tôn Quyền. Sau đó, Tào Tháo ban bố giáo lệnh đối với các huyện ở Hoài Nam, bất luận là các hộ gia đình giàu có hay gia đình võ tướng, từ nay về sau không được tự ý đóng các thuyền quân dụng, thuyền chiến, nếu đang sở hữu phải nhất loạt giao nộp, quân trấn giữ Hợp Phì sẽ điều phối. Các huyện ven sông ngoại trừ dân đồn điền ra thì đều phải di chuyển lên phía bắc, không được vô cớ qua sông - Như vậy đất Hoài Nam sẽ trở thành vùng đệm hòa hoãn xung đột giữa hai nhà Tôn, Tào, ngay cả khi Tôn Quyền vượt sông xâm hại đất đai thì cũng không gây nhiều nguy hại. Bố trí xong đâu đó, Tào Tháo mới yên tâm rút quân.
Việc bãi binh coi như thuận lợi, hai bên người có lòng, kẻ có dạ, sứ giả hai bên qua lại không ngớt, chỉ sau vài ngày đã đạt được thỏa thuận chung, lấy Trường Giang làm ranh giới, không quấy nhiễu lẫn nhau, mỗi bên tự sắp xếp rút quân. Có lẽ ông trời cũng cố ý đùa cợt con người, trời đất âm u suốt hơn nửa tháng, đến khi bàn định xong kế sách bãi binh thì lại nắng chói chang. Khi chuẩn bị lên đường, Tào Tháo đã cùng các mưu sĩ dừng ngựa ở bờ sông, nhìn sang đất Giang Nam: mưa to gió lớn hôm nào giờ đã chuyển thành gió xuân mát mẻ, ánh nắng chan hòa chiếu xuống dòng sông lấp lánh muôn màu, cây cối nhờ có nước mưa màu xanh non mơn mởn, lại còn có những khóm hoa dại thi nhau đua nở, đung đưa trong gió, thổi bừng lên sức sống của thế gian. Quân Ngô bờ đối diện đang rút quân, cờ quạt san sát trước kia giờ cũng đã bớt đi quá nửa, doanh trại cũng đã tháo dỡ không ít, nhưng đội thủy quân vẫn nghiêm chỉnh dàn binh trên sông, bảo vệ lãnh thổ. Dù không nhìn rõ vẻ mặt của các tướng sĩ trên thuyền, nhưng bọn họ chắc chắn là đang rất đỗi vui mừng, tuy rằng hai nhà bãi binh nhưng thực tế là quân Giang Đông đã thắng, thêm một lần nữa họ đánh lui được đại quân phương bắc.
Hai lần tấn công không chiếm nổi đất Giang Đông ngoan cường, dũng mãnh, đến khi nào mới có thể nhất thống thiên hạ đây? Tào Tháo đang muộn phiền suy tư, bỗng nghe loáng thoáng thấy tiếng hát từ xa vọng lại. Quay đầu nhìn, thì ra là các tướng sĩ quân mình cũng đang tháo dỡ xe quân nhu, thu dọn lều trại, nghĩ đến cảnh rời khỏi mảnh đất quỷ quái, phúc họa khó lường này, trên mặt ai cũng đều hiện rõ vẻ vui mừng khôn xiết, có người còn nghêu ngao hát. Tào Tháo cười khổ: Xem ra không chỉ riêng ta, mà các tướng sĩ cũng không chịu nổi, mọi người đều nhớ nhà da diết, sớm đã không còn lòng dạ nào để đánh nhau.
— Phụ thân, khởi hành thôi. - Tào Phi thấy ông trầm mặc hồi lâu không nói, bèn tiến đến khẽ giục, - Hàn Hạo đã thu xếp đâu vào đấy, mọi người đang đợi phụ thân.
Tào Tháo không để ý gì, lẩm bẩm một mình:
— Ta vốn tưởng rằng không còn Chu Du, Giang Đông chẳng còn gì đáng lo, đúng là đã coi khinh quần hùng trong thiên hạ... Tôn thị mặc dù khoe khoang là hậu duệ của Tôn Vũ, nhưng chẳng qua chỉ là dòng dõi của tiểu lại. Thế nhưng rừng sâu giấu hổ báo, đất hoang giấu kỳ lân. Khi xưa Tôn Kiên thống suất ba quân tung hoành nam bắc, Tôn Sách bình định Giang Đông oai dũng vô song, tên nhãi Tôn Quyền có thể nối nghiệp cha anh như vậy, cũng chẳng phải hạng tầm thường.
Trong lúc ông đang nói, Vương Xán từ giữa đám người đi đến, tay dâng tấu thư:
— Khải bẩm Thừa tướng, vừa rồi nhận được tin từ Hứa Đô, Quang lộc huân Khoái Việt bệnh nặng qua đời, đây là di thư để lại cho ngài.
— Ây dà! - Tào Tháo thở dài một tiếng.
Khoái Việt tuy từ phe Kinh Châu quy hàng Tào Tháo, nhưng Tào Tháo sớm đã cùng ông ta kết mối thân tình. Điều quan trọng hơn là ông lại mất đi một người cùng thời với mình, năm tháng quả như lưỡi đao vô tình, ai biết lúc nào sẽ đến lượt mình? Tào Tháo nhận lấy di thư, tỉ mẩn đọc một lượt. Khoái Việt không hổ danh là thủ lĩnh nhân sĩ Kinh Châu, trước lúc lâm chung, ngoài cảm xúc bùi ngùi về số mệnh vô thường thì vẫn không quên được lời hứa với Lưu Biểu, thỉnh cầu Tào Tháo đối đãi nhân từ với hai huynh đệ Lưu Tông và Lưu Tu.
— Khoái Dị Độ tuy kiệm lời nhưng lại biết thận trọng cân nhắc lợi hại khi hành sự, đáng được coi là quốc sĩ một đời. Ta thuận theo di ngôn của ông ấy, nếu ông ấy ở trên trời có thiêng hẳn cũng an lòng. - Tào Tháo vừa buồn vừa tiếc, - Người tài đức thường đoản mệnh, còn những kẻ vô dụng lại sống lâu. Chuyện thế gian thực khiến cho người ta oán thán...
Đối với Tào Tháo mà nói, con cái của Lưu Biểu thực sự không ra gì, Lưu Tông đã đến tuổi nhược quán nhưng vẫn chỉ biết vâng vâng dạ dạ, bảo gì nghe nấy, không có chí mà cũng chẳng có tài; Lưu Tu chẳng qua là chỉ là đứa nhóc miệng còn hơi sữa. Nhưng đáng buồn nhất phải là tên Lưu Kỳ hám lợi tối mắt, muốn cậy nhờ thế lực của Lưu Bị để tranh ngôi với đệ đệ, trận Xích Bích gặp may thoát nạn, kết quả lại bị giặc tai to cướp quyền, chết oan uổng ở Giang Hạ, đúng là đồ ngu! Nếu dựa vào mấy tên tiểu tử bất tài này thì cho dù có tướng giỏi phò trợ cũng làm sao mà giữ nổi Kinh Châu? Bọn chúng so với Tôn Quyền quả là khác nhau một trời một vực. Nghĩ đến đây, Tào Tháo nhìn về phía bờ đối diện, xót xa than thở:
— Lập nghiệp khó, giữ nghiệp càng khó. Như tên tiểu tử Tôn Quyền, không những có thể giữ được nghiệp cha anh mà còn ngăn được ngoại xâm, Tôn Văn Đài có có được đứa con tài ba như vậy, dưới suối vàng còn mong đợi gì hơn? Sinh con phải như Tôn Trọng Mưu, con của Lưu Cảnh Thăng khác gì lũ súc sinh? - Đúng là anh hùng tiếc thương cho anh hùng, hảo hán tiếc thương cho hảo hán.
Chúng mưu sĩ ai cũng lặng im, cảm thấy những lời này của ông tuy đúng nhưng có chút cay nghiệt. Lưu Tông tuy chưa thành tài nhưng cũng đã làm chức Gián nghị đại phu, được coi là trọng thần trong triều; Lưu Tu quen sống ở Nghiệp Thành nên thích sự phong nhã, nghe nói còn kết mối tư giao với Bình Nguyên hầu Tào Thực. Tào Tháo công khai chửi họ là súc sinh, thực cũng có đôi phần quá đáng.
Nhưng suy nghĩ của Tào Phi lại khác với mọi người: Phụ thân luôn khen Tôn Quyền phát huy được cơ nghiệp của cha anh, những lời này chẳng phải chính là muốn nói bọn ta nghe ư? Trong lòng phụ thân, ta và tam đệ, rốt cục ai giống với Tôn Quyền, ai giống với súc sinh? Tào Phi nhìn dòng sông mà trong lòng nặng trĩu, đột nhiên thấy Tào Hưu đứng bên cạnh kéo áo mình, ngẩng đầu lên đã thấy phụ thân cùng chúng sĩ quay ngựa rời đi.
— Văn Vương đánh Sùng, ba lần không thắng, trở về sửa sang giáo hóa, rồi sau lại đi đánh thì nên nghiệp lớn. Chúng ta làm theo bậc tiên hiền, rút về thao luyện binh mã, sửa sang chiến cụ, sau này lại đến! - Tào Tháo nói mấy câu đánh trống lảng trước mặt mọi người, đoạn quất roi thúc ngựa trở về phương bắc.
Tháng tư năm Kiến An thứ mười tám, trong lần thứ hai xua quân nam chinh, Tào Tháo lại thất bại.
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9