A house without books is like a room without windows.

Heinrich Mann

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Phạm Thùy Linh
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 29
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:39 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 122
ào Phi ứng biến loạn Ký Châu
Tào Phi dẹp loạn
Tào Phi có nằm mơ cũng không ngờ rằng, lần đầu tiên lưu thủ Nghiệp Thành với thân phận phó Thừa tướng lại gặp phải phản loạn. Nửa năm nay có thể nói là y hành sự vô cùng nghiêm cẩn, cho dù có những việc không thể quản cũng phải sắp xếp được đôi ba phần, nào ngờ đến cuối cùng lại xảy ra loạn lạc lớn đến như vậy, làm sao ăn nói với phụ thân đây?
Kỳ thực đối với cuộc phản loạn ở Hà Gian, Tào Phi không hề có chút liên đới trách nhiệm nào, mầm họa sớm đã được gieo xuống ngay từ khi bình định Ký Châu. Năm xưa Viên Thiệu thống trị Hà Bắc, trọng dụng hào cường thị tộc, dung túng cho việc sáp nhập đất đai; Tào Tháo đoạt được Ký Châu, vừa muốn lung lạc nhân tâm lại không muốn tùy tiện ra tay với các đại tộc, thế nên để hòa hoãn mâu thuẫn bèn giảm bớt điền tô. Tào Tháo tự mình định ra mỗi mẫu chỉ thu bốn thăng tiền thuế, lại khống chế một cách thích hợp việc sáp nhập đất đai, bất luận là bách tính bình dân hay là hào cường địa chủ đều có lợi. Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang, ba năm sau bại trận ở Xích Bích, việc chinh chiến gây nhiều phí tổn, lại thêm việc xây dựng Nghiệp Thành, tu tạo mạc phủ, dựng Đồng Tước đài, sưu thuế thấp không thể đủ cho việc chi trả khổng lồ như vậy, thế nên bắt buộc phải tăng thuế. Trọng Trường Thống vốn am hiểu đạo làm kinh tế, năm xưa từng nhắc nhở Tào Tháo rằng giảm thuế dễ, tăng thuế khó, nhưng khi đó ông đang sốt ruột nên liền bỏ ngoài tai, nay việc không may đã thành sự thực.
Thuế ruộng ở Ký Châu bị tăng lên một phần hai mươi, nghe qua thì có vẻ không khác gì so với đại đa số các châu quận khác của quốc gia, nhưng những kẻ đang quen mui há có thể cam tâm? Hơn nữa, khống chế việc sáp nhập không phải chỉ một câu nói là có thể giải quyết, thuế ruộng càng thấp cũng có nghĩa là lợi ích của việc sáp nhập đất đai càng lớn, đối với đám cường hào địa chủ mà nói, thuế ruộng mà họ nộp cho triều đình là một mẫu bốn thăng, nhưng liệu bọn họ cũng sẽ thu của điền nông một mẫu bốn thăng sao? Chiến loạn bao năm tạo nên vô số đất hoang vô chủ, những kẻ có thực lực chỉ cần khai hoang, nộp thuế thì đất ấy sẽ là của mình, há có thể bảo không sáp nhập là không sáp nhập? Hào tộc bản địa Ký Châu tạm gạt sang một bên, sau bao năm chinh chiến, chỉ riêng nội bộ Tào doanh cũng đã xuất hiện bao nhiêu đám quý tộc mới. Như Tào Hồng, Lưu Huân, có kẻ nào không phải là đại địa chủ? Chỉ cần dựa vào quan hệ giữa họ và Tào Tháo, đám quan lại địa phương liệu có dám quản không? Đại địa chủ ép lên tiểu địa chủ, tiểu địa chủ lại bóc lột điền nông, thuế ruộng vừa thay đổi, lợi ích của biết bao người đều bị liên lụy trong đó, bất luận là dân canh nông hay là địa chủ, điền hộ đều vô cùng bất mãn, lại cộng thêm bao năm chiến loạn, dân chúng khổ ải, không xảy ra loạn mới lạ.
Nếu Tào Tháo vẫn ở Nghiệp Thành, trên dưới Ký Châu sợ uy của ông chắc cũng không xảy ra chuyện gì lớn. Nhưng ông đi liền một mạch hơn nửa năm trời, để lại một đứa con trai mới nhận chức quan, tư lịch tầm thường, lại chẳng có chút thực quyền nào, sai khiến quan viên đều phải dựa theo sự sắp xếp của Tào Tháo, cứ thế y lệnh mà làm, không dám thay đổi. Hơn nữa, đại bộ phận trung quân đồn trú ở Nghiệp Thành đều đã theo ông tây chinh, việc phòng bị ở Hà Bắc trở nên sơ sài, tất nhiên sẽ có đám loạn thần tặc tử muốn nhân cơ hành động. Điền Ngân, Tô Bá vừa dựng cờ khởi nghĩa, bao nhiêu bách tích vốn uất hận vì sưu cao thuế nặng liền kéo đến tụ tập, trong chớp mắt đã lên tới mấy vạn. Có kẻ thì bị sưu thuế ép cho không còn đường sống, có kẻ thì tâm địa bất trắc, muốn bắt chước hào kiệt, cũng có kẻ trong lòng không phục nên hùa theo dây đóm ăn tàn. Nhưng may mà bọn chúng không nhằm hướng Nghiệp Thành mà tiến, mà nhất loạt tiến lên phía bắc, thẳng hướng U Châu, dọc đường thẳng tay đốt phá nhà cửa, cướp của giết người để xả hận. Xét cho cùng, cội rễ của biến loạn lần này bắt nguồn chính từ Tào Tháo, nhưng trách nhiệm lại rơi xuống đầu Tào Phi, ai bảo y đúng lúc này lại phụ trách lưu thủ?
Khi quân báo về việc phản loạn đặt trước mặt Tào Phi, điều đầu tiên hiện lên trong đầu y là phải ăn nói thế nào với phụ thân của mình. Y phán đoán theo kinh nghiệm mắt thấy tai nghe trong suốt bao nhiêu năm, lần phản loạn này thực ra không đáng sợ, điều thực sự đáng sợ là tầm ảnh hưởng của nó. Xảy ra phản loạn ở Ký Châu, đại bản doanh của Tào gia, chuyện này đáng xấu hổ biết mấy? Bất lợi hơn là chỉ e việc này sẽ khiến công sức cả nửa năm trời của y đổ xuống sông xuống bể, để lại ấn tượng xấu cho phụ thân. Làm sao đây? Giấu thì chắc chắn không giấu được, có lẽ tin báo đã truyền đến Quan Trung, bây giờ chỉ có thể nhanh chóng dẹp yên phản loạn, khiến cho ảnh hưởng tiêu cực của nó được tiết chế xuống mức tối thiểu.
Nhưng mọi chuyện lại không giống như những gì Tào Phi tưởng tượng, y tuy tổng đốc mọi sự vụ liên quan đến việc lưu thủ, nhưng trong tay lại chẳng có binh quyền, binh mã trung quân lưu thủ trên thực tế do Tả hộ quân Từ Tuyên nắm giữ, ông ta hiện giờ đã vào đại doanh điều tập quân đội. Trưởng sử Quốc Uyên thì đang bố trí công văn truyền đạt đến các quận huyện, ngay cả Thái thú Ngụy Quận Vương Tu cũng đã xuống đường để vỗ về bách tính, đám thuộc viên ở mạc phủ thì ai làm chuyện nấy, căn bản không cần xin chỉ thị từ y, Tào Phi sốt sắng nhưng chẳng được nhúng tay vào việc gì, bèn dứt khoát nhân lúc này trở về phủ đệ của mình. Đầu óc y vẫn còn tỉnh táo, trong lúc cấp bách này dẹp yên phản loạn tất nhiên là quan trọng, nhưng lại càng phải sắp xếp ổn thỏa bên phủ của phụ thân, y vội vàng viết cho Đậu Phụ một bức mật thư, nhờ hắn nói lời hay ý đẹp trước mặt phụ thân.
Nào ngờ Tào Phi trở về phủ của mình, vừa hay nhận được tiệp báo của Trần Quần từ Hứa Đô gửi đến, trong biểu chương của phụ thân gửi về triều đình có ghi rõ, Tham quân Đậu Phụ anh dũng hộ vệ, tử chiến ở Vị Thủy! Tào Phi hay tin như sét đánh ngang tai: Chẳng trách ngay cả một tin mật báo trong quân cũng không nhận được, thì ra Đậu Phụ đã chết. Nay xảy ra đại loạn như vậy, nếu như Tào Thực nhân cơ hội này dâng lời xàm ngôn với phụ thân, hậu quả ắt không thể tưởng tượng nổi. Tào Phi không rét mà run, tay cầm phong thư thẫn thờ hồi lâu, đột nhiên dặn dò kẻ hầu:
— Mau mặc khôi giáp cho ta, ta phải đến đại doanh sắp xếp, không được nói cho Lương Trưởng sử.
Trung quân là binh mã nằm dưới quyền trực tiếp điều khiển của Tào Tháo, cũng là đội quân có quân số lớn nhất trong thiên hạ, để phân biệt với những đội quân khác, trung quân không có các chức vị như tướng quân hay đốc quân, các tướng lĩnh đều xưng là Hộ quân, Lĩnh quân. Trên thực tế, cánh quân này tự lập nên hệ thống, độc lập hoàn toàn với triều đình, các bộ tướng trung quân tuy thanh danh không thể hiện nhiều dưới vầng hào quang của Tào Tháo, nhưng ngoại trừ Tào Tháo ra họ không tiếp nhận bất cứ mệnh lệnh của ai khác, cho dù có chiếu thư của thiên tử cũng có thể không nhận! Đội quân này từ khi bình định Hà Bắc cho đến nay vẫn đóng quân ở phía tây nam Nghiệp Thành, mỗi lần khởi phát chiến sự, Tào Tháo đều dẫn đại quân xuất chinh, lúc đó sẽ chỉ định một vị Hộ quân thống lĩnh binh mã lưu thủ. Lần này xuất chinh đến Quan Trung, Tào Tháo chỉ để lại khoảng ba ngàn người, thống soái tạm thời là Tả hộ quân Từ Tuyên. Nhưng Từ Tuyên vốn là mạc liêu của mạc phủ, từng đảm nhận chức Huyện lệnh, tuy nổi danh đức vọng nhưng lại không có tài chinh chiến. Tào Tháo cho ông ta nắm giữ binh quyền là dùng đức chứ không phải dùng tài của ông ta, cũng là vì tự tin rằng Ký Châu sẽ không có vấn đề gì xảy ra, nào ngờ lần này thực sự đã gây ra phiền phức.
Từ Tuyên đột nhiên hay tin biến cố xảy ra bèn lập tức triệu tập binh mã toàn doanh, ông ta tuy đầu đội khôi, thân mặc giáp nhưng khó có thể xóa đi khí khái văn nhân, đứng trước viên môn quan sát binh sĩ tập kết hàng ngũ mà tim đập thình thịch trong lồng ngực - Chỉ huy tác chiến ông ta hầu như chẳng biết gì, cũng cần phải ủy thác cho người khác, thế nên ông ta đã phái người cầm lệnh tiễn phi ngựa đến điều vị tướng quân từng trú quân lâu năm ở Hà Bắc là Giả Tín, mời Giả tướng quân hỏa tốc chạy đến tác chiến thay cho ông ta. Dẫu biết rõ rằng cả đi cả về chí ít phải mất nửa ngày, nhưng Từ Tuyên vẫn sốt ruột như kiến hun trong nồi, thầm cầu nguyện ông trời đừng để chuyện gì bất ngờ xảy ra nữa!
Nào ngờ binh sĩ còn chưa ngay hàng thẳng lối đã có thân binh hộc tốc đến báo:
— Thưa, Ngũ quan trung lang tướng vào doanh từ phía bắc trại môn, đang ngồi trong đại trướng trung quân của ngài, triệu ngài đến nghe lệnh.
— Cái gì?
Từ Tuyên giật mình kinh ngạc, vội vã chạy vào trong doanh, mũ áo xộc xệch xông vào đại trướng trung quân, quả nhiên trông thấy Tào Phi đang thản nhiên ngồi trên soái vị, binh phù, lệnh tiễn của mình đều đặt ngay trước mắt y. Từ Tuyên dở khóc dở cười, mới chỉ nghe Hán Cao Tổ nửa đêm đoạt binh quyền của Hàn Tín, nào ngờ bản thân mới lần đầu lĩnh binh đã phải tự mình thể nghiệm.
Theo lý mà nói, Tào Phi không có quyền điều binh khiển tướng, nhưng giờ Đậu Phụ đã chết, không có ai sắp xếp chu toàn cho y, y nghĩ rằng nếu muốn vãn hồi thể diện trước mặt phụ thân, cách tốt nhất không gì bằng tự mình chỉ huy đánh trận này, thế nên mới xông vào đại trướng trung quân. Binh sĩ bảo vệ doanh trại biết rõ như vậy là trái phép tắc, nhưng con của Thừa tướng nào ai dám cản? Cũng vì Từ Tuyên vốn xuất thân văn nhân không hiểu quân vụ, thân làm chủ soái lại chạy ra ngoài điểm binh, để binh phù lệnh tiễn lại trên soái án, vậy nào khác gì hai tay dâng cho Tào Phi rồi sao?
Tào Phi thấy Từ Tuyên đã đến bèn mỉm cười:
— Từ Hộ quân, ta tổng đốc mọi việc lưu thủ, cũng từng tuần doanh nhiều lần, ngồi trong trướng trung quân thế này cũng không đến nỗi không ổn thỏa chứ?
Việc đã đến nước này, Từ Tuyên cũng không biết đối đáp ra sao, soái vị đã rơi vào tay người ta rồi, chỉ đành chắp tay đứng sang một bên. Lúc này bên ngoài bỗng huyên náo, Lương Mậu, Thường Lâm hay tin cũng lục tục kéo đến, thấy Tào Phi đã ngồi trong đại trướng, trong lòng liên tục kêu khổ: Đại công tử à, ngài làm như thế này, chẳng phải là tự mình gây chuyện rồi sao!
— Đến đúng lúc lắm, ta đang có chuyện muốn nói với các ngươi đây. - Tào Phi rút ra một chiếc lệnh tiễn rồi mân mê trên tay, - Phản tặc dấy binh vạn phần cấp bách, ta quyết định sẽ lĩnh binh tự mình dẹp loạn.
Thường Lâm nghe xong câu này xém chút nữa ngã ngửa, quay sang ngơ ngác nhìn Lương Mậu. Từ Tuyên không thể không cất lời:
— Chinh phạt thảo tặc là nhiệm vụ của bỉ chức, giết gà há lại dùng dao mổ trâu? Tại hạ đã điều Giả Tín đến đây thống lĩnh binh mã, không dám làm phiền đại giá của tướng quân.
— Ồ? Giả Tín đâu rồi? - Tào Phi bật cười, - Quân tình khẩn cấp không thể chờ binh đợi tướng. Ta tuy chưa từng thống suất binh mã nhưng mười một tuổi đã cùng Thừa tướng chinh chiến ở ngoài, đêm ngày múa đao luyện cung, chưa từng lơ là chuyện học võ, lẽ nào không xứng với chức thống soái này? Từ Hộ quân nếu không chịu, vậy ngài hãy thống suất binh mã tác chiến, phải khởi binh ngay bây giờ.
Từ Tuyên bị Tào Phi dồn vào thế khó, ông ta thực sự lực bất tòng tâm, nếu quả có bản lĩnh đánh trận thì sớm đã ra trận rồi, còn đứng đây để Tào Phi dồn ép mình? Ông ta định nuốt cục tức này vào bụng rồi nhận lệnh tiễn, nhưng phản tặc thế lớn, phải lấy ít địch nhiều, việc quốc gia đại sự há có thể tùy tiện cho qua? Từ Tuyên như ngồi trên đống lửa, chỉ mong Giả Tín mau đến.
Thường Lân thì vẫn giữ vẻ điềm đạm, cất lời can gián:
— Hôm trước giặc ở Bác Lăng, nay đã đến U Châu, đủ thấy Điền Ngân, Tô Bá vốn không thao lược lại chẳng có hùng tâm. Quan dân phương bắc đã phục hóa từ lâu, lại quen việc thủ bị, giặc hữu dũng vô mưu ắt không thể gây hại được nhiều. Nay đại quân của Thừa tướng ở xa, phía nam có Tôn Quyền là cường địch, công tử nhận mệnh lưu thủ là trọng trách của thiên hạ. Nay lãnh binh đi đường xa để diệt kẻ địch nhỏ, tuy chắc thắng nhưng không phải kế hay. Mong tướng quân suy xét!
Tào Phi chỉ châm chăm muốn lấy lại thể diện, dứt khoát gạt đi:
— Lời này sai rồi. Ta làm tổng đốc xử lý mọi sự vụ lưu thủ, xảy ra phản loạn tất nhiên phải tự mình chinh thảo, như vậy mới không phụ sự ủy thác của Thừa tướng.
Thường Lâm đã cứng rắn thì Lương Mậu tất nhiên phải mềm dẻo, bèn cất giọng dỗ dành:
— Lời tướng quân nói không sai, nhưng chức trách của ngài là lưu thủ Nghiệp Thành, xử lý chính vụ, giám sát mọi chuyện ở Ký Châu. Nay quân phản loạn đã chạy đến U Châu, nếu như ngài tự tiện rời khỏi chức vị, phá xong địch nhỡ may không kịp trở về, Thừa tướng quay lại không thấy ngài đâu, mọi sự vụ lại đình đốn cả lại, chỉ e không hay cho tướng quân thôi!
Câu này nói trúng tim đen của Tào Phi, điều đáng sợ nhất bây giờ là khiến phụ thân bất mãn, nếu như một hai tháng trời không diệt nổi phản tặc, lại để lỡ dở việc trong mạc phủ, há chẳng phải tự làm khổ mình? Tào Phi trầm tư suy nghĩ, không ngừng cân nhắc lợi hại. Nào hay Thường Lâm, Lương Mậu cũng đang toát mồ hôi lạnh, bọn họ mới chỉ nói những lý do đã bày ra sờ sờ, vẫn còn những lý do không thể nói ra - Tào Tháo sắp sửa quay lại, nếu vị trưởng tử này đột nhiên đoạt quyền cử binh, nếu biết thì là chinh thảo phản tặc, nếu không biết sẽ nghĩ ra sao? Giả như phụ tử họ xuất hiện hiềm khích gì đó, lại có kẻ gian buông lời xàm ngôn từ bên trong, tất cả những kẻ phò tá cho Tào Phi có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng chẳng rửa hết oan.
Nhưng những lời liên quan đến tình phụ tử này há có thể dễ dàng nói ra miệng? Tào Phi tay cầm lệnh tiễn nhíu mày trầm ngâm, ba kẻ bên cạnh trân trân nhìn y, chỉ sợ y cố chấp gây ra đại họa trời sập. Đúng trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc này, bỗng nghe thấy tiếng tâu báo vang lên ngoài trướng - Giả tư mã Chu Thước xông vào trướng quỳ mọp xuống báo:
— Thưa, Giả Tín đã đến ngoài viên môn, còn dẫn theo vài trăm kỵ binh bản bộ, sĩ tốt trung quân cũng đã chỉnh tề, liệu có cho phép ngài ấy xuất chinh?
Từ Tuyên mừng đến nỗi suýt chút nữa thì hoan hô, vội vàng bẩm tấu:
— Quân tình khẩn cấp không thể chờ binh đợi tướng, xin tướng quân mau phát binh phù cho phép Giả Tín hành quân!
Giả Tín lĩnh binh ở Hà Bắc đã lâu, sĩ tốt đa phần đều biết mặt, Tào Phi tự biết nếu tiếp tục tranh giành cũng chẳng có ích gì:
— Ây da... để ông ấy đi vậy.
— Vâng!
Từ Tuyên thậm chí không dám nhờ Chu Thước động thủ, tự mình bước vội đến soái án cầm binh phù, rồi vội vã chạy ra ngoài viên môn. Lương Mậu, Thường Lâm cũng thở phào nhẹ nhõm, bước ra ngoài trướng mà như đi trên mây. Tào Phi hoàn toàn không hay biết rằng mình suýt chút nữa đã gây ra đại họa, chỉ rầu rĩ ngồi trên soái vị, ngẩng đầu lên trời mà than:
— Ta muốn kiến công, sao lại khó đến vậy!
Y thực sự rất khổ tâm, tại sao số y lại xui xẻo đến vậy, ngay cả một việc như vậy mà cũng chẳng thành!
Chu Thước thấy trong trướng không còn người ngoài, bèn sấn đến bên cạnh Tào Phi:
— Công tử hà tất khổ tâm như vậy? Lĩnh binh đánh trận đâu phải chuyện gì dễ dàng, hà tất phải đi tranh? Cứ để Giả Tín đi đi, dù sao nếu đánh thắng thì ngài cũng được một phần công lao.
— Ngươi thì hiểu gì...
Chu Thước thấy y vẫn rầu rĩ không thôi, hấp háy mắt ghé sát bên tai nói nhỏ:
— Công tử chớ buồn, tại hạ còn có một tin tốt muốn nói cho ngài đây! Chuyện của thị nữ kia tại hạ đã dò hỏi cặn kẽ rồi, đó là con gái của tiên triều Thái thú Nam Quận Quách Vĩnh, người An Bình, Quảng Tông, tên là Quách Hoàn, năm nay hai mươi bảy tuổi...
— Đi mau! Giờ là lúc nào rồi, còn có tâm trạng nói những chuyện đó! - Tào Phi bỗng mắng nhiếc, - Ngươi mau lĩnh binh đến Mạnh Tân một chuyến, đón mẫu thân ta quay lại, nếu lão thái thái có mệnh hệ gì, ta còn biết sống sao!
Chu Thước lại nói:
— Tin tức vừa đến Lã Chiêu liền dẫn binh đi rồi, còn dặn tại hạ báo với ngài một câu, chắc chắn sẽ thay ngài chăm sóc ổn thỏa cho lão thái thái, còn dặn ngài nhớ bẩm tấu lại với Thừa tướng.
— Không hổ danh là kẻ xuất thân từ gia nô, làm gì cũng chu đáo, Lã Tử Triển đối với ta quả không tồi! - Tào Phi cảm thấy được an ủi, - Vậy ngươi cũng chớ loanh quanh ở đây nữa, đi cùng với Giả Tín đi, đừng để ta mất mặt.
— Không phải tại hạ sợ đánh trận, chẳng phải đã thay ngài làm xong việc cấp bách nhất rồi sao. - Chu Thước nói giọng đùa cợt, - Thị nữ họ Quách kia...
— Ây dà! Bây giờ ta làm gì có tâm trạng nghĩ chuyện đó. - Tào Phi đưa tay day trán.
— Ngài nghe tại hạ nói xong đã, thị nữ họ Quách đó quả là kỳ lạ.
— Ngươi nhỏ mồm nhỏ miệng chút! Đây là quân doanh. - Tào Phi vội đưa tay bịt miệng của hắn rồi ngó ra ngoài trướng, thấy chỉ có một tên vệ binh đang chống thương đứng thẳng, dường như không nghe thấy gì, khi đó mới yên tâm đôi chút, cũng không nén nổi tò mò, - Chỉ là một thị nữ thôi, có gì kỳ lạ chứ?
Chu Thước lại sấn đến ghé sát tai thì thầm:
— Quách Hoàn này có một tiểu danh khiến người ta phải giật mình kinh ngạc.
— Cái tên thì có gì phải giật mình chứ?
— Tiểu danh của cô ta là “nữ vương”.
— Quách nữ vương?
Tào Phi giật mình.
— Ngài cũng nhỏ miệng một chút đi. - Lần này đến lượt Chu Thước bịt miệng y lại, - Nghe nói nàng ta sinh ra đã có dị tướng, phụ thân Quách Vĩnh của nàng ta từng tán thán rằng, “Con gái ta là vua trong đám đàn bà”, thế nên mới dùng đó làm tiểu danh. Có lẽ do danh xưng quá lớn không chế áp được, nên phu thê Quách Vĩnh vài năm sau thì chết, nàng ta gặp thời chiến loạn, bất đắc dĩ rơi vào phủ Đồng Đê hầu, năm nay mới được Đồng Đê hầu tiến cử vào mạc phủ, làm nô tì bên cạnh Vương phu nhân.
— Nữ vương... Nữ vương... - Tào Phi không để ý gì khác, chỉ thấy rất hứng thú với cái tên này, trong đầu bất giác hiện lên làn da trắng ngần của Quách Hoàn.
Chu Thước rất biết trợ hứng:
— Cái tên này thật hay, vừa nghe là biết tên này vượng phu. Nữ tử nếu là nữ vương, vậy nam nhân nào lấy cô ta sẽ có thân phận như thế nào?
— Chuyện này làm được chứ.
Chu Thước tất nhiên biết được y đang ám chỉ điều gì, liền lập tức trả lời:
— Làm được, làm được. Vương phu nhân vốn rất thông tình đạt lý, công tử muốn thị nữ nào phu nhân lẽ nào lại không cho? Phu nhân cũng chẳng có con trai, sau này không biết trông cậy vào ai, muốn lấy lòng ngài còn chẳng được nữa là! Trong phủ có nhiều người như vậy, thiếu một nha hoàn cũng đâu có ai để ý? Nếu thực sự lão gia có hỏi, nói rằng phu nhân ban thưởng cho chẳng phải là qua chuyện ư. Việc bên trong chỉ có Vương phu nhân, bên ngoài có tại hạ và Lã Chiêu lo liệu, ngài cứ việc ngồi chờ mà hưởng mỹ nhân đi.
— Được. - Tào Phi cười khổ, - Cũng coi như không uổng công làm công tử tọa trấn, bận bịu nửa năm trời chỉ mỗi việc này là thỏa nguyện. Chỉ mong nữ vương kia có thể xua đi vận đen của ta.
Tào Tháo khởi hoàn
Cuộc phản loạn ở Ký Châu tuy thanh thế khá lớn, nhưng những kẻ phản loạn xét cho cùng cũng chỉ là đám nông phu và tạp binh tầm thường, căn bản không đủ sức cự lại quân chính quy vốn trang bị đầy đủ, tinh nhuệ. Giả Tín dẫn quân đi dẹp loạn, chỉ một trận đã đánh cho bọn chúng trốn chạy tứ tán, các huyện Hà Gian lập tức yên ổn trở lại, Điền Ngân, Tô Bá dẫn theo đám tặc khấu sót lại tan tác chạy về bắc, ý muốn thoát ra vùng quan ngoại. Nhưng vị Ô Hoàn Trung lang tướng Diêm Nhu trú quân ở U Châu là nhân vật cỡ nào? Dựa vào mối quan hệ riêng, ông ta gửi thư đến các bộ lạc Tiên Ty, đại thủ lĩnh Tiên Ty là Kha Tị Năng lập tức dẫn ba ngàn kỵ binh tinh nhuệ dón đầu đánh cho quân phản tặc một trận thừa sống thiếu chết, tiếp sau đó Tào Nhân cũng dẫn quân đến kịp. Điền, Tô lần lượt chết trận, số còn lại hoặc chết hoặc hàng, trận phản loạn này chưa đầy một tháng đã bị bình định triệt để.
Quân báo gửi đến Nghiệp Thành, đám văn võ lưu thủ ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm, người vui nhất không ai ngoài Tào Phi - Đại quân của phụ thân vẫn đang trên đường quay về, mẫu thân cũng đã bình an trở lại Nghiệp Thành, lần phản loạn này đã được bình định, cũng coi như có thể ăn nói trước mặt phụ thân. Nhưng vẫn còn một vấn đề rắc rối, Điền Ngân, Tô Bá tuy đã chết, nhưng vẫn còn vài ngàn quân đầu hàng hoặc bị bắt sống, những kẻ này phải xử lý ra sao đây?
Sự kiện bất ngờ, Tào Tháo không có sắp xếp hay dặn dò gì trước, thế nên mọi việc Tào Phi phải tự mình quyết định. Y triệu tập Quốc Uyên, Từ Tuyên, Lương Mậu, Thường Lâm đến thương nghị. Từ Tuyên cất lời trước tiên:
— Thừa tướng tọa trấn Ký Châu đã được sáu bảy năm, quảng khai ân lộ, chiêu hiền nạp sĩ, chưa từng có điểm gì thất đức. Cổ nhân có câu: “Tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa giả vi đạo”(*), nay dấy loạn đều là những kẻ cùng hung cực ác, nếu không trừng trị thật nặng thì sao có thể cảnh thị với thiên hạ? Thượng thư có câu “Thiên mệnh minh uy, bất cảm xá”(*). Xin tướng quân dứt khoát hạ thủ, sớm tru diệt hung đồ để trừ hậu hoạn!
Từ Tuyên vốn nổi danh đức hạnh phương chính, khi nói chuyện thường dẫn dụ điển cố, văn chương để thêm mắm dặm muối, nhưng ít nhiều vẫn có vẻ cứng nhắc, giáo điều. May mà lão oan gia của ông ta là Trần Kiều đảm nhận chức Trưởng sử hiện đang đi theo quân bên ngoài, bằng không trông thấy bộ dạng đại nghĩa lẫm liệt của ông ta như vậy, hai người ắt lại tranh cãi không thôi. Nhưng những người có mặt lại không ai có ý kiến nào khác - Họ đều là những kẻ nhận mệnh phò tá Tào Phi, sớm xử lý xong mớ hỗn loạn này, gánh nặng trên vai mọi người sẽ bớt đi một chút.
Tào Phi vốn dĩ không muốn giết hết những kẻ kia, nhưng xét cho cùng bản thân lần đầu nhận chức Thừa tướng lưu thủ, vậy mà nửa năm nay chưa có việc nào được tự mình quyết định, thực sự cảm thấy vô cùng bức bách. Nếu không tỏ chí khí quyết đoán của mình trong sự kiện này, chỉ e lại khiến phụ thân coi thường. Nghĩ đoạn Tào Phi rút lệnh tiễn đưa cho Từ Tuyên:
— Gửi thư cho Giả Tín, lệnh cho ông ta đem tất cả tù binh, xử tử tại...
— Ha ha ha! Thì ra mọi người đều ở cả đây, tướng quân đang xử lý quân vụ sao? - Một tràng cười ha hả vang lên cắt ngang câu mệnh lệnh, ai nấy đều đưa mắt nhìn.
Trình Dục chậm rãi bước đến bên cửa đại trướng. Ông ta mới giao lại binh quyền chưa đầy nửa năm, nhưng lại nghiễm nhiên thoát thân biến thành một lão già nhàn cư, mặc một bộ tiện y màu xám giản dị, không đội mũ biện, cũng chẳng thắt dây, tay chống một cây trượng thanh trúc. Theo quy định trong hành viên, quan văn phải đội mũ quán, võ tướng phải mặc giáp, cũng vì ông ta chinh chiến lâu năm lại được Tào Tháo tín cẩn, nên đám binh sĩ đều nể sợ vài phần, nếu là kẻ khác ăn mặc như vậy tuyệt đối không thể bước vào trong doanh.
Tào Phi vừa thấy Trình Dục, trong bụng đã thầm chán ghét: Lúc đánh trận ông không đến, đánh xong rồi lại chỉ tay múa chân, ra vẻ từng trải có gì hay chứ? Trong lòng y tuy không vui, nhưng nể mặt ông ta nên vẫn phải tươi cười nghênh đón:
— Thì ra là Trình lão tướng quân, bệnh của ngài đã đỡ hơn chưa?
Trình Dục chắp chắp tay:
— Đa tạ ngài đã nhớ đến, đã đỡ rất nhiều rồi. Hôm nay nhàn rỗi chẳng có việc gì làm, bèn đến trong doanh đi lại xem sao, trò chuyện hàn huyên cùng đám lính, không dám phiền việc quân vụ của ngài.
Nhàn rỗi không có việc gì làm bèn đến đây đi dạo, đại doanh trung quân mạc phủ trong mắt ông ta biến thành đầu đường ngõ chợ từ lúc nào vậy? Tào Phi vẫn phải vờ cười nói:
— Vãn sinh đang xử lý quân vụ, xin mời lão tướng quân vào. Có chỗ nào chưa thỏa, mong lão ngài chỉ giáo.
— Xin thôi, lúc bình loạn ta không giúp được gì, lúc này lại đến làm phiền, hẳn là không hay cho lắm!
Trình Dục tuy nói vậy nhưng chân vẫn chẳng dừng, cứ thế bước thẳng vào trung quân đại trướng.
Tào Phi lại càng không tiện ngăn lại:
— Chớ nói như vậy, ngài là bậc lão thần, vào đây ngồi cũng là nể mặt vãn bối lắm rồi! Mau đem ghế cho lão tướng quân.
Thường Lâm tự mình bê một chiếc ghế đẩu đến trước cửa trướng.
Trình Dục trong lòng thầm nghĩ: Nói vậy nghe còn được, nể mặt lễ ngộ hôm nay của tiểu tử ngươi, lão phu đành quản chuyện bao đồng này, để các ngươi khỏi tưởng rằng ta đây ăn no ngủ kỹ, chẳng phải lo lắng gì. Nghĩ đoạn liền ngồi ngay xuống không buồn khách sáo, đưa tay vuốt râu chậm rãi nói:
— Lão hủ tai điếc đặc rồi, cũng không nghe rõ lắm. Tướng quân công tử hình như định truyền lệnh xử tử dư đảng phản tặc, có chuyện này chăng?
Nghe từ đầu tới cuối như vậy, vậy mà bảo điếc đặc? Tào Phi lờ mờ đoán được dường như ông ta có ý gì khác, cười nói:
— Ta còn nhớ phụ thân thống binh bao năm có một quy tắc, phàm những kẻ đầu hàng sau khi bị vây bắt thì không tha. Đám tặc tử này đều đầu hàng sau khi Điền, Tô bại vọng, theo lý phải xử tử.
— Sai rồi, sai rồi. - Trình Dục quả nhiên phản bác, - Tru diệt kẻ đầu hàng nên làm trong thời loạn ly, ấy là khi nhân tâm tứ tán, thiên hạ bất an, thế nên những kẻ hàng sau khi bị vây thì tuyệt đối không tha, để thị uy trước thiên hạ, chặt đứt vây cánh của chúng, khiến dư đảng tặc khấu khiếp hãi... Nay thiên hạ đã dần yên định, bọn Điền, Tô dấy loạn trong bang vực, trước sau gì cũng phải hàng, giết chúng không đủ để thị uy, ta cho rằng không nên tru diệt. - Nói đến đây ông ta khẽ đưa mắt liếc nhìn Tào Phi, - Nếu muốn tru diệt, tốt nhất là nên thỉnh thị Thừa tướng.
Trình Dục tuy giữ chức quan nhàn rỗi nhưng xét cho cùng cũng có quyền tham nghị việc quân, rất được Tào Tháo coi trọng. Hơn nửa năm nay, ông ta viện cớ sức khỏe không tốt, không đến phủ xử lý công việc, dù phản loạn đang hồi dữ dội nhất ông ta cũng không lộ diện, vậy mà bây giờ lại đột nhiên chạy đến tuôn một tràng nghị luận như vậy, dụng ý của ông ta là gì? Lần này ông ta đến tuyệt đối không phải chỉ đến để dạo chơi, thực ra còn có ý khác. Tào Phi vốn tinh ý, há có thể không đoán được ra? Nhưng vẫn chưa kịp hỏi, Từ Tuyên đã phản bác:
— Lời của lão tướng quân tuy hay nhưng Ngũ quan trung lang tướng lưu thủ Ký Châu, gặp lúc rối ren tất có quyền truyền lệnh, hà tất lại phải thỉnh thị Thừa tướng?
Trình Dục không hề phản bác Từ Tuyên, chỉ khe khẽ mỉm cười, chắp tay đáp:
— Nếu đã như vậy thì cứ để tướng quân quyết định.
Hai chữ “tướng quân” nói ra từ miệng ông ta thực sự thú vị, ông ta đường đường là Phấn Vũ Tướng quân, còn chức Ngũ quan trung lang tướng của Tào Phi vốn chỉ là một chức quan thất thử, nhờ thân phận nên mới được lĩnh hai ngàn thạch bổng lộc, nhận chức Phó thừa tướng, thế nên người ngoài nghe vậy có cảm giác ỷ lớn bắt nạt yếu.
Ông ta càng nói như vậy Tào Phi càng không dám quyết đoán, chỉ nói:
— Lời của hai vị đại nhân đều rất có lý, khiến cho vãn bối khó có thể quyết đoán. Dù sao đám tặc khấu này đều đã nằm trong tay ta, việc xử lý ra sao cũng chưa cần vội. Hãy để ta suy xét, hôm khác sẽ định đoạt. Giải tán thôi... Trình lão tướng quân xin lưu bước.
— Vâng.
Từ Tuyên, Lương Mậu biết bọn họ có điều cần nói riêng, bèn vội vàng cáo biệt. Đợi bọn họ đi cả rồi, Tào Phi lập tức đứng dậy, vòng qua soái án đi tới phía trước, chắp tay vái dài trước mặt Trình Dục:
— Lão tướng quân có lời nào tâm phúc, xin hãy nói thẳng chớ ngại.
Trình Dục nắm lấy cánh tay y, vẻ nhẹ nhõm, tươi cười đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó là một thần thái nghiêm túc:
— Nếu chiếu theo quốc pháp, lời của Từ Bảo Kiên hoàn toàn không sai, đúng là nên xử tử hết đám hàng tặc này. Nhưng tướng quân và Thừa tướng có những điều không giống nhau, theo sở kiến của lão thân, không nên xử trí theo lý thường tình.
— Đó là vì sao?
— Vừa nãy bọn họ nói “có quyền truyền lệnh”, việc này những kẻ khác có thể coi là thực, duy chỉ tướng quân ngài không thể coi là thực. Phàm truyền lệnh là bắt buộc phải quyết định khi đối diện với an nguy, lợi hại. Nay hàng tặc đã nằm trong tay Giả Tín, không còn gì nguy ngập. Thế nên lão thân không mong tướng quân hành sự như vậy.
Tào Phi nhìn tròng mắt đang lóe lên sắc u tối của ông ta, dù đã suy xét kỹ càng nhưng vẫn tiếp tục dò hỏi:
— Lời tướng quân nói rất đúng, nhưng dường như vẫn ẩn tình bên trong, xin hãy mở lòng nói hết.
Trình Dục thoáng giật mình, tiếp đó lại chầm chậm nở nụ cười, buông đôi tay y ra, chống gậy đứng dậy:
— Cổ nhân có câu “Khả dữ ngôn nhi bất dữ chi ngôn, tắc thất nhân; bất khả dữ ngôn nhi dữ chi ngôn, tắc thất ngôn.”(*) Lão hủ phò tá phụ tử tướng quân đã hai mươi năm, nay quay về chốn lâm điền, mong được an hưởng tuổi già, nên vừa không muốn mất lòng, cũng sợ cả lỡ lời...
Tào Phi cười nịnh nói:
— Lão tướng quân cứ nói chơi, vãn sinh đây cũng xin nghe chơi, nghe xong chúng ta cùng quên đi là được, như vậy được chăng?
Không hổ danh là trưởng tử của lão Tào, những việc khôn lỏi như vậy quả là hơn người. Trình Dục trong lòng cười thầm, nhưng gừng càng già càng cay, một lời nói thẳng ông ta cũng chẳng nói, chỉ thuận miệng buông một câu:
— Phụ vi tử ẩn, tử vi phụ ẩn(*), đạo lý chính nằm bên trong...
Nói đoạn bèn chậm rãi đứng dậy mà đi.
— Đa tạ lão tướng quân chỉ giáo.
Tào Phi chắp tay tiễn khách, trong lòng đã hiểu ra không ít: Mặc dù cuộc phản loạn đã được dẹp yên, nhưng lão gia hỉ hay nộ vẫn còn chưa biết, bây giờ mà giết hàng tặc cố nhiên không sai, nhưng lại phạm vào điều kỵ lộng quyền, rất dễ bị phụ thân nghi kỵ. Hơn nữa, bất luận thế nào phản loạn cũng xuất hiện trong thời gian ta nắm quyền, thế nên bắt buộc phải xử lý ổn thỏa việc này, nếu giữ đám hàng tặc kia lại, chưa biết chừng phụ thân sẽ đại phát thiện tâm, nhất loạt xá miễn. Việc thất đức tự mình phải gánh, còn cơ hội vãn hồi nhân tâm thì lưu lại cho phụ thân, đây chẳng phải là tử vi phụ ẩn sao! Nghĩ đến đây, Tào Phi đột nhiên ý thức được rằng mình đã phạm một sai lầm chí mạng, tuyệt đối không được tự ý đoạt doanh xử lý quân vụ, làm như vậy chẳng những không có lợi mà còn khiến phụ thân ghét bỏ, huống hồ Tào Thực vẫn đang ở cạnh phụ thân, thực quá nguy hiểm! Nếu Đậu Phụ vẫn chưa chết thì tốt biết mấy, đấy là lúc cần người ở bên cạnh phụ thân nói đôi lời hay. Việc đã đến nước này, Tào Phi không còn lựa chọn nào khác, đành chờ đợi phán quyết của phụ thân...
Không thể nán lại quân doanh thêm nữa, ngay tối hôm đó Tào Phi liền trả lại binh phù, lệnh tiễn cho Từ Tuyên, vội vã trở về mạc phủ. Nào ngờ vừa tờ mờ sáng đã có quân báo, trung quân của Tào Tháo hành quân gấp rút, nửa đêm đã về đến Mạnh Tân, khi mạc phủ biết được tin này, đại quân chỉ còn cách thành chưa đầy mười dặm. Tào Phi chẳng thể ngờ rằng phụ thân lại quay về nhanh như vậy, cũng chẳng hề đánh tiếng gửi tin trươc, bèn vội vã dẫn đám Quốc Uyên ra nghênh đón. Nhưng vừa ra khỏi Nghiệp Thành đã trông thấy cờ xí rợp trời, bụi cát vần vũ một phương, Lưu Đại, Đặng Triển dẫn quân tiền trạm đã đến trước viên môn dại doanh. Cuộc phản loạn rõ ràng đã được bình định, nhưng trung quân vẫn gấp rút hành quân trở về, chư tướng trông thấy Tào Phi đều lần lượt chắp tay thi lễ, nụ cười trên mặt cũng không được tự nhiên, trông thấy tình hình này Tào Phi có dự cảm chẳng lành, cũng không dám đi nghênh tiếp nữa, đành đứng trước cửa nam Nghiệp Thành chờ đợi phụ thân.
Chưa đầy nửa canh giờ sau, trung quân do Hứa Chử, Hàn Hạo đốc soái đã đến nơi. Bọn Tào Phi đang ngẩng cổ nhìn ra xa, bỗng thấy hàng lối dẹp sang hai bên, Tào Tháo dẫn theo Tào Thực, Tào Chương cùng một số kỵ binh phi ngựa đến phía trước họ. Tào Phi vừa định khấu bái:
— Nhi tử cung nghênh phụ...
Nhưng y chưa kịp nói xong Tào Tháo đã gằn giọng:
— Tịnh Châu xảy ra chuyện gì?
Tào Phi bất giác sững sờ: Ký Châu xảy ra phản loạn, liên quan gì đến Tịnh Châu? Đang ấp a ấp úng không biết trả lời ra sao, Tào Tháo lại nghiêm giọng chất vấn:
— Tịnh Châu bắt dân lao dịch lẽ nào ngươi không biết? Hơn ngàn bách tính phải vào núi chặt cây phá rừng, lẽ nào không phải là chủ ý của ngươi?
Tào Phi lúc này mới nhớ ra - Lần trước xây Đồng Tước đài không đủ vật liệu, y nghe lời cữu phụ Biện Bỉnh, viết một bức thư gửi cho Thứ sử Lương Tập. Có lẽ Lương Tập cũng có ý tốt, muốn lấy lòng y nên mới bắt dân phu lao dịch thu thập cây gỗ. Đây vốn không phải chuyện gì to tát, nhưng lại xảy đến đúng lúc đang có phản loạn, há chẳng phải tự gây thêm tội? Tào Phi vội vàng biện giải:
— Quả thực nhi tử từng viết thư cho Lương sứ quân, nhưng không hề bảo ông ta bắt bách tính đi lao dịch, việc này nhi tử hoàn toàn không biết...
— Không biết? - Tào Tháo lớn giọng quát, - Ngươi đường đường là Ngũ quan trung lang tướng, tổng đốc mọi việc lưu thủ, xảy ra chuyện như vậy lại hoàn toàn không biết, vậy mà cũng dám nói ra! Ta mới đi được nửa năm, dân chúng Ký Châu đã vì ngươi mà làm phản, lẽ nào cũng muốn ép dân Tịnh Châu làm phản?
Tào Phi sợ đến nỗi hồn bay phách lạc, chân tay mềm nhũn cả ra, lập tức quỳ mọp xuống đất:
— Nhi tử không dám.
Quốc Uyên, Từ Tuyên nghe vậy cũng vô cùng khiếp hãi, vội vã quỳ xuống thỉnh tội.
Tào Tháo chẳng buồn nghe họ giải thích, cũng mặc đại đội binh mã đang đứng phía sau, thúc ngựa đi thẳng đến hành viên, vó ngựa hất tung cả đất bụi vào mặt Tào Phi. Tào Tháo đi rồi, Tào Thực, Tào Chương cũng không dám chậm trễ, vội vàng xuống ngựa dìu chúng thân đang quỳ bái đứng dậy. Tào Phi vẫn đang thẫn thờ, cũng được hai đệ đệ dìu dậy.
— Cớ sao phụ thân lại nổi cơn thịnh nộ như vậy?
Tào Thực thở dài:
— Huynh trưởng không biết mấy ngày nay phụ thân thế nào đâu, ăn không ngon ngủ không yên, bệnh cũ lại tái phát, cả ngày phải đắp khăn trên trán. Đã như vậy mà vẫn giục mọi người mau chóng hành quân, chúng đệ hết lời khuyên ngăn mà không được. Huynh chớ nên lo nghĩ, hiện giờ phụ thân đang bực tức, khó tránh khỏi oán trách huynh đôi lời, vài ngày nữa sẽ ổn cả thôi.
Tào Phi bán tín bán nghi nhìn vị đệ đệ của mình - Ngươi mà cũng nói lời tốt cho ta? Đến tám phần là đã thừa cơ thêm dầu vào lửa. Trong lòng nghĩ vậy, nhưng ngoài miệng lại nói:
— Những ngày này ta xử lý công việc rất mực dụng tâm, cây ngay không sợ chết đứng, có gì mà phải lo nghĩ? Chỉ phiền hai đệ bấy lâu thay ta tận hiếu bên cạnh phụ thân, chắc hẳn có nhiều điều bất an thôi!
— Huynh đệ trong nhà hà tất phải khách sáo như vậy...
Tào Thực hoàn toàn không nghe ra ẩn ý trong đó.
— Bình Nguyên hầu khải hoàn trở về, chúng tại hạ chúc mừng ngài! - Dương Tu, Đinh Dực cười hì hì lách ra từ trong đám người, - Hầu gia lần này chinh chiến tất đại triển uy phong, chúng tại hạ mong chờ đã lâu, tối nay sẽ làm một tiệc hầu nhỏ, phải nghe ngài kể lại những điều mắt thấy tai nghe mới được.
Tào Phi thấy hai người họ vây lấy Tào Thực không ngớt lời ton hót, cảm thấy lợm giọng như nuốt phải ruồi chết, đang thầm chửi rửa bỗng nhìn thấy trong quân khuôn mặt cười gian của Khổng Quế. Y tưởng rằng hắn tất sẽ chạy đến kiến lễ với mình, nào ngờ hắn chỉ khẽ chắp tay vái chào rồi cũng chạy đến bên cạnh Tào Thực, cầm lấy dây cương trong tay Tào Thực nói:
— Hầu gia cứ việc hàn huyên cùng chư vị bằng hữu, tiểu nhân xin dắt ngựa cho ngài.
— Không dám không dám. - Tào Thực vội chối từ, - Ngài nay cũng đã là chức Kỵ độ úy, tại hạ há dám làm phiền?
Khổng Quế nào để ý nhiều như vậy, giữ chặt lấy dây cương nhất quyết không rời:
— Tiểu nhân chỉ là kẻ vi mạt, may nhờ hậu ân của Thừa tướng và công tử, hầu hạ ngài chằng phải việc nên làm hay sao? Ai chẳng biết ngài tài đức song toàn, uy danh tứ hải, trung hiếu vô song? Hôm nay tiểu nhân dắt ngựa cho ngài đúng là phúc đức ba đời! Sau này về quê coi như tại hạ có chuyện để khoe rồi...
Tào Phi cúi đầu ủ rũ nghe những lời nịnh bợ ấy, bỗng cảm thấy quen tai đến vậy. Xem ra gió đông đã chuyển sang gió tây rồi!
Tào Tháo đổi xe ngựa ở hành viên rồi vào Nghiệp Thành, dọc đường ông ngồi đoan nghiêm không nhìn xung quanh, cho đến khi tới trước Ngũ quan trung lang tướng phủ mới khẽ động đậy một chút - Ông ngước lên nhìn tấm biển ngạch rồi thở một hơi dài nặng nề! Những kẻ bộc tòng đều nhận ra, sớm muộn ông và Tào Phi cũng sẽ nổi cơn phong ba, nhưng trong lúc này chẳng ai dám nói gì. Dần dần đi đến trước mạc phủ, cửa Tư Mã đã mở sẵn, Tào Tháo bước xuống xe, đưa mắt trông thấy Lã Chiêu đang khẩn khoản quỳ bên thềm, bèn giơ tay chỉ đại môn hỏi:
— Mở cửa lúc nào vậy?
Lã Chiêu không hiểu chuyện gì xảy ra:
— Cung nghênh Thừa tướng khải...
— Ta hỏi ngươi Tư Mã môn mở ra lúc nào!
Tào Tháo chợt nổi cơn thịnh nộ, gầm lên một tiếng. Lã Chiêu rất nhanh trí, vội vàng bẩm báo:
— Hay tin Thừa tướng trở về nên vừa mở cửa. Hơn nửa năm nay Trung lang tướng xử lý công vụ đều dùng cửa bên, chưa từng tự tiện mở ra.
— Được. - Tào Tháo lúc này mới hơi nguôi ngoai, - Phu nhân đã trở về chưa?
— Phụng mệnh của trung lang tướng, một tháng trước đã đón phu nhân trở về.
— Ngươi đúng là câu nào cũng không quên bảo vệ nó.
Tào Tháo xua tay cười nhạt, ngoảnh đầu nhìn lại, xa xa thấy có cỗ xe ngựa dừng trước cửa ngách, vài tên bộc đồng đang khuân vác đồ đạc lên xe. Tào Tháo cảm thấy quái lạ, bèn bỏ lại đám người đang quỳ hầu, men theo chân tường nhẹ nhàng bước đến, khi gần đến nơi mới thấy trên xe chất đầy gia cụ đủ loại, ghế án, hòm quần áo, giỏ nữ trang, ngoài ra còn có mười mấy hộc lụa loại thượng đẳng, đều là những đồ đạc ngày thường chia cho Biện thị, nhưng trước nay bà chưa từng dùng tới.
Thì ra Biện Bỉnh cũng ở đây, đang chỉ trỏ ra lệnh bọn tôi tứ:
— Mau mau mau! Hòm trang sức kia thì chuyển sang đây... nhanh tay lên! Hôm nay Thừa tướng trở về, nếu để ngài ấy biết được thì phiền to!
Ba bốn tên bộc đồng khuân bình phong gỗ và giá kệ vừa bước ra từ cửa sau, bỗng trông thấy Tào Tháo sát khí đằng đằng đứng sau Biện thị, sợ hãi quẳng bình phong xuống đất, vội vàng quỳ rạp xuống lẩy bẩy hô to:
— Tham kiến Thừa tướng!
Biện Bỉnh cũng thất kinh, vội vã quay lại thi lễ, lúc này cũng không tiện gọi là tỷ phu nữa, mặt đỏ au cười nịnh nói:
— Thì ra ngài đã về rồi, mã đáo thành công khải hoàn trở về, mạt tướng...
— Hừ! - Chưa kịp nói xong, Tào Tháo đã nhổ nước bọt vào mặt ông ta, - Ai cho ngươi dám tự tiện chuyển đồ trong phủ? Thảo nào tỷ tỷ ngươi thường ngày ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, thì ra những thứ tốt đều lén sai người chuyển đi cả rồi! Biện gia các ngươi quả là giỏi làm ăn, dám lấy trộm của cả mạc phủ. May mà ta mới đi có vài ngày, nếu đi cả năm không về, chỉ e ngay cả môn lầu cũng bị dỡ đem đến nhà các ngươi rồi! Cái tên mặt dày vô sỉ nhà ngươi!
Biện Bỉnh hãi quá, nước bọt trên mặt cũng chẳng dám lau, chỉ biết cúi đầu nghe chửi.
Tào Tháo càng nói càng tức:
— Ta bảo ngươi xây Đồng Tước đài, hẳn là ngươi cũng bòn rút không ít! Đúng là lòng tham không đáy! Tịnh Châu tự tiện ép dân lao dịch hẳn có liên quan tới ngươi! Lần này ta đã nhìn thấu rồi, các ngươi chẳng kẻ nào tốt đẹp cả, ta ở bên ngoài chinh chiến, còn các ngươi ở nhà gây họa. Các ngươi nhất quyết phải phá hỏng đại sự của lão phu, ép bách tính tạo phản mới cam lòng ư!
Chuyện gia sự quy về gia sự, chuyện quốc sự quy về quốc sự, Biện Bỉnh nghe xong câu này không nhịn được nữa, vội vàng biện giải:
— Thừa tướng e là hiểu nhầm rồi, mạt tướng tuyệt đối không dám...
— Câm mồm! Ta chẳng buồn nghe ngươi nói nữa! - Tào Tháo há lại để cho ông ta phân giải, vung chân đá một tên bộc đồng đang quỳ trước cửa, hậm hực bước lên bậc thềm, - Ngươi khôn hồn đứng đó cho ta, ta tìm tỷ tỷ của ngươi xem bà ta nói gì! Ta phải hỏi xem bà ta quản giáo đệ đệ của mình thế nào, dạy dỗ con cái ra sao? Sau đó sẽ tính sổ với ngươi!
Ông còn chưa kịp bước vào gia môn đã nổi cơn đại nộ như vậy, hôm nay hẳn sẽ khó bề yên ổn đây. Biện Bỉnh quỳ mọp xuống đất:
— Trăm ngàn lỗi sai đều ở tiểu đệ, tỷ phu xin chớ...
Tào Tháo nào có để ý đến ông ta, chẳng buồn quay đầu lại mà xông thẳng vào mạc phủ. Việc Tịnh Châu phản loạn vốn đã khiến cho ông phiền não, những gì mắt thấy tai nghe dọc đường lại càng đổ thêm dầu vào lửa, trong mắt ông lúc này dường như tất cả đang đối địch với mình. Ông chẳng buồn cởi bỏ giáp áo, hằm hằm xông vào trong phủ, đám liêu thuộc, bộc đồng lũ lượt vái chào, ông không đếm xỉa mà đi thẳng đến trước Hạc Minh đường; lại nghe thấy chúng phu nhân đang cười cười nói nói bên trong, còn nghe thoảng đâu đây tiếng tơ trúc, lại càng nổi trận lôi đình, đưa tay vạch ngang rèm cửa, thét:
— Đủ rồi! Ta đang ở ngoài chinh chiến, đám phu nhân các ngươi lại thong dong tự tại như vậy! Ai cho các ngươi tự bày yến tiệc?
Chúng phu nhân giật mình hoảng hốt, những người nhát gan như Tần thị, Đỗ thị còn đánh rơi cả chén, đã bao giờ trông thấy lão gia động nộ như vậy với người trong nhà? Tào Tháo càng chẳng buông tha, chỉ thẳng Biện thị mắng:
— Quy củ suy bại đều do bà mà ra, xem xem con trai mà bà nuôi, còn cả đệ đệ tốt của bà nữa... - Nói được nửa chừng ông bỗng sững lại. Ông phát hiện ra bên cạnh Biện thị còn có một vị phu nhân, hình như không phải là thê thất của mình; những người khác vừa trông thấy ông là vội vàng vái chào vạn phúc, duy chỉ có vị phu nhân này là vội vã quay người đi không thèm nhìn mình, người ấy là ai vậy?
Mặc dù không nhìn rõ khuôn mặt, nhưng Tào Tháo đã đoán được bà ta là ai. Bởi vì dáng hình quá đỗi thân thuộc, dáng hình cần mẫn, lao khổ trước khung cửi không biết đã xuất hiện bao nhiêu lần trong giấc mơ của ông, mặc dù lưng đã gù hơn đôi chút nhưng ông chắc chắn không thể nhận nhầm. Cơn giận của Tào Tháo thoáng chốc tiêu tan, đầu óc trống rỗng, đôi mắt trân trân nhìn Đinh thị - Bà giờ đã gần sáu mươi tuổi, đầu cũng đã một màu bạc trắng, chẳng khác gì một bà lão quê mùa.
Điện đường bỗng trở nên im ắng, đôi môi Tào Tháo khẽ run, không biết nên nói gì. Khuyên bà ấy ở lại? Đã từng này tuổi rồi, ông thực sự không mở nổi miệng. Đuổi bà ấy đi? Ông cũng không nỡ lòng. Xét cho cùng là người vợ kết tóc của ông, xét cho cùng ông đã phụ lại bà ấy, đã gần đến tuổi mộ niên lại bất chợt gặp nhau, nên mở lời như thế nào đây? Đang trong lúc băn khoản khó xử, Biện thị mỉm cười mở lời:
— Tướng công xin chớ nổi giận, lần trước thiếp ở Mạnh Tân nhiễm bệnh, có vị lão tỷ tỷ này ở cùng thiếp mấy ngày, chịu không ít vất vả. Phi nhi lại phái người đến đón thiếp, thiếp liền mời tỷ tỷ đến phủ chúng ta ở vài ngày để cảm tạ. Vị lão tỷ tỷ này tính tình kỳ lạ, không chịu gặp người lạ, thế nên...
Tào Tháo thấy Biện thị nói đến đó rồi thôi, liệu rằng Đinh thị vẫn không chịu gặp mình, thì ra chỉ đến cùng Biện thị để hàn huyên chuyện cũ, trong lòng vừa cảm thương vừa bối rối. Ông cũng hùa theo Biện thị, ấp a ấp úng:
— Được... được. Vậy mọi người cứ trò chuyện, thay ta khoản đãi cho tốt.
Nói đoạn rụt rè bước ra. Ông mơ màng bước ra giữa vườn, bất giác cảm thấy ấm áp - Thì ra ta đã trách oan chị em Biện thị, bọn họ nhân lúc không có ta ở đây đón Đinh thị đến phủ để chiêu đãi, Biện thị chuyển cả một xe đồ đạc hẳn là để chu cấp cho bà ấy. Để người vợ kết tóc của mình phải nhờ những thê thiếp khác chăm sóc phụng dưỡng, thân làm tướng công như ta đúng thực là thất bại! Không gặp Đinh thị thì thôi, gặp rồi trong lòng ông bất giác lại nhớ đến Tào Ngang. Tào Tháo vừa tiếc nuối vừa hối hận, nếu như Ngang nhi còn sống, há lại đến nông nỗi phu thê ngoảnh mặt, há lại đến nỗi không thể chọn ra một người kế tục xứng đáng? Nếu như Ngang nhi còn sống, đừng nói là trấn thủ Nghiệp Thành, chỉ e ngay cả việc đông chinh tây thảo cũng có thể thực hiện thay ông. Năm xưa Tào Ngang trong lúc nguy nan đã nhường lại chiến mã, lấy cái chết để báo hiếu, Tào Phi thì gặp lúc phản loạn lại muốn tranh công đoạt lấy binh quyền!
Những gì đã mất mãi mãi là những điều tốt nhất, ông càng so sánh Tào Phi với Tào Ngang, càng cảm thấy Tào Phi không xứng. Nỗi oán phẫn với chị em Biện thị đã tiêu tan, nhưng sự bất mãn với con trai thì càng ngày càng sâu sắc...
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 9