There is no way to happiness - happiness is the way.

There is no way to happiness - happiness is the way.

Thich Nhat Hanh

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 49
Cập nhật: 2020-10-17 01:21:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1
ùa đông năm đầu niên hiệu Vĩnh Khang nhà Hán (năm 167) tiết trời giá lạnh khác thường, cả phương bắc tuyết phủ trắng xóa. Nhất là kinh đô Lạc Dương, đã hơn mười ngày liên tục không hôm nào nắng ráo, gió tây bắc rét buốt thổi điên cuồng, cuốn theo những bông tuyết lạnh thấu xương, khiến đô thành lớn bậc nhất thiên hạ này trông thật tiêu điều ảm đạm.
Trong hoàng cung ở Lạc Dương, vị hoàng đế ba mươi sáu tuổi Lưu Chí đang ngự trên long sàng. Bệnh tật đã giày vò ông ta quá lâu rồi. Trong bóng tối đặc quánh, ông nghe thấy tiếng gió rít gào bên ngoài, càng thấy người mình trở nên nhẹ bẫng, cảm giác như bản thân đã bị một cơn cuồng phong thổi bay tít tận chân trời nào.
Lưu Chí lên ngôi năm mười lăm tuổi, trong hai mươi mốt năm làm vua, mười ba năm đầu ông bị đại tướng quân Lương Ký bên họ ngoại coi như bù nhìn, thỏa sức thi hành bạo chính, tàn độc với bách tính trăm họ. Tám năm tiếp theo ông lại bị bọn hoạn quan đầu độc mê hoặc, cấm cố trung thần, ngăn lời can gián. Vì thế triều chính ngày một suy bại, tiểu nhân đắc thế, dân đen khổ sở, giặc ngoài xâm phạm, thiên hạ đã bị họa hại khôn cùng.
Nhưng trong khi nằm trị bệnh, ông lại không hề để tâm kiểm điểm những sai lầm trước đây, tuy vậy lại luôn bận lòng vì hai việc rất phiền phức. Thứ nhất, bản thân không có con nối dõi, nếu chẳng may nhắm mắt buông tay mà đi, tất nhiên bá quan văn võ trong triều sẽ phải tìm trong con em tôn thất khác để chọn ra một người kế vị, như thế nghĩa là sẽ bắt đầu một cuộc tranh giành mới giữa hoạn quan và ngoại thích. Thứ hai, lúc này không phải buổi thái bình, ở biên ải phía tây, đang xảy ra một cuộc đại chiến giữa nhà Hán với người Khương, tuy quân triều đình đã nắm thế thượng phong, nhưng kết quả cuối cùng thì chưa ai nói chắc...
Cuộc chiến kinh hoàng đó bắt đầu từ cuối xuân năm nay, khi mà dân chúng thành Vân Dương bận rộn tay cuốc tay cày, dắt trâu ra đồng, bắt đầu một vụ mùa mới. Nhờ tiết trời đã dần ấm lên, bọn trẻ cũng lon ton đi theo nô đùa chạy nhảy. Ai nấy đều hy vọng có một năm tốt đẹp, ngay đến ánh mặt trời cũng dường có ý quyến luyến mảnh đất đầy yên bình này. Nơi đó không có cảnh tranh giành chiếm đoạt của triều đình, không có sự điêu ngoa xảo trá của thói đời, tựa hồ là cảnh cực lạc giữa chốn nhân gian.
Bỗng nhiên, có đám người cưỡi trên lưng những con ngựa cao lớn phi tới, phá tan bầu không khí an lành của đồng quê.
Hầu hết mọi người chẳng hề bận tâm, cứ cho rằng họ chỉ là đám thợ săn. Nhưng có mấy bô lão, nét mặt bỗng lộ vẻ bất an, họ nhìn thấy rõ mồn một đám người cưỡi ngựa ấy vạt áo đều vắt bên trái - Người Khương!
Lập tức ngay sau đó, thành Vân Dương phát sinh hàng loạt đổi thay: đầu tiên là cổng thành mở muộn và đóng sớm hơn, đồng thời được tuần tra nghiêm ngặt. Rồi số quan binh canh giữ trên lầu thành tăng thêm nhiều lần, sắc mặt ai nấy đều căng thẳng nghiêm cẩn. Đầu đường cuối ngõ, ai ai cũng truyền tai nhau, người Khương đã đánh chiếm Lương Châu rồi, chẳng bao lâu nữa sẽ đến đánh nơi này.
Chiều ngày thứ ba, quân lính trấn giữ thành Vân Dương phát hiện phía xa xa trên bình nguyên bao la sát chân trời, thấp thoáng xuất hiện rất nhiều những chấm đen nhỏ, không lâu sau dần hiện rõ là một đoàn kỵ binh. Lính canh lập tức cấp báo lên tướng giữ thành. Trong khi tướng giữ thành vội vã thượng lầu và sợ hãi sững người: đội quân binh mã đen xì đã tràn đến chân thành như một cơn sóng.
Hơn ngàn người còn nhìn chẳng thấy hết, hơn vạn người thì chật đất liền trời! Mà đám quân lính này đều ăn mặc trang bị như nhau - không đội nón giáp, chỉ mặc áo lông thú, cưỡi trên lưng ngựa khỏe, vạt áo vắt bên trái!
Tuy nói là triều đình đã có sự chuẩn bị, nhưng binh lực quân Khương vây đánh Vân Dương từ ba mặt, điều đó hoàn toàn nằm ngoài dự tính. Mặc dù quân trấn thủ đã ra sức chống chọi, nhưng mạnh yếu không cân sức, tám trăm người cả tướng lẫn lính run rẩy chống đỡ sao nổi hơn ba vạn quân Khương dũng mãnh thiện chiến?
Sau một hồi tử thủ, thành Vân Dương cuối cùng bị công phá, tướng giữ thành và quan huyện lệnh chết trận, tám trăm binh lính đều bị giết sạch, rồi người Khương bắt đầu thả sức tranh cướp và giết chóc không còn kiêng sợ gì nữa. Chúng điên cuồng chiếm đoạt lương thực, tiền của và phụ nữ, nhà cửa của dân chúng quá nửa cũng bị chúng đốt rụi bằng một mồi lửa, chỉ cần ai đó hơi có chút chống cự, liền bị chúng đạp lăn quay vào đống lửa, rồi bồi thêm cho một nhát dao tàn bạo... Tiếng kêu gào than khóc vang vọng khắp trong thành, thảm thiết đến nỗi khiến người ta phải sởn da dựng tóc. Trong khói lửa nghi ngút, mùi da thịt cháy khét lẹt khiến ai ai cũng buồn nôn, tòa thành cổ phút chốc trở thành địa ngục giữa trần gian.
Sau khi đốt nhà giết người cướp của, người Khương không rút khỏi Vân Dương, mà để lại một nửa số quân nhằm chiếm đóng, nửa còn lại bắt đầu tiến đánh nơi khác. Chỉ thương cho đám dân đen chẳng còn đường sống, nam nữ thanh niên trốn chạy điên cuồng, người già yếu bệnh tật chỉ đành ngồi chờ chết, những ngày tháng ấy thực không biết nói sao cho xiết. Trông đợi và trông đợi. Binh mã cùng lá cờ nhà Hán biết bao giờ mới đến...
Cuối cùng đến tháng 10, Hộ Hung nô Trung lang tướng Trương Hoán dẫn binh mã từ Tịnh Châu quay sang, chỉ một trận đã phá tan bọn giặc cỏ, giành lại vùng đất đã mất, chém chết hơn mười thủ lĩnh tộc Khương, bắt và giết hơn một vạn quân địch. Tuy trận đánh thắng lợi vang dội, nhưng khi quân Hán cắm được lá cờ lên lầu thành thì Vân Dương đã biến thành một mảnh đất chết im lìm hoang phế.
Chưa được mấy ngày tuyết bắt đầu rơi, đại doanh quân Hán phải lần lượt co lại, không giống kiểu đội quân vừa đại chiến thắng lợi. Nhìn xuyên qua cửa viên môn(*), giữa lớp lớp doanh trại, tầng tầng giáo mác, có một doanh trướng vải xanh rất lớn, trên nóc tuy tuyết đọng nhiều, nhưng bên ngoài quân sĩ giáp y vẫn đứng nghiêm trang không hề lơi lỏng. Trước trướng có một cột cờ nhà Hán dựng thật cao - đó chính là đại trướng trung quân của Trương Hoán.
Đúng lúc ấy, trong đại trướng tuy có các tướng lĩnh ngồi nghiêm trang, nhưng không gian vô cùng im ắng, chỉ có mấy chậu lửa than đang cháy lách tách. Hộ Hung nô Trung lang tướng Trương Hoán, tự Nhiên Minh, mặc một bộ giáp trụ, bên ngoài khoác chiến bào xanh, trong lòng ôm mũ soái khôi, mấy nếp nhăn trên khuôn mặt phương phi và những sợi râu lốm đốm trước ngực cho thấy rõ ông đã sáu mươi hai tuổi. Lần ra quân này, ông đã lĩnh chỉ từ mùa thu năm ngoái, chuyển từ chức Đại tư nông sang nhận chức Hộ Hung nô Trung lang tướng, Tổng đốc việc quân ba châu U, Tịnh, Lương, kiêm quản quân mã hai doanh Độ Liêu và Ô Hoàn, có quyền giám sát thứ sử của ba châu cũng như các quan viên ở kinh kỳ, đáng gọi là gánh trách nhiệm ngàn cân, đồng thời cũng đủ thấy sự ưu ái của hoàng đế là không hề nhỏ. Quả thực lão tướng quân đã không phụ sự ủy thác của hoàng đế, trước tiên là đánh bại quân chủ lực của Hung Nô ở Vũ Uy và Trương Dịch, sau đó tiến quân vào Tịnh Châu, khiến người Ô Hoàn sợ hãi chưa đánh đã chạy. Tiếp đó ông lại ruổi ngựa chạy đến Vân Dương đánh bại quân Khương, ba lần đánh, ba lần thắng, có thể nói là công lao to lớn. Nhưng trông ông lúc này khác hẳn tác phong mạnh như sấm nhanh như gió thường ngày, ngồi bên bàn chủ soái lặng yên không nói, trong tay cầm một cây gậy nhỏ, gẩy than lửa trong chậu, hai mắt chăm chăm lặng nhìn khúc than củi đang cháy gần hết. Các tướng cũng không ai cử động, mắt chăm chú nhìn vị tướng già, hệt như những pho tượng đất.
Cứ như thế hồi lâu, Trương Hoán mới ném khúc gỗ trong tay xuống, nhìn khắp lượt các tướng trong doanh rồi thở dài bảo:
— Trong lòng ta rất buồn... Năm xưa Tần Thủy Hoàng xây dựng Trường Thành, sợ Hung Nô xâm phạm quấy nhiễu, mới dời dân từ quận Ngũ Nguyên đến gây dựng nên thành Vân Dương này. Hôm nay thành đã bị người Khương hủy hoại, vô số thường dân đã phải chết oan. Lão phu thực khó tránh khỏi tội bị quở trách. Nếu chúng ta có thể chuyển từ Tịnh Châu đến đây sớm một bước thì đã tốt hơn rồi. Ôi... Doãn Tư mã, có tin tức gì về đám người Khương chạy trốn đó chưa?
Quân tư mã Doãn Đoan vội trả lời:
— Thuộc hạ đã tìm hiểu rõ ràng. Cả bộ lạc Tiên Linh Khương (một trong những bộ lạc của người Khương) bị chết bị thương gần hết. Số sót lại vòng qua Cao Bình, lui vào cầm cự tại núi Phùng Nghĩa. Bẩm đại nhân, bây giờ chúng ta khởi binh truy kích ngay chứ?
Trương Hoán lắc đầu.
— Ngài quyết định chiêu an người Khương? - Doãn Đoan hỏi lại.
— Ừ.
— Ơn đức của Hoàng thượng bao la, lòng nhân của đại nhân rộng lớn, đúng là may mắn cho triều đình, may mắn cho bách tính... - Doãn Đoan đổi giọng. - Có điều người Khương xưa nay không trọng tín nghĩa, từ khi hoàng đế Quang Vũ phục hưng nhà Hán đến nay, mấy lần tiến đánh, mấy lần phủ dụ, nhưng rốt cuộc chúng đều phản lại. Thời Hiếu An hoàng đế, Ngu Hủ đánh bại giặc Khương ở Vũ Đô, bọn sót lại lưu lạc đến Ích Châu, vị tướng đó để mấy năm công phu dung dưỡng tật nhỏ thành bệnh lớn, cuối cùng chúng lại đánh thành cướp đất, thỏa sức làm loạn. Ngày nay ngài nắm giữ binh mã ba châu, nếu nhân đà quân đang thắng, cổ vũ chí khí, quét sạch bọn giặc còn lại thì thực là đã trừ đi mối họa lớn cho triều đình. Nếu tướng quân lại vì lòng nhân từ một lúc mà bỏ qua mối họa này, ngày sau khó tránh khỏi, chúng sẽ lại cuốn đất tiến vào, gây chuyện can qua. Xin ngài hãy suy xét kỹ lưỡng cho!
Trương Hoán nghe Doãn Đoan nói vậy trên mặt vẫn không biểu lộ gì:
— Ta đâu phải không biết những chuyện đó? Người Khương đúng là mối họa lớn của nước nhà, cục diện cuộc chiến này cho đến hôm nay thực sự cũng rất khó xác định. Nhưng ta đã từng giữ chức Đại tư nông mấy năm, tiền của chúng ta có được bao nhiêu, trong lòng ta biết rất rõ. Lần này chinh phạt Hung Nô, đánh lui Ô Hoàn, đánh bại người Khương, hao tổn không thể tính được, liệu triều đình có thể tung thêm tiền ra được nữa không? - Vừa nói ông vừa đưa mắt nhìn khắp lượt các tướng tá. - Đánh nhau phải mạnh ở tiền bạc và lương thảo! Như hiện tại, ở đây có hơn mười vạn đại quân, mỗi một bước đi đều cần đầy bạc vàng rải đất, lương thảo mở đường, đem quân đến núi Phùng Nghĩa đâu có dễ dàng? Huống chi...
Trương Hoán nói đến đây đột nhiên dừng lại. Ông vốn định dẫn ra câu nói của Khổng Tử: “Ta e rằng, nỗi lo của Quý thị, là ở trong tường vách”, nhưng lời vừa tới đầu môi đã kịp kiềm chế lại. Ông tuy đang ở ngoài biên ải, nhưng những chuyện trong triều ít nhiều vẫn nắm được: Đương kim hoàng thượng từ sau chuyện ngăn chặn bè phái, càng thêm sủng tín bọn hoạn quan. Bọn thái giám do Vương Phủ, Tào Tiết cầm đầu, đòi hối lộ nhũng nhiễu khắp nơi, bài xích những kẻ không theo mình. Phe cánh Đậu hoàng hậu ngày càng cường thịnh, nắm các chức vụ quân cơ trọng yếu ở kinh thành. Trong khi quan tư đồ Hồ Quảng chủ chính, lại đúng là “lão già tốt bụng”, chẳng kham nổi việc hay ho gì, chỉ biết làm lung tung khắp chỗ. Lại còn quan Hộ Khương hiệu úy Đoàn Quýnh, đấu đá tranh công khắp nơi, lần ra quân này, ông ta án binh bất động, ngầm tự giữ miếng, bây giờ lại ầm ầm kéo quân đến Bành Dương, ai cũng thấy rõ là tranh thủ đến cướp công. Ngoài mấy chuyện bung xung ấy ra, Tư lệ Hiệu úy Tào Tung mới là nhân vật khiến người ta phải đau đầu nhất! Tào Tung không những dựa vào bọn hoạn quan. Mà còn cùng một giuộc với Đoàn Quýnh. Với đại quân nắm giữ trong tay, ông ta đã cai quản toàn bộ khu vực xung quanh kinh thành, rồi lại kiêm giữ việc cung cấp quân lương. Được biết hoàng thượng hiện thân mang trọng bệnh, không thể xử lý công việc triều chính, nếu mình đem quân đến núi Phùng Nghĩa, chẳng may lão Tào Tung ấy đâm lén sau lưng, cố ý để “quân lương không kịp” thì chẳng những đánh không thắng trận, mà e rằng cái mạng già của mình còn phải đền vào đấy! Nghĩ đến đó, Trương Hoán bỗng thấy lạnh run người. Nhưng đối mặt với tướng lĩnh đủ các phe phái có tốt có xấu khắp trong doanh trại, nên dù có ngậm đắng nuốt cay trong lòng cũng không thể thổ lộ hết ra cho nhẹ lòng.
— Tướng quân, dù thế nào cũng không thể vội vã thu quân! Nếu ngại đại quân hành động không tiện, mạt tướng nguyện xin một đội binh mã, đi ngày đêm đến thẳng Cao Bình, thề sẽ quét sạch núi Phùng Nghĩa! - Một giọng nói vang lên như sấm rền, khiến các tướng trong doanh đều giật mình. Trương Hoán quay đầu lại nhìn thì ra kẻ xin đem quân đi ấy là Tư mã Đổng Trác.
Đổng Trác người cao tám thước, lưng hổ eo gấu, tay chân thô lớn, đầu to tai bự, mặt đen xì đầy thịt, lại thêm bộ râu rậm quăn tít, lộ rõ vẻ hung hãn muôn phần. Anh ta mới ba mươi tuổi, nhưng theo Trương Hoán cầm quân đã không ít năm, là một viên dũng tướng hiếm có, chỉ có điều tính tình nóng nảy, hung tợn, thiếu sự kiềm chế.
Trương Hoán không để ý đến việc xin lệnh của anh ta, nói đùa bảo:
— Trọng Dĩnh! Ngươi sao lại phạm lỗi cũ rồi? Bây giờ đám người Khương kia chỉ kém chút nữa thôi là mất hẳn chỗ dựa, đều là những kẻ cố cùng liều thân không sợ nguy hiểm gì nữa. Nếu lần này ngươi đến Tịnh Châu mà đánh không được, sẽ làm mất quân uy. Việc này cần phải tính kế lâu dài.
— Tính kế lâu dài! lại là tính kế lâu dài! Nếu lão tướng quân không tin tôi có thể thắng được, tôi xin lập tờ quân lệnh cam đoan!
Trương Hoán cười nhạt một tiếng:
— Tờ quân lệnh cam đoan này ngươi chớ nên lập! Dù ta có phái ngươi đi tiền trạm thì trận này cũng chưa chắc đến lượt ngươi được đánh!
— Ngài nói vậy là ý gì? - Đổng Trác trợn tròn hai mắt nhìn chòng chọc về phía ông.
Trương Hoán không để ý đến sự thất lễ của anh ta, nói tiếp:
— Ngươi không biết đấy thôi, nửa tháng trước, chúng ta và người Khương đang sống mái với nhau, Đoàn Quýnh (tự Kỷ Minh) đã dẫn binh mã của Độ Liêu doanh (quân đồn trú biên phòng) lẳng lặng tiến đến Bành Dương rồi, ở đó sẽ nắm được núi Phùng Nghĩa - sào huyệt của người Khương. Tên Đoàn Kỷ Minh đó chỉ thích cướp công, lần trước người Khương tan vỡ, hắn chưa rõ thực hư nên chưa dám đánh chặn. Qua mấy ngày nay, hắn đã nắm được tám chín phần mười rồi. Nếu chúng ta dẫn đại quân đi, hắn sẽ còn e dè không dám ra tay tranh công, cùng lắm chỉ là hiệp trợ thôi. Nhưng nếu là ngươi chỉ dẫn một đội binh mã đi đánh núi Phùng Nghĩa, chắc chắn hắn sẽ không nhường nhịn, lẽ nào hắn lại để miếng ăn đến miệng cho ngươi? Trọng Dĩnh này, ngươi hãy bỏ ý định ấy đi!
Doãn Đoan cũng nói:
— Lão tướng quân nói rất chí phải! Tên Đoàn Quýnh kia đã xin ý chỉ của hoàng thượng đợi chúng ta đánh bại người Khương, hắn sẽ đi tiếp để quét sạch sào huyệt giặc, lại còn lên giọng sẽ cho bọn người Khương “giáo dài xuyên ngực, đao sắc bay đầu”. Xem ra hắn nhất định muốn cướp công lao này. Lão tướng quân đánh đông dẹp bắc, rốt cuộc công lao lại bị hắn cướp mất, trong lòng chúng tôi thực rất bất bình.
Trong lòng Trương Hoán tự nhiên càng thêm bực bội, nhưng trước mặt chư tướng, tâm trạng đó không thể để lộ ra. Ông cố ý cười to, nói gạt đi:
— Các ngươi cho rằng ta sợ Đoàn Kỷ Minh cướp công ư? Lão phu đã hơn sáu mươi tuổi, đâu đến nỗi phải so đo với một kẻ hậu sinh. Hai chúng ta chỉ là bất đồng về kiến giải trong sách lược chống giặc mà thôi.
Nói rồi ông đứng dậy đi mấy bước đến bên Doãn Đoan:
— Đoàn Kỷ Minh rất am hiểu đạo dùng quân, đáng coi là một viên tướng giỏi, nhưng hắn ham công thích lợi, quá say mê việc giết chóc!
— Người Khương hủy hoại thành quách cửa ải của chúng ta, hại trăm họ của ta, chúng ta có giết thêm ít người của chúng cũng không có gì quá đáng. - Doãn Đoan nói vẻ đầy phẫn nộ.
— Không quá ư? Ngươi vẫn muốn giết họ không còn một ai ư? Nói thì đơn giản như vậy, chỉ e hậu quả của nó không thể nào lường hết được. Vả nay đúng buổi mùa thu nhiều việc, nếu lại để tai họa liên miên, ngay ở Trung Nguyên dần sẽ có bọn phản dân làm loạn. Trong triều đình thì hoạn quan chuyên quyền không ai không biết. Nếu như lại kết oán thù với những tộc dân biên giới, chỉ e sau này, Trung Nguyên có biến động, người Khương ôm khối hận, liên kết với Hung Nô, Tiên Tì, Ô Hoàn, đồng loạt cử binh xâm nhập. Lại thêm những dân tộc phương nam luôn không chịu quy phục, cũng sẽ nhân loạn lạc, cắt đất, phân chia cương vực. Đến khi ấy, đám người Hồ này sẽ có thể làm loạn ở Trung Nguyên! - Ông vừa nói vừa đi đi lại lại. - Cho nên, bao năm nay ta theo kế sách của Hoàng Phủ Quy (danh tướng thời Đông Hán), vỗ về chiêu an là thượng sách, tấn công giết chóc là hạ sách. Vì vậy, không gây hận thù với các tộc dân biên giới, khiến họ thành tâm mà quy phục. Sách lược ấy đã thực hiện lâu nay, thế nào cũng không thể vứt bỏ hết công sức bấy lâu được.
— Lão tướng quân nói rất có lý, chúng tôi suy nghĩ thật chưa thấu đáo. - Doãn Đoan gật gật đầu. - Nếu lão tướng quân đã phải vất vả dụng tâm như vậy, sao không soạn một bức thư khuyên giải Đoàn Quýnh, để ông ta không giết chóc quá đà?
— Vô ích thôi! Đoàn Kỷ Minh tâm khí cao ngạo, lại đang mong mỏi lập công. Nếu không giết người thì lấy đâu ra công lao? Huống chi, trong lòng hắn luôn đố kỵ ta ở vị trí cao hơn. Nếu như ta viết thư khuyên nhủ, hắn sẽ cho rằng ta ngăn cản hắn lập công, há hắn lại chịu nghe theo ư?
Đổng Trác nghe rồi, lại cất giọng sang sảng nói to:
— Tên Đoàn Quýnh ấy là cái thá gì? Nếu thực có tài thì phân minh đấu một trận để ông xem sao nào! Lại định cướp công ngay dưới mũi chúng ta, đồ chết toi ấy có đáng là hảo hán hay không?
— Trọng Dĩnh! Không được nói bừa! - Trương Hoán sợ Đổng Trác thẳng tính nói ra những câu không lọt tai, lại gây lắm chuyện thị phi. - Bình tĩnh mà nói, Kỷ Minh biết dùng binh hơn ta. Các ngươi có còn nhớ, năm Diên Hi thứ ba, ông ta dẫn quân vượt ải hai ngàn dặm, truy kích thắng lợi. Lại còn năm ngoái, đánh một trận chuyển bại thành thắng ở Hoàng Trung. Các tướng trong triều hiện nay, ai có được bản lĩnh như vậy? Thật khiến người ta không thể không phục! Trước kia, Hoàng Phủ Quy tiến cử ta lên hoàng thượng, ta mới có thể may mắn ở trên Kỷ Minh... Tính đến hôm nay, mỗi khi nghĩ lại chuyện này, lão phu lại cảm thấy hổ thẹn trong lòng vậy. - Trương Hoán tỏ vẻ vô cùng khiêm tốn, rồi từ từ ngồi xuống. - Kỷ Minh đang ở độ tuổi tiền đồ rộng mở, ta cũng có ý bắt chước chuyện ngài Hoàng Phủ nhường vị trí cho ta thuở xưa, dâng sớ lên triều đình, nhường lại vị trí cho Kỷ Minh. - Vừa nói ông vừa vuốt chòm râu đốm bạc trước ngực. - Ta từng này tuổi rồi, cũng nên lùi bước lại phía sau, để những người tuổi trẻ tỏ rõ uy phong chứ!
Mấy câu nói ấy, thực sự trong sáng mát lành như nước giếng khơi vừa mới múc, khiến tất cả tướng lĩnh trong doanh ai cũng thầm cảm phục trong lòng, có người không ngừng tán thưởng, có người không ngớt gật đầu, có người không ngăn được cảm kích.
— Lão tướng quân! - Đổng Trác bỗng nhiên kêu to làm tan đi những lời bàn tán của chúng tướng, chỉ thấy anh ta đứng vụt dậy, chau mày trợn mắt, những thớ thịt hung hãn trên mặt giật giật liên hồi. - Lão tướng quân nhượng vị cho Đoàn Quýnh, sao lại không nhượng vị cho tôi? Chỉ để cho người ta ngồi quan cao, cưỡi ngựa đẹp thì Đổng Trác tôi ngày nào mới được tỏ rõ oai phong?
— Hỗn xược! - Trương Hoán bỗng nhiên nổi giận. - Tên thất phu kia, sao dám vô lễ như vậy! Người đâu!
Hai tên lính nghe tiếng chạy vào.
— Lôi tên này ra ngoài, đánh cho bốn mươi gậy rồi xét sau!
Doãn Đoan vội vã quỳ thụp xuống cầu xin:
— Xin đại nhân bớt giận! Trọng Dĩnh mong mỏi lập công nên mới ăn nói không kiêng dè như vậy, chứ thực sự không có ý gì! Hơn nữa, anh ta ở trong quân đã lâu, cũng lập nhiều công lao, xin tướng quân tha cho anh ta lần này! - Các tướng khác trong doanh cũng vội vã quỳ hết cả xuống kêu xin.
Cơn nóng giận kìm nén trong lòng Trương Hoán bấy lâu, giờ bị Đổng Trác làm bùng lên, làm sao còn có thể nghe theo những lời khuyên giải được. Ông với tay lên bàn chủ soái lấy một tấm đại lệnh bài:
— Triều đình dùng người tự có phép tắc, há lại có thể tùy tiện thị phi nói bừa như thế? Nếu ai còn cầu xin cho nó, sẽ xử cùng tội như vậy, quyết không khoan thứ...
— Cấp báo! - Một tiếng cấp báo ngoài trướng cắt ngang cơn thịnh nộ của Trương Hoán.
— Cho vào.
— Bẩm báo tướng quân, Hoàng thượng đã băng hà!
— Sao? Ngươi nói lại xem nào? - Trương Hoán không tin vào tai mình nữa.
— Hoàng thượng bệnh quá nặng, hôm qua đã băng hà tại điện Đức Dương trong hoàng cung.
...
Chuyện của Đổng Trác tạm thời được gác sang một bên. Mọi người trong doanh, kẻ đang ngồi, người đang đứng hay đang quỳ tất cả đều lặng đi. Hồi lâu, Trương Hoán mới từ từ lấy lại tinh thần, bước đến giữa trướng, ngẩng đầu nói:
— Truyền lệnh lập tức, dẫn quân về triều!
Doãn Đoan ngạc nhiên hỏi:
— Không đánh tiếp nữa ạ?
— Còn đánh gì nữa? - Trương Hoán trừng mắt bảo. - Trong lúc gay go này mà lại đánh tiếp, ngươi không sợ Tào Tung, Đoàn Quýnh vu cáo chúng ta tự tiện dùng binh có ý mưu phản sao? - Nói rồi, ông cúi đầu nhìn tấm lệnh bài trong tay, thở dài không biết làm sao.
Nỗi lo của Tào Tung
Tư lệ hiệu úy Tào Tung nhận lời giúp Đoàn Quýnh nên mới tìm trăm phương ngàn kế đấu với Trương Hoán, nhưng khi nhìn thấy số vàng tạ ơn đang bày trước mắt, ông chẳng vui vẻ chút nào.
Nguyên nhân rất đơn giản: Thay vua mới, tất cả phải bắt đầu lại từ đầu.
Hán Hoàn đế Lưu Chí đã kết thúc cuộc đời ba mươi sáu năm ngắn ngủi trong cơn hôn mê, những giờ khắc cuối cùng trên dương thế, ở bên ông chỉ có cha con hoàng hậu Đậu thị và Quang lộc đại phu Lưu Thúc. Vì không có con nối dõi, nên vị tân hoàng đế được chọn là Lưu Hoành - con trai của Chử Đình hầu Lưu Trường, mới mười hai tuổi, cháu xa của hoàng đế vừa băng hà. Lập một đứa trẻ nhỏ tuổi như vậy lên làm hoàng đế, Đậu thị tỏ rõ ý muốn nắm quyền. Bấy giờ, phụ thân của hoàng hậu là Đậu Vũ đã nhảy một bước trở thành đại tướng quân quyền nghiêng thiên hạ, những người trong họ cũng lần lượt tiến vào nơi điện đường thành người quyền cao chức trọng, việc Đậu thị chuyên quyền đã là cục diện rõ ràng.
Tào Tung thân là nghĩa tử của hoạn quan Tào Đằng, bao năm nay vẫn luôn theo truyền thống của nghĩa phụ, giữ quan hệ thân mật với thế lực hoạn quan. Mỗi khi triều đình có sự vụ bàn bạc quan trọng nào, ông tất sẽ đứng về phe đám hoạn quan. Bản thân nếu có nhận bổng lộc nào từ bên ngoài, cũng phải trước tiên cung kính lên mấy tay đại hoạn quan như Vương Phủ, Tào Tiết... Tóm lại, thế lực hoạn quan là một cây đại thụ của nhà họ Tào, nhờ có đại thụ mới có bóng râm che mát... Thế mà giờ đây Đậu Vũ lại muốn chặt đổ cây ấy đi.
Đậu Vũ xuất thân là một nho sĩ ở Quan Tây, quan hệ thân thiết với bọn thái học sinh, luôn muốn lật lại vụ án ngăn chặn bè phái cho đám học trò, thế thì làm sao ông ta có lòng dung tha cho bọn hoạn quan Vương Phủ, Tào Tiết hoành hành trước mắt mình? Hiện giờ ông ta đã tôn lão quan Trần Phồn - người có mâu thuẫn cực kỳ sâu sắc với cánh hoạn quan - lên làm chức Thái phó, lại cất nhắc những kẻ bị bãi miễn trong việc ngăn chặn bè phái như Lý Ưng, Đỗ Mật... thì chuyện sinh tử của nhóm hoạn quan đã như chỉ mành treo chuông rồi. Nhưng nếu bọn Vương Phủ, Tào Tiết bị lật, chắc chắn sẽ moi được vô số bí mật không thể để người khác biết của Tào Tung. Tham ô, sách nhiễu, hối lộ, cấu kết chư hầu, bè phái mưu lợi, chơi bời bỏ bê chính sự... rất nhiều tội danh đang bay lượn trong đầu Tào Tung. Chỉ cần đám hoạn quan đổ bể, là những tội ấy ngay tức khắc trút cả xuống đầu ông.
Bây giờ mà chạy sang phía Đậu Vũ cầu cạnh vẫn chưa quá muộn! Nhưng như thế chẳng phải bán rẻ bản thân sao? Hơn nữa, liệu họ Đậu có khoan dung tiếp nhận mình không? Tào Tung càng nghĩ càng thấy sợ, bỗng đâu mồ hôi đã túa ra đầy mình, thật đáng giận khi bên cạnh không còn ai có thể chỉ ra một con đường sáng. Ông ta phái người đi gọi em ruột là Tào Xí đến gấp, hai anh em phải phân tích thật kỹ tình hình trước mắt.
Đúng lúc ấy, bên ngoài vọng vào những âm thanh ồn ào náo loạn. Tào Tung đang bực bội trong lòng, ngoái cổ nhìn ra ngoài, tức giận quát lớn:
— Đứa khốn kiếp nào làm bừa ở ngoài ấy? Gà chó nào ầm ĩ lên giữa trưa thế hả?
— Là đại thiếu gia đấy ạ! - Một kẻ đầy tớ nhanh chân chạy vào thư phòng bẩm báo. - Thiếu gia bị trúng gió ạ!
— Vậy sao? - Tào Tung nghe nói con trai bị trúng gió nhưng chẳng vội vã gì. - Lại trúng gió rồi! Gần đây sao nó cứ trúng gió liên tục thế? - Vừa nói ông vừa bật cười.
— Thiếu gia đang nằm dưới đất, lão gia... lão gia có qua nhìn xem thế nào không?
— Ừ. - Tào Tung ngưng lại giây lát, rồi đứng dậy đi ra ngoài. - Để ta đích thân ra xem sao. Nó làm sao mà trúng gió?
— Vừa nãy chúng con đang hầu đại thiếu gia học bài! Sau đó...
— Học bài? Học sách gì?
— Dạ... là Trung dung ạ.
— Trung dung hả? Ha ha... - Tào Tung cười vang thành tiếng. - Trung thì làm sao dung? Có chăng là vô dụng thì có! Nó mà biết đọc sách thì ta đã chẳng phải bạc tóc như thế này! Có gì thì nói thật cho ta biết, khi nãy các ngươi đã làm trò gì?
— Lão gia! - Tên đầy tớ ngây ra cười. - Đúng là không có chuyện gì giấu được ngài ạ! Khi nãy chúng con đang theo đại thiếu gia chọi gà ở sân sau. Sau đó thấy lão quản gia đến bảo buổi chiều sẽ có nhị lão gia đến, còn chưa nói dứt câu thì thiếu gia đã ngã vật xuống, khiến bọn chúng con sợ mất vía, có phải sai người đi tìm đại phu không ạ?
— Thôi đi! Tìm làm gì? - Tào Tung từ đầu đã chẳng vui vẻ gì. - Bệnh của nó là bệnh ham chơi, gió nó trúng là gió lười học, bệnh ấy phải để ta trị nó! - Vừa nói xong ông cũng vừa hay đi tới hậu hoa viên.
Một thiếu niên nhiều lắm cũng chỉ mười một mười hai tuổi đang nằm ngửa trên nền đất, chân tay duỗi thẳng. Cậu ta mắt trợn ngược, mồm méo xệch, nước miếng dòng dòng rớt ra bên khóe miệng. Nhìn trên người, bộ quần áo gấm đã bị lăn lộn đầy bụi đất, bẩn thỉu, lôi thôi, một chiếc ủng da hươu cũng bị đạp văng xa mấy mét. Cậu thiếu niên hé mắt thấy phụ thân đến, lại càng nổi cơn co giật mạnh hơn.
Tào Tung nhếch miệng cười, không nói một tiếng, chỉ đứng lặng nhìn đứa con trai đang nằm dưới đất. Cứ cười như vậy hồi lâu mới cất tiếng:
— Quản gia đâu! Xem ra A Man đúng là bệnh thật rồi, mau đi tìm đại phu đến đây... À, đúng rồi! Nhân tiện ngươi nói với bọn nhà bếp, bữa trưa nay không cần chuẩn bị cơm rượu gì đâu, khi nãy đệ của ta sai người đến báo ông ấy có việc đột xuất, hôm nay không đến nữa!
Câu nói vừa dứt, cậu thiếu niên như được uống thuốc tiên, lập tức ngồi ngay dậy được. Miệng cậu ta cũng không thấy méo, môi không còn trề ra, chân tay cũng không co giật nữa, cậu nhanh tay lấy ống tay áo quệt mạnh, lau sạch nước mắt nước mũi trên mặt. Chẳng mấy chốc đã hoàn toàn thay hình đổi dạng, khuôn mặt tròn trịa, cặp lông mày đen đậm, mắt to lộ rõ vẻ nhanh nhẹn - đúng là một đứa trẻ thông minh đáng yêu.
— Vừa nãy ta làm sao thế? - A Man hỏi mấy kẻ đầy tớ bên cạnh. - Tại sao ta lại nằm dưới đất thế này?
— Thiếu gia, cậu vừa lại bị trúng gió đấy.
— Lại trúng gió! - A Man chớp hai mắt vẻ vô tội. - Gần đây không biết làm sao thế nhỉ?
— Gần đây nhị thúc con thường xuyên đến nhà. - Tào Tung nói một câu trúng phóc. - Ông ấy cứ đến là mắng con ham chơi, khuyên con đọc sách, con không chịu nổi, mới giả vờ bệnh để đối phó với ông ấy, ta nói không sai chứ?
A Man nghe xong vội vàng phủi bụi trên người, rồi cúi gập người sát đất, cung kính nói:
— Không ngờ hài nhi làm kinh động đến phụ thân! Hài nhi đã biết tội rồi ạ!
Tào Tung xem xong màn biểu diễn của cậu con trai, đúng là vừa bực bội vừa buồn cười, ông bước lên kéo con trai vào lòng mình, lấy ống tay áo sạch sẽ của mình lau hết bụi đất trên mặt con. Ông lúc nào cũng yêu thương con trai như vậy, dù cho A Man có làm điều sai trái ông cũng yêu thương bảo vệ nó. Đó là vì sao vậy? Chính ông cũng không thể hiểu được, tất nhiên là có lý do từ tình phụ tử tự nhiên, nhưng quan trọng hơn có lẽ là bởi khi còn nhỏ bản thân ông thiếu thốn tình cảm cha con một cách đúng nghĩa! Ông biết rõ con trai ham chơi, lười học, hơn nữa tính tình cũng huênh hoang, hống hách. Nhưng Tào Tung cho rằng điều ấy cũng chẳng có gì to tát, chỉ cần mình còn đường tiến thân thuận lợi thì lo gì con trai không có tương lai tốt đẹp. Cho nên hôm nay cũng như mọi khi, tình thương con trong ông lại chiếm thế thượng phong, ông vội gọi đầy tớ hỏi:
— Đức nhi đâu rồi? - Tào Đức là con trai thứ hai của Tào Tung, là con của người tiểu thiếp, ít hơn A Man bốn tuổi.
— Tiểu thiếu gia đang đọc sách ở trong phòng ạ! - Kẻ đầy tớ đáp.
— Mau dẫn nó đến đây.
— Tiểu thiếu gia cứng đầu lắm, khi đọc sách không cho chúng con vào phòng đâu.
— Đúng là tính khí kỳ quặc! Ngươi bảo với nó là ta cho gọi nó đến. - Tào Tung dặn dò. - Ngày đẹp trời thế này, nên cho nó ra ngoài hoa viên chơi đùa một chút. Thằng này thì không thiết đọc sách, thằng kia lại là con mọt sách, mới tí tuổi đầu đã chúi đầu trong phòng, đừng có đọc đến mụ người đi chứ!
Một lúc sau, tên đầy tớ đã dẫn một cậu bé bụ bẫm đến, đó là Đức nhi, hai anh em chúng cùng chơi trốn tìm trong vườn hoa. Tào Tung đang không bận viết tấu biểu, nên cũng ngồi nán lại trên khối đá xanh mà ông ưa thích, tươi cười nhìn hai con chơi với nhau. Thực sự ông rất yêu thương con mình. Khi còn nhỏ, nghĩa phụ chưa bao giờ cùng chơi với ông, sau này lớn lên lập gia thất không may liên tiếp mất đi ba đứa con, khó khăn lắm mới giữ được hai đứa này, mà mẹ chúng lại lần lượt theo nhau bị bệnh qua đời. A Man và Đức nhi chính là cái rễ cho sinh mệnh của ông, ông yêu thương chúng như viên ngọc trên tay, như máu thịt trong tim mình vậy! Đức nhi tuy nhỏ nhưng thích đọc sách học tập, biết khiêm tốn nhường nhịn, y như một ông cụ non. Còn A Man thì chỉ thích chơi bời, nhưng lại thông minh lanh lợi, tùy cơ ứng biến, cũng thật hiếm có.
Tào Tung nghĩ đến chuyện A Man giả vờ bị trúng gió, đúng là rất thú vị. Một ngày nọ cách đây nửa năm, Tào Tung đang tiếp khách thì người em họ là Tào Xí chạy đến nói, A Man bị trúng gió đang nằm ngoài kia. Tào Tung nhớ đến chuyện ba đứa con trai trước đó đều chết yểu, sợ hãi quá, vội chạy đi xem thế nào thì A Man vẫn đang ngồi bình thản như không trong phòng. Từ đó về sau còn hai lần nữa tình huống cũng y như vậy, Tào Tung nghi hoặc, A Man thì lấy làm buồn tủi bảo:
— Không biết vì sao mà thúc thúc rất ghét hài nhi, cứ luôn nói xấu hài nhi trước mặt cha.
Từ đó về sau, Tào Xí có đến nói với ông những câu kiểu như A Man bệnh rồi, A Man không thích học, A Man gây tai họa ở bên ngoài... Tào Tung chỉ coi như gió thoảng ngoài tai. Lâu ngày, cái chiêu ấy không còn linh nghiệm nữa, A Man lại đổi trò mới, vờ bị bệnh thật, ra sức để thúc thúc của mình không mở miệng nói được câu gì, đúng là láu cá vô cùng. Tào Tung dần hiểu ra nguyên do đầu đuôi sự việc, nhưng không những không trách A Man, mà lại cảm thấy đứa con trai mới mười hai tuổi đầu này mà đã có thể nhanh trí như vậy thì đúng là không phải tầm thường.
Lúc này đây, trong đầu Tào Tung bỗng không ngừng hiện lên con số “12”. Ông nhớ lại khi là đứa trẻ mười hai tuổi mình như thế nào: vừa sinh ra đã bị người ta bế đi cho một vị hoạn quan làm con nuôi, tuổi thơ tất nhiên tối tăm u ám. Ông vẫn nhớ năm mình mười hai tuổi, dưỡng phụ Tào Đằng nhân vì có công phò tá tiên đế, được thăng chức Đại Trưởng Thu(*) và được phong tước Phí Đình Hầu, đó thực sự là niềm vinh dự và nỗi sỉ nhục chưa từng có đối với nhà họ Tào. Nói vinh dự, là vì phụ thân ông hiển hách làm nên, ngày càng được mấy vị tiên đế sủng ái tin tưởng cho tận đến lúc qua đời. Nói sỉ nhục là vì tước vị mà phụ thân ông giành được đó bị rất nhiều người dị nghị. Tuy khi ấy ông tuổi còn nhỏ, nhưng cũng nghe thấy không ít lời bàn ra tán vào. Nghe nói Hiếu Chất hoàng đế bị “Tướng quân hống hách” Lương Ký đầu độc chết, mà phụ thân ông sau sự việc ấy lại được thăng quan tiến chức nhờ công lao đưa ra kế sách - tất nhiên sẽ có người cho rằng phụ thân ông là đồng mưu trong việc giết hại Hiếu Chất hoàng đế! Làm con nuôi một hoạn quan như vậy sao tránh khỏi sự coi thường của người đời? Bản thân ông từ đó bắt đầu học được sự nhẫn nhịn chịu đựng, nhẫn nhịn sự quản giáo của cha, nhẫn nhịn sự khinh thường của người đời, nhẫn nhịn sự dị nghị của đồng liêu, nhẫn nhịn nỗi đau mất con mất vợ, nhẫn nhịn rất nhiều rất nhiều việc... nhẫn nhịn cho đến tận bây giờ, thế mà tương lai sẽ còn phải tiếp tục nhẫn nhịn.
Tào Tung vỗ tay lên trán, tự trách mình không nên suy nghĩ quá nhiều, nhắc mình phải ứng phó cho được Đậu Vũ mới là việc gấp rút nhất hiện nay. Ông lấy lại tinh thần quay sang nhìn các con, phút chốc chợt lặng đi: Chỉ có trẻ con là sung sướng, ngày ngày chẳng phải lo nghĩ gì... Ôi? Có chuyện gì thế này? Rõ ràng là hai đứa chơi trốn tìm, sao giờ bỗng hóa ra ba đứa rồi?
Ông dụi mắt, thấy rõ ngoài A Man và Đức nhi ra còn có một đứa trẻ nữa, khoảng trên dưới mười tuổi, người mặc chiếc áo bẩn đen thui, bụng buộc sợi thừng nham nhở, đang cùng chơi với chúng.
— Ngươi là thằng bé lang thang ở đâu đến? Làm sao mà vào được đây? - Tào Tung vội vã đứng lên.
Đứa bé ấy vẫn thản nhiên chơi đùa, dường như chẳng thèm để ý đến Tào Tung.
Tào Tung lấy làm bực mình, tiến tới túm lấy áo nó:
— Ta hỏi ngươi, ngươi làm sao vào được đây?
— Nhảy tường vào! - Thằng bé cũng quá hư đốn, nó túm lấy vạt áo Tào Tung lau nước mũi đang chảy ra rề rề. - Ông vội làm gì, cháu vào đây có phải mới một hai lần đâu.
— Hừ! - Tào Tung giận dữ nạt nộ. - Chúng ta là nhà thế nào, mà đứa trẻ lang thang như ngươi dám tự tiện vào chơi đùa? Lại còn trèo tường vào nữa, cha mẹ ngươi dạy dỗ ngươi thế nào? Mau cút đi cho ta!
Không ngờ còn chưa nói dứt câu, A Man đã lật đật chạy đến:
— Phụ thân đừng trách nó, khi hài nhi sang nhà nó chơi, cũng nhảy qua tường vào đấy ạ.
Còn đang nói con nhà khác, mà hóa ra con cái cao môn lệnh tộc nhà mình cũng chưa được dạy dỗ đến nơi đến chốn, khiến cho Tào Tung giận đỏ cả mặt:
— A Man, nó rốt cuộc là ai?
— Nó tên là Sái Mạo, chúng hài nhi thường vẫn chơi với nhau.
Tào Tung không biết Sái Mạo là người thế nào, lại thấy nó người ngợm lôi thôi, tất nhiên cho rằng nó là con cái nhà nghèo hèn:
— Cút! Từ nay về sau không được phép đặt chân đến nhà ta. Thằng bé lang thang này, lại còn làm hỏng cả A Man nhà ta. Nếu ngươi còn dám đến nữa, ta sẽ nói với cha mẹ ngươi, để họ lôi ngươi về!
Đứa bé ấy làm bộ mặt quỷ, bảo:
— Ông có tài thì đi mà nói với họ, họ đều ở Tương Dương cả đấy.
Tào Tung nghe xong cảm thấy mơ hồ, làm sao có chuyện nhà ở Tương Dương mà đứa trẻ mười mấy tuổi lại tự mình đi đến Lạc Dương chơi được? Còn chưa kịp hỏi nhiều thì đã thấy người quản gia hốt hoảng chạy đến nói:
— Lão gia, có mấy tên nô bộc nhà quan Đại tư nông(*) họ Trương đang đến ngoài cửa đòi người ạ.
— Đòi người nào?
Quản gia đáp:
— Họ nói công tử cháu của đại nhân nhà họ đi ra ngoài chơi, nhất thời không trông nom, đã chạy vào trong phủ nhà chúng ta.
Ôi trời! Đứa bé này là cháu Đại Tư nông Trương Ôn đây sao! Đầu Tào Tung như vỡ tung, thế này chả phải là đắc tội với ông ấy sao? Ông vội vàng đổi sắc mặt hiền hòa, tự mình quay lại phủi bụi đất trên người Sái Mạo:
— Sao công tử không nói sớm? Mấy hôm nay ta cũng đang định đến thăm Trương đại nhân đây! Thế này nhé, ta sẽ đích thân đưa cậu về phủ, có được không?
Sái Mạo tuổi còn nhỏ, không hiểu vì sao thái độ của ông ấy lại thay đổi nhanh như vậy:
— Không được, không được! Ông chắc sẽ mách tội tôi với thúc phụ tôi chứ gì, như thế thì sau này ông ấy sẽ không cho tôi đi chơi nữa đâu.
Tào Tung cười làm lành, xoa đầu nó bảo:
— Công tử, cậu nghĩ sai rồi. Ta muốn dẫn theo Mạnh Đức cùng đi, để nó cũng được gặp thúc phụ của cậu. Ta sẽ nói rõ đầu đuôi, để sau này hai đứa các cháu được qua nhà nhau chơi, chẳng phải sẽ không cần trèo tường nữa sao? - Trẻ con làm sao có thể hiểu được tâm tư của ông ta. Tào Tung muốn mượn cớ này để qua lại kết giao với Trương Ôn, nhân thể hỏi ông ta về việc quay sang với Đậu Vũ.
— Thật không ạ? - Sái Mạo và A Man đều thích thú nhảy cẫng lên.
Tào Tung một tay dắt A Man, một tay dắt Sái Mạo, nói năng ngọt ngào, ông ta lại dặn quản gia:
— Mau chuẩn bị xe, để ta đi sang nhà Đại Tư nông Trương đại nhân.
Hỏi kế ở Trương phủ
— Có Tào đại nhân đến thăm.
— Ồ? - Trương Ôn đang đọc sách, nghe gia nhân vào bẩm báo như vậy cảm thấy rất đỗi bất ngờ. - Người ngươi nói là Tào đại nhân nào vậy?
— Tư lệ Hiệu úy Tào Tung ạ.
— Hừ! Vô duyên vô cớ, ông ta đến làm gì?
— Dạ bẩm lão gia, công tử cháu của đại nhân chạy vào phủ họ Tào chơi, Tào đại nhân sau khi phát hiện, sợ bọn trẻ có nguy hiểm gì, nên đã đích thân đưa cậu nhà về phủ.
— Ồ! - Trương Ôn nhíu đôi lông mày, ông vốn ghét con người Tào Tung, hầu như chưa từng qua lại riêng với ông ta. Nhưng hôm nay lão hồ ly đó lại đích thân đưa cháu mình về phủ, làm sao không khỏi hoài nghi? Ông đã định không gặp, nhưng lại băn khoăn, khi xưa mình cũng nhờ dưỡng phụ của ông ta là hoạn quan Tào Đằng tiến cử lên tiên đế mới có cơ hội về kinh làm quan, dù thế nào nhà họ Tào cũng có ơn với mình, làm Tào Tung mất mặt cũng không hay. Nghĩ đến đấy, ông mới lẩm bẩm một câu không được thoải mái lắm:
— Mời ông ta vào!
Lúc sau, Tào Tung đĩnh đạc tiến vào, ông ta đầu đội mũ thông thiên, người vận áo màu xanh, lưng thắt đai gấm, chân đi hài vân, ăn mặc đàng hoàng tử tế. Từ rất xa ông ta đã cúi người vái chào:
— Bá Thận huynh! Lâu nay vẫn bình an chứ?
— Cháu tôi nghịch ngợm, làm Cự Cao huynh phải vất vả để tâm... Xin mời ngồi! Mời ngồi! - Trương Ôn thấy ông ta chẳng gần gũi gì mà cứ giả như thân thiết lắm, cũng không thể không nói vài câu khách sáo. Hai người vồn vã chào nhau, nhưng khi ngồi xuống rồi lại chẳng có câu nào ăn nhập với nhau cả. Tào Tung chỉ biết hỏi Trương Ôn mấy câu kiểu như sức khỏe thế nào, gần đây có tụ tập uống rượu với ai không, mọi người trong nhà có được bình an không... khiến Trương Ôn càng thêm hồ nghi, chỉ biết trả lời qua quýt câu có câu không. Đâu biết rằng khi đặt chân tới đây Tào Tung đang ôm trong lòng biết bao nhiêu toan tính, đắn đo cân nhắc đủ kiểu để tìm ra câu nói lên chủ ý của mình, huyên thuyên hết chuyện đông chuyện tây, trên trời dưới bể.
— Con người ta ai cũng có sở thích riêng, người yêu văn chương, kẻ ham săn bắn, người mê tiệc tùng, kẻ thích đá cầu, còn như tôi thì chẳng biết món gì, chỉ biết ngủ một giấc đẫy... Bá Thận huynh, ngài thì sao?
Trương Ôn nói vẻ chế giễu:
— Cũng chả có gì, chúng ta đều bận rộn việc công, rảnh một chút thì đọc sách, viết văn cũng coi là thú tiêu khiển rồi.
— Giỏi được một món gì cũng tốt, thơ phú văn chương của Bá Thận huynh tôi cũng có may mắn được đọc, thần thái sinh động lắm! Cả đời tôi cũng không viết được như thế... Nhưng người ta nói, món ăn ngon chẳng bằng đồ ăn đẹp, văn chương hay cũng phải có chữ đẹp đi cùng... Nói đến thư pháp hiện nay, tất phải nói đến Lương Hộc, viết chữ rất đẹp, tôi nghe nói, chữ ông ta không kém gì chữ Lý Tư, đẹp đẽ chỉnh tề như những chữ “Thụ mệnh ư thiên, Ký thọ vĩnh xương” trên dấu ngự tỷ truyền quốc vậy. Còn nếu nói đến chữ thảo, đứng đầu phải nói đến ngự bút của Hiếu Chương Hoàng đế chúng ta, tên gọi “Chương Thảo” ai mà không biết, ai mà không hiểu chứ!
— Đúng vậy... - Trương Ôn càng nghe, trong lòng càng thêm ngờ vực, lẽ nào giữa trưa nắng chang chang thế này ông ta lại đến chỗ mình chỉ để chuyện phiếm giải sầu. - Chữ của tôi dù có luyện thêm tám mươi năm nữa e rằng cũng không theo kịp Lương Mạnh Hoàng, nhưng nói văn chương thì cũng dám nhận là tạm được.
Cắn câu rồi! Tào Tung mừng quýnh trong lòng, nhưng không để lộ gì ra ngoài mặt, vẻ rất tự tin bảo:
— Nếu nói đến văn chương, tôi rất ngưỡng mộ văn chương quan Thái phó họ Trần hiện thời.
— Cự Cao huynh thật có con mắt tinh tường! Trần Thái phó khí khái hơn người, văn chương sắc sảo, thêm nữa lại là người chính trực cương nghị, đó cũng là văn giống như người vậy.
— Không sai! Năm xưa, khi xảy ra vụ án bắt bớ đảng phái, bài sớ ông ấy dâng tấu để bảo vệ bọn Lý Ưng thật là tuyệt diệu! Tôi vẫn còn nhớ được mấy câu: “Trời trông nhà Hán, buồn bã không thôi, cho nên âm thầm gây biến, để bệ hạ tỉnh ngộ. Trừ khử yêu nghiệt, thực là ở việc tu sửa đức mình. Thần ở chỗ đài ti, lo lắng và trách nhiệm nặng nề, không dám tiếc thân ham lộc, ngồi nhìn thành bại. Nếu được bệ hạ chấp thuận cho thì dù thần phải đầu lìa khỏi xác, cũng không ân hận.” Khà khà... Mấy câu nói đó thật người thường không ai dám nói! - Tào Tung cười nói.
— Không sai một chữ! Cự Cao huynh thật có trí nhớ siêu phàm.
— Ngài quá khen rồi... Tôi thấy rằng cái hay của mấy câu này chính là ở bốn chữ “Trừ khử yêu nghiệt”.
— Ồ? - Trương Ôn chợt nhận ra chủ ý của ông ta khi đến phủ mình.
— Từ khi Lương Ký bị tru diệt đến nay, đám hoạn quan ngày càng được sủng ái, trong thì hoành hành chốn triều chính, ngoài thì vơ tiền nơi châu quận, lại còn che giấu không cho thánh thượng biết, cấm cố những người tốt, hãm hại kẻ trung lương, ức hiếp dân đen. Bọn nhãi hoạn quan này gọi là “yêu nghiệt” lẽ nào lại không đúng?
Trương Ôn đăm đăm nhìn Tào Tung, y như trước mắt là người mà mình chưa từng quen biết. Một người thường xuyên qua lại thân thuộc với bọn Vương Phủ, Tào Tiết, không hiểu tại sao hôm nay lại chửi mắng bọn hoạn quan như vậy? Phải chăng là muốn thay lòng đổi dạ để phò tá tân vương... Không phải vậy chứ? Bản thân ông ta là con nuôi của hoạn quan, có thể giành được chức Tư lệ Hiệu úy cũng là nhờ Vương Phủ ngầm trợ giúp. Mấy năm lại đây thật không hiểu ông ta đã dành bao nhiêu sự ưu ái ngợi khen cho đám hoạn quan, thế mà chỉ qua một đêm bỗng quay ngoắt mũi giáo lại như vậy? Nghĩ đến đó, Trương Ôn bỗng nhếch miệng cười:
— Cự Cao huynh, cớ sao lại đem chuyện quốc gia đại sự ra nói với kẻ ngu đần như tôi thế? Chẳng qua tôi chỉ là được thanh nhàn thì thanh nhàn, một lòng quan tâm đến chức trách của mình mà thôi.
— Ha ha... - Tào Tung gượng cười mấy tiếng. - Bá Thận huynh, ngài là cây dùi trong bọc, giấu kín không để lộ đó thôi! Hiện giờ Đại tướng quân và Trần Thái phó nắm giữ triều chính, mạnh dạn sử dụng người trong đám bè lũ khi xưa. Bọn Lý Ưng, Đỗ Mật đều có vị trí hàng cửu khanh, xem ra thực sự cần phải ra tay với đám hoạn quan, lẽ nào ngài lại không hay biết?
Trương Ôn dường như đã hiểu, đúng là lão già giảo hoạt, quả nhiên mèo hoang vào nhà chuyện gì cũng có thể xảy ra. Nhất định là bởi lão trông thấy đám hoạn quan gặp nạn, nên mới chạy tới chỗ ta nhờ nói giúp thành ý của lão đến tai Đậu Vũ đây mà! Trương Ôn chỉ hận một nỗi không thể đá bay kẻ ba dao hai mặt này ra ngoài, ngoài miệng vẫn phải nói năng từ tốn:
— Tôi chẳng qua chỉ là một thư sinh hèn kém, sao dám so với Tào đại nhân, có tài xét được chỗ người ta chưa xét tới, nhìn được chỗ người ta chưa nhìn ra.
Tào Tung đã nghe ra ý tứ của Trương Ôn, liền bảo:
— Bá Thận huynh quá khen rồi! Tôi cũng chỉ vì muốn tận lực chia sẻ nỗi lo lắng của hoàng thượng mà thôi.
— Vậy ư? Sự khổ tâm của Tào Đại nhân thật hiếm có! - Ngữ khí của Trương Ôn dường như muốn xới vào nỗi khổ của Tào Tung.
— Bá Thận huynh cười tôi ư?
— Không dám. - Trương Ôn lạnh lùng nói. Tào Tung nhìn thấy bộ dạng tránh né của ông ta, trong lòng chưa biết tính sao, vừa cúi đầu xuống liền trông thấy trên án thư phủ Trương Ôn có cuốn Luận ngữ bọc bìa lụa, bỗng nhiên nhớ đến câu nói của Khổng Tử: “Người quân tử lấy nghĩa ra để dụ”, tức khắc quay lại nhìn rồi vội vàng đứng dậy thi lễ với Trương Ôn.
— Ngài như thế này là...
— Bá Thận huynh, xin ngài chỉ điểm cho bến mê này!
— Chuyện này... ngài mau đứng lên đi, cùng là bề tôi dưới điện rồng, tôi làm sao cáng đáng nổi! - Trương Ôn vội đưa tay ra đỡ Tào Tung dậy.
— Tôi không giấu ngài nữa! Tôi tự biết trước đây có qua lại mờ ám với đám hoạn quan, nhưng chuyện đó, thực không phải bản tâm tôi như vậy. Suy cho cùng, tôi chỉ vì muốn giữ được chiếc mũ quan này, không phụ ơn của dưỡng phụ và để cho con cháu họ hàng có tiền đồ tốt đẹp mà thôi! Từ khi bước vào con đường hoạn lộ đến nay, ai ai cũng bảo tôi là kẻ xấu xa mà gã hoạn quan để lại, ngày càng lạnh nhạt với tôi. Hơn hai mươi năm nay, lúc nào cũng như đi trên băng mỏng, tuy không tránh được chuyện a dua theo kẻ xấu, nhưng chưa từng làm chuyện thương thiên hại lý bao giờ. Tôi cũng từng nghĩ cứ làm việc thẳng thắn cương trực, làm một ông quan công chính liêm minh, nhưng... trước thói đời như thế, nào ai biết làm gì khác? Bá Thận huynh thông hiểu kinh sách, thử một lần tính kế giúp tôi, điều mà sách Trung dung uy nghi đường bệ nói đến chẳng phải là ba chữ “Bất Đắc Dĩ” đó sao? Bá Thận huynh, không dám cầu nhiều, chỉ xin ngài hãy lấy quyền là người trước, chỉ cho tôi một con đường sáng để đi...
Trương Ôn bị dao động, trong lòng thầm nghĩ: “Kẻ này từ nhỏ phải làm con nuôi của hoạn quan, quá nửa cuộc đời bị người đời khinh ghét, cũng phải dốc hết tâm sức mới rèn được bản lĩnh vượt qua, bình tĩnh mà suy xét, thực cũng đáng thương. Khi xưa ta cũng chỉ là con nhà nghèo hèn, một tên học trò áo vải, nếu chẳng phải nhờ dưỡng phụ của ông ta là Tào Đằng nâng đỡ, nào có được thân phận cửu khanh tôn quý bây giờ?” Ông cứ nghĩ mãi, không đừng được cảm xúc dâng trào, gật đầu bảo:
— Ngài hà tất phải như vậy... với tài năng có thừa, lo gì cơn gió đùa sóng gợn này. Được rồi! Xin Cự Cao huynh suy xét kỹ mà xem, triều ta từ khi định thiên hạ đến nay, hoạn quan hoành hành làm loạn chính sự, nhưng những chuyện họ làm có ý cướp nước bao giờ chưa?
— Chưa có.
— Thế nhưng, bọn ngoại thích thì có lòng dạ ấy không?
— Điều này...? - Tào Tung nghiến răng, - Tôi cứ nói bừa vậy thôi, trước kia có Vương Mãng, gần đây có họ Đậu, họ Đặng, họ Diêm, họ Lương.
— Được rồi! Loạn chính với cướp nước, hai cái ấy cái nào nặng hơn?
— Cướp nước là đại nghịch!
— Thế là ông hiểu rõ rồi chứ! Hoạn quan là những kẻ đã phải chịu khổ hình rồi, cướp nước sao nổi... Ông lại nghĩ thêm xem, ban nãy kể ra những Đậu Hiến, Đặng Trắc, Diêm Hiển, Lương Ký đều nhờ hoạn quan lật đổ, trong số bọn họ, trừ Lương Ký là hống hách chuyên quyền, còn những kẻ khác thì thực sự là không có tội ác nào không làm, có đúng không?
— Điều này... ý ngài thấy thế nào?
— Bọn họ chưa hẳn đã là người ác, nhưng con em hống hách, người nhà ỷ thế, khó tránh được việc khiến hoàng thượng hoài nghi. Mà bọn hoạn quan lại gần gũi với nhà vua, có khác nào lũ chấy rận ở ngay trên người hoàng thượng, ngấm ngầm xui bẩy, để nhân việc trừ bỏ ngoại thích kiếm chác giàu sang, nhưng ai có thể đứng ra bắt lũ chấy rận trên người hoàng thượng ấy? Cho nên việc quét sạch hoạn quan, không phải là việc một sớm một chiều, chỉ có thể theo việc mà làm, tội đâu xử đó, tuyệt nhiên không có cách nào chém sạch giết hết được.
— Ồ? - Mắt Tào Tung chợt sáng lên.
— Nước trong quá thì không có cá... - Trương Ôn trầm ngâm nói, - Huống chi nay đang là một đầm nước đục! Muốn trong cũng có trong được không? Những đại tướng quân ngoại thích bây giờ, có ai không nhờ cánh hoạn quan giúp đỡ mà nắm được đại quyền? Hoạn quan và ngoại thích vốn là một, chỉ là lâu lâu thì thay lòng đổi dạ trở thành kẻ thù thôi!
Tào Tung nghe được những câu ấy, như tỉnh giấc mộng, cứ gật đầu liên tục:
— Thực là cao kiến! Xa thì không nói, nhưng lần này Đậu Vũ nắm được đại cục, đúng là được sự giúp sức của bọn Vương Phủ. Tôi nói câu này có vẻ khó nghe, nhưng cũng có nỗi lo “qua cầu rút ván” vậy.
— Đúng vậy! Thế nên giờ ông ta dùng lại đám người thuộc bè lũ khi xưa, chẳng qua cũng chỉ là để dát thêm vàng lên mặt mà thôi. Suy cho cùng, bọn này không biết được bụng dạ của Đậu Vũ, ngay đến đương kim Thái phó là Trần Phồn - người vẫn luôn ủng hộ ông ta cũng thế. Bọn họ chẳng qua là mượn thế của Đậu Vũ để trừ nạn hoạn quan, mà thực lực thật sự của Đậu Vũ cũng chẳng có gì to lớn!
— Nói vậy thì, Đậu Vũ không lật đổ nổi hoạn quan ư?
— Cũng khó nói, chẳng có đạo lý nhất định nào cho mọi sự. Nếu ông ta có thể cẩn thận chu toàn trong các việc, khiêm tốn học hỏi Trần Thái phó, mượn thanh thế của nhóm đảng phái cùng sự ngờ nghệch của vị vua trẻ thì vẫn có thể tính toán thắng lợi, chưa chắc đã không thể tạm lọc trong đầm nước đục này. Thế nhưng con người Đậu Vũ, tính tình quá thẳng, thích công hám lợi... tôi không cho là có gì tốt đẹp! - Trương Ôn cười nhạt.
— Theo như ngài nhìn nhận, việc này nếu muốn làm nên, quan trọng nhất là gì?
— Việc văn thư tuy quan trọng, nhưng chuyện võ bị càng quan trọng hơn!
— Võ bị ư?!
— Đúng! Binh quyền ở năm doanh Bắc quân mới là quan trọng! - Vừa nói xong câu ấy, Trương Ôn chợt nhận ra mình đã lỡ lời: Không nên nói như vậy mới phải! Nếu ông ta thông đồng với Vương Phủ, khiến họ Đậu và cánh học trò thất bại thì chẳng hóa ra ta là kẻ tội nhân thiên cổ sao?
Tào Tung thoạt thấy sắc diện Trương Ôn là đã hiểu ra nỗi lo lắng của ông, liền bảo:
— Bá Thận huynh không cần đa nghi, bây giờ tôi chỉ mong tránh được họa thôi, há dám mong cầu gì nhiều nữa?
— Mong Cự Cao huynh có thể tâm khẩu như nhất. - Trương Ôn thở dài. - Những điều cần nói, tôi đã nói rồi. Điều không nên nói, tôi cũng không giữ mà nói ra. Ông hãy tự làm cho tốt.
Trên đường về nhà, A Man cứ bám lấy cổ phụ thân huyên thuyên mãi không thôi, bảo Sái Mạo nuôi một con gà trống đặt tên là “Xa kỵ Đại tướng quân”, nó chọi rất hay, gà chọi của bọn công tử các phủ trong kinh thành, chưa có con nào địch nổi.
Tào Tung chỉ nhìn con cười, chẳng nói gì cả. Trong đầu ông còn đang nghĩ đến lời Trương Ôn nói khi nãy: Binh quyền năm doanh Bắc quân mới là quan trọng! Nếu họ Đậu gây họa, sách lược ứng đối tốt nhất của hoạn quan là cướp giữ hoàng đế để ban lệnh hiệu triệu, như thế sẽ nắm được binh quyền trọng yếu. Hơn nữa quân đội chủ chốt ở thành Lạc Dương là năm doanh Bắc quân: doanh Đồn kỵ Hiệu úy; doanh Việt kỵ Hiệu úy; doanh Bộ binh Hiệu úy; doanh Trường thủy Hiệu úy và doanh Xạ thanh Hiệu úy. Năm doanh này phụ trách việc phòng vệ ở kinh sư, có thể nói ai nắm được họ thì sẽ nắm được quyền sinh quyền sát trong thành Lạc Dương. Hiện giờ trong năm doanh này, có cháu của Đậu Vũ là Đậu Thiệu làm Bộ binh Hiệu úy và tay chân tâm phúc là Phùng Thuật làm Đồn kỵ Hiệu úy. Hai doanh thì không chọi được ba doanh, nếu cánh hoạn quan cướp được hoàng đế rồi hạ lệnh hô hào thì chỉ e hai doanh mà ông ta nắm trong tay cũng không dựa vào được.
— A Man, nghe lời cha, mấy ngày này ở kinh sư có thể xảy ra nhiều chuyện, con chỉ được chơi ở trong nhà, không được tùy ý chạy ra ngoài, sẽ rất nguy hiểm đấy, biết chưa? - Tào Tung xoa nhẹ lên đầu con, - Hà hà... Hôm nay con đã giúp phụ thân được một chuyện lớn rồi đấy!
A Man chớp chớp đôi mắt to tròn, thực sự không hiểu mình đã giúp được việc gì.
Một đêm kinh hoàng
A Man chẳng quan tâm phụ thân đang lo lắng chuyện gì, cậu chỉ thấy việc phụ thân không cho ra ngoài chơi là chuyện đau đầu nhất. Thành Lạc Dương là cả thế giới muôn màu sắc như vậy, có những con đường trải dài rộng lớn, Mã thị(*), Kim thị(*) ngựa xe như nước, lại có bọn Sái Mạo cả ngày cùng chơi... Không cho ra khỏi cửa thật là quá tàn nhẫn! Ở trong nhà được nửa tháng, A Man thấy chân tay bứt rứt vì chẳng còn trò gì tiêu khiển, nếu không được ra ngoài ngay, có khả năng trên đầu sẽ mọc cái sừng dài ra mất.
Đêm hôm đó, A Man trằn trọc không ngủ được, rồi cậu lay đứa em đang ngủ bên cạnh dậy:
— Đức nhi, chúng ta ra ngoài chơi đi.
Đức nhi không giống A Man, nó là đứa trẻ thật thà. Nghe thấy huynh nói thế, nó lắc đầu quầy quậy bảo:
— Không được đâu, đêm hôm khuya khoắt tự tiện mở cửa, đâu phải chuyện con nhà gia thế như chúng ta nên làm?
A Man tức tối bợp đầu Đức nhi bảo:
— Đúng là đồ ngốc, lén lút ra ngoài, sao có thể đi lối cửa chính? Cạnh phòng của người nấu bếp trong hoa viên có một đống củi lớn, trèo lên đấy có phải là nhảy qua được tường không?
— Ồ, hóa ra huynh với Sái Mạo vẫn đi ra lối ấy. - Đức nhi chợt nhận ra.
— Thế đệ có đi không?
— Không. - Đức nhi bĩu môi. - Đi phải bảo, về phải chào mới là đúng lẽ.
A Man thấy nó dạy đời mình, vừa bực vừa buồn cười:
— Mày không đi thì tao đi một mình.
— Đừng! - Đức nhi kéo cậu lại, nói một câu rõ hay. - Người quân tử nửa đêm không ra khỏi nhà cơ mà.
A Man cười bảo:
— Làm gì có chuyện như mày nói, sách nào có câu như thế?
Đức nhi gãi gãi đầu bảo:
— Khổng Tử nhìn thấy Tể Dư ngủ ngày, rất bực mình, bảo ông ấy là “Gỗ mục không thể chạm khắc được”. Tể Dư ngủ ngày thì chắc hẳn là ban đêm chạy ra ngoài chơi, cho nên Khổng Tử mới phê bình ông ấy.
A Man bật cười một tiếng:
— Có mày mới nghĩ ra được chuyện ấy... Tao phải đi đây. - Nói rồi trở dậy mặc quần áo luôn.
— Huynh đi đâu đấy?
— Ôm con “Phiêu kỵ Đại tướng quân” của chúng mình đi đấu với con “Xa kỵ Đại tướng quân” của Sái Mạo!
— Tướng quân lại gặp tướng quân, trận này đúng là hay đấy. - Đức nhi ngáp dài một cái. - Nhưng Sái Mạo cũng không ngủ ư?
— Có ai nghe lời như mày đâu, ngày nào cũng như ngày nào, không đọc sách thì đi ngủ. - Vừa nói A Man cũng vừa mặc xong quần áo. - Tao đi đây... Mày không được nói cho phụ thân biết đâu đấy!
— Tất nhiên thế rồi. Khổng tử nói: “Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã”.(*) Huynh cứ yên tâm.
— Ai mà thuộc Luận ngữ được như mày? Thôi ngủ đi, con mọt sách!
A Man lần mò đi ra cửa phòng. Nửa đêm canh ba vô cùng tĩnh lặng, ánh đèn từ các căn phòng đều đã tắt, may mà còn có ánh trăng lờ mờ, cậu nhón chân nhẹ nhàng chạy đến chuồng gà ở sân sau. Lúc này lũ gà cũng đã ngủ cả, nằm im lìm trên đống cỏ, trông y như những quả bóng bằng lông. A Man sờ soạng mấy lần thì tìm thấy “Phiêu kỵ Đại tướng quân” của cậu, ôm gọn vào trong lòng.
Con gà bất ngờ bị đánh thức, vừa kêu vừa giãy đạp tứ tung. A Man sợ làm kinh động khiến mọi người dậy, vội dùng vạt áo bọc chặt lấy nó, bóp cổ con gà không cho nó kêu thành tiếng. “Phiêu kỵ Đại tướng quân”, ngươi ngoan ngoãn nghe lời đi, ta đưa ngươi tới gặp một người bạn, lúc nào trời gần sáng chúng ta sẽ lại về, không làm lỡ việc mày gáy sáng đâu. Có thể do cả ngày ở bên nhau, nên nghe cậu nói vậy con gà đúng là không giãy đạp nữa, lặng lẽ rúc vào lòng cậu. A Man thấy nó đã yên, vội vàng trèo lên đống củi, cẩn thận nhảy qua bờ tường.
Trong màn đêm, thành Lạc Dương thật tĩnh lặng, chẳng biết dòng ngựa xe như nước chen chúc ồn ào ban ngày giờ đã trốn đi đâu. Đây là lần đầu tiên A Man tự ý trốn khỏi nhà giữa đêm khuya thế này, trong khoảnh khắc cậu cứ ngỡ như mình vừa bước vào một thế giới trong lành yên tĩnh khác, dường như có vô số thứ mới lạ đang chờ đợi cậu khám phá. Cậu sải bước, vừa chạy vừa nhảy tung tăng trên con đường rộng lớn. Con gà trống trong lòng thi thoảng lại giãy lên, giống y như con tim ngây thơ đang cực kỳ hào hứng vậy.
Chạy một hồi, A Man đột nhiên dừng bước: Đêm hôm khuya khoắt thế này, làm cách nào gọi Sái Mạo ra được? Ý nghĩ nhảy tường ra ngoài thôi thúc trong đầu khi nãy, bây giờ nghĩ lại mới thấy cách ấy thật ngu ngốc. Cậu bước chậm lại, suy nghĩ xem phải làm thế nào.
Đúng lúc ấy, phía mặt bắc chợt lóe lên một quầng lửa lớn, trong màn đêm u ám nó chiếu sáng rực nửa bầu trời như thế, không biết cần phải có đến bao nhiêu bó đuốc! Liền sau đó là những tiếng kêu gào hoảng loạn, thứ âm thanh ấy hết vang lên đợt này đến đợt khác, tuy cách rất xa nhưng vẫn lờ mờ nghe thấy. Trong thành có giặc cướp sao? Ngay dưới chân thiên tử làm sao lại có chuyện như thế xảy ra? A Man quá sợ hãi, không biết kẻ nào tác oai tác quái gây ra đêm kinh hoàng này? Trẻ con thì vẫn là trẻ con, ý nghĩ chọi gà lúc đầu đã biến mất đến tận phương trời nào không rõ, cậu ôm gà lập cập chạy ngược trở về.
Chạy qua mấy con phố, thấy đã về đến cửa nhà mình. Bỗng nhiên, một bóng đen từ trong góc tường nhảy xồ ra, không để A Man kịp phản ứng gì thì một bàn tay to lớn đã bịt chặt miệng cậu lại. A Man sợ chết khiếp, cảm thấy các mạch máu trên người mình như ngừng chảy, trợn tròn hai mắt nhìn kẻ lạ trước mặt mình. Tay cậu run bần bật, khiến con gà rơi bộp xuống đất, lóc cóc chạy tới mãi đằng xa.
— Chớ kêu! - Người đó lên tiếng. - Tiểu huynh đệ, ta không phải người xấu. Bọn hoạn quan làm loạn, phái người truy sát ta, cậu có thể tìm được chỗ nào cho ta trốn nhờ được không?
A Man định thần lại, nhờ ánh trăng lờ mờ mới thấy người ấy đầu đội mũ biền bằng da, tấm áo bào trên người nhuộm đầy máu, trên tay còn nắm thanh bảo kiếm lóe lên ánh xanh, vừa nói người ấy vừa thở dốc, trên mặt vẫn còn vẻ hốt hoảng. Lúc ấy, tiếng hô giết đã tới rất gần, người đó than một câu:
— Sinh có giờ chết có phận! Xem ra hôm nay ta trốn chạy kiếp nạn, hà tất lại làm liên lụy thêm người khác nữa. - Nói rồi, người ấy buông A Man ra, cầm ngang cây bảo kiếm trong tay định tự vẫn.
— Đừng! - A Man chợt bừng lên tinh thần trượng nghĩa. - Mau theo tôi nào! - Nói rồi liền dẫn người ấy chạy đến góc tường phía tây ở hậu viên nhà mình.
A Man tính tình tinh nghịch, cậu thường trèo ra trèo vào nhà ở chỗ này, trên tường từ lâu đã có một cái lỗ hổng có thể chui qua. Hai người chẳng tốn nhiều sức đã vào được trong sân, tựa lên đống củi và rơm không dám gây ra tiếng động gì. Giây sau chỉ nghe thấy tiếng người ầm ĩ, tiếng áo giáp loạt xoạt và tiếng vó ngựa từ ngoài tường vọng lại. Có người kêu lên:
— Đuổi theo! Không để cho dư đảng của bọn học trò chạy thoát! - Ồn ã một hồi rồi mới lắng xuống.
A Man thở phào, lúc ấy mới chú ý đến người cùng trốn với mình. Trông người ấy khoảng hai mươi tuổi, mặt to trán rộng, đôi mắt lộ rõ vẻ đáng thương.
— Huynh là tội phạm đang trốn chạy ư? - A Man chớp chớp mắt chăm chăm nhìn anh ta.
— Không phải!
— Thế huynh là ai? Huynh tên là gì?
Người đó do dự giây lát, rồi chống kiếm nói nhỏ:
— Ta là Hà Ngung.
— Tôi có nghe phụ thân nhắc đến huynh. Huynh là thái học sinh Hà Bá Cầu, rất nổi tiếng!
Hà Ngung cười nhăn nhó:
— Nổi tiếng thì làm gì? Bây giờ ta đã thành kẻ tội đồ rồi.
— Xảy ra chuyện gì vậy, có thể kể cho tôi biết không?
— Bọn hoạn quan khống chế hoàng thượng và thái hậu, giả truyền chiếu chỉ truy giết đại tướng quân Đậu Vũ, tất cả quân binh của năm doanh Bắc quân đều đã ra tay. Trần thái phó dẫn hơn tám mươi học trò Thái học bọn ta liều xông vào cung giải cứu hoàng thượng, không ngờ bị bọn giặc thiến Vương Phủ dẫn quân đuổi đánh. - Hà Ngung nói một hồi, không ngăn nổi nước mắt trào ra. - Tổng cộng hơn tám mươi người... tất cả đều chết cả rồi! Chết cả rồi! Chỉ còn lại mình ta thôi... Trần Thái phó đã hơn bảy mươi tuổi, thế mà bị bọn tàn ác kia đánh đến chết...
A Man cũng không hiểu những điều anh ta nói lắm, nhưng nhìn một nam nhi mình cao bảy thước nước mắt tuôn trào, trong lòng cũng thấy buồn lạ lùng:
— Huynh đừng khóc nữa! Hồi trước khi mẹ mất tôi cũng khóc, nhưng thời gian lâu sau cũng qua đi. Phụ thân bảo, mọi việc phải nhìn về phía trước.
Dường như mấy câu nói của cậu đã khuyên giải được Hà Ngung, anh ta lau nước mắt bảo:
— Tất sẽ có ngày ta trả thù, phải giết sạch bọn giặc thiến! - Nói rồi anh ta trèo lên đống củi.
— Đợi chút đã! Huynh muốn đi đâu?
— Ta phải nhanh chóng trốn khỏi thành Lạc Dương.
— Huynh đầy người máu me thế kia, tất sẽ khiến người ta chú ý. Hãy tạm dừng chân đã... - Nói rồi A Man chạy vào trong kho chất củi.
Hà Ngung lặng người, đúng là mình vội vã nên hồ đồ, còn không suy nghĩ thấu đáo bằng một đứa trẻ. Chớp mắt, đã thấy A Man cầm một bộ quần áo rách của gia nhân chạy lại:
— Mau thay bộ quần áo này đi.
Mặc quần áo của người khác trốn chạy, đó đúng là cách hay để tránh sự chú ý của người khác. Hà Ngung vội vã cởi bộ quần áo dính đầy máu, mấy giây sau đã thay xong bộ quần áo rách.
— Huynh cũng nên bỏ cái mũ kia đi!
— Người quân tử chết cũng không vứt mũ, cái này không thể bỏ được.
— Huynh giống y tiểu đệ của tôi vậy, cũng là một tên mọt sách! - A Man cười ha ha. - Huynh mở miệng ra là đòi báo thù cho các bằng hữu, nhưng nếu mạng sống của mình cũng chẳng giữ nổi, thử hỏi còn báo thù được cho ai?
Hà Ngung thở dài:
— Ôi... ta cứ cho mình là giỏi, không ngờ đến khi gặp nạn lại không bằng một đứa trẻ. - Nói rồi vứt chiếc mũ biền bằng da đang đội trên đầu xuống đất.
— Ôi trời! - A Man lúc này mới nhận ra “Phiêu kỵ Đại tướng quân” của mình đã biến mất, kêu ầm lên. - “Phiêu kỵ Đại tướng quân” của tôi... tôi biết lấy gì để đấu với “Xa kỵ Đại tướng quân đây”... hu hu...
Việc đó khiến Hà Ngung thấy quá ư lạ lùng, thằng bé này khi nãy còn như một vị chỉ huy khuyên bảo mình, thế mà giờ lại khóc ầm lên. Mà lại còn Phiêu kỵ Đại tướng quân, Xa kỵ Đại tướng quân gì nữa, tại sao cậu bé này lại khóc hai vị đứng đầu thế nhỉ?
— Đều tại huynh! Đều tại huynh! Con gà chọi của tôi mất rồi! - A Man đấm thùm thụp vào vai anh ta. - “Phiêu kỵ Đại tướng quân” của tôi từ trước tới nay đấu chưa thua con nào cả!
Lúc này Hà Ngung mới hiểu:
— Không sao đâu, tặng cậu cái này. - Nói rồi Hà Ngung cởi cây kiếm đeo theo bên mình đặt vào tay A Man.
A Man rút ra xem, cây kiếm ấy được đúc bằng đồng xanh, lưỡi rất sắc, dưới ánh trăng lờ mờ sáng lóe lên một màu xanh, phụ thân và thúc thúc cũng có rất nhiều kiếm, nhưng chả có cây nào đẹp như cây này, chắc nó rất có giá trị. A Man vội ngưng tiếng khóc:
— Huynh không có kiếm thì làm sao được?
— Ta bây giờ đang đóng vai một kẻ hạ nhân, lại đeo cây kiếm này thì sẽ càng bị chú ý. Bảo kiếm nên tặng cho nghĩa sĩ, hôm nay cậu cứu mạng ta, xin tặng cho cậu cây kiếm này. - Vừa nói, Hà Ngung đã trèo lên đầu tường, rồi quay lại hỏi, - Tiểu ân nhân, ta quên mất, vẫn chưa hỏi tôn tính đại danh.
— Tôi là Tào Tháo.
— Ta thấy phủ đệ này to lớn rộng rãi, chắc hẳn cũng là nhà quan lại, có thể cho ta biết lệnh tôn giữ chức quan gì không?
A Man cười hi hi bảo:
— Phụ thân tôi là Tư lệ Hiệu úy.
— Tào Tung!? - Hà Ngung dường như bị một mũi dao đâm thẳng vào ngực, đứng lặng hồi lâu, rồi ngồi trên đầu tường ngửa mặt lên trời cười lớn. - Cậu là con trai của Tào Cự Cao? Ha ha ha... Hóa ra cậu lại là con trai của Tào Cự Cao! Ha ha... Ý trời! Đây đúng là ý trời...
Nói rồi anh ta quay người, biến mất vào màn đêm dày đặc.
Kẻ dị loại trong nhà
Chỉ trong một đêm, trời xoay đất chuyển, đại tướng quân Đậu Vũ quyền nghiêng thiên hạ đã bị cuộc chính biến của nhóm hoạn quan bức phải tự sát. Đám vây cánh tâm phúc của ông ta cũng bị chém sạch, giết hết, mấy kẻ sĩ trung lương được ông ta phá lệ đề bạt cũng lần lượt bị hạ ngục, những người thuộc đảng phái vừa thoát khỏi tội tù lại bị cấm cố trở lại. Quan thái phó Trần Phồn tuổi đã bảy mươi bị bọn hoạn quan tàn nhẫn đánh đến chết, thi thể của lính ngự lâm cùng những học trò Thái học trong cung chất cao như núi, máu tươi nhuốm khắp mặt đất thành một màu đỏ quạch.
Em họ Tào Tung là Tào Xí, giữ chức Tư mã doanh Trường Thủy, đích thân tham gia vụ việc. Toàn bộ dư đảng của Đậu Vũ, Trần Phồn lần lượt bị đem ra giết sạch, hôm nay đã là buổi chiều ngày thứ hai. Đang khi bận rộn, Tào Xí tranh thủ được giây phút nhàn rỗi, liền đến thăm phủ của huynh trưởng.
Vừa bước vào cửa phủ, đã nhìn thấy A Man đang quỳ ở giữa sân. Thằng bé này nghịch ngợm gây họa bị phạt quỳ cũng là chuyện thường.
— Tiểu tử nhà người lại mắc tội gì thế?
— Tối qua điệt nhi tự ý chạy ra ngoài chơi ạ. - A Man ngẩng đầu lên đáp.
— Ngươi giỏi đấy, đêm qua binh mã loạn lạc thế, đúng là gan to tày trời! - Tào Xí xoa xoa đầu cậu. - Thế nào? Mấy trò quỷ kia của ngươi biến đâu cả rồi? Sao không giả trúng phong với phụ thân ngươi nữa đi!
— Điệt nhi dùng chiêu ấy nhiều quá rồi, giờ không tác dụng nữa rồi. - A Man lẩm bẩm.
Tào Xí nhếch miệng cười, cúi đầu bảo:
— Đứng lên đi! Hôm nay nhà ta có tin vui, miễn cho ngươi không phải chịu gia pháp! Đi chơi đi!
— Không được tha nó! - Tào Tung phanh áo cầm một cây kiếm đi ra, lạnh lùng bảo, - Ngày thường nuông chiều quen rồi, chẳng việc gì không dám làm! Đêm qua nếu chẳng may nó bị quan binh chém chết thì tôi biết ăn nói thế nào với mẫu thân nó nơi suối vàng?
— Huynh trưởng hà tất phải nóng giận, lần này Đậu Vũ chết, anh em chúng ta lại đến vận tốt rồi.
— Dư đảng của Đậu Vũ có giết được hết không?
— Nên giết hay không nên giết đều giết sạch rồi, trong phủ họ Đậu từ trên xuống dưới, đến gà chó cũng không để lại một mống. Thái hậu cũng đã bị giam lỏng, bây giờ tất cả mọi thứ đều theo lời Vương Phủ, Tào Tiết mà làm. Hôm qua đệ dẫn quân đến phủ Tư đồ, lão Hồ Quảng nhìn thấy đệ đã sợ cứng chân. Đệ bảo: “Lão là người tốt, không việc gì đến lão đâu, phiền lão định tội cho bọn Đậu Vũ, Trần Phồn.” Ông ta cầm bút lên, tay run lẩy bẩy. - Tào Xí vừa nói vừa cười. - Đợi xong việc, ông ta nói đệ có công dẹp loạn, phải thăng cho đệ một cấp, đệ phải lên làm Trường Thủy Hiệu úy!
— Đệ đúng là có phúc khí, vừa có uy quyền, vừa được thăng quan. - Tào Tung nói vẻ chua xót.
— Huynh trưởng chớ cần lo lắng, huynh là người hiến kế cứu nguy, Vương Phủ tuyệt không để huynh chịu thiệt thòi đâu!
— Không biết buồn vì chết, sao biết vui vì sống... - Tào Tung thở dài. - Những người theo Trần Thái phó hà cớ gì phải đối địch với cánh hoạn quan? Cứ thành thật đi qua những ngày tháng của mình há phải chịu kết cục thế này? E là chúng ta lại bị người đời chửi rủa thôi.
— Thời buổi này ai bị mắng chửi thì người đó có những ngày sung sướng. - Tào Xí thấy ông bỗng dưng than thở, cười bảo. - Huynh trưởng hà tất phải nghĩ nhiều, chuyện anh chết tôi sống triều đại nào không có? Huynh chỉ cần biết được làm quan cao, được cưỡi ngựa tốt, sau này bọn A Man sẽ còn noi theo huynh mà làm nên!
— Hừ! Mong đồ súc sinh này làm nên, chắc phải đợi mặt trời mọc ở phương tây! - Tào Tung lại nghĩ đến chuyện của A Man. - Đệ xem xem, đang cơn binh lửa loạn lạc, lén lút ra ngoài, còn nhặt về một cây kiếm, có nguy hiểm không! Cứ nghĩ đến ta lại thấy sợ hãi. - Vừa nói ông vừa cầm cây kiếm trao vào tay Tào Xí.
Tào Xí mới liếc nhìn đã kinh hãi sững người:
— Đây... Đây là... Thanh Cang kiếm!
— Đệ biết nó?
— Đây là bội kiếm của Hà Ngung... Năm xưa, Hà Ngung giúp bạn là Ngu Vĩ Cao báo thù phụ thân bị hại chết, đã dùng cây kiếm này giết chết kẻ thù. Cây kiếm này đêm qua còn lấy đi mạng sống của mấy người nữa!
— Sao cơ? - Tào Tung sợ tái mặt. - Cây bội kiếm của Hà Bá Cầu...
Trên trán Tào Xí đã lấm tấm mồ hôi lạnh:
— Đêm qua... truy sát bọn thái học sinh, chỉ riêng Hà Ngung là chạy thoát. Có lời đồn trong dân chúng là, hắn đã cải trang trốn khỏi thành Lạc Dương rồi...
Bất chợt, bầu không khí căng thẳng lo lắng bao vây lấy huynh đệ họ. Tào Tung túm lấy cổ áo A Man:
— Cây kiếm này rốt cuộc ở đâu ra?
— Con... Đêm qua con nhặt được nó ở bên ngoài.
— Nói bậy! - Tiếng quát của Tào Xí cắt ngang. - Cây Thanh Cang kiếm quý hiếm thế này làm sao có thể tự nhiên nhặt được? Vì sao ta lại không nhặt được?
— Đấy là vì thúc không bắt gặp, điệt nhi bắt gặp nên nhặt được.
— Câm mồm! Mày mau khai thật đi! - Nắm đấm to tướng của Tào Tung đã giơ lên.
Bốn con mắt dữ dằn của phụ thân và thúc thúc chằm chằm nhìn A Man, khiến trong lòng cậu chợt dâng lên nỗi sợ hãi, không dám giấu giếm gì nữa, quỳ ngay tại chỗ rồi đem hết những chuyện xảy ra đêm qua chỗ quên chỗ nhớ kể hết một lượt. Không ngờ còn chưa kể hết thì bốp một cái đã chịu ngay một tát của phụ thân.
Từ khi sinh ra đến giờ, A Man tuy nghịch ngợm gây vạ đã nhiều, nhưng chưa từng bị đánh bao giờ. Cậu nuốt nước mắt, bưng mặt, run rẩy như chiếc lá trong cơn gió lớn, không hiểu vì sao mình lại bị đánh như thế.
— Đồ súc sinh! Chỉ vì mày mà chút nữa hại chết cả nhà! - Tào Tung không tha thứ, vung tay lên định đánh tiếp.
— Được rồi! Được rồi! - Tào Xí giữ ông lại. - Cháu nó còn nhỏ, làm sao hiểu được những chuyện này.
— Con chẳng làm gì sai! - A Man cũng không biết vì sao mình lại có dũng khí ấy, quay sang phía phụ thân mà hét lên. - Hà Bá Cầu không phải người xấu! Tiểu đệ Đức nhi thường bảo: “Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã”.(*) Tại sao con lại không thể giúp đỡ anh ta? Cánh hoạn quan đã giết sạch các bằng hữu của anh ta, hơn tám mươi người đấy, ông già bảy mươi tuổi cũng bị đánh chết, bọn họ mới là người xấu!
A Man chợt nhận ra, cùng với tiếng hét của cậu, ánh mắt của phụ thân đã trở nên khác hẳn, nó không còn là ánh mắt hiền hòa như trước nữa, cũng không phải là ánh nhìn tức giận, mà là ánh mắt mang niềm thất vọng, thương hại như nhìn một kẻ lạc loài! Bị ánh mắt như vậy chằm chằm nhìn vào, còn khó chịu, đau đớn hơn bội phần so với việc bị đánh.
— Được được được, mày giỏi lắm. - Tào Tung quát ầm lên. - Mày bảo chúng nó giết hết hoạn quan đi, bức tử hết lớn bé già trẻ cả nhà này đi cho thỏa ý mày. Chỉ trách tao dạy mày không nghiêm, xưa nay dung túng... Mày đừng đứng đây cho ngứa mắt tao nữa, về quê ngay cho tao, ngày mai đi luôn! Về quê cho thất thúc dạy dỗ mày! Vĩnh viễn không cho quay lại kinh thành nữa! - Nói rồi không buồn nhìn A Man lần nữa, Tào Tung hầm hầm quay lưng bỏ đi.
— Nhị thúc! Phụ thân không cần điệt nhi nữa, thúc xin với phụ thân hộ điệt nhi với! - Lúc này A Man mới ý thức được sự nghiêm trọng của vấn đề, ôm chặt lấy chân Tào Xí.
Tào Xí lắc đầu, gỡ tay cậu ra, cầm cây Thanh Cang kiếm ấn trả vào lòng nó:
— Hổ dữ cũng không ăn thịt con, phụ thân cháu làm sao có thể không cần cháu chứ? Ông ấy chỉ giận cháu không biết cải hối thôi. Cháu về quê rồi, theo thất thúc học hành cho tốt, không được gây ra chuyện thị phi nữa. Khi ấy phụ thân cháu sẽ cho cháu trở lại. Thằng ngốc này, cháu tự làm tự chịu lấy thôi!
A Man nhìn theo bóng dáng nhị thúc đang đi xa dần, nghĩ mãi không ra: Mọi người làm sao thế? Rốt cuộc là mình đã sai ở đâu?
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 1 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 1 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 1