The multitude of books is making us ignorant.

Voltaire

 
 
 
 
 
Tác giả: H.y.schandler
Thể loại: Lịch Sử
Dịch giả: Nguyễn Mạnh Hà
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1328 / 39
Cập nhật: 2016-07-14 17:40:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4: Cuộc Tấn Công Tết Mậu Thân Và Phản Ứng Của Hoa Kỳ
huya ngày 31-1-1968 địch tung ra một loạt các cuộc tấn công cùng một lúc và có kết hợp đánh vào các trung tâm dân cư chính yếu các vùng III và IV chiến thuật. Các thành phố lớn các vùng I và II chiến thuật đã bị tấn công đêm trước đó (1). Trong thời gian 30 và 31-1-1968, 39 trong số 41 tỉnh lị, 5 trong 6 thị xã biệt lập và tối thiểu 71 trong số 245 quận lị đã bị pháo kích và bị đột kích (2). Cuộc tấn công chủ yếu nhằm vào các trung tâm chính quyền hành chính và các cơ sở chỉ huy quân sự. Đến 9 giờ 45 sáng thứ ba, 30-1-1968 các chính phủ Hoa Kỳ và Sài Gòn đã hủy bỏ cuộc đình chiến Tết mà lúc đó đã hết ý nghĩa (3).
Tại Sài Gòn, địch đã khởi đầu trận đánh bằng một cuộc tấn công của đặc công vào Tòa đại sứ Hoa Kỳ liền sau đó là bằng những trận tấn công vào căn cứ không quân, Dinh tổng thống, Bộ tổng tham mưu quân lực Việt Nam cộng hòa và các cơ sở khác của chính quyền. Nhiều lực lượng địch đã đột nhập vào Huế, chiếm được thành nội và phần lớn thành phố Huế đã lọt vào quyền kiểm soát của địch cho đến 25-2-1968 (4).
Mặc dù các lực lượng Hoa Kỳ và Việt Nam đã được tăng cường hùng hậu, trận giao tranh vẫn tiếp diễn trên toàn quốc và giảm dần dần cho đến ngày 13-2.
Một tài liệu huấn luyện nói về chiến tranh Việt Nam được soạn thảo và sử dụng tại trường võ bị Hoa Kỳ có nói rằng: "Điều cần biết đầu tiên về cuộc tấn công Tết Mậu Thân của tướng Giáp là tình báo đồng minh đã bị bất ngờ không khác gì trong trận Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) năm 1941 hoặc trận tấn công Ardennes năm 1944. Bắc Việt Nam đã lợi dụng được bất ngờ hoàn toàn" (5).
Tuy điều này có thể hơi quá đáng nhưng rõ ràng là các cấp chỉ huy Hoa Kỳ đã không tiên liệu được các cuộc tấn công của Việt Cộng thật sự xảy ra như thế nào. Đại tướng Westmoreland đã phải nhìn nhận: "chúng ta không biết trước được quy mô của cuộc tấn công này mặc dù chúng tôi đã linh tính rằng sẽ phải là rộng lớn. Chúng tôi cũng thực tình cho rằng họ sẽ không dám liều đi ngược lại tâm lý quần chúng tấn công ngay trong những ngày Tết, cho nên tôi nghĩ rằng họ sẽ đánh hoặc trước hoặc sau Tết. Tôi cũng không dự kiến là họ sẽ đánh lại các đô thị và lấy đấy tàm mục tiêu tấn công" (6).
Đến khoảng giữa vụ Tết, Tổng thống Johnson đã chỉ thị cho ủy ban tư vấn tình báo nước ngoài điều tra về điểm chỉ trích cho rằng cuộc tấn công của Bắc Việt Nam đã làm cho giới chỉ huy quân sự Hoa Kỳ hoàn toàn bị bất ngờ.
Một nhóm công tác của các nhà nghiên cứu tình báo (với đại diện của cơ quan tình báo trung ương, cơ quan tình báo quốc phòng, bộ ngoại giao. cơ quan an ninh quốc gia, và bộ tham mưu liên quân) đã được thành lập để yểm trợ cho ủy ban tư vấn tình báo nước ngoài trong công tác điều tra. Nhóm này đã có mặt tại Sài Gòn từ 16 đến 23-3-1968. Họ đã phỏng vấn các nhà nghiên cứu tình báo và đã xem xét tất cả các báo cáo tình báo đã được trình cho cấp chỉ huy Hoa Kỳ. Nhóm công tác này đã đưa ra các kết luận như sau:
… Người ta không hoàn toàn đoán trước được cường độ, sự phối hợp và thời điểm của cuộc tấn công của địch. Đại sứ Bunker và Đại tướng Westmoreland đều xác nhận việc này. Yếu tố quan trọng nhất là vấn đề thời điềm. Rất ít người trong các quan chức Hoa Kỳ và chính phủ VNCH có thể tin rằng địch sẽ tấn công trong dịp Tết và quần chúng Việt Nam cũng thế.
Điều bất ngờ chính yếu thứ hai là số lượng các cuộc tấn công đã được tiến hành cùng một lúc. Tình báo Hoa Kỳ cho rằng địch có khả năng tấn công hầu hết tất cả các vị trí mà họ đã thực sự tấn công và cũng có khả năng mở những cuộc tấn công hiệp đồng tại một số khu vực. Tuy nhiên người ta không nghĩ rằng đích thực sự có khả năng hiệp đồng tấn công cùng một lúc ở khắp mọi nơi. Điều quan trọng hơn nữa là người ta không biết trước được về tính chất của các mục tiêu
Càng làm nổi bật thêm các vấn đề đặc biệt này, còn có một vấn đề cơ bản hơn nữa: phần đồng các cấp chỉ huy và sĩ quan tình báo ở các cấp không hình dung được rằng địch lại có khả năng thực hiện các mục tiêu như họ đã đề ra trong lời lẽ tuyên truyền hoặc trong các tài liệu tịch thu được. Thường các bản ước tính về sự tiêu hao xâm nhập và tuyển mộ tại chỗ, các báo cáo về việc địch mất tinh thần cũng như một loạt những vụ họ bị đánh bại đã làm cho ta coi thường địch" (7).
Về sau đã có những lời chỉ trích rằng các viên chức tình báo Hoa Kỳ đã cố tình giảm giá trị một cách rất hệ thống các ước tính về quân số của các lực lượng Việt cộng vì ngại khi công bố việc địch tăng cường quân số sẽ gây nhiều phản ứng trong quần chúng. Người ta còn nói thêm rằng sự kiện này đã đưa đến việc xem thường các khả năng của địch. Người ta đã phủ nhận những điều chỉ trích này nhưng dù sao, y như lời James R.Schlesinger đã tuyên bố: "Tình báo lúc ấy có sơ sót” (8).
Các nhà lãnh đạo cộng sản quả đã từ bỏ hẳn chiến lược chiến tranh trường kỳ của họ. Họ nhắm vào các mục tiêu quyết định được coi như khá quan trọng đáng để phải trả một giá rất đắt. Họ có hai mục đích trong việc thay đổi chiến lược như thế. Mục tiêu thứ nhất của họ là xóa bỏ quyền kiểm soát quân sự của chính phủ VNCH, mở đường cho một cuộc tự động nổi dậy hoặc cảm tưởng là có một cuộc tự động nổi dậy chống chính phủ VNCH và gây ra sự chống đối của QĐVNCH (9).
Để đạt được các mục đích này, các cuộc tấn công sơ khởi đều do các lực lượng Việt cộng tiến hành trong khi các lực lượng quân đội Bắc Việt Nam được giữ lại để dành cho việc tiếp sức và khai thác thắng lợi. Tuy nhiên đối với các mục tiêu này, địch đã gặp thất bại... Quả thật, quân đội VNCH đã chiến đấu dũng cảm trong hầu hết mọi trường hợp mặc dù đã bị bất ngờ khi đang mải lo ăn Tết với gần phân nửa quân số về phép và rất lỏng lẻo trong vấn đề an ninh (10).
Mục đích thứ nhì của cuộc tấn công của Cộng sản có tính cách tâm lý. Các cuộc tấn công hình như có mục đích làm cho Hoa Kỳ nản chí, lung lạc lòng tin của dân chúng Nam Việt Nam vào khả năng của Hoa Kỳ và của chính phủ họ trong việc bảo vệ cho họ và làm cho những ai quan tâm sẽ phải thán phục sức mạnh của Việt cộng được nhân dân ủng hộ, nhờ vậy Hà Nội sẽ ở được vào thế mạnh, giúp họ có thể thương lượng ngừng bắn và có thể đưa đến việc Hoa Kỳ sẽ phải rút quân.
Đại sứ Bunker có nêu lên rằng, căn cứ trên sự phân tích lên đây, ông nghĩ rằng là mục đích chính yếu của hành động này có phần nặng về tâm lý hơn là quân sự (11). Nhằm vào mục đích ấy. Cộng sản có phần đã thắng lợi nhiều hơn.
Đại tướng Westmoreland đã báo cáo về các hậu quả tâm lý bất lợi đối với dân chúng Việt Nam kể cả việc làm tăng thêm lo ngại và sự kính nể đối với các khả năng của Cộng sản. Nhưng người bàng quan càng thêm thờ ơ và người ta càng chán ngán chiến tranh thêm.
Trên khía cạnh thực tế chúng ta phải nhìn nhận là địch đã giáng cho chính phủ VNCH một đòn choáng váng. Địch đã đem chiến tranh vào các thành phố và đã gây nhiều thiệt hại và thương vong cho dân chúng. Mặt khác Westmoreland cũng cho biết về vài yếu tố thuận lợi trên khía cạnh tâm lý (12). Do đó, mặc dù chẳng mấy chốc Bộ tư lệnh Hoa Kỳ tại Saigon đã thấy rõ ràng địch đã thất bại nặng nề về quân sự và đã phải trả một giá rất đắt về việc họ thay đổi chiến lược và mất đi rất nhiều quân ưu tú nhưng vẫn phải thắc mắc là mặc dù tổn thất nhưng liệu địch có đã đạt được một thắng lợi tâm lý quyết định cả tại Saigon lẫn ở Hoa Kỳ hay không?
Quần chúng, giới thông tin và chính quyền đã bị chấn động vì các cuộc tấn công bất ngờ. Tổng thống Johnson đã nhận được nhiều báo cáo tình báo của các tư lệnh chiến trường và bộ tham mưu Nhà trắng dự kiến là sẽ có một cuộc tấn công mùa đông của Việt cộng và ông rất quan tâm đến các báo cáo này.
Theo như lời tướng hai sao Robert L.Ginsburgh, phụ tá quân sự của Walt Rostow đã nói lại: “Vào cuối tháng 11, Rostow càng thêm bực bội với số lượng rất nhiều tài liệu thu được của địch mà ông cho rằng đã không được khai thác đúng đắn. Ông đã sắp xếp cho các bản dịch được gửi thẳng về Nhà trắng cũng như về Cục tình báo quốc phòng. Ngay từ hồi đầu tháng 12 trước cả giới tình báo một tuần lễ, Rostow đã tin tưởng rằng sắp có một cuộc tấn công và đã đề cập với Tổng thống về cuộc tấn công Đông Xuân sắp đến. Trong khi các giới ở Washington sửng sốt về vụ Tết thì Tổng thống và Rostow lại không lấy gì làm lạ. Trong quá khứ họ đã coi thường phản ứng của chúng. Nhưng thực sự họ biết rằng cái gì địch đã nói là tất xảy ra" (13).
Tại Canberra, Australia khi dự lễ tang Thủ tướng Harold Holt, ngày 21-12, Tổng thống Johnson đã tuyên bố với Hội đồng bộ trưởng Australia và sau đó ngày 23-12 đã nhắc lại với Đức Giáo Hoàng rằng ông dự kiến Bắc Việt Nam sẽ áp dụng các chiến thuật thần phong (Người dịch: thần phong: Kamikase chỉ những phi công Nhật, thế chiến thứ hai đã lái máy bay tự đâm vào mục tiêu). Tuy vậy chẳng mấy ai đã làm được gì nhiều để cảnh giác quần chúng Hoa Kỳ về triển vọng những cuộc tấn công kiểu ấy và do đó quần chúng chưa được chuẩn bị tinh thần trước những chấn động vì vụ Tết.
Trong cái mà sau này ông nhìn nhận là sai lầm, Tổng thống đã xén bớt một đoạn dài nói về Việt Nam trong thông điệp gửi Quốc hội. Trong diễn văn này tổng thống chỉ lại nhấn mạnh đến các tiến triển đã đạt được tại Việt Nam trong năm qua và cũng cho thấy những cố gắng hiện đang được tiến hành để đi đến đàm phán hòa bình với Bắc Việt Nam (14).
Vì vậy cho nên qui mô, cường độ cùng sức vũ bão của các cuộc tấn công của Việt cộng đã gây kinh ngạc và chấn động tột độ tại khắp nước. Quá nhiều chương trình truyền hình trình bày về cuộc tấn công đã làm cho trong các gia đình người Mỹ thấy ngay quang cảnh máu lửa chết chóc và tàn phá của chiến trường và đã là nhân tố chính yếu làm cho dân chúng hình dụng được những gì đã thực sự xảy ra tại chiến trường trong cuộc tấn công của Việt cộng.
Cảnh tấn công vào tòa đại sứ Hoa Kỳ và cảnh tướng Loan, Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Việt Nam công khai xử tử một phần tử khủng bố Việt cộng, đặc biệt đã làm cho người ta phải hoang mang (15). Các bài báo hằng ngày từ khắp nước Việt Nam gửi về đều đã làm tăng thêm ý thức về sự thảm họa. Các bài này chỉ nhằm tường thuật sự tàn phá do các cuộc tấn công sơ khởi của cộng sản trên toàn Việt Nam gây ra.
Nội một câu trích dẫn trong một bài báo cũng đã có một tác động dữ dội: "Càng thấy cần phải tàn phá một thị trấn để cứu nơi này!" Đó là lời mà người ta kể lại là một thiếu tá Mỹ đã nói với các nhà báo như vậy để giải thích lý do cần phải đánh bật Việt cộng đang chiếm thị xã Bến Tre thuộc đồng bằng sông Cửu Long (16).
Câu nói được nhắc đi nhắc lại rất phổ biến này hình như đã nói lên được cái oái oăm và các mâu thuẫn trong việc sử dụng sức mạng của Hoa Kỳ tại Việt Nam và đã làm cho nhiều người phải thắc mắc về lý do sự có mặt của chúng ta tại đây. Nếu chúng ta phải tiêu diệt các bạn ta để cứu họ thì chẳng biết công việc ấy có nên làm hay không, dù cho ta hay cho các bạn ta cũng vậy?
Các tin điện chính thức từ Sài Gòn gửi về đã sớm cho thấy tính chất thật sự của cuộc phản công quân sự trước các cuộc tấn công của địch. Việt cộng đang bị tổn thất nặng nề. Quân đội Việt Nam đang phản ứng đúng đắn và quần chúng thường dân đã không nổi dậy để tiếp đón và làm hậu thuẫn cho Việt cộng tại các thành phố.
Tình trạng này lại không được phản ảnh trên các bài báo và các chương trình truyền hình. Những bản tin này vẫn cứ tiếp tục nhấn mạnh về sự chấn động về cái bất ngờ, qui mô và sức mạnh của cuộc tấn công xuất kỳ bất kỳ của địch. Ngay cả một số quan chức thuộc chính quyền mặc dù đã được biết rõ nhờ các bản báo cáo này của Sài Gòn nhưng họ cũng lại vẫn phản ảnh tâm trạng của cả nước.
Harry Mc Pherson một cố vấn đặc biệt chuyên viết diễn văn cho Tổng thống đã kể lại phản ứng của ông ta như sau: "Tôi có cảm tưởng là chúng ta đã gặp phải một cách gay go chưa từng thấy và tôi rất bối rối. Mỗi tuần ba buổi, tôi bắt tay vào việc nghiên cứu các điện văn, tiếp xúc với Rostow và hỏi ông ta về nhưng việc đã xảy ra ngày hôm trước, và những điều ông nói, tôi thấy như có vẻ rất hoang mang so với quan điểm tôi đã thấy được trên truyền hình đêm trước... Phải, phải nhìn nhận là tôi không tin những lời ông nói mặc dù tôi không dám nói chắc rằng tôi có lý khi tin ông ta, vì cũng như hàng triệu người khác cũng đã xem truyền hình đêm trước. Tôi có cảm giác rằng cả nước đều đã chán ngán rồi, chỉ còn muốn đừng phải lãnh thêm nữa mà thôi... Tôi ngại rằng về mặt khoa học xã hội, có điều đặc biệt đáng chú ý là những người như tôi - những người có trách nhiệm phần nào trong việc diễn đạt những quan điểm của Tổng thống - lại có thể bị ảnh hưởng của giới thông tin y như mọi người thường, trong khi mà ở dưới nhà chỉ cách bàn giấy tôi chưa đầy 50 thước có đầy đủ vô số các thứ máy móc thu thập tin tức tình báo - máy điện báo, đài vô tuyến, các tin điện từ chiến trường gửi về. Tôi thiết nghĩ lý do của việc ấy, là vì tôi đã không dùng đến khả năng hiểu biết của tôi về các tin tức mật mã lại dễ tin vào những gì đã thấy trên truyền hình và trên báo chí cũng chẳng khác gì mọi người khác đã từng tìm cách giải thích các đường lối của chiến tranh và đang cố tìm hiểu các đường lối ấy để đưa ra vài điều nhận xét, tôi đã chán ngấy với các lối giải thích “ánh sáng đã lóe lên ở cuối đường hầm". Tôi đã chán ngấy với cái lạc quan không ngớt tuôn từ Sài Gòn về (17)
William Bundy cũng không kém bi quan: "Tôi đã sớm có quan niệm rằng các cuộc tấn công đã có tác hại đối với miền Bắc nhưng cũng đã gây đổ vỡ cho miền Nam nhất là trong lĩnh vực bình định, cho nên muốn cân nhắc cho đúng phải tùy thuộc vào điểm liệu cả nước có đoàn kết được hay không. Quan niệm của tôi về tình hình đã hình thành theo các báo cáo của những người có mặt tại chỗ ở Việt Nam. Tôi còn nhớ đặc biệt về một quan điểm đã làm cho tôi lưu ý. Leroy Kearle đã có thời phục vụ tại văn phòng của cơ quan phát triển quốc tế (AID) tại Washington là một người đáng tin cậy có nhiều kinh nghiệm về Việt Nam. Ông đã viết một tài liệu ngày 5-2 cho rằng Nam Việt Nam đã hết thời rồi, rằng trong xã hội của họ có quá nhiều tệ trạng nên khó mà vượt qua khỏi được trận đòn này. Đây là một tài liệu thấm thía đã nói hẳn ra rằng “họ đã tới số rồi". Bản tài liệu ấy đã phản ảnh được quan điềm của tôi trong một thời gian”.
Phản ứng đầu tiên của Tổng thống là phủ nhận lời tường thuật bất lực này của báo chí và truyền hình và trấn an quần chúng Hoa Kỳ. Đến ngày 31-1-1968 lúc chiến sự trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân đã lên đến cao độ, Đại tướng Westmoreland đã nhận được những chỉ thị như sau của Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân: "Tổng thống muốn rằng ông sẽ đích thân đưa ra cho báo chí một bản bình luận vắn tắt ít ra mỗi ngày một lần trong thời kỳ đang có hoạt động gia tăng của quân đội Việt cộng Bắc Việt, mục đích của những lời tuyên bố ấy là để truyền đạt cho quần chúng Hoa Kỳ thấy rằng ông tin tưởng là chúng ta có đủ khả năng bẻ gãy các hành động địch và để trấn an quần chúng ở đây cho họ thấy rằng ông đang nắm vững được tình hình" (18).
Để cho mọi người khỏi phải thắc mắc, các chỉ thị này đã được George Christian tùy viên báo chí của Tổng thống lập lại sau đó cũng trong ngày này cho cả Đại tướng Westmoreland lẫn Đại sứ Bunker: "Trong vài ngày nữa đây chúng ta sẽ phải đối phó với một giai đoạn gay go liên quan đến việc quần chúng Hoa Kỳ sẽ hiểu biết và tin tưởng nỗ lực của chúng ta tại Việt Nam... Xin nói trắng ra rằng muốn đối phó lại cho thực hữu hiệu với các cảnh tàn phá của Việt cộng, không gì sánh kịp với niềm tự tin võ nghiệp của vị tướng tư lệnh. Cũng tương tự như vậy, kinh nghiệm và sự khôn ngoan của vị đại sứ của chúng ta cũng đã làm cho tiên đoán kinh khủng của những nhà bình luận chắc chắn tan mờ... Ngay mỗi khi có chuyện gì xảy ra, nếu quý vị xuất hiện lên tiếng thì chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất nhiều tại trong nước hơn là những gì mà chúng tôi có thể nói lên được" (19).
Sau đó Rostow đã nhắc lại cho Đại sứ Bunker và Đại tướng Westmoreland biết ý Tổng thống muốn "Westmoreland phải mỗi ngày ít nhất một lần đưa ra một bản đánh giá nghiêm chỉnh tình hình quân sự và Bunker phải đưa ra đúng vào lúc thích ứng một bản bình luận có thẩm quyền về các khía cạnh của các biến cố và không thuộc lĩnh vực quân sự”.
Rostow cho biết “Nếu không có sự hướng dẫn có thẩm quyền này thì các thông tín viên sẽ bừa bãi làm công việc ấy thiếu hẳn sự bình tĩnh, thiếu hẳn lối nhìn và uy tín mà chỉ hai quý vị mới có được mà thôi"(20).
Vì không đủ dữ kiện vững vàng, Đại sứ Bunker chỉ trình bày về bối cảnh tình hình, cốt để người ta khỏi trích dẫn lời trình bày của ông. Buổi thuyết trình của ông không được mấy ai quan tâm. Đúng theo phận sự. Đại tướng Westmoreland đã tiếp xúc với báo chí ngày 1-2. Tuy nhiên lời trình bày của ông cũng chẳng có gì làm trấn tĩnh tinh thần được khi ông nhấn mạnh vào giai đoạn sắp đến trong chiến dịch của địch nhưng chưa đến và chắc nó sẽ là giai đoạn sôi nổi nhất có thể sẽ gồm cả những vụ đánh vào các khu vực Quảng Trị, Thừa Thiên" (21).
Westmoreland và Bunker đều nhất trí rằng nếu cả hai người cứ phải họp báo hằng ngày thì quả là một chuyện vừa không cần thiết vừa thiếu khôn ngoan vì như thế sẽ tạo cho báo chí có cảm tưởng là họ đang bị dao động hoang mang. Cho nên đã có quyết định là sẽ có một giới chức cao cấp mỗi ngày sẽ trình bày về một khía cạnh đặc biệt nào đó của tình hình.
Tiếp theo cuộc tấn công Tết Mậu Thân, Tổng thống đã tiến hành cuộc họp báo đầu tiên, ngày 2-2. Ông cho biết là "cuộc tổng nồi dậy đã thất bại không đạt được các mục tiêu đã được đề ra" (22). Ông đã tranh thủ Hội đồng bộ trưởng của ông đề cao quan điểm của chính quyền và đã phủ dụ cùng trấn an dân chúng Hoa Kỳ.
Trong những tuần lễ tiếp theo sau đó Bộ trưởng ngoại giao Rusk và Bộ trưởng quốc phòng đã xuất hiện trên chương trình đặc biệt kéo dài cả giờ đồng hồ của đài truyền hình NBC: Meet the Press (Tiếp xúc báo chí); thứ trưởng ngoại giao Nicholas Katzenbach đã xuất hiện trên chương trình Pace the Nation (Trả lời quốc dân) của đài CBS và Phụ tá Tổng thống Wait M. Rostow đã có mặt trong chương trình Issues and Answers (các vấn đề và lời giải đáp) của đài ABC.
Mặc dù chính quyền đã có những cố gắng đề cao các khía cạnh quân sự thuận lợi trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân nhưng đối với dân chúng Hoa Kỳ và đối với báo chí thì đó là một thảm họa. Một tâm trạng thất vọng và buồn nản đã đè nặng lên giới chính quyền Washington. Chính quyền bị chấn động không những vì cuộc tấn công Tết Mậu Thân mà còn vì các việc làm chủ động khác của Cộng sản.
Tại các nơi khác trên thế giới: tại Nam Triều Tiên, một âm mưu của Bấc Triều Tiên nhằm ám sát Tổng thống Park của Nam Triều Tiên đã bị bẻ gãy vào giờ phút chót; rồi chiếc tàu do thám của Hoa Kỳ cùng với đoàn thủy thủ đã bị Bắc Triều Tiên bắt giữ. Các báo cáo tình báo cho biết tình hình khủng hoảng có thể xảy ra chung quanh Berlin. Chính quyền không dám nói chắc rằng các biến cố này không phải là một biểu hiện Cộng sản mưu toan hiệp đồng tấn công nhiều nơi hòng gây khó khăn và đánh bại Hoa Kỳ không nhưng ở Việt Nam mà còn tại các nơi khác trên thế giới nữa (23).
Ngay như Rusk là con người bình thường rất điềm tĩnh cũng bắt đầu tỏ ra bị căng thẳng và mệt mỏi. Trong một cuộc họp báo “trình bày bối cảnh" tại Bộ ngoại giao ngày 9-2 Rusk đã nổi nóng khi cứ bị chất vấn liên miên về vụ thất bại của tình báo Hoa Kỳ tại Việt Nam. Ông Bộ trưởng đã trách mắng anh chàng phóng viên và anh này đã phát hoảng lên: “Đã đến lúc cần biết rõ anh đứng theo phe nào?"... "Tôi không hiểu tại sao... người ta lại cứ muốn đi tìm hiểu về những chuyện mà ta có thể bỏ qua" (26).
Dựa trên tình hình này, Đại tướng Westmoland dự kiến cộng quân sẽ hoạt động một đợt thứ ba nữa đánh vào các lực lượng đang bị vây hãm tại Khe Sanh. Ngay từ 31-1 trong khi phần đông các thành phố lớn đang bị tấn công, Westmoreland đã báo cáo rằng những vụ tấn công này chỉ là những nỗ lực đánh lạc hướng trong khi địch chuẩn bị tấn công chính yếu vào phía Bắc vùng I chiến thuật (24). Trong khi họp báo ngày 1-2 ông đã nhấn mạnh rằng trong trận tấn công sắp đến sẽ có việc địch sẽ dùng đến một số lượng binh lính đông nhất từ trước đến nay và còn cho Washington thấy có triển vọng các lực lượng không được sử dụng ở các nơi khác sẽ tiến hành các hoạt động tiến công bổ túc hỗ trợ (25).
Westmoreland có linh tính mục đích cuối cùng của địch là chiếm cứ hai tỉnh phía Bắc của Nam Việt Nam. Theo ông thì riêng Khe Sanh cũng chẳng có gì là đặc biệt quan trọng, song đấy là cửa ngõ dẫn vào, địch sẽ tìm cách đi vòng tránh né. Vị trí kiên cố này, nhằm đạt được các mục tiêu chủ yếu của họ xa hơn về phía đông.
“Tôi bố trí tại Khe Sanh một số quân tối thiểu để giữ lấy khu vực còn số quân tối đa thì tôi giữ lại để tiếp viện bằng đường không nếu cần. Lý luận này là có cơ sở có thể lấy thắng lợi mà địch đã đạt được năm 1972 để chứng minh điều đó. Hồi ấy họ tiến vào Khe Sanh, không gặp sức kháng cự, nên đã chiếm trọn toàn bộ tỉnh Quảng Trị nhưng trong lúc này, tôi nghĩ rằng địch không dại gì sẽ phí sức tại Khe Sanh. Tôi nghĩ rằng có lẽ họ sẽ đi vòng tránh chỗ ấy” (26).
Liệu địch có dự định tấn công và chiếm lấy hai tỉnh phía Bắc của Nam Việt Nam như Westmoreland dự kiến hay liệu địch có tập trung các lực lượng Hoa Kỳ ra xa các thành phố hay không, điều ấy chưa ai dám quả quyết. Theo “Lịch sử Bộ tư lệnh 1968” (Command History 1968) của Bộ tư lệnh viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam thì địch tiến đánh Khe Sanh nhằm dụ một phần lớn các lực lượng của ta ra các vùng hẻo lánh xa xôi để trong khi họ tấn công vào các thành phố lớn của VNCH (27).
Khe Sanh chẳng bao giờ phải chống trả một cuộc tấn công đại quy mô của địch, nhưng chưa ai dám quả quyết rằng sự kiện này là do kế hoạch của địch hay là vì không quân Hoa Kỳ đã ồ ạt yểm trợ cho Khe Sanh và đã phá vỡ các cuộc chuẩn bị cho một cuộc tấn công như thế (28).
Westmoreland có thể đã nghĩ rằng ông không cần quá chú trọng đến Khe Sanh, xét về mặt riêng của căn cứ này nhưng Washington lại có một quan niệm khác ngược lại. Đối với Nhà Trắng hình như đã thấy được các điểm tương đồng giữa Khe Sanh và Điện Biên Phủ khi Khe Sanh đã bị bao vây từ đầu tháng 1.
Ý nghĩ về một Điện Biên Phủ xảy ra cho Hoa Kỳ tiếp theo cuộc tấn công Tết Mậu Thân cũng đủ để làm cho chính quyền phải hết sức dao động. Như lời Tướng Gingburgh đã nhắc lại: “Tổng thống rất lo ngại về Khe Sanh. Bắt đầu từ cuối tháng 12, Rostow đã cho ông biết rằng căn cứ vào các tài liệu tịch thu được thì địch có ý định diễn lại một Điện Biên Phủ khác. Tổng thống đã nêu lên vấn đề hiện có nên cố thủ Khe Sanh hay không. Ông tỏ ý muốn biết Đại tướng Westmorelend và Đại tướng Wheeler nghĩ như thế nào về ý kiến của ông. Westmoreiand cho biết là ông đề nghị nên bảo vệ Khe Sanh và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân cũng theo quan điểm của ông” (29).
Trong một phiên họp tại Nhà Trắng ngày 29-1, Đại tướng Wheeler, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đã trình lên Tổng thống theo lời yêu cầu của ông một bản văn trình bày rằng Hội đồng tham mưu trưởng liên quân ủng hộ quan điểm của Westmoreland tin tưởng rằng có thể giữ được Khe Sanh (30).
Nhưng mối lo ngại của Tổng thống vẫn không giảm bớt được dù có bản văn trình bày chưa từng có này của các cố vấn quân sự của ông. Thật ra nỗi lo ngại này lại còn tăng thêm do vị cố vấn quân sự khác của ông là Đại tướng Maxwell D.Taylor. Từ ngày từ chức Đại sứ tại Việt Nam. Taylor đã phục vụ tại Nhà Trắng với tư cách là một cố vấn đặc biệt. Ngày 30-1 ông đã đến thăm bộ chỉ huy Cục tình báo trung ương để nghiên cứu kỹ lưỡng bản đồ tình hình địch tăng cường bao vây Khe Sanh và đã bắt đầu lo ngại về tình thế nguy hiểm của các lực lượng Hoa Kỳ.
Ông đã bày tỏ mối lo âu của ông với Tổng thống và với Rostow: "Tôi rất ngại là địch sẽ lợi dụng được thời tiết xấu. Tôi lo rằng sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp tế cho các lực lượng và việc đưa viện binh và lương thực vào bằng máy bay lên thẳng khi gặp hỏa lực pháo binh mà ta có thể tin rằng sẽ gặp phải với những dàn súng nặng mà địch đã bố trí sắn. Tôi thiết nghĩ không chắc gì các đại bác 175mm đặt ở phía đông sẽ có hiệu quả trong việc yểm trợ quân đóng tại Khe Sanh và tôi sợ rằng pháo binh lính thủy đánh bộ cũng sẽ không được liên tục tiếp tế đầy đủ đạn dược cần thiết để phát huy trọn vẹn khả năng của họ" (31).
Rostow và Tổng thống cũng băn khoăn không kém Taylor và sự kiện này đã được chuyển đến Đại tướng Westmoreland ngày 1-2, đặt giả thuyết thời tiết xấu sẽ bao trùm vùng Khe Sanh và khu phi quân sự và địch phát động cuộc tấn công như đã dự kiến thì ông sẽ làm cách nào để có thể tiếp viện cho quân đồn trú tại Khe Sanh" (32).
Westmoreland đã chỉ thị cho bộ tham mưu của ông hôm 27-1 phải có một cuộc nghiên cứu toàn bộ trên phương diện quân sự về trận Điện Biên Phủ và đưa ra một sự so sánh với Khe Sanh để có thể dự liệu có đủ mọi cách để đối phó (33).
Tin tưởng rằng mình có đủ khả năng đánh bại quân địch. Ông liền cố gắng trấn an Tổng thống. Như Westmoreland đã nêu ra trước hết ông nắm được sức mạnh về không quân cả chiến thuật lẫn của B.52 mạnh gấp bội hồi ở Điện Biên Phủ. Hơn nữa ông đã tăng cường pháo binh và cải tiến rất nhiều các kỹ thuật tiếp tế đường không bằng máy bay lên thẳng nếu cần. Westmoreland đã tuyên bố: "Chỉ khả năng tăng viện hỏa lực này không thôi có lẽ cũng đã có thể thay đổi chiều hướng của trận đánh tại Điện Biên Phủ rồi” (34).
Nhưng tổng thống cũng chưa được yên tâm. Đại tướng Wheeler đã thuật lại cho Westmoreland việc Tổng thống lo ngại tình hình có thể là rất trầm trọng đến mức ông sẽ phải cân nhắc quyết định có nên dùng đến các vũ khí hạt nhân chiến thuật đã cứu vãn tình hình hay không, một quyết định mà ông không muốn lâm vào thế không tránh khỏi (35).
Lời phúc đáp của Westmoreland cũng đã không đủ sức làm cho vững lòng. Có lẽ không nên đòi hỏi phải sử dụng đến các vũ khí hạt nhân chiến thuật trong tình hình hiện nay. Đại tướng Westmoreland đã trả lời như vậy bởi vì ông đã được phép sử dụng loại đạn pháo đặc biệt với khả năng sát thương cao. Tuy nhiên, liệu tình hình ở vùng phi quân sự sẽ có gì thay đổi quan trọng không? “Chúng ta nên chuẩn bị đưa vào loại vũ khí có hiệu quả sát thương cao chống tấn công biển người. Trong tình hình hiện đại, tôi nghĩ rằng cả vũ khí hạt nhân lẫn vũ khí hóa học thực sự có thể sử dụng hữu hiệu được" (36).
"Bởi vì địch có nhiều sư đoàn chưa tham chiến còn ở miền Bắc, tôi có linh cảm địch có khả năng tấn công qua vùng phi quân sự bằng biển người. Đó là trường hợp nguy hại nhất có thể xảy ra" (37). Đại tướng Westmoreland sau đó lưu ý như vậy.
Khe Sanh là đề tài thảo luận trong bữa ăn trưa kéo dài tại Nhà Trắng ngày 3-2, vẫn còn có lo âu về lực lượng Mỹ có thể bắt buộc phải rút khỏi Khe Sanh do đó sẽ tạo cho địch thắng lợi lớn lao về tâm lý cả ở Hoa Kỳ lẫn ở Việt Nam. Người ta cũng đã thảo luận những đường lối hành động khác để giải tỏa áp lực địch tại Khe Sanh.
Một đề nghị được đưa ra là mở cuộc hành quân hiệp đồng thủy bộ để đánh lạc hướng. Ở phía Bắc Khu phi quân sự nhằm cắt đứt đường tiếp tế của địch (38). Các đề nghị khác gồm có việc mở cuộc tấn công vào vùng phía đông khu phi quân sự, tiến quân qua khu phi quân sự để bắt tay với lực lượng giải vây cho quân đồn trú tại Khe Sanh. Nhưng hội nghị đã đi đến kết luận là lúc đó không có cách gì để đánh lạc hướng địch, hầu tạo được ảnh hưởng đến trận chiến đấu xảy ra trong tương lai trước mắt.
Đại tướng Taylor tóm tắt tâm trạng những người dự hội nghị như sau: “Không khí buồn nản bao trùm hội nghị, khi những người tham dự xét đến tính chất trầm trọng của tình hình và sự thiếu bảo đảm về khả năng của chúng ta giữ được Khe Sanh mà không bị tổn thất nặng. Trong khi không ai đề cập đến vấn đề là đáng lý ra chúng ta không nên đóng quân ở đó (Khe Sanh) nhưng thật hiển nhiên là trong thâm tâm đa số chúng tôi đều mong rằng chúng ta chẳng nên ở đó. Tuy nhiên không ai trong chúng tôi đề nghị rút lui cả vì rõ ràng sự thể đã như vậy rồi và chúng ta chỉ còn cách là phải chiến đấu theo đường hướng đó mà thôi. Tôi gắng gượng trình bày rằng Khe Sanh chỉ là một tiền đồn và chẳng ai lại muốn nghĩ rằng tiền đồn này sẽ là một Verdun. Thực ra, những người dự hội nghị đều nhìn nhận rằng chính chúng ta đã làm rùm beng quan trọng hóa vụ Khe Sanh trong đầu óc dân chúng Mỹ và thật rất khó mà giải thích cho họ hoặc bất cứ ai khác rằng Khe Sanh chỉ là một tiền đồn nhỏ và kết quả của trận chiến tại đó thực chẳng có gì là quan trọng" (39).
Chú thích
(1) Văn kiện MAC 01438 của Đại tướng Westmoreland gửi Đô đốc Sharp ngày 301235 Z tháng 5-1965: Command History 1968 (Lịch sử Bộ tư lệnh 1968) trang 376, 386, 390, 397, 884, 890, 894, 895, 902.
(2) Bị vong lục của Cơ quan tình báo trung ương "Những đơn vị Cộng sản tham dự các trận đánh trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân từ 30-1 đến 13-2-1968" đề ngày 21-2-1968 trang 3-4. Lúc đầu có vài sự sai lầm về số lượng các tỉnh lị và quận lị thật sự bị tấn công. Tài liệu Command History (Lịch sử Bộ Tư lệnh) trang 123 liệt kê 27 tỉnh lị và 58 quận. Trong Vanlage Point (Vị trí ưu thế) trang 382. Tổng thống Johnson liệt kê có 36 tỉnh lị và khoảng 1/4 trong số 242 (đúng nguyên văn) quận lị".
(3) Điện văn CÔMUSMACV tháng 1-1968.
(4) Command History 1968 (Lịch sử Bộ tư lệnh 1968) trang 129-131.
Muốn biết thêm các chi tiết khác của cuộc giao tranh xem trang 376-400, 883-904;
Muốn biết về luận thuyết của Nam Việt Nam thì xem Phạm Văn Sơn: Việt cộng Tết offensive (Trận tấn công Tết Mậu Thân):
Về các chi tiết trận đánh Huế, xem Oberdorfer: Tet, trang 198-235. Xem cả Douglas Pike: The Viet Cong Strategy of Terror (Chiến lược khủng bố của Việt Cộng) trang 41-64; Stephen P.Hosmer: Vietcong Repression and Its Implications in the future (Sự trấn áp của Việt Cộng và các hệ quả của nó đối với tương lai) trang 45-51; Tướng ba sao Pearsen: "Vietnam Studies: The War in the Northern Provinces 1966-1968 (Nghiên cứu chiến tranh Việt Nam: Chiến sự tại các tỉnh phía Bắc 1966-1968) trang 29-72:
Về chi tiết chiến sự tại Sài Gòn, Huế, Đà Lạt xem Palmer: Quan điểm của một quân nhân về Việt Nam, trang 270-273; cả của Denis Warmer: Việc bảo vệ Sài Gòn: Cuộc chiến đấu tại.vùng đồng bằng Sông Cửu Long đã được đề cập trong Harvey Mayersen: Vinh Long. trang 128-199; Tướng hai sao William B.Fulton: Việt Nam Studies: River arm - Operations 1966-1967 (Nghiên cứu chiến trường Việt Nam: Hoạt động giang lực 1966-l969) trang 148-155.
Về luận thuyết của Bắc Việt Nam xem South Viet Nam: A Month of Unprecidented Attacking and Uprising (Nam Việt Nam: một tháng tấn công và nổi dậy chưa từng có) và “Các quang cảnh tổng tấn công và tổng nổi dậy".
(5) Trung tá Dave R.Palmes: Readings in Current Military History (Những bài trong lịch sử quân sự hiện thời) trang 103. Xem cả Warner "Hơn và Thiệt hại ở Sài Gòn" trang 23-24.
(6) Trực tiếp phỏng vấn Đại tướng William C Westmoreland ngày 23-10-1972. Xem thêm Westmoreland; Report on the war in Vietnam (Phúc trình về chiến tranh tại Việt Nam) trang 157.
(7) Intelligence warning of the Tet Offensive in South Việt Nam April 11-1968 (Triệu chứng tình báo của cuộc tấn công Tết Mậu Thân lại Nam Việt Nam 11-4-1968) trang 3-5, giải mật ngày 3-12-1975 cho ủy ban đặc biệt về tình báo của Hạ nghị viện. Xem cả của Taylor: Swords and Plowshares (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 383.
Muốn biết về chuyện cuộc tấn công không được biết trước tại vùng IV chiến thuật hãy xem Meyerson: Vĩnh Long trang 103-l04 và Danald Kirl "Đại tá Mỹ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long phủ nhận được lời cảnh báo về các cuộc đột kích". Tại vùng III chiến thuật thì lại được biết trước về vụ đột kích nên đã có quân bố trí xung quanh Sài Gòn để đối phó. Trực tiếp phỏng vấn Đại tướng Fred C.Weyand ngày 27-12-1973. Nên xem luôn Command History 1968 (Lịch sử bộ tư lệnh 1968) trang 894-895; Westmoreland: Report on the War in Vietnam (Phúc trình về chiến tranh tại Việt Nam) trang 157; Rostow: Diffusion of Power (Sự chia sẻ quyền lực) trang 464.
(8) Muốn biết các ý kiến của Đại tướng Abrams về phản ứng bất lợi có thể có của báo chí đối với việc loan báo việc địch tăng cường quân số hãy xem văn kiện MAC 7840 ngày 20 0251 Z tháng 6-1967. Xem cả của Westmoreland: A soldier's Reports (Tường trình của một quân nhân), trang 416; Lon Cannon: “người ta nói rằng các dữ kiện năm 1967 về địch đã bị che giấu”. Lời tuyên bố của Samuel A.Adams trước ủy ban đặc biệt về tình báo của hạ nghị viện; Georges Larmer Sen. “Vụ bất ngờ Tết 1968 bị quy trách cho dữ kiện sai lầm", Johnson M.Crowdson: ‘Có trường hợp tin tức sai lầm về quân số địch tạt Việt Nam"; David S.Zroden "Ford yêu cầu có một quan niệm tương ứng về vụ Tết"; Norman Keepster "Cựu trợ lý cơ quan tình báo Trung ương tranh luận về các lời chỉ trích vụ tấn công Tết Mậu Thân"; Jack Anderson và Las Whitten “thao túng của các con số trong vụ tấn công Mậu Thân". Hệ thống truyền hình Columbia “Face The Nation September 21. 1975; Guest James R. Schlesinger" (Trả lời quốc dân, ngày 21-9-1975 khách thuyết trình James R.Schlesinger" trang 1); lời tuyên bố của tướng ba sao Saniel O Graham, Cục trưởng Cục Tình báo quốc phòng trước ủy ban đặc biệt về tình báo của Hạ nghị viện; lời tuyên bố của William E.Colby, Chủ nhiệm cơ quan tình báo trung ương trước Ủy ban đặc biệt về tình báo của hạ nghị viện; Don Oberdorler "Vì tình báo mà mất thắng lợi trong vụ đánh Tết".
(9) Văn kiện 01592 của Đại tướng Weslmoreland gửi Đại tướng Wheeler ngày 031512 Z tháng 2-1-1968. Xem cả tài liệu lình báo của CIA ngày 21-2-1968 trang 3-4; Command History 1968 (Lịch sử Bộ tư lệnh 1968) trang 70-72.
(10) Văn kiện Sài Gòn 17326 tòa đại sứ Hoa Kỳ Sài Gòn gửi Bộ trưởng Ngoại giao ngày 041108 Z tháng 2-1968. Đề tài Zhiray Seventh Weekly Message (Bức tin hàng tuần thứ 7). Muốn có một sự nhận định về Bắc Việt Nam, xin xem Oriana Rallasi “Tư lệnh Bắc Việt Nam nhìn nhận đã thiệt hại 500.000 quân, nguyện sẽ chiến thắng". Xem cả Command History 1968 (Lịch sử Bộ tư lệnh l968) trang 281; Pi ke: War, peace and the Vietcong (Chiến tranh, Hòa Bình và Việt Cộng) tr 127.
(11) Văn kiện Saigon 17908 tòa đại sứ Hoa Kỳ Sài Gòn gửi Bộ trưởng ngoại giao ngày 040905 Z tháng 2-1968, đề tài Motives behind Current VC/NVA Offensive (Động cơ đứng đàng sau các cuộc tấn công của quân đội VC/Bắc Việt Nam): trong bản văn này Đại sứ Bunker đã trích dẫn Đài phát thanh Giải phóng (EB 0649) và của các bài báo của Joseph Cabames thông tín viên Hãng Thông tấn France Press ở Hà Nội. Xem văn kiện Sài Gòn 21321 của Đại sứ Bunker gửi Tổng thống ngày 6-3-1968. Đề tài Second Weekly Message (Bức tin hàng tuần thứ 2). Pi ke: War, Peace and the Vietcong (Chiến tranh, Hòa bình và Việt Cộng) trang 129-130 C'neill, The Strategy of General Giáp (Chiến lược của Đại tướng Giáp) trang 17.
(12) Văn kiện 01614 ngày 040959 Z tháng 2-1968 của Đại tướng Westmoreland gửi Đại tướng Wheeler; xin xem cả của Tom Buckley “người ta cho rằng cuộc tấn công đã làm lộ quân số của địch"; Murray Marder "Các chuyên gia Hoa Kỳ nhìn nhận VC có thắng lợi?"; Newbold Noyes "Cuộc tấn công làm cho nhân dân Hoa Kỳ và Nam Việt Nam phải suy nghĩ". Stanley Karnow: "Việt Cộng khoe đã giáng cho đồng minh một đòn đích đáng". Everett G.Martin "Hậu quả tai hại đối với dân chúng".
(13) Trực tiếp phỏng vấn tướng ba sao Robert N.Gingburgh ngày 25-8-1975. Xem cả của Harry Kelly "Tiết lộ có một sự chậm trễ 8 ngày trong một vụ theo dõi điệp viên Việt Cộng của quân đội".
(14) Public Papers of Lyndon Johnson 1978-1969 (Tài liệu công quyền của L.Johnson) I trang 25: Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 372-381; Albert H.Cantril: The American People, Việt Nam and the Presidency (Nhân dân Hoa Kỳ, chiến tranh Việt Nam và hoạt động của tổng thống) trang 5.
(15) Oberdorfer: Tet. trang 159-161, 163-171; Taylor: Swords and Plowshares (Thanh kiếm và lưỡi cày) trang 384-385.
(16) Hoa Kỳ ném bom một thành phố Việt Nam để "cứu thành phố này"; Bernard Weinraub: "Những người còn sống sót đi tìm những người chết ở Bến Tre đã bị biến thành đống gạch vụn vì các cuộc oanh kích của Đồng Minh"; Oberdorfer: Tet. trang 184-185.
(17) Trực tiếp phỏng vấn Harry Mc Phersen Jr ngày 21-12-1972. Xem cả của Tom Wieker "Cuộc tấn công của Việt cộng làm chấn động Washington"; Hugh, Sidey "Những giả thuyết bị lung lay về chiến tranh"; Hurray Marder và Shalmers S.Roberts "Cuộc tấn công của Cộng sản đã đưa Hoa Kỳ vào mê hồn trận".
(18) Văn kiện JCS 8691 ngày 311401 Z tháng 1-1968 của Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân gửi cho Tư lệnh viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam.
(19) Văn kiện CAP 80383 ngày 31215 Z tháng 1-1968 của Georges, Đại sứ Bunker và Đại tướng Westmoreland.
(20) Nói với Đại sứ Bunker và Đại tướng Westmoreland ngày 5-2-1968.
(21) Cuộc họp báo của Đại tướng William C. Westmoreland tại cơ quan Giao tế liên vụ Hoa Kỳ tại Sài Gòn ngày 1-2-1965.
(22) Public Papers of Lyndon Johnson 1968-69 (Tài liệu công quyền của L.Johnson 1968-69) I trang 155-163.
(23) Johnson: The Vantage Point (Vị trí ưu thế) trang 385. Chalmer M.Roberts "First Rough Drart: A Journalist Journal of our Times" (Sơ thảo đầu tiên: Nhật ký của một nhà báo thời đại chúng ta) trang 261-262. Oberdorter: Tet. trang 170, 360-367.
(24) Văn kiện MAC 01448 ngày 310918 Z tháng 1-1968 của Tướng Westmoreland gửi Tướng Wheeler.
(25) Văn kiện MAC 0152 ngày 031512 Z tháng 2-1968 của đại tướng Westmoreland gửi Đại tướng Wheeler.
(26) Trực tiếp phỏng vấn Đại tướng William C Westmoreland ngày l6-9-1973.
(27) Command History 1968 (Lịch sử Bộ tư lệnh 1968) trang 883; Shore: "The Battle for Khe Sanh (Trận đánh Khe Sanh) trang 54; Heepes: The Limits of Intervention (Các giới hạn của sự can thiệp) trang 144; Xem cả của Lee Lescaze "Khe Sanh: một ám ảnh cho Hoa Kỳ"; Joseph Kralt "Khe Sanh cho thấy địch quân ở Việt Nam biết áp dụng chiến lược"; Tom Buchley "Các tướng cân nhắc về các mục tiêu của địch tại Dakto". Trong bài báo của ông. Buckley đã viện dẫn Tướng ba sao Wilham B.Rosson như sau: "Họ đã khó thành công trong việc dụ chúng ta rút bớt lực lượng vùng bờ biển, nếu quả đấy là ý định của họ". Xem cả của tướng Giáp: Big victory. Great Task (Chiến thắng to, nhiệm vụ lớn) trang 60-70.
(28) Sennard C.Nally: Air Power and the Fight for Khe Sanh (Sức mạnh không quân và cuộc chiến đấu giành Khe Sanh) trang 10; Oberdorfer: Tet - trang 110-111; Shore: Thc Battle for Khe Sanh (Trận Khe Sanh) trang 71; O'neill: Thc Strategy of General Giáp (Chiến lược của Đại tướng Giáp) trang 15-16.
(29) Trực tiếp phỏng vấn Tướng hai sao Robert H.Gingburgh ngày 25-8-1975
(30) Trực tiếp phỏng vấn Đại tướng Maxwell D.Taylor ngày 21-12-1972. Xem luôn bản văn JOS 01316 ngày 041642 Z tháng 2-1968 của Đại tướng Wheller gửi Đại tướng Westmoreland: “Hội đồng tham mưu trưởng liên quân tán thành việc bảo vệ Khe Sanh".
(31) Trực tiếp phỏng vấn Đại tướng Maxwell B.Taylor ngày 12-1972.
(32) Văn kiện JOS 01147 ngày 010391 Z tháng 2-1968 của Đại tướng Wheeler gửi Đại tướng Westmoreland, đề tài Khe Sanh.
(33) Command Historv 1968 (Lịch sử Bộ tư lệnh 1968). Bản phúc trình cuối cùng đã được công bố ngày 10-3-1968 và đã được phổ biến rộng rãi. Một phần của bản phúc trình đã được trích dẫn trong tài liệu Rostow: "Diffusion of Power" trang 694-696. Xem luôn của Westmoreland: A Soldier's Report. (Tường trình của một quân nhân) trang 337-338 và của Shore “the Battle for Khe Sanh" (Trận đánh Khe Sanh) trang 145-146.
Muốn có các lời tường thuật xác đáng về trận Điện Biên Phủ, hãy đọc của Jules Roy: La Bataille de Điện Biên Phủ (trận Điện Biên Phủ); Bernard B.Pall “Hell in very small place: The siege of Điện Biên Phủ" (Địa ngục tại một trận địa nhỏ: Điện Biên Phủ bị bao vây); Paul Grauwin: Doctor at Dienbienphu (Bác sĩ tại Điện Biên Phủ), muốn biết luận cứ của Bắc Việt Nam hãy đọc "Chiến tranh nhân dân - Quân đội nhân dân" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
(34) Bản văn NAC 01586 ngày 0312254 Z tháng 2-1960 của Đại tướng Westmoreland gửi Đại tướng Wheeler, đề tài Khe Sanh.
Muốn biết về phản ứng của báo chí đối với tình hình Khe Sanh đọc bài của Roland Evans và Robert Novak, nhan đề “Những người làm chính sách và tướng lĩnh lo lắng về địch tập trung đông quân tại Khe Sanh"; Ward Just "Khe Sanh giữ vững tuyến cuối”; Orr Kelly “4 sư đoàn đe dọa vị trí do lính thủy đánh bộ đóng giữ"; Joseph C.Gouiden "Đột kích và rút nhanh của địch rất khó chống trả". William Mc Gatfin "Giao tranh tại Khe Sanh sắp có thể diễn ra nhưng không có viễn ảnh thành một Điện Biên Phủ, đó là quan điểm của Lầu Năm góc"; Bernard Weinraub "56 lính thủy đánh bộ chết trong nhưng trận giao chiến tại khu phía Bắc sôi động"; Edward Mortimer "Cựu chiến binh Điện Biên Phủ nhận định về Khe Sanh"; Peter Braestrup; "Khe Sanh chờ đợi và dò dẫm về chiến lược"; Orr Kelly "Hoa Kỳ có thể đạt được gì ở Khe Sanh?"; Neil Sheehan: "Khe Sanh, tại sao Hoa Kỳ đang cầm cự ở đấy"; Beverly Deepe: "Khe Sanh di sản của Đại tướng Westmoreland".
(35) Văn kiện Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân số 01272, số 030332, tháng 2-1968. gởi Đại tướng Westmoreland, đề tài: Khe Sanh.
(36) Văn kiện của Bộ tư lệnh yểm trợ quân sự Hoa Kỳ số 01386. Trong thời gian này có nhiều bàn luận trên báo chí về khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân để giữ Khe Sanh tránh bị quân địch tràn ngập. Xem Marquis W.Chiles "Tin đồn bom nguyên tử dự trữ tại Việt Nam"; Ceerges G.Wilson: “Theo Hoa Kỳ, không có yêu cầu sử dụng vũ khí nguyên tử tại Việt Nam"; Redrick Smith “Wilson lưu ý thận trọng về việc sử dụng vũ khí nguyên tử trong chiến tranh". "Mc Carthy ghi rằng, đã có thể nghiên cứu sử dụng bom nguyên tử tại Việt Nam"; John "Điện thoại không rõ xuất xứ mở màn cho những tin đồn về vũ khí hạt nhân cần sử dụng tại Việt Nam"; John "Wheeler không tin Khe Sanh cần đến vũ khí nguyên tử". Tổng thống Johnson cố gắng chấm dứt sự bàn luận, thoạt tiên, ông cho tùy viên báo chí loan báo ngày 9 tháng 2 rằng Tổng thống chưa nhận được đề nghị sử dụng vũ khí hạt nhân tại Việt Nam và trong cuộc họp báo ngày 16 tháng 2, Tổng thống Johnson tuyên bố "Không có khuyến cáo nào gởi tới tôi cả. Ngoài ra chúng ta cần phải chấm dứt thảo luận vấn đề này". Tài liệu công quyền của Lynson Johnson, 1968-1969. 1 trang 234. Mặc dầu Tổng thống đã tuyên bố như vậy, sự bàn luận vẫn chưa chấm dứt ngay. Xem Johnson Lederberg. “Vũ khí nguyên tử phải được hạn chế nếu sử dụng tại Nam Việt Nam"; James Cahill “Scott chống đối sử dụng vũ khí nguyên tử trong chiến tranh Việt Nam"; Murruy Maroer "Sử dụng vũ khí nguyên tử tại Việt Nam bị ngăn chặn vì hiệp ước".
(37) Trực tiếp phỏng vấn Tướng Westmoreland ngày 16 tháng 9-1973, cũng như xem Westmoreland "Phúc trình của một quân nhân". trang 338.
(38) Quan niệm hành quân hợp đồng thủy bộ nghi binh ở Bắc khu phi quân sự do Đại tướng Westmoreland đề nghị ngày 24-7-68. Mục tiêu chính nhằm buộc địch rút về thế phòng thủ do giảm được áp lực tại Khe Sanh và khu phía bắc vùng 1 chiến thuật. Kế hoạch được Hội đồng tham mưu trưởng liên quân chấp nhận với những hạn chế chính xác. "Kế hoạch mang tên Pacific Grove" (Khu rừng Thái Bình Dương) giữ mật và có thể thực hiện trong tương lai. Command History (Lịch sử Bộ Tư lệnh) 1962, trang 781-782.
(39) Trực tiếp phỏng vấn Đại tướng Maxwell B.Taylor ngày 28-7-1972. có cùng quan điểm với tướng Taylor, xem Denis Warner “Khe Sanh và Điện Biên Phủ” trang 18 và Denis Warner "Báo cáo từ Khe Sanh"; Max Frankel “Hoa Kỳ chuẩn bị tại Khe Sanh để tránh một Điện Biên Phủ”.
Sự Nghiệp Của Một Tổng Thống Bị Đổ Vỡ - L.johnson Và Việt Nam Sự Nghiệp Của Một Tổng Thống Bị Đổ Vỡ - L.johnson Và Việt Nam - H.y.schandler