It's so amazing when someone comes into your life, and you expect nothing out of it but suddenly there right in front of you, is everything you ever need.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 38
ần đầu tiên trong nhiều tuần, Francis thức dậy trong ánh nắng rực rỡ. Bầu không gian im ắng lạ thường - không có tiếng động thường nhật từ hành lang hoặc khoảnh sân. Anh thay trang phục rồi bước ra. Cánh cửa đang mở; sự việc đã khá thoáng từ khi Moody ra đi. Anh tự nghĩ chuyện gì sẽ diễn ra nếu mình bỏ đi một mình; có lẽ ai đó sẽ hốt hoảng mà bắn anh một phát. Không đúng, bởi vì Giáo dân là người của Thượng đế và không có xu hướng mang vũ khí. Dù sao thì nếu đi đâu anh vẫn để lại sau lưng dấu vết trên nền tuyết.
Anh chống nạng bước ra hành lang. Không thấy ai đi lại, và thật ra có rất ít âm thanh của cuộc sống. Francis suy nghĩ nhanh - hôm nay có phải là Chủ nhật không? Không, Chủ nhật đã qua vài ngày trước (khó mà theo dõi ngày tháng ở đây). Anh mơ viển vông rằng mọi người đã bỏ đi. Anh đi theo hành lang kéo dài phía trước mặt. Anh không biết các cánh cửa mở ra hướng đi đâu, bởi vì từ khi được mang đến đây anh chưa từng ra khỏi phòng mình. Không thấy bóng dáng cái anh cai ngục Jacob ở đâu. Cuối cùng, anh tìm ra một cánh cửa mở ra bên ngoài, và đi qua theo đó.
Cái sốc của không khí trong lành thì vừa lạnh lẽo vừa ngọt dịu. Ánh nắng làm hoa cả mắt; cái lạnh khiến cho da mặt anh buốt rát, nhưng anh hít mạnh không khí như thế vào buồng phổi, nếm trải cảm giác đau nhức. Làm thế nào anh nằm giam mình trong căn phòng đó lâu như thế? Anh chán ghét chính mình. Anh tập đi nhanh hơn, khập khiễng tới lui bên ngoài cánh cửa, làm quen dần với cây nạng. Và rồi anh nghe một tiếng la. Anh nhắm chừng phương hướng để đi vòng một góc khu chuồng gia súc, và thấy một tốp người khoảng một trăm mét phía trước. Dù thôi thúc đầu tiên của anh là lùi lại để ẩn giấu, có vẻ như họ không quan tâm đến anh lắm, nên anh khập khiễng tới gần thêm. Jacob ở trong tốp người này; anh ta nhận ra anh và đi về phía anh.
“Chuyện gì đang xảy ra? Tại sao mọi người ở đây?”
Jacob nhìn ngoái lại ra sau: “Anh còn nhớ tôi nói với anh về chuyện Line và anh thợ mộc đã bỏ đi không? À... anh ta đã trở về.”
Francis chậm chạp chống nạng đến đám người Na Uy thích ngồi lê đôi mách: vài phụ nữ đang khóc, Per đang an ủi trong giọng điệu nghe như kinh cầu. Giữa bọn họ, anh thấy người mà Jacob đã nói đến - một con người tội nghiệp có mắt lõm sâu, râu tóc bù xù, mũi và đôi má đỏ bầm vì cóng lạnh; râu ria phủ sương muối trắng xóa. Thế thì đây là anh thợ mộc mà anh chưa gặp bao giờ, mà Line đã cuỗm đi. Một người dường như đang cật vấn anh ta, nhưng anh ta có vẻ mê mụ.
Francis tự trách mình vì đã hiểu ra sự việc quá chậm, rồi loạng choạng bước đến anh ta, cảm thấy cơn giận nổi lên. Anh hét lên mà không biết người kia hiểu tiếng Anh hay không: “Anh đã làm gì với cô ấy? Line hiện giờ ở đâu? Anh đã bỏ rơi cô ấy ngoài kia hả? Còn hai đứa con cô ấy đâu?”
Người thợ mộc quay sang anh với vẻ ngỡ ngàng - mà cũng dễ hiểu thôi, vì anh ta chưa từng gặp Francis.
Với vẻ vừa dữ dằn vừa sợ hãi, Francis hạch sách: “Cô ấy ở đâu?”
Anh ta lắp bắp: “Cô... tôi không biết. Một đêm… chúng tôi đi đến một ngôi làng, rồi tôi không chịu được. Tôi biết mình làm điều sai trái. Tôi muốn quay về. Nên tôi để cô ấy... ở ngôi làng.”
Có một phụ nữ với vóc dáng rắn rỏi kế bên anh ta, bám lấy anh ta, đẫm nước mắt. Francis đoán cô là người vợ bị bỏ rơi.
“Ngôi làng nào? Cách bao xa?”
Mắt anh ta chớp chớp: “Tôi không biết tên. Nó kế bên con sông... con sông nhỏ.”
“Cách mấy ngày đường?”
“Ơ... Ba ngày.”
“Anh nói láo. Không có làng nào cách đây ba ngày đường, không có nếu anh đi về hướng nam.”
Mặt anh ta tái nhợt đi, dù cho bình thường đã xanh xao: “Chúng tôi đánh mất la bàn.”
“Anh bỏ cô ấy ở đâu?”
Anh thợ mộc bắt đầu khóc. Cuối cùng, anh giải thích trong sự pha trộn tiếng Na Uy và tiếng Anh: “Dễ sợ... Chúng tôi lạc đường. Tôi nghe một tiếng súng, tôi nghĩ có thể tìm ra người đi săn và ông ấy chỉ đường cho tôi. Nhưng tôi không tìm được... Có chó sói. Khi quay về, tôi thấy vết máu, và họ đã... đi.”
Anh nức nở trông thảm thương. Người phụ nữ kia rời xa khỏi anh, như thể vì kinh tởm. Những người khác há hốc nhìn Francis với vẻ ngạc nhiên - phân nửa trong số họ đã không trông thấy anh kể từ lúc anh được mang đến đây trong tình trạng dở sống dở chết. Francis cảm thấy mình chực bật khóc, cổ họng quặn thắt khiến cho anh gần ngạt thở.
Per giơ tay lên ra dấu cho mọi người chú ý, nói bằng tiếng Na Uy: “Tôi nghĩ tất cả chúng ta nên đi vào trong. Espen cần được chăm sóc, và ăn uống. Rồi chúng ta sẽ tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra và phái người đi tìm họ.”
Dần dần tất cả quay người đi vào các tòa nhà.
Jacob đi theo Francis. Cho đến khi cả hai vào bên trong, anh mới cất tiếng: “Anh nghe này. Tôi không rõ, nhưng... Điều kỳ lạ là chó sói tấn công và giết chết ba người. Có lẽ chuyện xảy ra không phải như vậy.”
Francis vừa nhìn Jacob vừa đưa tay áo lau mũi.
Từ cửa phòng mình, Per gọi đến: “Jacob… Francis... hai người không cần vào đó. Đến nhà ăn cùng với những người khác.”
Ngạc nhiên và cảm động, Francis đi theo Jacob đến nhà ăn.
Họ ăn bánh mỳ và phó mát, uống cà phê. Chỉ có tiếng xầm xì khi họ trao đổi với nhau, cảm thấy kinh sợ vì vụ việc. Francis nghĩ đến lòng tử tế mà Line đã đối xử với mình, và việc cô tha thiết muốn ra đi. Nhưng cô cũng là người cứng cỏi. Có lẽ sự thể không phải như vậy. Anh không muốn nghĩ đến, chưa muốn.
Không ai trong phòng nhìn anh với vẻ ngờ vực. Nếu muốn, anh có thể đi với họ tìm kiếm Line, nhưng đầu gối anh đang đau nhức với cử động chưa quen thuộc, và anh thấy mình yếu đuối như bông. Anh đã nằm trong căn phòng trống được nhiều tuần, các cơ bắp của anh nhão ra, làn da nhợt nhạt. Đã nhiều tuần kể từ khi...
Anh lấy làm sốc mà nhận ra rằng trong ít nhất một tiếng đồng hồ anh đã không nghĩ đến Laurent, kể từ lúc anh trông thấy đám người kia; và nếu anh trung thực, thì kể từ lúc anh mở cánh cửa thông ra bên ngoài và nếm trải không khí ngọt ngào, lạnh lẽo. Anh đã không nghĩ đến Laurent trong thời gian đó, và cảm thấy như mình đã không chung thủy.
Một thời gian lâu về trước, trong đêm ấy, phía sau ngôi nhà gỗ Francis thấy một luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa sổ. Anh đã bắt đầu đi dọc bờ sông, phòng trường hợp Laurent có khách. Laurent thường có khách, lúc trước cũng thế, nên Francis đứng chờ bên ngoài phòng trường hợp này xảy ra. Anh không muốn miệng lưỡi độc địa ấy la mắng mình. Anh nghe cánh cửa mở ra, rồi thấy một người đàn ông với mái tóc đen dài đi ra sân vườn. Ông ta cầm cái gì đó trong tay, Francis không thể nhìn ra đó là cái gì, rồi ông cho vào chiếc túi, nhìn quanh quất, hoặc nghe ngóng thì đúng hơn, với vẻ bất động nhưng đầy cảnh giác của người chuyên theo dõi dấu vết. Francis đứng im, lặng thinh. Đã nửa đêm, trời khá tối, nhưng anh biết đó không phải là người sống ở Sông Dove - anh biết cách họ đi đứng, di chuyển, hít thở. Người này thì khác biệt, ông ta khạc nhổ xuống đất, quay người nhìn đến cánh cửa đang mở rộng, và Francis thoáng thấy một làn da sậm màu và phản chiếu ánh sáng, một mái tóc nhờn uốn quanh hai bờ vai, một khuôn mặt như phỗng đá, khép kín. Ông ta không còn trẻ. Ông ta quay trở vào ngôi nhà gỗ, khuất hẳn khỏi tầm mắt Francis. Rồi ánh sáng bên trong vụt tắt. Người đàn ông bước ra, lẩm bẩm câu gì đó trong hơi thở, và đi đến bờ sông. Tiếng chân âm thầm. Francis thở một hơi nhẹ nhõm - nếu là một nhà buôn bán thì anh phải lánh mặt luôn. Nhưng người này không ở lại.
Francis lần mò dọc bờ sông và rón rén đi vòng đến phía trước ngôi nhà gỗ. Anh không nghe động tĩnh gì bên trong. Nơi cánh cửa, anh dừng lại rồi mở ra.
“Laurent?” anh thì thầm, cảm thấy xấu hổ với chính mình vì đã thì thầm. “Laurent?”
Rất có thể Laurent sẽ bực tức với anh - chỉ mới một ngày rưỡi trước hai người đã cãi cọ với nhau. Hoặc là - anh cảm thấy ớn lạnh đến tận con tim với ý nghĩ - có phải anh ấy đã ra đi trong cuộc hành trình cuối cùng bí ẩn để tránh mặt mình hay không? Anh ấy có thể chọn thời điểm ra đi sớm hơn, để tránh chuyện lôi thôi. Bản chất anh là thế.
Francis đẩy cánh cửa mở rộng. Bên trong im ắng và tối đen, nhưng ấm áp nhờ bếp lò. Francis mò mẫm bước đến nơi thường đặt cây đèn, và tìm được. Anh mở cửa lò, đốt bấc đèn, và chớp mắt trong ánh sáng thình lình lóe ra. Không có tiếng đáp trả; Laurent đã đi, nhưng bao lâu rồi? Anh ấy có thể đi mà để lại dấu vết. Có thể anh ấy không đi hẳn, vì chắc chắn anh không thể để bếp lò còn cháy. Anh ấy có thể...
Cuộc sống của anh chỉ còn lại vài giây đồng hồ, và Francis đã làm mất thời gian quý báu trong khi đang lần mò với bấc đèn. Khi nhìn quanh, Francis sẽ thấy Laurent đang nằm trên giường. Sẽ lập tức thấy vết đỏ trông kỳ lạ trên đầu; rồi sẽ nhanh nhẹn bước đến nơi anh có thể nhìn gương mặt anh ấy, cổ anh ấy, vết thương nặng.
Sẽ thấy rằng đôi mắt anh ấy còn ướt.
Sẽ cảm nhận anh ấy vẫn còn ấm.
Francis chớp đôi mắt đã đẫm lệ. Jacob đang cất tiếng: anh này nói mình sẽ đi ra ngoài - anh không thích ngồi lâu một chỗ. Jacob đặt tay lên vai Francis - bây giờ mọi người đều tử tế với anh, mà anh không chịu được - liệu trong lúc này Francis sẽ tạm ổn ở đây không? Anh ta không còn phải đe dọa Francis đừng bỏ trốn... hứ!
Francis tán thành, với vẻ mặt được hiểu là đau khổ về số phận trong tưởng tượng của Line.
Sau khi đã nhìn thấy thi hài của Laurent, sau khi đã đứng trong cơn sốc có Trời mới biết trong bao lâu, Francis quyết định mình phải đi dõi theo kẻ sát nhân. Anh không thể nghĩ ra phải làm việc gì khác. Anh không thể trở về nhà, biết rằng sự thể sẽ ra sao. Không muốn lưu lại Sông Dove thêm khoảnh khắc nào mà không có Laurent. Anh tìm thấy chiếc túi của Laurent rồi cho vào tấm chăn, thực phẩm, một con dao săn - to hơn và bén hơn con dao của anh. Anh nhìn quanh ngôi nhà, tìm kiếm một dấu hiệu, một lời nhắn cuối cùng của Laurent cho anh. Không tìm thấy khẩu súng trường của Laurent ở đâu - có phải người đàn ông kia đã mang đi? Anh cố nhớ lại bộ dạng ông ta; thình lình nhận ra rằng ông ta đã cho cái gì đó vào chiếc túi ấy một cách cẩn thận, và anh cảm thấy vô cùng tức giận.
Tránh ánh mắt nhìn đến chiếc giường, Francis nậy các thanh gỗ trên sàn nhà và mò mẫm tìm túi tiền của Laurent. Không có nhiều trong đó, chỉ có một cuộn các tờ giấy bạc và tấm thẻ xương nực cười mà Laurent cho là có giá, nên anh cũng lấy đi. Suy cho cùng, nhiều tháng trước, khi đang vui Laurent đã tỏ ý cho anh tấm thẻ.
Cuối cùng, anh khoác lên chiếc áo choàng bằng da chó sói, với lớp lông bên trong. Anh sẽ cần đến chiếc áo này, vào ban đêm.
Anh thầm nói lời giã biệt. Và đi ra theo cùng hướng người lạ mặt kia đã đi, mà không biết mình sẽ làm gì nếu bắt kịp ông ta.
***
Tôi nhớ lại có lần mình khởi hành một chuyến đi xa, và tôi nghĩ việc này sẽ lưu lại trong đầu óc tôi thật sinh động bởi vì nó mở đầu cho đoạn cuối của một thời kỳ trong cuộc đời tôi và bắt đầu một thời kỳ mới. Tôi tin chắc nhiều người khi đến Tân Thế giới cũng có cảm nghĩ như thế, nhưng ý tôi không nói đến chuyến vượt Đại Tây Dương, dù chuyện này là không tả xiết. Chuyến đi của tôi là từ cánh cổng của bệnh viện tâm thần ở Edinburgh đến một ngôi nhà to đang đổ nát ở vùng Cao nguyên Tây. Cùng đi với tôi là một người đàn ông mà sau này là chồng tôi, nhưng dĩ nhiên lúc ấy tôi không có ý tưởng nào về điều ấy.
Và tôi không có ý tưởng nào về tầm quan trọng của chuyến đi, nhưng một khi đã khởi hành thì cả cuộc đời tôi bắt đầu thay đổi hẳn. Lúc ấy tôi không hề đoán ra, nhưng rồi tôi không bao giờ trở lại Edinburgh. Đúng ra, khi cỗ xe rời khỏi bệnh viện để bắt đầu con đường dài, một số mối quan hệ bị cắt đứt - cắt đứt khỏi quá khứ của tôi, khỏi cha mẹ tôi, khỏi quãng đời tương đối thoải mái của tôi, thậm chí khỏi lớp học của tôi - mà không bao giờ được nối lại.
Sau này, tôi thích nghĩ về chuyến đi ấy, tưởng tượng ra bàn tay của định mệnh, cắt đứt các mối dây sau lưng tôi, trong khi tôi ngồi u mê trong cỗ xe ấy, tự hỏi có phải tôi đã hóa điên (theo cách nói như thế) hay không mà xa rời bệnh viện tâm thần cùng những tiện nghi ở đó. Rồi tôi tự hỏi, ta có hay nhận ra những mãnh lực không cưỡng lại được khi chúng đang diễn ra? Dĩ nhiên là tôi không nhận ra. Và ngược lại, tôi đoán, ta có hay tưởng tượng rằng cái gì đấy là rất quan trọng, nhưng rồi lại tan biến như sương mai, không để lại dấu vết nào?
Dù cho tôi mơ màng ra sao, cuối cùng chúng tôi đã đến đích. Đoạn cuối của cuộc hành trình mà tôi cảm thấy rất quan trọng. Nhưng có lẽ tầm quan trọng là do nỗi sợ hãi đối với bạo lực.
Quang cảnh ở đây không đơn điệu lắm; chỉ có ít chỗ lồi lõm như tấm thảm cần được trải căng ra cho thẳng. Phía trước mặt, qua những tia sáng lấp lóe tôi có thể thấy một hồ nước nhỏ. Mặt nước dài và gấp khúc trông giống ngón tay đang ra hiệu cho chúng tôi, uốn quanh một chỏm đá vươn cao vài chục mét. Có cây cối ven bờ bên kia, nhưng chỉ là trảng thực vật lúp xúp chứ không phải là rừng. Phần lớn mặt nước đã đóng băng, mịn và trắng như một sân băng thể thao. Nhưng ở một đầu, nơi con sông đổ nước vào qua một ghềnh đá, hơi nước tỏa lên trắng xóa từ mặt nước đen, nước chảy cuộn nên không đóng băng được.
Chúng tôi đi dạo quanh hồ giá lạnh. Mặt trời rọi ánh sáng lạnh lẽo từ hướng tây; bầu trời là khung nền một màu xanh lam, cây cối vẽ nên những nét màu than chì lên mặt tuyết. Tôi cố tưởng tượng chúng tôi ở đây là vì một lý do khác - một lý do tốt lành - nhưng sự thật là không có lý do nào cho tôi hiện diện nơi đây cùng Parker. Hai chúng tôi không có điểm nào chung ngoại trừ là cái chết ấy đã trói buộc chúng tôi với nhau: nỗi khao khát cho công lý. Và rồi khi việc này xong xuôi - bất cứ xong xuôi ra sao - sẽ không còn gì gắn kết hai chúng tôi nữa. Và đó là điều mà tôi không chịu nổi khi nghĩ đến.
Vì thế mà tại sao tôi cố gắng ngắm nhìn, cho dù đôi mắt tôi rát bỏng. Tôi phải nhìn. Tôi phải ghi nhớ lấy quang cảnh này.
Dưới cây cối, lớp tuyết đọng trên đất mỏng hơn. Ngôi nhà gỗ vô chủ đã bị thời tiết tàn phá đến nỗi nó trở nên vô hình, chỉ đến khi đến gần người ta mới nhận ra. Cánh cửa chỉ khép hờ, xệ xuống từ bản lề gỉ sét, tuyết bị thổi dạt vào bên trong, tạo thành một kiểu rào chắn. Parker leo qua rào chắn này và tôi leo theo ông, kéo chiếc khăn quàng ra khỏi mặt. Chỉ có một cửa sổ chớp, may mà đã đóng kín. Bên trong không có gì cho thấy khi xưa có người ở, chỉ có một đống những gói và bọc, được tuyết phủ trắng lên trên.
“Đây là nơi nào?”
“Nhà của người đặt bẫy. Có thể cũ hàng trăm năm.”
Ngôi nhà trũng xuống và đổ nát, các thớt gỗ trở nên bạc màu vì thời tiết, thật sự có thể cũ ngang bằng với ngôi nhà. Tôi lấy làm ngạc nhiên vì ý nghĩ này. Ngôi nhà cổ nhất ở Sông Dove chỉ mới được mười ba tuổi.
Tôi vấp phải cái gì đó trên sàn nhà. Tôi chỉ đến những gói: “Lông thú phải không?”
Parker gật đầu, dùng con dao mở ra một gói. Ông rút ra một tấm da màu sẫm pha xám nhạt: “Trước đây đã từng thấy cái này chưa?”
Tôi đón nhận, và trong tay tôi nó dịu dịu, lành lạnh và mềm mại đến khó tin. Trước đây tôi đã nhìn thấy loại này - tôi nghĩ ở Toronto - được vắt qua cổ của một phụ nữ giàu có. Lông chồn bạc. Người ta đang bàn tán về nó, làm thế nào nó có giá tới một trăm đồng guinea, hoặc một khoản tiền lạ thường như thế. Nó óng ánh bạc và nặng, nhưng cũng trơn láng như tơ tằm. Nó có đủ tính chất như thế. Nhưng có đáng giá đến thế sao?
Tôi cảm thấy thất vọng vì Parker. Tôi không biết mình đã trông đợi gì, nhưng không hiểu sao đến đoạn cuối này, tôi phải nhìn nhận rằng ông đã trải qua bao gian khổ như Stewart chỉ để tìm ra một thứ.
Chúng tôi dựng lều trú ẩn trong ngôi nhà mà không trao đổi nhau lời nào. Parker im lặng làm việc, nhưng là cách im lặng khác hẳn, không phải như khi ông mê mải lúc bình thường. Tôi có thể nói ông đang bận tâm với điều gì khác.
“Ông nghĩ chuyện này sẽ mất thời gian bao lâu?”
“Không lâu.”
Không ai trong chúng tôi nói rõ ý mình muốn nói, nhưng cả hai đều biết đấy không phải là nhiệm vụ trước mắt. Tôi thường xuyên nhìn qua khung cửa, vốn quay về hướng nam, nên tôi không thể thấy con đường chúng tôi đã đi đến đây. Ánh sáng bên ngoài trông lóa mắt; mỗi một tia nhìn đều khiến cho tôi nhức đến tận xương đầu. Nhưng tôi không thể ở bên trong ngôi nhà; tôi cần được một mình.
Tôi giữ khoảng cách với trảng cây dọc bờ tây, đi lên phần nước đen không bị đóng băng của mặt hồ, bị thu hút vì ghềnh đá ở đầu kia của hồ nước. Khi đến nơi, tôi nhặt vơ vào các cành cây khô để làm củi đốt. Liệu chúng tôi sẽ đốt lửa hay không, nếu đang đợi Stewart đến? Có một vị chua, tanh mùi kim loại trong miệng tôi mà tôi đã biết rõ. Vị của tính nhút nhát.
Đầu kia của hồ nước chỉ cách không đến một trăm mét, thế nên bạn hẳn không thể nào đi lạc được. Nhưng tôi đã đi lạc. Tôi vẫn giữ khoảng cách gần bờ hồ, nhưng khi đi trở lại tôi không thấy ngôi nhà gỗ ở đâu cả. Thoạt đầu, tôi không hốt hoảng. Tôi tìm lại lối đi của mình về phía ghềnh đá, nơi nước có màu đen, tỏa khói, ven bờ là mặt băng có màu nhạt dần. Tôi cảm thấy sự thôi thúc - như người đi trên vách đá cứ muốn bước ra gần bờ vực - muốn bước lên mặt băng, từ trắng đến xám, để xem nó dầy mỏng ra sao. Để bước càng nhanh càng tốt, rồi bước một ít xa thêm.
Tôi quay lại, giữ hướng mặt trời lặn và ánh sáng lóe bên tay phải mình, rồi lại bước vào trảng cây. Các thân cây chia ánh nắng thành những làn sóng dao động chập chờn rồi tỏa ra những vệt và những mảng tranh tối tranh sáng, khiến cho tôi chóng mặt. Tôi nhắm mắt lại, nhưng khi mở mắt ra tôi không thấy gì cả - một khoảng trống không nóng bỏng quét qua mọi vật thể, và cơn đau nhức khiến cho tôi kêu lên. Dù cho những gì tôi đã biết, thình lình tôi có nỗi sợ hãi rằng đôi mắt mình sẽ không phục hồi được. Triệu chứng mù mắt vì tuyết ít khi trở thành vĩnh viễn, nhưng được biết đã xảy ra. Và rồi tôi nghĩ, sẽ tồi tệ đến thế sao? Điều này có nghĩa khuôn mặt của Parker sẽ là khuôn mặt cuối cùng mà tôi thấy.
Tôi bò trên hai bàn tay và hai đầu gối, vấp phải một cái gì đó giống như một gò tuyết bị khuấy tung lên. Tôi mò mẫm mặt đất với hai bàn tay, có lẽ là hang ổ của thú rừng nào đó. Đất phía dưới lớp tuyết có màu sẫm, rời rạc. Trong tôi bị đánh động: hẳn là một con thú lớn mới có thể đào lên nhiều đất đến thế, và chỉ đào gần đầy - đất còn mới, dễ vụn nát trong tay tôi. Tôi bắt đầu đứng dậy, và tay tôi chạm phải cái gì đó dưới lớp đất khiến cho tôi lảo đảo lùi lại và la lên một tiếng trước khi tôi kịp dừng lại. Nó mềm và lạnh, rõ ràng giống như vải hoặc là... hoặc là...
“Bà Ross?”
Không hiểu bằng cách nào ông ở kế bên tôi mà tôi không hay biết. Khoảng trống không tan đi một ít và tôi có thể thấy bóng dáng sẫm màu của ông, nhưng đôi mắt tôi đang đánh lừa tôi; những hình thể vàng và tím hòa lẫn với những cành cây và những mảng tuyết trắng.
Parker nắm lấy cánh tay tôi và nói: “Suỵt... không có ai ở đây.”
“Ở đằng kia... có cái gì trên nền đất. Tôi đã chạm phải nó.”
Một đợt sóng buồn nôn phủ lấy tôi rồi rút đi. Tôi không còn nhìn ra gò đất, nhưng Parker đi lần mò quanh quất và tìm thấy. Tôi vẫn đứng yên tại chỗ, lau những giọt nước mắt chảy không ngừng (không hiểu sao tôi không khóc) từ đôi mắt. Nếu tôi không lau kịp thì nước mắt đông lại thành những hạt trân châu nhỏ trên má tôi.
“Một người trong bọn họ phải không? Một người Na Uy?” Tôi không thể gạt bỏ cảm giác trên bàn tay mình.
Parker đang ngồi xổm, cào đất và tuyết qua một bên: “Không phải một người Na Uy.”
Tôi thở ra nhẹ nhõm. Thế thì đó là một con thú. Tôi bốc một nắm tuyết chà xát hai bàn tay để gột rửa cảm giác kinh khiếp ấy.
“Đó là Nepapanees.”
Tôi bước ít bước đến ông, loạng choạng, vì không chắc đôi mắt mình nhận ra sự thật. Hình ảnh Parker lung linh và cháy bỏng trước mặt tôi như là một người vào ngày 5 tháng Mười một.
“Đứng xa ra.”
Dù sao chăng nữa thì tôi không thấy gì nhiều, còn hai chân tôi vẫn bước đến gần hơn mà tôi không chủ định. Rồi Parker đứng dậy và vòng tay giữ lấy tôi, chắn tầm nhìn của tôi đến vật thể ấy trên mặt đất.
“Chuyện gì xảy ra với anh ấy?”
“Anh ấy bị bắn.”
“Cho tôi xem.”
Sau một lúc lưỡng lự, ông bước qua một bên, nhưng vẫn nắm lấy cánh tay tôi khi tôi quỳ xuống bên cạnh nấm mồ cạn. Bằng cách nheo đôi mắt đến mức gần nhắm hẳn, tôi có thể nhận ra. Parker đã cào bới đất và tuyết qua một bên, để lộ ra phần đầu và thân người. Thi hài nằm úp mặt xuống, mái tóc được bím đã dơ bẩn, nhưng những sợi chỉ đỏ và vàng cột bím tóc vẫn còn có màu tươi sáng.
Tôi không cần phải xoay người anh lại. Anh đã không rơi qua mặt băng mà chết đuối. Có một vết thương trên lưng anh, kích thước bằng nắm tay tôi.
Chỉ đến khi quay lại ngôi nhà gỗ tôi mới nhận ra sự đần độn của mình. Tôi hẳn đã đánh rơi đôi găng tay của mình ở đâu đó giữa trảng cây, và các ngón tay tôi trắng bệch và tê dại. Hai lỗi nặng trong vòng hai ngày; tôi đáng bị xử bắn.
“Tôi xin lỗi, tôi thật là ngu dốt...” Lại xin lỗi. Vô ích, ngu dốt, gánh nặng vô dụng.
“Không tệ lắm.”
Mặt trời đã lặn, bầu trời có màu lam-lục dịu. Một đống lửa đang cháy trong ngôi nhà, và Parker đã mang khối tiền dưới dạng lông thú chất thành một chiếc giường.
Đây mới là lần thứ hai tôi để cho chuyện này xảy ra với mình; lần thứ nhất là trong mùa đông đầu tiên của tôi ở đây, và lúc ấy tôi đã lĩnh hội bài học của mình. Trong vài tuần qua, có vẻ như tôi đã quên nhiều thứ. Trong mọi sự việc.
Parker chà xát hai bàn tay tôi với tuyết. Cảm giác ở các ngón tay đã len lỏi trở lại, và các ngón tay tôi bắt đầu nóng bỏng.
“Thế thì Stewart đã ở đây - ông ta biết về các tấm lông thú.”
Parker gật đầu.
“Tôi lo mình không dùng súng được.”
Parker làu bàu: “Có lẽ sẽ không cần thiết.”
“Có thể là tốt nhất nếu ông lấy cả hai. Tôi có thể...”
Đáng lẽ tôi phải là một đôi mắt thứ hai cho ông. Trông chừng cho ông. Bảo vệ ông. Bây giờ tôi không làm được ngay cả việc này.
“Tôi rất tiếc. Tôi không giúp gì được.” Tôi kiềm nén một tiếng cười cay đắng. Đấy có vẻ như là không phải phép.
“Tôi vui vì bà đang ở đây.”
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói