Sometimes the dreams that come true are the dreams you never even knew you had.

Alice Sebold

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 34
tewart ngồi bất động một lúc, rồi ngẩng đầu lên, lộ vẻ lúng túng: “Đó là điên rồ. Tôi đã cho phép mình... Đôi lúc, trong mấy năm gần đây đặc biệt là vào mùa đông, tôi cảm thấy mình đã mất năng lực phán xét. Nhưng nếu bà nhìn thấy anh ấy với con cái... nhìn chúng chạy đến anh ấy, thét lên lời lẽ lăng mạ bẩn thỉu nhất, đầy hậm hực và sợ hãi... Chỉ có Trời biết anh ấy nghĩ bọn chúng là quỷ sứ ra sao. Quả là kinh khiếp khi trông thấy gương mặt của bọn chúng.”
Đôi mắt Stewart như là bị quỷ ám, như thể ông vẫn trông thấy bọn chúng. Donald cảm thấy dâng trào niềm cảm thông. Có Trời biết, anh có thể tưởng tượng ra sự căng thẳng của mùa đông bất tận này tiếp nối mùa đông bất tận khác.
Bà Ross nhìn qua Parker, rồi nhìn lại Parker. Cứ như là Donald không hiện diện ở đây. “Ai là Nửa Người?”
Stewart mỉm nụ cười đau khổ: “À. Bà biết đấy...” Ông nhìn lên, lần này nhìn thẳng đến Bà Ross: “Nửa Người là một trường hợp vô phúc khác. Người luôn uống rượu. Anh ấy là chồng của Norah, nên thỉnh thoảng chúng tôi cung cấp thực phẩm cho anh ấy. Anh làm nghề đặt bẫy, nhưng không giúp ích được nhiều.”
Có một vẻ trần trụi trên gương mặt ông khiến cho Donald cảm thấy bất an. Họ có quyền gì mà bắt buộc người đàn ông này phải nói ra mấy chuyện rắc rối của ông?
“Tôi phải xin lỗi lần nữa vì đã lừa dối quý vị. Người ta muốn được nghĩ - nhất là trong một công ty như thế này...” Ông lại nhìn qua Donald, khiến cho anh này cúi mặt trong vẻ bối rối. “Người ta muốn được nghĩ đến như là một nhà lãnh đạo tốt, một người cha tốt, theo vài cách nhìn, đối với người dưới quyền. Tôi không phải là một người cha tốt của nhân viên ở đây. Thật là khó, nhưng đó không phải là lý do để biện minh.”
Bà Ross đang ngả người trên chiếc ghế, lộ vẻ hoang mang và cách xa. Vẻ mặt của Parker thì không rõ ràng, trong bóng tối của chính ông.
Donald chen vào: “Tình trạng này xảy ra khắp nơi. Có tật say xỉn và có chứng bệnh điên. Nếu có người đi chệch đường thì không phải là do sự lãnh đạo của ông.”
Stewart cúi đầu: “Anh tử tế mà nói vậy, nhưng không hẳn vậy. Dù sao chăng nữa, điều liên quan tại anh là người anh theo dõi... mà tôi cho là do người này gây ra chuyện gì đó. Chuyện... tội ác phải không?”
Donald gật đầu: “Chúng tôi cần phải tìm ra và hỏi han người này, dù cho tình trạng người này có ra sao.”
“Tôi không rõ anh ấy đang ở đâu, tuy chúng tôi có thể tìm ra. Nhưng nếu anh đang truy lùng một nghi can, thì anh sẽ không tìm ra. Anh ấy không nhận thức được mình làm gì.”
Trong khi Stewart đang cất tiếng, Parker rút ra từ túi áo chiếc dọc tẩu và thuốc lá. Cùng lúc, một mẩu giấy rơi xuống sàn giữa hai chiếc ghế ông và Stewart đang ngồi. Parker không nhận biết, kéo ra một nhúm sợi thuốc lá rồi cho vào dọc tẩu. Stewart nhìn thấy, cúi xuống nhặt mảnh giấy lên. Ông dừng tay lại trong tích tắc rồi trao mảnh giấy cho Parker mà không hề nhìn đến mặt ông này.
“Tôi sẽ điều một vài người đi tìm kiếm anh ta. Họ biết cách theo dõi dấu vết.”
Parker đặt mảnh giấy vào túi áo trong khi vẫn nhồi thuốc lá vào dọc tẩu. Tất cả diễn ra có lẽ chỉ trong vòng ba giây. Hai người đàn ông ngồi kế bên nhau trong suốt cuộc trao đổi mà không nhìn nhau.
***
Đến gần cuối hành lang, Parker quay sang tôi: “Tôi sắp sẵn sàng.”
“Ông sắp đi hay sao?”
Tôi đã đoán những thắc mắc của ông được giải đáp. Tôi quả là dốt; dĩ nhiên là ông không hề tin vào những gì Stewart đã nói.
“Ông Stewart không hề nói ông ấy không phái Nepapanees đi Sông Dove.”
Vẻ chắc chắn của ông làm cho tôi bứt rứt, nên tôi không trả lời. Ông nhìn tôi với xúc cảm đờ đẫn kỳ lạ, không cho biết chi tiết hoặc ngay cả đại thể ra sao. Nhưng chính vì những nét cố hữu của khuôn mặt ông khiến cho người ta suy đoán về sự giận dữ và bạo lực ẩn giấu bên trong; bây giờ tôi biết không phải thế. Hoặc có lẽ tôi đã ru ngủ mình vào cảm nhận bình an nhưng sai lạc.
“Ông vẫn còn giữ chiếc áo ở Chỏm Elbow chứ?”
“Dĩ nhiên là còn giữ. Tôi cho vào đáy chiếc túi của tôi, dưới chiếc áo choàng lót lông thú.”
“Ông tìm lại đi.”
Giữa khu đất trống phía sau các nhà kho, mặt trời ló dạng qua một khe trống trên tầng mây. Một cột ánh sáng dày như là một cầu thang dội xuống vùng đất phẳng phía sau vách đá, chiếu sáng một trảng cây liễu nhỏ, đan xen với tuyết và lấp lánh với những tinh thể băng. Ánh sáng chiếu rọi sâu rộng; màu trắng làm nhức nhối đôi mắt. Cũng bất chợt như là một nụ cười, mặt trời làm cho quang cảnh xinh tươi bật lên giữa vùng bình nguyên u uẩn. Vượt quá tầm khoảng một trăm mét, những nét thiếu hoàn hảo đều bị che khuất. Vượt quá vách đá là một quang cảnh hoàn hảo giống như bức điêu khắc trên muối, kết tinh thể và thuần khiết. Cùng lúc, chúng tôi bước qua lớp bùn đất loáng và khuấy đục, lại bị hai con chó giẫm đạp và làm nhơ bẩn thêm.
Người quả phụ ở trong ngôi nhà gỗ với một trong các con trai, một cậu bé trông nghiêm trang khoảng tám tuổi. Cô đang ngồi luộc thịt bên bếp. Trong mắt tôi, cô trông gầy và xơ xác hơn lần trước tôi gặp cô, và có vẻ bản địa hơn cho dù với tất cả đường nét cô rõ ràng mang hai dòng máu.
Cô nhìn lên mà không biểu lộ cảm xúc gì khi Parker bước vào không gõ cửa, rồi nói câu gì đó mà tôi không nghe rõ. Cô đáp lại bằng một thứ tiếng khác. Tôi nổi lên phản ứng bất thần và mãnh liệt do ghen tị, khiến cho tôi ngừng thở.
Cô nói một cách ơ thờ: “Ngồi xuống đi.”
Chúng tôi ngồi trên những tấm chăn trải chung quanh lò sưởi. Cậu con trai luôn chằm chằm nhìn tôi - tấm áo choàng mùa đông khiến cho việc ngồi trên sàn nhà trông không được thanh nhã lắm, nhưng tôi cố xoay xở theo cách tốt nhất. Parker bắt đầu bằng cách nói chuyện quanh co, hỏi han về các đứa trẻ và ngỏ lời chia buồn, và tôi khẽ nói đồng thuận theo.
Cuối cùng, ông đi đến chủ đề: “Chồng cô có nói gì về lông thú của người Na Uy không?”
Elizabeth nhìn ông, rồi nhìn tôi. Có vẻ như cô không nhận biết gì về việc này: “Không. Anh ấy không nói gì với tôi cả.”
“Và lần cuối cùng anh ấy ra đi... với mục đích gì?”
“Stewart muốn đi săn. Ông ấy thường dẫn anh đi theo, bởi vì anh là người theo dõi dấu vết giỏi nhất.” Có vẻ hãnh diện trầm lặng trong giọng nói của cô.
“Cô Bird, tôi xin lỗi phải hỏi việc này: chồng cô có bị đau yếu không?”
Mắt cô nhìn lên sắc lẻm: “Đau yếu? Chồng tôi không bao giờ đau yếu. Anh ấy khỏe như ngựa. Ai nói như vậy? Stewart đã nói vậy phải không, hả? Có phải vì vậy mà chồng tôi đi trên mảng băng mỏng mà bình thường anh không bao giờ đi, phải không?”
Không muốn cậu bé nghe được, Parker nói nhỏ nhẹ: “Ông ấy nói chồng cô đau yếu và không nhận ra con cái.”
Khuôn mặt Elizabeth nhăn nhó với cảm xúc - ghê tởm hoặc khinh bỉ, hoặc giận dữ, hoặc tất cả những cảm xúc này - và cô nghiêng người tới trước, khuôn mặt nhuộm màu đỏ-cam sinh động từ ánh lửa: “Đó là lời dối trá độc ác! Anh ấy luôn là người cha tốt nhất.” Có vẻ gì đó kinh sợ từ cô, cứng cỏi, nhưng tôi thấy dường như là thật.
“Cô thấy chồng cô lần cuối khi nào?”
“Chín ngày trước, khi anh ấy đi với Stewart.”
“Còn lần cuối anh ấy đi xa là khi nào?”
“Mùa hè. Cuộc hành trình cuối cùng là đi đến Hồ Cedar vào cuối mùa.”
“Tháng Mười và đầu tháng Mười một thì anh ấy ở đây phải không?”
“Phải. Suốt thời gian đó. Tại sao ông hỏi tôi?”
Tôi nhìn qua Parker. Chỉ còn một việc nữa.
“Cô Bird, tôi xin lỗi phải hỏi chuyện này: cô có một chiếc áo sơ mi của anh ấy không? Chúng tôi muốn xem qua.”
Cô trừng trừng nhìn Parker như thể đây là sự xấc láo không chấp nhận được. Tuy thế, cô đứng phắt dậy và đi vào bên trong ngôi nhà gỗ, phía sau một tấm màn.
Cô trở ra với một chiếc áo sơ mi gấp lại trên tay. Parker đón lấy rồi mở ra, trải trên sàn. Tôi mở ra cuộn áo dơ bẩn được gói trong một tấm vải; tôi trải tấm áo ra, thô cứng và lấm lem, những vết sậm màu tỏa ra mùi hôi thối. Cậu con trai trang nghiêm nhìn chúng tôi. Elizabeth khoanh tay đứng nhìn chúng tôi với đôi mắt giận dữ.
Ngay lập tức tôi thấy chiếc áo sạch nhỏ hơn nhiều so với chiếc áo kia. Không thể nào nói rằng hai chiếc áo thuộc về cùng một người.
Parker trao lại cho cô chiếc áo của người chồng: “Cám ơn, Cô Bird.”
Cô vẫn khoanh tay: “Không ích gì cho tôi. Bây giờ không ai mặc được.” Đôi môi cô cong lại trông khó chịu: “Ông đã hỏi thì cứ giữ.”
Parker chưng hửng. Đó là một trải nghiệm mới của tôi: lần đầu tiên tôi thấy ông không biết xoay xở ra sao.
Lần đầu tiên tôi cất tiếng: “Cảm ơn, Cô Bird. Chúng tôi xin lỗi đã hỏi han cô, nhưng cô đã giúp ích rất nhiều. Cô đã minh chứng rằng những gì Stewart đã nói đều là dối trá.”
“Tôi quan tâm làm gì? Tôi cóc cần giúp các người! Việc này có giúp chồng tôi sống lại hay không?”
Tôi đứng lên và nhặt lấy chiếc áo bẩn. Parker vẫn còn cầm chiếc áo kia.
“Tôi xin lỗi.” Đứng ngang cô, chỉ cách hai bước, tôi nhìn vào mắt cô, nâu-xám trong trẻo, dưới lớp mặt nạ điên tiết và thất vọng. Tôi cảm thấy héo hắt: “Tôi thật tình xin lỗi. Chúng tôi định...”
Tôi chờ cho Parker nói phụ thêm và giải thích chúng tôi định làm gì. Ông cũng đứng dậy, nhưng có vẻ như vui lòng mà để cho tôi nói tiếp: “Chúng tôi định đi tìm công lý.”
Cô cười to, nghe như tiếng hằm hè: “Công lý! Còn chồng tôi thì sao? Stewart đã giết chồng tôi. Còn anh ấy thì sao?”
“Công lý đối với anh ấy nữa.” Tôi đang bước trở ra cánh cửa, nóng lòng muốn rời đi hơn là lưu lại và tìm hiểu do đâu cô tin chắc về chuyện kia.
Elizabeth Bird nhăn nhó - trông như đang mỉm cười, nhưng không phải. Cử chỉ khiến cho xương sọ dưới làn da nổi lên, tạo vẻ bề ngoài như một đầu lâu của người chết, còn cử động nhưng không phải còn sống; nhợt nhạt, không còn máu, chỉ rực hận thù.
Khi bước về tòa nhà chính, Parker trao cho tôi chiếc áo sạch, như thể ông không muốn vướng bận thêm với nó. Ông cảm thấy có lỗi vì đã làm cho cô tức giận.
Tôi nói: “Chúng ta sẽ cho Moody xem các món này. Rồi anh ấy sẽ hiểu.”
Parker khẽ lắc đầu: “Như vậy không đủ. Chiếc áo đó có thể nằm ở đằng kia vài tháng.”
“Ông không tin như thế! Và ông cũng tin cô ấy nữa - về cái chết của chồng cô, phải không?”
Parker thoáng nhìn tôi: “Tôi không biết.”
“Thế thì ông đi đi.”
Parker tán thành mà không nói gì. Tôi cảm nhận sức nặng quen thuộc ấy lại chèn ép lồng ngực mình, hơi thở xem dường nghẽn lại trong cổ họng cho dù chúng tôi chỉ mới đi vài chục bước.
“Nếu ông ấy giết người hướng đạo của mình thì quả là điên rồ nếu ông đi một mình. Tôi sẽ mượn một khẩu súng. Nếu ông không cho tôi đi cùng thì tôi sẽ đi theo dấu vết của ông, chỉ có thế thôi.”
Trong một lúc Parker không nói gì, rồi lại nhìn tôi với thái độ mà tôi nghĩ có phần mỉa mai: “Nếu người ta thấy chúng ta ra đi với nhau thì bà nghĩ họ sẽ bàn tán hay không?”
Sức nặng trong lồng ngực tôi nhẹ nhõm hẳn đi. Thình lình tôi thấy ngay cả quang cảnh khuôn viên cũng xinh tươi, mặt trời phết lên lớp tuyết đọng bên bờ rào một màu xanh-trắng óng ánh. Nhất thời tôi tin chắc dù có nguy hiểm ra sao, chúng tôi có thể hành động mà không ai ngăn cản được.
Cảm nhận ấy vẫn kéo dài cho đến khi tôi bước về phòng mình.
***
Laurent thường đi xa lo công chuyện. Cũng như những người khác, Francis biết rất ít về những lần anh kia vắng mặt. Vào mùa hè, loài sói biến mất trong vùng rừng cây, nên lúc ấy Laurent lo chuyện buôn bán. Mùa hè năm ấy, anh đặc biệt bận rộn - hoặc có lẽ đó là lần đầu tiên mà Francis tỏ ra quan tâm anh có ở đó hay không - và đi đến Toronto hoặc Sault St Marie. Khi Francis dọ hỏi về mấy chuyến đi này, Laurent tỏ ra xởi lởi hoặc lảng tránh hẳn. Anh đùa cợt về việc nằm say bí tỉ trong quán bar, hoặc tìm gái mãi dâm. Hoặc có lẽ đấy không phải là chuyện đùa. Lần đầu tiên anh nói đến nhà thổ, Francis lặng người trân trối nhìn anh với vẻ kinh hoàng, cảm thấy nỗi đau ngập tràn khủng khiếp trong tim. Laurent nắm lấy đôi vai anh và cười to, lắc mạnh bạo cho đến lúc Francis nổi nóng và hét lên; những chuyện đau lòng mà sau này Francis không nhớ. Họ lời qua tiếng lại bằng ngôn từ lăng mạ, rồi thình lình im bặt, đăm đăm nhìn nhau, như bị thôi miên và choáng váng. Francis cảm thấy đau khổ và bị tổn thương. Laurent có cách tàn nhẫn gây thất vọng, nhưng rồi sau đó xin lỗi, tỏ ra nghiêm túc dịu dàng và cầu khẩn - lần đầu tiên anh quỳ xuống cho đến lúc Francis phải cười to và nồng nhiệt thứ lỗi. Francis cảm thấy lớn lên - thậm chí như lớn tuổi hơn Laurent.
Rồi có những người đàn ông đến gặp Laurent ở nhà. Đôi lúc, khi Francis tìm tới và huýt sáo bên ngoài ngôi nhà gỗ, không có tiếng trả lời. Có nghĩa là Laurent bận tiếp người nào đó, và họ thường qua đêm rồi quàng chiếc túi trên vai ra đi, các con chó chạy theo. Francis nhận ra trong anh nỗi ghen tức sâu thẳm và kinh khủng. Hơn một lần, anh quay lại vào buổi sáng, giấu mình trong bụi rậm phía sau ngôi nhà gỗ, chờ cho đến khi những người khác ra về, quan sát vẻ mặt họ nhưng không nhận ra dấu hiệu gì. Phần lớn bọn họ là người Pháp hoặc dân bản xứ; những người từ xa đến, có dáng dấp bất hảo vốn thường ngủ dưới bầu trời hơn là dưới một mái nhà. Họ mang đến cho Laurent lông thú, thuốc lá và đạn dược, rồi ra về theo con đường họ đã đến. Đôi lúc dường như họ chẳng mang gì đến hoặc để lại món gì. Có lần, sau một hồi cãi vã điên dại, Laurent bảo anh rằng họ đến tìm mình bởi vì họ đang thiết lập một công ty mậu dịch, và việc này phải xúc tiến một cách bí mật bởi vì Công ty Vịnh Hudson sẽ nổi giận nếu biết được, thế nên lẩn tránh thì tốt hơn. Francis vui mừng vì nhẹ nhõm, và dàn hòa với tinh thần lên cao độ, trong khi Laurent cầm lên cây vĩ cầm chơi một đoạn nhạc, rượt đuổi anh lòng vòng trong ngôi nhà gỗ cho đến khi Francis phóng ra ngoài, ngoác miệng ra cười. Có một bóng người trên con đường mòn, khá xa, và anh chạy vội vào trong. Anh chỉ nhìn thoáng qua, nhưng nghĩ đó là mẹ mình. Sau đó, qua nhiều ngày anh sống trong nỗi khiếp sợ và hoang mang, nhưng trong nhà không có gì thay đổi. Dù bà mẹ có thấy gì hay không thì bà cũng không nghĩ gì về việc này.
Mùa thu đến, thêm một học kỳ, rồi mùa đông. Anh không thể gặp Laurent thường xuyên, nhưng khi cha mẹ anh đã đi ngủ, anh đi đến ngôi nhà gỗ và huýt sáo. Đôi lúc anh nghe tiếng huýt sáo đáp lại, đôi lúc chẳng nghe gì cả. Với thời gian dần trôi, anh thấy dường như tiếng huýt sáo trả lời càng ngày càng hiếm hoi hơn.
Lúc nào đó vào mùa xuân, sau khi Laurent lại đi đâu không rõ, anh này bắt đầu nói bóng gió rằng có chuyện lớn sẽ xảy ra. Rằng anh sẽ kiếm được khối tiền. Francis cảm thấy hoang mang và bứt rứt bởi lời lẽ mơ hồ, thường thốt ra trong cơn say. Có phải Laurent sẽ rời Sông Dove? Rồi Francis sẽ ra sao? Nếu Francis muốn dẫn dụ anh (mà anh nghĩ một cách khôn ngoan) hé lộ kế hoạch của anh, thì Laurent chỉ trêu cợt lại, và cách trêu cợt có thể lỗ mãng và tàn nhẫn. Anh thường nói đến người vợ và gia đình tương lai của Francis, hoặc việc đi tìm gái mãi dâm, hoặc sống ở miền nam đường biên giới.
Có một lần, lần đầu tiên trong số nhiều lần, hai người uống rượu với nhau. Đó là vào đầu hạ, những buổi tối đang ấm hơn để có thể ngồi bên ngoài. Những con ong đầu tiên đã xuất hiện từ bất kỳ nơi nào đó chúng trải qua mùa đông, bay lượn chung quanh mấy chùm hoa táo. Chỉ mới bảy tháng trước.
Laurent lại nói bóng gió đến những khối tiền trong tương lai. “Dĩ nhiên là lúc đó em sẽ kết hôn ở một trang trại nhỏ ở đâu đó, với đàn con, rồi em sẽ quên hết về tôi.”
“Em nghĩ vậy.” Francis đã học cách hùa theo những kịch bản nhỏ buồn thảm này. Nếu anh phản đối thì chỉ khiến cho Laurent làm tới.
“Tôi đoán khi em ra trường thì em sẽ không ở đây, phải không? Không có gì nhiều ở đây cho em, đúng không?”
“Ờ... Có lẽ em sẽ đi Toronto. Có lẽ thỉnh thoảng em sẽ đến thăm anh trên chiếc xe lăn.”
Laurent cười khụt khịt và nốc cạn ly rượu. Francis nhận ra là anh đang uống nhiều hơn lúc bình thường.
Rồi Laurent thở dài: “Tôi nghiêm túc đó, p’tit ami[61]. Em không nên ở đây. Nơi này chẳng là gì cả. Em bỏ đi càng sớm càng tốt. Tôi chỉ là một tên già quê mùa.”
[61] P’tit ami: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa: “anh bạn thân nhỏ”.
“Anh hả? Anh sẽ giàu lên, nhớ không? Anh có thể đi bất cứ đâu anh muốn. Anh có thể chuyển đến Toronto...”
“Im đi! Em không nên ở đây! Chắc chắn em không nên ở đây với tôi. Không tốt. Tôi không tốt.”
Francis cố đè nén cơn run rẩy trong giọng nói: “Ý anh nói gì? Đừng có lố lăng. Anh say rồi, chỉ có thế.”
Laurent quay sang anh, nói rõ từng tiếng: “Tôi là đứa ngu ngốc chết tiệt. Em là đứa ngu ngốc chết tiệt. Em phải cút xéo để trở về với ma-man và pa-pa của em.” Gương mặt anh trông hèn hạ, đôi mắt nhíu lại vì rượu. “Đi đi! Em còn chờ gì nữa? Cút xéo ngay!”
Francis đứng dậy, trong cơn đau khổ. Anh không muốn cho Laurent thấy mình khóc. Nhưng anh cũng không thể cứ bước ra, không thể như thế này.
Francis cố nói một cách trầm tĩnh: “Anh không có ý như vậy đâu. Em biết mà. Anh cũng không có ý gì khi nói đến nhà thổ và con rơi con rớt khắp nơi, và... tất cả những chuyện kia. Em thấy cách anh nhìn em...”
“Hà, mon Dieu[62]! Ai lại nhìn đến em như thế? Em là cái thứ đẹp nhất mà tôi từng thấy. Nhưng em là đứa nhỏ ngu ngốc chết tiệt. Tôi chán ngấy em. Và tôi đã kết hôn.”
Francis chết lặng, không muốn tin, không thể trả lời. Cuối cùng, anh nói: “Anh nói dối.”
[62] Mon Dieu: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa: “Trời ơi!”
Laurent nhìn anh một cách mệt mỏi, cũng nhẹ nhõm khi đã nói ra: “Không, nói thật đó, mon ami.”
Francis cảm thấy như lồng ngực mình vỡ toang. Anh tự hỏi tại sao mình không ngã xuống hoặc bất tỉnh, vì nỗi đau quả là khủng khiếp. Anh quay đầu rời xa ngôi nhà gỗ, rồi tiếp tục bước đi qua một trong những cánh đồng của cha anh và đi vào khu rừng. Anh bắt đầu chạy, hơi thở anh gấp gáp đến nỗi tiếng nức nở héo hắt bị khuất lấp. Sau một lúc, anh dừng lại, khuỵu xuống trên hai đầu gối trước một cây thông khổng lồ, rồi đập đầu mình vào lớp vỏ cây. Anh không biết mình ở đó bao lâu; có lẽ anh đã mê mụ, lấy làm vui về cơn đau đớn khỏa lấp nỗi dằn vặt còn kinh khủng hơn.
Ngay trước khi trời tối, Laurent tìm thấy Francis. Laurent đã lần mò theo Francis giống như theo một trong những con chó sói bệnh tật của anh, đi theo những dấu chân lộn xộn qua các lùm bụi. Anh cúi xuống, vòng tay ôm lấy Francis, các ngón tay khám phá vết thương trên trán Francis, những giọt lệ lóng lánh trên má, thì thầm xin lỗi.
Trong một thời gian ngắn, Francis nghĩ rằng sau đêm đó mình đã thắng. Dù cho Laurent đã kết hôn hoặc đã có một đứa con cũng chẳng hề gì; tất cả chỉ là quá khứ; bây giờ không quan trọng đối với hai người nữa. Nhưng Laurent vẫn chống lại nỗ lực của Francis nhằm trói buộc anh, nhằm đòi hỏi rạch ròi mọi chuyện. Sự thật là, anh không muốn Francis thay đổi gì về cuộc sống của anh trai trẻ, chỉ muốn xem Francis như là thú vui nhất thời. Với giọng nói không được thông suốt, khàn khàn, Francis kết án Laurent đã không quan tâm đến mình. Laurent xác nhận một cách tàn nhẫn.
Cứ thế, và cứ thế. Cùng một cách đối thoại lặp đi lặp lại với những thay đổi nhỏ nhặt, lạc lõng qua nhiều đêm mùa hè. Francis không rõ mình sẽ chịu đựng cuộc tra tấn thấm thía này thêm bao lâu nữa, nhưng vẫn không muốn từ bỏ. Anh cố gắng tỏ ra bình thản và nhẹ nhàng trước sự hiện diện của Laurent, nhưng không quen cách hành xử như thế. Tận đáy lòng mình, anh biết chẳng chóng thì chày Laurent sẽ ruồng rẫy hẳn mình. Nhưng giống như con thiêu thân cứ muốn bay vào ngọn lửa, anh không thể cưỡng lại ý muốn đi đến ngôi nhà gỗ, dù cho Laurent càng ngày càng vắng nhà. Anh không hiểu được làm thế nào tình cảm của Laurent lại thay đổi đến thế, trong khi tình cảm của chính mình lại sâu đậm thêm.
Và rồi, không rõ bằng cách nào, cha anh biết được vụ việc.
Đấy là một sự kiện đầy tai biến. Nó không chỉ giống như cha anh đã kết nối các tình tiết để đi đến kết luận, kiên nhẫn quan sát và thu thập các mảnh ghép cho đến lúc toàn thể hình ảnh hiện ra. Có những lúc Francis trở về nhà sau khi cha mẹ anh đã thức dậy, và anh lí nhí viện lẽ mà thiếu sức thuyết phục rằng mình đã đi dạo buổi sáng. Rồi có lúc cha anh đi đến ngôi nhà gỗ của Laurent và thấy Francis ở đó, và anh giả vờ đang học cách khắc gỗ. Có lẽ đó là lúc mà ông bố hiểu ra tự sự, dù ông không tỏ thái độ gì. Hoặc có lúc khác, Francis giải thích một cách ngu xuẩn rằng mình đã qua đêm ở nhà Ida. Cha anh đã khẽ nhíu mày nhưng không nói gì. Rồi Francis hốt hoảng viện ra một lý do để chạy qua gia đình nhà Pretty để tìm Ida. Anh không chắc mình phải nói gì với cô, nhưng bịa ra một câu chuyện là đã say rượu ở Caulfield nên cần trốn lánh cha mẹ mình. Mặt cô lạnh tanh, và dù gật đầu đồng ý, cô nhìn anh với đôi mắt bị thương tổn khiến cho anh cảm thấy hổ thẹn.
Dù cho sự việc diễn tiến theo chiều hướng nào, cha anh không thể nào khoan dung anh nữa, nhất là sau một thời gian dài ông thấy khó mà nói chuyện với Francis - hai cha con không bao giờ gần gũi nhau. Ông bố không bao giờ đề cập trực tiếp đến vấn đề, nhưng không muốn nhìn vào mặt đứa con khi nói chuyện với nó, và chỉ cất tiếng khi bảo nó làm công việc nhà hoặc sửa đổi hành vi. Có vẻ như ông lạnh lùng khinh miệt đứa con trai, như thể ông không chịu nổi khi ở chung dưới mái nhà với nó. Đôi lúc, khi ngồi ở bàn ăn trong vùng lạnh lẽo giữa người mẹ và người cha, Francis cảm nhận cơn buồn nôn trỗi dậy trong cổ họng đến mức gần như áp đảo toàn thân anh. Một lần, trong khi trò chuyện với bà mẹ về việc nào đó, anh bắt gặp người cha đang nhìn mình, và chỉ thấy trong ánh mắt đó vẻ giận dữ lạnh lùng, không gì làm nguôi ngoai được.
Một việc khiến cho anh ngạc nhiên là anh phải giữ kín đối với mẹ mình. Bà nhận rõ không khí lạnh lùng giữa hai cha con và điều này khiến cho bà buồn lòng, nhưng bà vẫn không đối xử với anh khác đi; bà vẫn là người phụ nữ thiếu kiên nhẫn, thiếu hạnh phúc cả trong thời gian dài mà anh còn nhớ được.
Đấy là vào cuối tháng Mười. Nhiều lần Francis đã nhủ lòng sẽ không đi đến ngôi nhà gỗ của Laurent nữa, nhưng anh thấy mình khó làm theo được. Vào buổi tối ấy, anh thấy Laurent đang ở nhà. Sau một lúc, hai người bắt đầu một cuộc cãi cọ chua cay, dai dẳng, lặp đi lặp lại những gì họ đã nói ra lúc trước. Francis cảm thấy giận cho chính mình, nhưng không dừng được. Đôi lúc chỉ có một mình, anh mường tượng đang bước đi với phẩm giá, ngẩng cao đầu, nhưng khi đứng trong gian bếp của Laurent, đối diện với Laurent - bừa bãi, râu ria không cạo, thô lỗ - thì một cơn giận dữ dâng trào tuồng như muốn quỳ dưới chân anh mà rơi nước mắt van xin; như muốn tự tìm lấy cái chết; bất kỳ việc gì để chấm dứt cơn tra tấn này. Như muốn giết Laurent.
Francis khàn khàn hét lên như nhiều lần trước: “Em đã không đến với anh, nhớ không? Em đã không đòi hỏi chuyện này. Chính anh làm cho em như thế này... Anh!”
“Và tôi ước gì mình không bao giờ để mắt tới em. Trời ơi, em làm cho tôi buồn nôn!” Và rồi Laurent nói: “Dù sao chăng nữa thì không hề gì. Tôi sẽ ra đi. Trong thời gian dài. Tôi không biết khi nào sẽ trở về.”
Francis trân trối nhìn anh, trong một khoảnh khắc không tin lời anh nói: “Tốt thôi. Anh muốn nói gì cũng được.”
“Tuần tới tôi sẽ đi.”
Cơn tức giận đã lắng xuống trên gương mặt Laurent, và Francis có cảm giác lạnh người, buồn nôn khi nghĩ ra đó là sự thật.
Laurent quay người đi, bận rộn với một việc gì khác: “Có lẽ lúc đó em sẽ nguôi ngoai chứ? Đi tìm một cô gái đẹp người đẹp nết.”
Francis cảm thấy nước mắt chực tuôn ra. Toàn thân anh yếu ớt hẳn đi, như thể đang bị một cơn sốt hành hạ. Laurent sắp bỏ đi. Chuyện chấm hết. Anh không rõ làm thế nào mình có thể tiếp tục sống với nỗi đau này.
“Này, chuyện không đến nỗi tệ hại. Em thực sự là một đứa trẻ tốt.” Laurent đã thấy nét mặt đau khổ của Francis, và cố tỏ ra tử tế. Như thế là còn tệ hại hơn bất kỳ lời lẽ thô tục nào hoặc bất kỳ nhận xét chua cay nào.
“Xin anh...” Francis không biết nói gì thêm. “Xin anh, bây giờ đừng nói như vậy. Cứ đi đi, nhưng bây giờ đừng nói ra. Cứ đi đi. Lo việc của anh đi, cho đến khi...”
Có lẽ Laurent cũng mệt mỏi vì gây gổ, nên anh chỉ nhún vai và mỉm cười. Francis bước đến, vòng tay ôm lấy anh. Laurent vỗ về lưng Francis, giống như cha đối với con cái hơn là tình cảm gì khác. Francis níu lấy anh, ước gì mình có thể rời xa; càng ước thêm đó là mùa hè năm trước, rời xa vĩnh viễn.
Người yêu của tôi, người chán ngấy tôi đến chết.
Đêm ấy Francis ở lại nhưng không hề chợp mắt, lắng nghe tiếng thở đều của Laurent bên cạnh mình. Anh cố ngồi dậy và mặc lại quần áo mà không làm Laurent thức giấc, tuy trước khi ra về anh cúi xuống khẽ hôn trên má Laurent. Anh chàng vẫn không tỉnh giấc, hoặc giả vờ mê ngủ.
Và rồi, hai tuần sau, anh đang đứng trong ngôi nhà gỗ tăm tối, nhìn đến thi hài còn ấm đang nằm trên giường.
Và xin Thượng đế tha tội cho anh nếu ý nghĩ thứ hai của anh là: Ôi, ôi, người yêu của tôi, bây giờ anh không thể rời xa tôi được.
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói