Trong mỗi khó khăn đều ẩn chứa một cơ hội.

Albert Einstein

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 31
hiệt độ tiếp tục hạ. Trong cái lạnh này, có cảm giác như không khí đang cô đặc lại thành cái kẹp sắt. Nó lấy đi hơi thở con người, hút hơi ẩm từ lớp da, cháy bỏng như lửa. Có sự im lặng sâu lắng, hầu như có ý thức trên khoảnh sân, trên đó các bàn chân dẫm lên lớp tuyết với tiếng động đến kinh ngạc.
Đó là tiếng động đánh thức Donald: tiếng lớp tuyết bị ép chặt và kêu cọt kẹt dưới chân người.
Viện cớ một cơn sốt nhẹ, anh đã nằm trên giường cả ngày và ngủ cho đến chiều, một chiếc ghế chặn dưới nắm cánh cửa, mơ màng một cách dễ chịu khi ánh sáng tắt dần. Không có gì bất thường về các bước chân - vẫn còn có người đi lại - chỉ có điều các dấu chân tạo nên hình mẫu kỳ lạ, không đồng đều, khiến anh tỉnh khỏi cơn mụ mẫm thoải mái. Tuy không chú tâm, anh vẫn lắng nghe người ta bước đi, dừng lại, rồi bước tiếp một đoạn ngắn. Rồi lại dừng. Anh chờ đợi - mẹ kiếp! - nghe họ bước tiếp. Cuối cùng, anh chống hai cùi tay gượng ngồi dậy, nhìn ra khoảnh sân đang tối dần. Vài khung ánh sáng hình vuông chiếu ra, có lẽ là từ những văn phòng. Thoạt đầu anh không nhìn ra người ấy, nhưng đấy chỉ vì người này ở trong bóng tối; có lẽ anh ta đoán phòng của Donald trống vắng vì không có ánh sáng. Rồi Donald nhìn ra người kia: một người đàn ông mặc áo lông thú, với mái tóc dài sẫm màu. Anh thắc mắc toán đi tìm kiếm đã trở về chưa. Anh không nhận ra người này, và sau một lúc thấy là người này không ở trong toán đi tìm kiếm. Anh ta có bộ dạng lấp lấp ló ló, nhìn chung quanh mình với cử chỉ cẩn thận tột độ, di chuyển nhanh nhẹn như diễn viên kịch câm. Anh ta đã say bét nhè. Donald nhìn mà thấy buồn cười khi anh ta loạng choạng qua cái gì đó trong bóng tối, và càu nhàu. Rồi, khi không có tiếng nào đáp lại, anh bước đến các nhà kho và mất hút. Một người đã quá say nên không giúp gì được trong cuộc tìm kiếm. Donald lại nằm xuống, kéo tấm chăn lên tận cằm.
Có những người ở Pháo đài Edgar say sưa nhiều tháng, cả mùa đông không làm được tích sự gì. Quả là buồn khi thấy họ lâm vào tình trạng đó, có nghĩa là đời sống của họ sẽ ngắn ngủi. Tật say xỉn là căn bệnh ngày càng trầm trọng, và thoạt đầu Donald bị sốc khi thấy nhân viên lớn tuổi của Công ty không làm gì để ngăn chặn, mà lại còn cho phép nhân viên tải hàng được tự do uống loại rượu kém chất lượng. Khi anh thử trao đổi với Jacob thì anh này tránh né; chỉ vì rượu mà Jacob đã lụi con dao vào bụng Moody. Theo như Donald biết, từ lúc ấy Jacob đã không động đến giọt rượu nào. Chỉ có một lần Donald đem vấn đề ra bàn với Mackinley, để chỉ thấy Mackinley tròn đôi mắt nhợt nhạt nhìn mình với vẻ ngạc nhiên nếu không nói là khinh miệt. Mackinley chỉ chốt lại vấn đề bằng câu: “Cả thế gian làm việc theo cách đó.” Các thương nhân dùng rượu để dẫn dụ người đặt bẫy và nhân viên; nếu Công ty không cung cấp rượu thì sẽ bị mất lợi thế về tay những nhóm cạnh tranh với họ vốn không có tính đắn đo mà cũng không màng đến an sinh của người làm việc cho mình. Hành động theo cách khác sẽ là ngây thơ. Donald cảm thấy có điều gì đó không ổn trong cách biện luận này, nhưng không dám nói ra.
Sau một lúc, anh nghĩ về những gì Bà Ross đã nói cho anh nghe tối qua. Nesbit là người trẻ như anh, chỉ mới từ Scotland đến đây. Người có học thức và gốc gác khá. Một thư ký cấp thấp, nhưng có trí thông minh để thăng tiến trong Công ty. Các mối tương đồng khiến cho anh bị đánh động; hoặc đúng hơn, một khi đã xét qua các mối tương đồng thì sự khác biệt bắt đầu đánh động anh. Tật giật mình vì hay lo lắng và tiếng cười cay đắng của Nesbit, cùng nỗi căm ghét cuộc sống của bản thân. Anh ta đã sống ở xứ sở này lâu hơn Donald gấp hai lần, và dù chịu nhiều khổ sở vẫn nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ rời đi.
Donald thoáng rùng mình khi suy ngẫm tương lai của Norah, với khuôn mặt bầu bĩnh tỏ vẻ hồ nghi, cách ăn nói xấc xược, và vòng tay tạo thoải mái cho Nesbit. Trong quá khứ, anh đã nghe qua những mối quan hệ dị chủng - ngay ở Pháo đài Edgar cũng là thông thường - nhưng Donald vẫn nghĩ việc này sẽ chẳng bao giờ dính dáng đến mình. Anh nghĩ đời mình đã có chủ đích kết hôn (nhưng vì lý do nào đó, chi tiết vẫn chưa rõ ràng) với một cô gái nói tiếng Anh - một cô gái như Susannah, mà thực ra anh chưa hề dám mơ đến người nào đẹp đến vậy. Trong mười tám tháng đầu sống ở Pháo đài Edgar, có vẻ như chủ đích ấy ngày càng xa vời. Nhưng khi nhìn đến các cô gái bản địa hiện diện nhiều ở Pháo đài thì anh thối lui, dù cho cánh đàn ông giễu cợt anh về cô này cô kia vốn hay cười khúc khích trước mặt anh. Nhưng anh chưa hề gặp người phụ nữ bản địa nào đẹp như Nancy Eagles. Anh vẫn còn cảm nhận hơi ấm tỏa ra từ thân người mềm mại của cô, bàn tay cô táo bạo và gây xúc cảm - tức là, nếu anh tự cho phép mình nghĩ đến. Nhưng anh không nghĩ đến. Khó mà tưởng tượng bằng cách nào Norah đã có cùng ảnh hưởng tạo kích động đối với Nesbit.
Bức thư viết cho Maria nằm trên mặt bàn. Đêm hôm qua, sau khi cơn tức giận qua đi, anh nhặt lên nhúm giấy đã bị vò nát, vuốt lại cho phẳng phiu rồi cố ép lại giữa những tờ giấy khác, đặt đôi giày ủng nén lên trên, nhưng anh e như thế vẫn chưa đủ. Có lẽ dù sao đi nữa thì cũng không nên viết thư cho cô. Có lẽ vò nát nó thành một nhúm là điều may mắn. Chính Susannah là người anh phải nghĩ đến, và anh nghĩ đến, cố nắm bắt hình ảnh của cô, để nghe trong đầu giọng nói nhẹ nhàng thanh thoát như ánh bạc.
Khi ánh nắng chiều đã tắt hẳn, Donald ăn mặc tử tế. Anh đói bụng, mà anh nghĩ đó là dấu hiệu của sinh lực, và đi ra hành lang không một bóng người. Anh tìm thấy Nesbit trong văn phòng - chính là ánh sáng anh thấy từ bên kia khoảnh sân. Không thấy bóng của Stewart, Bà Ross hoặc của ai khác.
Nesbit đang ngồi ngã ra khỏi bàn với vẻ mặt nhăn nhó, tấm lưng gù gù vươn thẳng. Anh ngoác miệng ngáp, lộ ra những chiếc răng hàm đ đúa: “Sổ sách kế toán chết tiệt. Tai ương trong đời tôi. Một trong những tai ương. Có lúc một kế toán viên làm việc ở đây - Archie Murray. Cái anh trai trẻ trông tức cười - như con chuột. Nhưng từ khi anh ta đi, tôi phải tự làm lấy, và đây không phải là điểm mạnh của tôi, không ngại gì mà cho anh biết. Chẳng phải là điểm mạnh gì cả.”
Donald thoáng có ý nghĩ muốn ngỏ lời giúp anh ta, nhưng cảm thấy mình không tha thiết lắm.
“Không phải là chúng tôi có thu nhập dồi dào để xử lý. Nhiều chi tiêu hơn là thu nhập, nếu anh hiểu tôi muốn nói gì. Ở chỗ anh làm thì xoay xở như thế nào?”
“Khá tốt, tôi nghĩ vậy. Nhưng rồi tụi tôi là thương điếm chứ không phải điểm xuất xứ của sản phẩm. Tôi đoán có lúc - nhiều năm trước, trước khi có nhiều người - cả xứ sở này có đầy lông thú.”
Nesbit lộ vẻ u sầu: “Tôi thấy không khi nào vùng quanh đây có nhiều thứ gì cả. Anh biết người bản địa gọi vùng này là gì không? Xứ Chết đói. Ngay cả mấy con chồn chết tiệt cũng không tìm ra thứ gì để ăn - và dĩ nhiên chúng đều là của nợ. Đến lúc làm một chầu.”
Từ nơi đang ngồi, Nesbit lượn qua Donald rồi rút ra một chai whisky mạch nha phía sau một vài cuốn sổ kế toán: “Đi nào.”
Donald đi theo Nesbit vào phòng khách của anh này - một căn phòng nhỏ, trơ trụi kế bên phòng làm việc, chỉ có một đôi ghế bành nhồi quá dầy và vài bức chạm nổi không rõ loại gì.
“Chiều nay ông Stewart ở đâu?” Donald hỏi khi nhận một ly rượu đầy. May mắn là nó ngon hơn loại rượu rum ở Pháo đài Edgar. Donald vẩn vơ tự hỏi tại sao thế - nơi vùng hoang vu, không có thức ăn đàng hoàng và công việc quản gia lôi thôi - cư dân của Nhà Hanover lại uống rượu như vua chúa.
Nesbit nói mơ hồ: “À, đi đây đi đó... Đây đó. Anh biết mà...” Anh nghiêng người tới trước trên ghế bành, chăm chăm nhìn Donald làm anh luống cuống: “Con người đó... Con người đó là vị thánh. Một vị thánh tuyệt đối.”
Donald thận trọng nói: “À...”
“Điều hành nơi này là một nhiệm vụ chẳng ai kh thưởng, anh tin tôi đi, nhưng ông ấy không bao giờ than van. Người ta không bao giờ nghe ông ấy phàn nàn gì về việc này, thực sự không hề giống công việc của anh. Và ông ấy là người có thể làm được bất kỳ việc gì; năng lực cao nhất, ở mức cao nhất.”
Donald nói có phần cứng nhắc: “Vâng, có vẻ như ông ấy có năng lực.”
Nesbit nhìn anh với vẻ tính toán: “Tôi dám nói anh hẳn nghĩ người nào bị điều ra tận cùng địa ngục này phải là nhân viên hạng hai, và có thể đúng trong trường hợp của tôi, nhưng không đúng trong trường hợp ông ấy.”
Donald cúi đầu - và rồi lắc đầu - một cách lịch sự, hy vọng mỗi cử chỉ tán đồng và phủ nhận được gán ghép đúng cách vào mỗi ý nghĩa.
“Người bản địa yêu mến ông ấy. Họ không thực sự đánh giá nhiều về chúng ta, và đó là ý nghĩ hai chiều nên cũng đúng lý, nhưng ông ấy... họ xem ông như là một thứ thần linh nhỏ. Bây giờ ông ấy đang đi ra ngoài, nói chuyện với họ. Trong một lúc, khi ông ấy trở về với tin tức của Nepapanees, tôi nghĩ tình hình có thể trở nên xấu đi, nhưng ông đi ra ngoài đó mà ban phát ân huệ cho họ.”
“À. Hừm. Đáng ngưỡng mộ,” Donald thì thầm, tự hỏi Jacob có khi nào được ai ban phát ân huệ hay không. Anh cũng nhớ lại một cách sống động người quả phụ bị bỏ mặc trên nền tuyết trong khi Stewart và Nesbit đi vào. Nhưng thật lạ kỳ, cho dù Donald lấy làm tự hào đã có đầu óc độc lập khi nghe lời tán dương nhưng không cả tin, lại quá dễ mà tin rằng người ta sùng bái Stewart. Anh thấy mình bị Stewart cuốn hút gần như ngang bằng việc anh kinh tởm Nesbit.
Nhìn vào chất rượu màu hổ phách trong ly mình, Nesbit nói: “Tôi biết mình là hạng hai. Có thể tôi không biết nhiều lắm, nhưng điều này thì tôi biết.”
Donald thắc mắc có phải Nesbit đang đánh mất chính mình hay không; trong một lúc anh có ý nghi ngờ kinh khủng là Nesbit sắp bật khóc.
Nhưng rồi Nesbit mỉm cười, với dáng vẻ cay đắng yếm thế mà anh đã qu thuộc: “Moody, còn anh thì thế nào, anh hòa nhập ra sao trong sự việc?”
“Tôi không rõ anh muốn nói gì.”
“Ý tôi nói, anh có phải là hạng hai không? Hoặc là hạng nhất?”
Donald gượng cười.
“Hoặc có lẽ anh chưa biết.”
“Tôi à... Tôi không đồng ý đó là cách phân biệt hữu ích.”
“Tôi không nói nó hữu ích. Nhưng nó hiển nhiên. Tức là, nếu anh có can đảm mà nhìn ra.”
“Tôi không nghĩ vậy. Anh có thể cho rằng chấp nhận đánh giá chính mình là can đảm, nhưng tôi thấy làm như thế là rũ bỏ trách nhiệm trong cuộc sống. Tư tưởng yếm thế như vậy khiến cho anh nghĩ mình có quyền từ bỏ mà bản thân không cần nỗ lực. Tất cả thất bại đều được biện minh trước.”
Nesbit mỉm cười một cách khó chịu. Donald thích cách trao đổi nửa nghiêm túc như thế này, mà lúc trước anh đã tham gia - thường là cuối một buổi tối mùa đông dài - nhưng vết thương bắt đầu hành hạ anh trở lại.
“Anh nghĩ tôi đã thất bại hả?”
Thình lình hiện ra trong đầu Donald hình ảnh của Nesbit bị kẹp trong vòng tay màu gỗ xà cừ của Norah, và cảm thấy có lỗi vì biết rõ con người anh ta. Hầu như cùng lúc, trong đầu anh, gương mặt của Susannah kết tinh rõ ràng và sắc nét tuyệt vời; sau cả thời gian dài dò dẫm trong sương mù, mỗi mảng tụ lại đúng chỗ và kết hợp lại với nhau, thế là cô hiện ra: toàn vẹn, chuẩn xác, yêu kiều. Cùng lúc, anh nhận ra với cú sốc rằng tình cảm của anh đối với cô có giới hạn, chủ yếu chỉ có lòng ngưỡng mộ và kính sợ. Anh bị thôi thúc phải chạy về phòng mình và viết nốt bức thư cho Maria. Con người Maria tinh tế, khó đoán. Thật lạ kỳ. Thật lạ kỳ nhưng cũng thong dong, niềm cảm nhận như thế. Thật tuyệt diệu! Anh kiềm hãm nụ cười về ý nghĩ này.
“Anh có nghĩ vậy không?”
Donald phải căng óc để cố nhớ xem câu hỏi là gì.
“Không, không phải. Nhưng tôi có thể tưởng tượng nỗi chán ngán ở một nơi chốn như thế này. Tôi tin mình cũng cảm thấy thế nếu rơi vào tình cảnh này. Người đàn ông cần có bạn bè, và cuộc sống đa dạng. Tôi biết mùa đông dài như thế nào, mà đó là tôi chỉ mới kinh qua mùa đông đầu tiên. Một người bạn thì không đủ, dù cho người này là hạng nhất.”
“Hoan hô! Này, anh có nghe gì không?” Nesbit nốc cạn ly rượu và đang chuẩn bị rót thêm vào ly thì dừng lại, nghiêng đầu nghe ngóng. Donald lắng nghe, đoán đó là bước chân trong hành lang, nhưng không có ai.
Nesbit lắc đầu rồi rót thêm whisky vào ly của Donald, cho dù anh này chưa uống xong ly đầu.
“Moody à, anh là người bạn tuyệt diệu. Tôi ước gì anh làm việc ở đây. Anh có thể gỡ rối cho các tài khoản mà tôi đã xới tung lên trong vòng hai năm nay.” Nesbit cười thoải mái, vẻ cay đắng đã biến mất.
Donald nói mà không ăn nhập gì với vấn đề đang trao đổi: “Hồi nãy tôi thấy một nhân viên của anh ngoài kia. Anh ấy không đi cùng nhóm tìm kiếm, nhưng lại say khướt nên tôi dám nói chỉ làm vướng víu người khác chứ chẳng giúp ích gì.”
Nesbit lại có tia nhìn xa xăm: “À... Đúng. Đó là vấn nạn mà chúng tôi vấp phải trong mùa đông, như tôi tin anh đã biết rõ.”
“Anh ấy là nhân viên tải hàng phải không?” Donald muốn hỏi ngay người này là ai, nhưng e như thế là quá đường đột.
“Tôi không rõ anh nói tới ai. Theo tôi biết, tất cả đàn ông ngoại trừ Olivier đã đi tìm kiếm ở con sông. Có lẽ anh đã thấy anh này.”
“Không, không, chắc chắn đó là một người lớn tuổi hơn. Thân người nặng hơn, anh biết không. Và có bộ tóc dài.”
“Ánh sáng yếu đó có thể đánh lừa thị giác của anh. Này, có lần tôi nhìn qua cửa sổ - đó là mùa đông năm rồi và tôi đang ngồi ở bàn giấy phòng bên - và suýt đứng tim. Có một con nai sừng tấm đứng sát bên ngoài, cao hơn hai mét - đang trừng trừng nhìn tôi. Tôi thét lên một tiếng kinh hoàng rồi chạy ra khỏi cửa nhưng khi ra ngoài sân thì không thấy nó đâu. Cũng không có dấu chân. Dĩ nhiên là nó không có cách nào vượt qua vách đá, nhưng tôi có thể thề trên một chồng Kinh Thánh là nó đã ở đó. Thử tưởng tượng mà xem!”
Donald chua cay nghĩ có lẽ anh ta say rồi. Donald biết chắc người đàn ông ngoài sân không phải là Olivier, và nhận ra - thực sự, như thể đầu óc anh đã đi ngủ trong mấy ngày qua - rằng một người chưa được xác định có thể là chuyện đáng cho họ quan tâm.
Đáng quan tâm đến nỗi một lúc sau, khi thuận tiện anh xin kiếu để lẻn ra ngoài, xem xét lớp tuyết bên ngoài khung cửa sổ phòng anh. Chính lúc ấy, anh thấy rằng không hiểu vì lý do nào, tiêu chuẩn quét dọn đã được nâng cao: tuyết trên mặt sân đã được quét sạch.
***
Sault St Marie hoàn toàn khác biệt so với Caulfield. Đó là nơi hiện diện nhiều sự giao nhau - hai hồ nước hợp lưu với nhau, một hồ đổ nước vào hồ kia giữa những ghềnh đá bướng bỉnh; hai con đường đến từ miền tây-bắc và miền đông cắt nhau; và đường biên giới của hai quốc gia. Tàu thuyền tụ hội ở đây từ phương bắc, từ phương đông và từ dưới nước Mỹ, từ Chicago và Milwaukee, những nơi xa lạ hơn và suy đồi hơn so với thương điếm hoang dã nhất. Nhưng lý do bề ngoài để đi đến đây là Nhà hát Grand Western, mà gia đình Knox đến tối hôm qua để xem vở Hôn lễ của Figaro được nhiều người nói đến. Yếu tố lôi cuốn chính là Delilah Hammer thủ vai nhân vật Cherubino, và ý tưởng cho một phụ nữ sắc tộc Mohawk hát nhạc Mozart đã được các nhà báo bàn tán trong nhiều tháng. Xem cô hát là đủ mãn nguyện. Thế nên Bà Knox mua vé tàu hơi nước, và gia đình bất chấp mùa đông mà đi.
Đối với Maria - người không có khiếu thưởng thức âm nhạc - cô ca sĩ trông thu hút và có phần cợt nhả, đặc biệt trong trang phục con trai, với mái tóc cột lên dưới một chiếc nón mềm. Cô có nét mặt như trai trẻ với đôi mắt đ thật to càng nổi bật thêm nhờ hóa trang, và miệng rộng với hàm răng thật trắng. Cô trông khá ấn tượng so với các nữ ca sĩ khác vốn trông béo tròn; Maria tự hỏi liệu Cô Hammer thích thủ một trong những vai ấy hay không. Khán giả - sự pha trộn của những người yêu nhạc kịch đã chưng diện cho buổi diễn và những người chỉ muốn thay đổi không khí - rộ lên tiếng tán thưởng mà trong khung cảnh như thế này thì có lẽ không khó gì mà đạt được. Cha cô càu nhàu cô ca sĩ không thích hợp với vai diễn (ông có ý nói đến giọng ca chứ không phải sắc tộc của cô), rồi ông và mẹ cô tranh cãi với nhau về việc chỉ huy dàn nhạc. Trong một lúc, có vẻ như ông trở về với con người của mình.
Bà Knox đã lo lắng về ông chồng, ông bị ghét bỏ - hoặc bị cho về hưu; không ai rõ - đã là tệ hại, nhưng còn tệ hại hơn nữa là ông ngồi trong phòng đọc sách từ giờ này đến giờ khác mà không làm gì; đầu óc tinh tế của ông không suy nghĩ, và bà tin chắc tinh thần của ông đã bị nghẽn, thể chất bị hoại dưỡng. Khi hai người tranh luận, bà cảm thấy sự sôi nổi đã chùng xuống. Nói chung, chuyến đi xem dường đáng công.
Tuy nhiên, đến sáng hôm sau, ông lại rơi vào tình trạng thờ ơ trong giao tiếp. Và Maria thấy đầu óc mình lại vương vấn với bộ mã kia.
Sau chuyến đến thăm Sturrock, Maria giam mình trong phòng với bản chép các dấu hiệu, cố quên đi tình trạng gia đình trong khi vẫn hoang mang với nội dung. Thoạt đầu cô thử chia các đường thành từng nhóm theo cách các đường này được sắp xếp với nhau - dù cho việc này giả định là Sturrock đã chép lại chính xác. Qua một bài báo trong tạp chí Edinburgh Review và qua cảm quan của mình, cô nhận ra mỗi dấu hoặc nhóm của dấu không thể đại diện cho một chữ cái theo ngữ hệ La Mã, nhưng có thể biểu hiện một từ hoặc một âm thanh. Sau khi sắp xếp đi và sắp xếp lại các nhóm và thế vào các âm thanh và từ, tất cả đều tạo ra một mớ lộn xộn những âm thanh vô nghĩa (da-ya-no-ji-te! ba-lo-re-ya-no?), cô đành dẹp qua một bên và cảm thấy càng vô vọng thêm so với lúc bắt đầu. Không có cơ sở nào để mong Maria Knox giải được điều bí ẩn; một cô gái dân dã ít học với vài tựa báo được đặt mua và chỉ với một bài báo lại muốn giải mã Bản đá Rosetta[58] như là bước khởi đầu. Nhưng các dấu có góc cạnh nhảy múa trong đầu cô, xâm chiếm những giấc mơ của cô, trêu tức cô với một ý nghĩa đong đưa ngoài tầm với của cô. Cô có ước muốn nguy hiểm là được thấy tấm thẻ nguyên thủy, rồi đầu óc cô chuyển về miền bắc, nơi có lẽ Francis và anh Moody đang nắm giữ manh mối.
[58] Bản đá Rosetta: một bản đá hoa cương của Ai Cập cổ đại, vào năm 196 TCN được khắc nhiều dòng chữ bí ẩn, đến năm 1799 được quân đội Pháp dưới quyền Napoléon Bonapartre tìm ra. Vì bản văn được khắc theo ba ngữ văn khác nhau: Hy Lạp, chữ tượng hình. Ai Cập và chữ thông dụng, các học giả có thể diễn giải ý nghĩa của hai ngữ văn sau bằng cách so sách với ngữ văn Hy Lạp, từ đó mở ra môn Ai Cập học hiện đại. Hiện giờ Bản đá Roseyta được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Anh, London.
Cô đẩy phần thức ăn sáng còn lại vòng quanh chiếc đĩa. Những mẩu trứng và nước sốt bít tết cô đặc thể hiện sự trừu tượng của mẫu hình thướt tha.
Cô đẩy chiếc ghế để đứng dậy: “Nếu mẹ không phiền... con muốn đi dạo một lát.”
Bà Knox nhíu mày nhìn cô con gái lớn: “Được rồi. Cẩn thận nhé?”
“Vâng, Mẹ ạ.” Maria đã bước nửa đường đến cánh cửa. Quả là nực cười khi mẹ cô nghĩ bất kỳ nơi nào bên ngoài Caulfield đều là hang ổ tội lỗi, nhung nhúc người da trắng buôn nô lệ. Bà sẽ phải làm qu với thực tế nếu Maria đi Toronto, và cô đã nhất quyết sẽ đi vào mùa hè tới.
Bên ngoài khách sạn, Maria rẽ sang phải, hướng về khu bờ sông. Dọc dài theo bờ hồ là hàng loạt những cầu tàu và nhà kho, thu thập hàng hóa trên cả miền bắc. Đây là cuộc sống náo động, xô bồ của thương mại, của kinh doanh; bẩn thỉu và ồn ào và hiện thực, khác hẳn với Caulfield và cửa hàng John Scott. Cô đã được cảnh báo phải tránh xa khu vực này, là một phần của những thứ hấp dẫn trong thị trấn. Những người đàn ông đi vượt qua cô cho kịp với những cái hẹn gấp với các chuyến tàu đến, giá cổ phiếu, buổi họp nghiệp đoàn. Đối với một cô gái quê được che chở thì đấy như là quả tim của mọi sự việc.
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói