The greatest thing you'll ever learn is just to love and be loved in return.

Eden Ahbez, "Nature Boy" (1948)

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 30
ôi đưa tay vuốt tóc mình. Có vài lọn tóc vuột ra khỏi chiếc nơ, và qua ánh sáng ở lối đi tôi có thể thấy dăm ba sợi tóc bạc. Tôi phải đối diện với hiện thực. Tôi đang già đi, và đầu óc đầy những ý nghĩ mà tôi không chịu đựng được. Tôi không chịu đựng được ý nghĩ là mình không nhận ra những diễn tiến. Tôi không chịu đựng được ý nghĩ là Angus ghét Francis vì chuyện này, vì bây giờ tôi nhận ra rằng anh đã biết. Tôi không chịu đựng được ý nghĩ về nỗi đau buồn của Francis, hẳn là - đúng là - cực độ, bí ẩn, cô đơn không chịu nổi. Và tôi không chịu đựng được ý nghĩ là khi gặp nó, tôi đã không an ủi nó được nhiều.
“Trời ơi! Đáng lẽ tôi phải ở bên nó.”
“Bà là một phụ nữ can đảm.”
Tôi hầu như bật cười: “Tôi là một phụ nữ ngu dốt.”
“Bà đã đi đến tận đây vì con trai bà. Ghét đi như thế này. Anh ấy biết điều đó.”
“Mà không làm gì ra trò. Chúng ta vẫn chưa tìm ra người để lại dấu vết.”
Parker không chen ngang mà phủ nhận, ông im lặng hút thuốc trong một phút rồi nói: “Stewart cho bà xem vết sẹo phải không?”
Tôi gật đầu: “Ông ấy nói ông gây ra khi xô xát trong một chuyến đi.”
“Không phải trong chuyến đi. Sau đó. Để tôi nói cho bà nghe đôi điều mà có lẽ ông ấy không nói, rồi bà tự suy nghĩ. Stewart có tương lai hứa hẹn. Ai cũng nói ông ta sẽ tiến xa. Ông là mẫu người thích hợp. Vào một mùa đông ở Hồ Clear, ông bắt nhóm chúng tôi đi đến một thương điếm khác. Gần năm trăm kilômét. Tuyết phủ dày gần một mét trên mặt đất. Thời tiết thật kinh khủng. Người ta không di chuyển giữa mùa đông trừ khi bị bắt buộc. Ông ta làm thế để chứng tỏ mình làm được.”
“Có phải đó là chuyến đi nổi tiếng mà anh Moody nói đến không?”
“Đó là chuyến đi nổi tiếng, nhưng không phải vì những lý do anh ấy nêu ra. Khởi đầu, bọn tôi có năm người. Stewart, một nhân viên Công ty khác tên Rae, cháu trai của Rae, mới mười bảy tuổi. Anh con trai không làm việc cho Công ty; anh đang thăm viếng vùng này. Rồi còn có tôi và người hướng đạo, Laurent Jammet.”
“Như tôi nói, thời tiết xấu; tuyết phủ dày. Rồi thời tiết càng tệ hại hơn. Có cơn bão tuyết, và may mắn mà chúng tôi tìm được một ngôi nhà gỗ, cách xa mọi nơi chốn hàng trăm kilômét. Cơn bão tuyết tiếp tục và tiếp tục. Chúng tôi chờ cho bão dứt, nhưng đó là một trong những cơn bão tháng Giêng kéo dài hàng tuần. Thực phẩm của chúng tôi cạn dần. Chỉ có một thứ còn nhiều là rượu. Jammet và tôi quyết định đi tìm người giúp đỡ. Dường như đó là cơ hội duy nhất. Chúng tôi nói với hai người kia là sẽ trở về càng sớm càng tốt, để lại cho họ tất cả thực phẩm, rồi lên đường. Chúng tôi gặp may. Sau hai ngày, chúng tôi tìm ra một ngôi làng người Da Đỏ, rồi thời tiết lại tồi tệ thêm, và thêm ba ngày chúng tôi không quay về được.”
“Khi cuối cùng chúng tôi quay về, có chuyện đã xảy ra. Chúng tôi thấy Stewart và Rae trong tình trạng say khướt. Anh con trai đã chết, nằm trên mặt đất, chết ngộp trong thức ăn nôn mửa. Họ không bao giờ giải thích cặn kẽ, nhưng tôi nghĩ chuyện đã xảy ra là như thế này: Stewart đã nói đến cái mà ông ta gọi là ‘ra đi trong huy hoàng’. Ông đã cười đùa về việc này. Tôi nghĩ khi chúng tôi chưa về kịp thì ông đã bỏ cuộc. Ông quyết định họ phải uống rượu cho đến chết. Rae và ông ta không được như ý, nhưng anh con trai chết.”
“Làm thế nào ông biết đó là ý tưởng của ông ấy?” Tôi rùng mình trong người vì ý nghĩ này. Anh con trai khi ấy bằng tuổi Francis bây giờ.
Giọng ông nghe lạnh tanh vì khinh bỉ: “Đó là cách nghĩ của ông ta.”
“Và rồi sau đó thì sao? Họ có sa thải ông ấy không?”
“Làm thế nào họ chứng minh được? Đó chỉ là một thảm kịch. Chỉ do thiếu suy xét. Thế đã là tồi tệ rồi. Rae trở về Scotland, Stewart tiếp tục làm việc, còn anh con trai nằm trong lòng đất. Tôi rời khỏi Công ty. Từ lúc đó đến giờ tôi không gặp lại ông ta.”
“Còn vết sẹo thì sao?”
“Tôi nghe ông ta chỉ trích anh con trai. Nói anh ấy yếu đuối và sợ hãi, và muốn tìm lấy cái chết. Thế rồi tôi uống rượu.” Ông nhún vai, không tỏ vẻ tiếc nuối.
Một thời gian dài trôi qua trong im lặng. Dù sao, tôi biết ông nói chưa hết.
“Còn chuyện kia?”
“Ừ. Năm hay sáu năm trước, Công ty thiếu nhân lực nên họ mang người từ Na Uy. Phạm nhân, Stewart làm quản đốc ở Thương điếm Nai Sừng tấm, và họ nhận một nhóm người này. Những người Na Uy ở Canada cũng gia nhập bọn họ. Người quả phụ ở Himmelvanger, người chăm sóc con trai bà - chồng cô ấy ở trong nhóm này.”
Tôi nghĩ đến người quả phụ - trẻ, đẹp, với vẻ bồn chồn và khao khát. Có lẽ tố chất này giải thích vụ việc.
“Tôi không ở đó, nên đây chỉ là lời đồn đoán. Vài người Na Uy nổi loạn và bỏ trốn. Không hiểu bằng cách nào mà họ mang theo được nhiều lông thú cao giá. Lúc đó Stewart lâm vào tình cảnh bi đát, vừa vì vụ nổi loạn vừa vì mất số hàng cao giá. Một người nào đó làm việc ở nhà kho hẳn phải là tay trong.”
“Stewart phải không?”
“Tôi không biết. Dĩ nhiên là người ta phóng đại, nói các bộ lông thú là cả một khối tiền cho người nào tìm được bọn họ. Hàng chục bộ chồn bạc và chồn đen.”
“Nghe như không có giá trị nhiều để phải tốn công.”
“Bà biết một tấm da chồn bạc giá bao nhiêu không?”
Tôi lắc đầu.
“Ở London, giá cao như vàng.”
Tôi cảm thấy sốc. Và thấy thương cho các con thú. Tôi có thể không giỏi giang gì, nhưng ít nhất khi sống có giá trị hơn khi chết.
“Stewart được điều đến đây. Bây giờ ở đây không còn lông thú. Chỉ còn có thỏ. Chẳng có giá trị gì cả. Tôi không hiểu tại sao họ còn cất công duy trì Hanover. Đối với một người đầy tham vọng thì đó là sự xúc phạm. Người ta không được thăng chức từ nơi chốn như thế này. Đó là hình phạt đối với những gì ông đã làm.”
Tôi nóng lòng muốn biết rõ đoạn kết: “Chuyện này liên quan gì đến Jammet?”
“Ờ. Năm rồi...” Ông dừng lại, vân vê thuốc lá trong dọc tẩu - một cách cố ý, tôi thấy dường như thế. “Mùa đông năm rồi... tôi tìm thấy các bộ lông thú.”
“Chồn bạc và chồn đen hở?”
“Đúng.” Giọng ông pha vẻ thích thú, hoặc có lẽ để chống chế.
“Có đáng là một khối tiền không?” Tôi cảm thấy - tôi xin lỗi Francis về việc này - một nỗi phấn khích. Khối tiền có nhiều hình thức dù cho kinh khiếp, và luôn khiến cho một quả tim nông cạn như tim tôi đập nhanh hơn.
Parker hơi nhăn mặt: “Không nhiều như người ta nói, nhưng... vừa đủ.”
“Còn… mấy người Na Uy thì sao?”
“Tôi không tìm thấy họ. Nhưng bất kỳ dấu vết nào cũng đã mất từ lâu. Họ ở trên vùng trống không.”
Tôi không thể ngưng hỏi tiếp: “Ý ông nói là chó sói phải không?”
“Có lẽ.”
“Nhưng ông đã nói chó sói... để lại nhiều bộ phận.”
“Qua nhiều năm, nhiều loài sinh vật đến tiêu thụ: chim ăn thịt, chồn... Có lẽ họ đã đi xa. Điều tôi muốn nói là tôi không thấy gì hết. Các bộ lông thú được cất giấu như thể họ định quay lại. Nhưng họ không hề quay lại.”
“Thế là tôi kể cho Laurent nghe. Anh ấy sẽ tìm người mua ở Mỹ. Nhưng anh có tật rượu vào lời ra. Anh mang câu chuyện ra khoe khoang. Tin tức hẳn lan truyền, lan tới Stewart ở đây. Chính vì thế mà anh ấy bị giết.”
“Điều gì khiến cho anh nghĩ đấy là Stewart?”
“Stewart muốn chiếm các bộ lông thú hơn ai hết. Bởi vì ông ta làm mất. Nếu kiếm lại được, ông ta sẽ là anh hùng. Công ty sẽ thu nhận lại ông.”
“Hoặc là ông ta sẽ giàu to.”
Parker lắc đầu: “Tôi nghĩ tiền bạc không quan trọng. Đối với ông ta là niềm kiêu hãnh.”
“Có thể là do người khác - bất kỳ người nào đó - đã nghe Jammet nói và muốn chiếm lấy khối tiền.”
Ông quay sang nhìn tôi: “Nhưng dấu vết người đó dẫn đến đây.”
Tôi suy nghĩ về điều này một chốc. Đúng thế. Đúng nhưng chưa đủ.
“Dấu vết dẫn đến đây nhưng bây giờ đã mất. Nếu ta không tìm được hung thủ...”
Thình lình tôi nhớ ra một thứ, và nóng bừng vì phấn khích:
“Này, tôi tìm ra ở nhà Jammet...” Tôi rút ra mảnh giấy từ túi mình và trao cho Parker.
Ông xem xét, cầm nghiêng về phía cánh cửa tuy vẫn không đủ sáng.
“Sáu mươi mốt, đó là loại hàng hóa, phải không?”
“Phải. Phải rồi. Bà tìm ra cái này phải không?”
“Trong hũ bột của anh ấy.”
Parker mỉm cười. Tôi cảm nhận niềm hãnh diện - chỉ trong tích tắc, rồi mờ dần. Cái này chẳng chứng minh được gì cả, ngoài việc Jammet quan tâm đến các bộ lông thú theo cách nào đó.
Chẳng giúp ích được gì.
“Tôi trao nó cho anh ấy, với một tấm da chồn bạc. Việc này làm anh cười to, nên anh giữ lấy. Dĩ nhiên là mang tấm da đi bán.”
Tôi nói: “Ông giữ nó đi. Có lẽ ông sẽ nghĩ đến cách sử dụng nó như thế nào.” Thậm chí tôi không tự hỏi tôi có ý nói gì. Parker cũng không hỏi, nhưng mẩu giấy đã biến khỏi tầm mắt tôi. Tôi vẫn không biết phải làm gì. Dĩ nhiên Moody là người cần được thuyết phục.
“Ông sẽ kể cho Moody tất cả chuyện này chứ? Có lẽ lúc bấy giờ anh ấy sẽ nhận ra.”
“Đó không phải là bằng chứng, như bà đã nói. Moody yêu mến Stewart; Stewart luôn có tài khiến cho những người như Moody yêu mến mình. Hơn nữa, Stewart đã không đi đến Sông Dove. Có một người nào khác.”
“Tại sao lại có người gây án hộ cho người khác?”
“Có nhiều lý do. Tiền bạc. Sợ hãi. Khi ta biết người đó là ai thì ta sẽ biết tại sao.”
“Đó có thể là một trong những người ở đây. Có lẽ đó là Nepapanees, và khi anh ấy... đe dọa khai ra, Stewart giết anh.”
“Tôi đang nghĩ, tôi tự hỏi họ có thể tìm ra thi hài anh ấy hay không.”
“Có nghĩa là sao?”
“Có nghĩa, họ đi theo hướng Stewart chỉ cho họ đi. Tuyết sẽ bao phủ dấu vết. Họ chỉ nghe ông ta nói chuyện gì đã xảy ra.”
Bầu không khí im lặng dày đặc đến nỗi ngay cả tiếng các con chó ăng ẳng không thể xuyên qua.
***
Họ đi đến địa điểm mà Stewart cho họ biết đêm trước. Ánh sáng đã chiếu rọi qua bầu trời, và mọi thứ đều có màu xám: mây xám óng ánh như ngọc trai, tuyết xám nhàn nhạt. Lớp tuyết mịn trên mặt băng của con sông làm cho hình ảnh lộ ra: một con đường rộng chạy vòng qua khu bình nguyên, khoảng hai mét dưới mặt đất. Con sông đã xói mòn sâu hơn trong lớp vỏ trái đất kể từ lúc nó bắt đầu chảy.
Có những dấu hiệu - được một lớp tuyết mỏng bao phủ - cho thấy gần đây một người nào đó đã hiện diện. Một khu vực xù xì, có nhiều dấu giẫm đạp nơi mặt đất dốc xuống thành một bãi sông. Nhìn từ bên trên, mặt băng trên con sông phẳng phiu một màu trắng đồng nhất, ngoại trừ một điểm ở xa xa có màu sậm hơn, trông như bóng tối, có nghĩa là mặt băng bị vỡ và nước đông lại thành một lớp băng mới mỏng hơn, chỉ có ít tuyết bao phủ. Đó hẳn là địa điểm.
Alec đang đi bên cạnh mẹ, đôi lúc nắm lấy tay cô. Hành trình khó nhọc cho cậu bé; Elizabeth đã phân vân liệu có nên dẫn cậu đi theo không, nhưng ánh mắt của cậu gợi cho cô nhớ đến Nepapanees. Cậu bé trông cả quyết và nghiêm túc. Chỉ mới hôm qua cậu còn là một đứa con trai với người cha làm khuôn mẫu thử thách cho cậu. Bây giờ, cậu phải trở thành người lớn.
Nhóm người để lại chiếc xe trượt tuyết bên bờ sông rồi đi xuống gần dòng nước. Elizabeth nắm lấy tay Alec. Nhóm đàn ông bước đi thận trọng, dùng cây gậy dài chọc xuống lớp băng để thử độ dày. Nơi nào lớp băng vỡ, gần bóng tối, nước phía dưới trông như có màu đen. Một người kêu lên - nước cạn hơn là họ nghĩ. Họ xem xét dòng chảy, bàn với nhau phải làm gì. Elizabeth nhìn về hướng hạ nguồn, nơi con đường lượn vòng quanh. Ở đâu đó đằng kia, Nepapanees đang chờ đợi.
“Con ở đây,” cô bảo Alec, biết rằng cậu bé sẽ vâng lời. Cô bước về hướng hạ nguồn mà không ngoảnh mặt lại. Nhóm đàn ông lo lắng nhìn theo.
Những gì cô đã thấy: một khoảnh đứt quãng giữa bề mặt láng mịn trắng của con sông; một điểm thô nhám nơi các cành cây gãy xuống bờ nước, tạo thành một con đê nhỏ. Bất kỳ thứ gì trôi xuống theo dòng nước từ thượng nguồn sẽ vướng vào nơi đây cho đến khi các cơn lũ mùa xuân sẽ cuốn đi tất cả.
Elizabeth lướt đến dọc bờ nước phía trên con đê. Một phần đầu óc cô thắc mắc tại sao Stewart không tìm kiếm nơi đây, vì cô thấy lớp tuyết còn nguyên. Lớp băng dày dưới chân cô. Cô quỳ xuống, dùng bao tay gạt tuyết sang một bên, để lộ ra lớp băng bên dưới. Băng trong suốt như thủy tinh. Bóng tối của dòng nước bên dưới mở ra dưới tầm mắt cô, màu nâu-đen, đầy những cây cỏ mục. Cô dùng tay cào lớp băng, phá vỡ các mảng nơi các cành cây xuyên qua, tiếp tục cào bới, cho đến khi...
Là đây... sâu dưới kia, vướng trong lớp bùn lầy, cô thấy cái gì đó, cái gì đó vừa có màu sáng lẫn tối, cái gì đó to lớn và bất thường, bị mắc kẹt trong bóng tối của dòng nước.
Có những tiếng kêu, và vài người đàn ông vội đi đến phía sau cô, nhưng cô không nhận biết sự hiện diện của họ, và không nhận biết hơi thở mình đang gấp gáp giữa hai hàm răng, cũng không nhận biết đôi bàn tay trần trụi của mình đang chảy máu và xanh tím vì lạnh, vẫn còn bới tung các rìa băng sắc nhọn. Rồi đám đàn ông cầm gậy và rìu đến bên cô, đập vỡ lớp băng thành từng mảng sủi bọt. Những bàn tay kéo cô tránh xa khỏi lỗ hổng nhưng cô làm họ kinh ngạc khi nhào xuống, đầu chúi xuống trước, đưa tay nắm lấy thi hài chồng cô kéo lên. Trong cơn sốc thình lình của cái lạnh chết người, dù mở to hai mắt cô chỉ nhìn thấy màn đen sâu thẳm và ánh sáng xám-xanh phía trên; cho đến lúc có cái gì đó thoát ra tự do và trôi đến đôi cánh tay cô đang giăng ra giống như người tình trong một cơn ác mộng.
Xác của một con nai đang bơi về phía cô, đôi mắt thối rữa mở rộng và sâu hoắm, đôi môi đen sì đã bị rút rỉa đến tận hai hàm răng toe toét, xương sọ trắng hếu qua lớp lông lù xù. Lớp da nổi lều bều chung quanh như là một tấm voan tả tơi.
Khi kéo cô lên khỏi mặt nước, trong một lúc họ nghĩ cô đã chết. Đôi mắt cô nhắm lại, nước chảy ra khỏi miệng cô. Peter Eagles ép ngực cô rồi cô ho, nôn ra nước sông. Cô mở mắt. Họ đã mang cô lên bờ, tháo lớp áo sũng nước, chà xát da thịt cô. Một người đã đốt một đống lửa. Người khác mang đến tấm chăn. Alec đang khóc. Cậu bé không sẵn sàng chịu mất thêm mẹ.
Elizabeth nhận ra vị nước sông trong miệng, vị vương lại giữa hai hàm răng, vị lạnh lẽo và chết chóc.
Khi hai hàm răng đã thôi đánh lập cập, cô nói: “Anh ấy không có ở đó.”
George Cummings đã dùng một góc tấm chăn chà xát hai bàn tay cô.
“Có cả một khoảng dài để tìm kiếm; tụi tôi sẽ đập vỡ hết các tảng băng cho đến khi nào tìm được anh ấy.”
Cô lắc đầu, vẫn còn hình dung ra vẻ mặt của con nai chết đang mỉm cười trong vẻ chiến thắng với cô: “Anh ấy không có ở đó.”
Sau đó, họ ngồi quanh đống lửa, ăn món thịt ruốc và uống trà. Bình thường họ vẫn câu cá, nhưng không ai muốn câu cá ở đoạn sông này; thậm chí không ai nêu ý kiến. Alec ngồi dựa vào Elizabeth, và cô cảm nhận hơi ấm từ người cậu bé.
Họ dựng lều trú ẩn trên một bãi sông khác, cách xa tầm mắt nơi họ đã làm vỡ mặt băng, được các dải bờ sông cao che chắn gió lạnh. Nhưng không khí yên ắng đến ngạc nhiên; làn khói từ đống lửa tỏa vươn lên cao.
William Blackfeather khẽ cất tiếng, không nói đến riêng người nào: “Ngày mai, khi trời vừa sáng, ta sẽ đi tìm kiếm, đoạn trên và đoạn dưới. Bọn ta sẽ bao trùm một vùng rộng.”
Gật đầu.
Rồi Peter: “Nước cạn đến mức kỳ lạ. Mình nghĩ khó mà bị nước cuốn trôi được. Dòng chảy không mạnh.”
George gật đầu về phía EIizabeth, ra hiệu cảnh báo. Nhưng có vẻ như cô không lắng nghe.
Kenowas hạ thấp giọng: “Lớp băng bị đập vỡ còn mới. Lớp băng trước không dày, chỉ dày bằng phân nửa so với lớp mới.”
Tất cả đều im lặng, chìm sâu vào ý nghĩ của riêng mình.
Rồi Kenowas lớn tiếng: “Tôi không đi trên lớp băng đó, cho dù đuổi theo con gì đi nữa.”
“Anh nói gì?” Amaud có tính thô lỗ và hiếu chiến, ngay cả khi không say rượu. Kenowas nhìn qua anh. Giữa hai người từ lâu đã có mối hiềm khích.
“Tôi cũng không nghĩ Nepapanees đã đi ra đó. Ngay cả một thằng dốt như anh cũng phải suy xét cho kỹ.”
Không ai cười, cho dù đó là câu có ý giễu cợt. Có sự thật trong lời nói của anh, vì Nepapanees là người đặt bẫy sắc sảo nhất, người có kinh nghiệm nhất trong bọn họ.
Điều mà nhiều người nghĩ, tuy không nói ra, là linh hồn của Nepapanees đang dẫn dắt họ qua xác con nai. Anh không được rửa tội, nên anh có linh hồn con nai phù hộ thay vì có thiên thần nhỏ. Một linh hồn mạnh mẽ, nhanh nhẹn, quả cảm, biết rõ các khu rừng và bình nguyên. Còn giỏi hơn là một thiên thần bé nhỏ. Làm thế nào mà một đứa bé, sinh ra từ ngày xưa trong một xứ sở nóng bức, giữa sa mạc, lại biết cách sinh tồn giữa vùng hoang dã lạnh giá được? Nó có thể dạy cho anh những gì?
Rồi Elizabeth - là người được rửa tội với một vị thánh đặc biệt để phù hộ cô và có một phần dòng máu da trắng trong huyết quản - lắc đầu và tặc lưỡi khi tức giận, hoặc chế giễu và kéo tóc anh khi vui vẻ. Khi cải đạo ở tuổi trưởng thành, cô yêu thích suy nghĩ của Thánh Francis[57], với lòng từ tâm và cách truyền thông với chim chóc cùng những con vật khác. Vị Thánh gần giống Nepapanees về điểm này và vì thế Người được yêu mến ở đây - bốn đứa trẻ và hai người lớn đã chọn Người làm thánh bổn mạng cho họ.
[57] Thánh Francis: Thánh Francis của Assisi (1182-1226): gốc người Ý, khoảng năm 1208 lập nên Dòng tu Phanxicô, năm 1228 được phong thánh. Ông có lòng yêu thương đối với loài vật, hay gọi các con thú là “anh em”. Ông đặc biệt yêu mến chim chóc, và khoảng năm 1220 viết nên “Bài giảng đạo cho chim chóc”. Năm 1980, Giáo hoàng John Paul II phong ông là thánh bổn mạng của các nhà sinh thái học.
Bây giờ có vẻ như Thánh Francis ở quá xa và không can hệ gì đến thực tại, Người không hiểu được cái chết này, không hiểu được nỗi đau giá lạnh của cô. Elizabeth không thể gạt ra khỏi đầu óc hình ảnh cái đầu của con nai. Cô tin chắc chồng mình không ở trong dòng sông, không ở nơi nào gần đó, nhưng có lẽ cô đã lầm. Có lẽ đức tin của chồng cô luôn là đức tin đúng, và cô đã nhìn thấy linh hồn của anh, trở về để trêu ghẹo cô đã không nhận đức tin theo anh.
Cô cảm thấy xa lạ, lạnh cóng hơn là cái lạnh, bị tách rời khỏi nhóm đàn ông và thực phẩm và đống lửa. Thậm chí tách rời khỏi tuyết và không khí tĩnh lặng và bầu trời rỗng không đáy. Chỉ có thân hình mềm mại của đứa con trai cô là còn kết nối cô với trần thế này; một thân thể mỏng manh có hơi ấm con người, dễ tan vỡ.
***
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói