How many a man has dated a new era in his life from the reading of a book.

Henry David Thoreau, Walden

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 17
ột chuyện khác thường nào đó xảy ra. Khi trời tiếp tục yên ắng và lặng gió hoàn toàn, và chúng tôi tiếp tục đi về hướng bắc, băng qua vùng rừng cây, tôi nhận ra rằng mình đang hứng thú. Tôi cảm thấy sốc và có lỗi, vì đáng lẽ tôi phải lo lắng về Francis, nhưng tôi không thể chối cãi: khi nào không nghĩ về nó đang nằm đau đớn và lạnh cóng, thì tôi thấy mình hạnh phúc mà trong một thời gian dài tôi không hề được hạnh phúc như thế.
Tôi chưa hề nghĩ mình có thể đi xa trong vùng hoang dã mà không sợ hãi. Dù chưa từng thổ lộ với ai, điều mà tôi luôn sợ về rừng hoang là tính đơn điệu. Cây cối rất ít đa dạng, nhất là trong mùa này, khi màn tuyết làm cho tất cả mang một lớp áo trắng xóa, biến thành những hình thù ảm đạm, và rừng cây thành nhạt nhòa, tranh sáng tranh tối. Trong mấy năm đầu khi mới đến Sông Dove, tôi thường có ác mộng: tôi đang ở giữa khu rừng, nhìn quanh quất tìm lại lối xuất phát tôi đã đi đến đấy, nhưng tôi thấy mọi hướng đều giống y như nhau. Tôi bấn loạn, mất phương hướng. Tôi biết rằng mình đã lạc đường, và sẽ chẳng bao giờ thoát ra được.
Có lẽ tình huống của tôi đã cùng cực nên không thể hoặc không ích gì mà sợ. Tôi cũng không sợ người dẫn đường lầm lì của mình. Vì lẽ ông chưa giết tôi dù có nhiều cơ hội, tôi bắt đầu tin tưởng nơi ông. Có lúc tôi tự hỏi nếu mình từ chối đi với ông, thì chuyện gì sẽ xảy ra - liệu ông có bức bách tôi phải đi không? Rồi tôi hết băn khoăn. Đi bộ trong tám tiếng đồng hồ qua lớp tuyết tinh nguyên là cách thức hay để trấn tĩnh nỗi bứt rứt trong tâm trí.
Khẩu súng trường của Angus được cột chặt vào chiếc xe trượt tuyết và không được nạp đạn, nên nếu bị tấn công bất ngờ thì chúng tôi chẳng được bảo vệ gì cả. Tôi hỏi Parker như thế là khôn ngoan hay không, nhưng ông chỉ cười to. Ông nói trong vùng này không có gấu.
Ông nhìn tôi với vẻ thương hại: “Chó sói không tấn công người. Chúng có thể hiếu kỳ, nhưng chúng không tấn công bà.”
Tôi kể cho ông nghe về các cô con gái tội nghiệp bị chó sói ăn thịt. Ông lắng nghe mà không ngắt lời, rồi nói: “Tôi đã nghe qua những chuyện này. Không có dấu hiệu gì cho thấy các cô gái bị chó sói ăn thịt.”
“Nhưng không có chứng cứ cho thấy họ bị bắt cóc, và người ta không tìm thấy gì cả.”
“Chó sói không ăn hết cả xác chết. Nếu chó sói tấn công, chúng sẽ để lại dấu vết - những mảnh xương - và chừa lại nội tạng.”
Tôi không biết phải nói gì về chuyện này. Tôi không rõ ông đã nhìn thấy hay sao mà biết được mấy chi tiết rùng rợn ấy.
Ông tiếp: “Nhưng tôi chưa từng biết chó sói tấn công mà không bị khiêu khích. Chúng tôi chưa từng bị tấn công, và chó sói thường rình mò chúng tôi.”
“Ông Parker, có phải ông đang thử làm cho tôi sợ phải không?” Tôi nói với nụ cười vu vơ, dù ông đi phía trước và không thấy vẻ mặt của tôi.
“Không có lý do để sợ. Các con chó sẽ phản ứng nếu có chó sói chung quanh, đặc biệt là vào ban đêm. Và chúng ta vẫn còn bình an.”
Ông vừa nói vừa nhìn ngoái lại như là để bất chợt quan sát thời tiết, nhưng tôi hay liếc nhìn phía sau mình để xem có con vật gì đi theo hay không, và tôi càng muốn đi gần chiếc xe trượt tuyết hơn.
Khi ánh nắng nhạt dần, tôi cảm nhận những bóng tối di chuyển đến gần chung quanh mình. Tôi ước gì đã không nêu ra chuyện kia. Tôi ngồi gần đống lửa, cơn mệt mỏi thể chất vẫn không trấn áp trạng thái thần kinh của tôi bị tác động từ mỗi cành lá xào xạc và cơn gió tuyết. Tôi hốt tuyết gần đống lửa và làm món súp với sự lơ đãng. Khi Parker đã khuất bóng để chặt cành cây, tôi dõi mắt nhìn theo, và khi các con chó kích động lên tiếng sủa, tôi gần như nhảy dựng lên.
Sau đó, khi đang nằm co mình như thỏi xúc xích trong căn lều, có cái gì đấy khiến cho tôi tỉnh dậy. Tôi có thể nhận ra khoảng không màu xám bao phủ quanh lều, vì thế hoặc là trời gần sáng hoặc là có ánh trăng.
Thế rồi, tiếng nói của Parker cất lên sát bên tôi khiến cho tôi giật nẩy mình: “Bà Ross, bà đang thức phải không?”
“Vâng.” Cuối cùng tôi thì thầm, quả tim như thể chặn trên cổ họng, tôi tưởng tượng đến mọi chuyện kinh hoàng bên ngoài các tấm vải bạt.
“Nếu muốn, bà quay đầu qua khe hở mà nhìn ra ngoài. Đừng hoảng hốt. Không có gì đáng sợ. Có thể bà muốn biết.”
Vì lẽ sau buổi tối đầu tiên tôi đã ngủ với đầu hướng về khe hở nên tôi dễ dàng quay đầu qua nhìn. Tôi thấy Parker đã tạo một lỗ hổng trên tấm vải ở ngăn bên tôi, nên tôi nhìn ra.
Chưa phải là bình minh, nhưng có ánh sáng lạnh mát, xám nhạt, có lẽ từ vầng trăng mà tôi không nhìn thấy, phản chiếu từ lớp tuyết soi rọi quang cảnh, dù cây cối trông vẫn còn tối và lờ mờ. Trước mặt tôi là đốm đen của đống lửa đã tắt, và xa hơn, hai con chó đang đứng, thân hình trông căng thẳng, hướng về cái gì đó giữa đám cây cối. Một trong hai con chó kêu ư ử; có lẽ tiếng kêu này làm cho tôi tỉnh giấc.
Thoạt đầu tôi không nhìn thấy gì thêm, rồi sau một hoặc hai phút tôi thấy những chuyển động trong bóng tối. Tôi giật mình nhận ra có một hình thù trông giống như chó, màu xám giữa nền tuyết xám nhạt hơn. Con thứ thứ ba đang nhìn hai con chó, đôi mắt và mõm hơi đậm hơn bộ lông. Các con vật đang nhìn nhau chăm chú, không tỏ ra hung hăng, nhưng cũng không muốn quay đầu hướng khác. Một tiếng ư ử lại nổi lên, có lẽ từ con sói. Nó trông nhỏ, nhỏ hơn con Sisco. Có vẻ như nó chỉ có một mình. Tôi thấy nó tiến đến gần vài bước, rồi lại lùi ra xa, giống như một đứa trẻ nhút nhát muốn tham gia một trò chơi nhưng e không được tiếp nhận.
Trong khoảng mười phút tôi quan sát sự truyền thông giữa chó nhà và chó sói, và trong khi đó tôi quên cả sợ hãi. Tôi nhận ra ở kế bên tôi Parker cũng đang quan sát. Dù tôi không quay đầu qua ông, ông ở thật gần đến nỗi tôi nhận ra mùi hương của ông. Chỉ dần dần tôi mới nhận ra; bình thường không khí giá lạnh đến nỗi khứu giác tôi bị tắt hẳn. Nhưng trong khi tôi quan sát các con thú, có cái gì đấy tỏa mùi hương của sự sống - không phải mùi của chó hoặc thậm chí của mồ hôi, nhưng cái gì đấy giống như cây lá, như mùi nồng nồng ẩm ướt trong nhà kính. Tôi cảm thấy buốt như chạm phải gai, và đấy là hoài niệm: hoài niệm về nhà kính ở bệnh viện tâm thần nơi chúng tôi thường trồng cà chua, và về mùi hương giống như bác sĩ Watson khi tôi ép mặt mình vào lớp vải áo hoặc làn da của ông. Trước đây tôi chưa từng biết người đàn ông nào có mùi hương như thế, ngoại trừ mùi thuốc lá và nước hoa của cha tôi, hoặc mùi khó chịu do cơ thể hoạt động và trang phục chưa giặt, như của phần lớn người giúp việc.
Mùi hương duy nhất giống Watson và nhà kính giữa khu rừng giá lạnh này chính là Parker.
Đến đây, tôi không đặng đừng mà quay đầu một chút qua ông và hít vào một hơi, để lấy lại thêm một ít hoài niệm ấy, có phần thu hút chứ không phải khó chịu. Tôi cố hành động một cách lén lút nhưng cảm thấy ông nhận biết được, và tôi ngước mắt lên để xem có đúng không, và thấy ông đang nhìn tôi từ khoảng cách chỉ dăm bảy phân. Tôi giật mình, và rồi mỉm cười, để che giấu nỗi ngượng nghịu. Tôi lại nhìn các con vật, nhưng con sói đã biến mất như một bóng ma màu xám, và bây giờ tôi không biết nó đã đi xa hoặc chỉ vừa mới rời đi vài phút trước.
Tôi nói một cách hiểu biết: “Đấy là chó sói.”
“Bà đã không thấy sợ.”
Tôi lại nhìn để xem ông có ý đùa bỡn hay không, nhưng ông đang thu người về phía phân nửa căn lều của mình.
“Cảm ơn ông,” tôi nói, và rồi bực bội với chính mình. Đấy không phải như ông đã dàn xếp cho con sói đến tìm tôi, thế nên nói ra như thế là việc ngốc nghếch. Tôi lại nhìn hai con chó. Con Sisco vẫn còn nhìn chăm chăm qua khu rừng cây dõi theo kẻ xâm nhập, nhưng con Lucie đang nhìn tôi với hàm mở rộng và lưỡi thè ra, như thể đang cười cợt với tôi.
***
Các toán tìm kiếm không thấy dấu vết của kẻ đào tẩu, còn ông Ross tỏ ra kiên cường nên giúp lắng dịu nỗi lo về việc vợ ông đã biến mất. Mọi người đều đoán bà sẽ gặp Moody và đứa con trai. Mackinley không xuất hiện tham gia vào hai việc này, và giam mình trong phòng hầu như cả ngày. Gần ba ngày sau khi hai người biến mất, Mackinley lui tới nhà ông Knox như là bóng ma muốn trả thù. Ông tỏ ra tức giận với thái độ chua cay của một người vốn đã nắm bắt được con mồi trong tay nhưng lại bị sổng mất.
Gia đình ông Knox không nói ra tên Mackinley như thể xem ông này không hiện diện mà mong cho ông biến đi. Knox đề nghị ông trở lại Pháo đài Edgar để chờ đợi tin tức của Moody. Mackinley từ chối, ông nhất quyết lưu lại trong khi các liên lạc viên được phái đi với mô tả nhân dạng của kẻ đào tẩu. Ông bị ám ảnh về nhiệm vụ của mình, hoặc là về việc ông đang làm; còn Knox thì không biết chắc.
Sau bữa ăn tối hôm nay, Mackinley lại bắt đầu nói về cơ may. Ông trở lại với các chủ đề mình yêu thích, các anh hùng của Công ty, và lại tiêu khiển Knox với câu chuyện mà ai cũng đã biết về một người tên James Stewart đã thúc giục nhân viên của mình đi trên lớp tuyết mùa đông để vận chuyển hàng tiếp liệu cho một thương điếm, hoàn tất chuyến đi gây kinh ngạc trong thời tiết kinh khủng. Mackinley đã say. Ánh mắt ông long lanh vẻ nham hiểm khiến cho Knox chột dạ. Nếu đúng là con người Mackinley thì đấy không phải là do rượu vang của Knox; ông ta hẳn đã uống rượu trong phòng mình.
“Nhưng làm thế nào ông biết được chuyện đó?” Mackinley đang hỏi Knox, nhưng mắt nhìn ra lớp tuyết mềm mại bên ngoài mà xem dường ông thấy có ác cảm. Giọng ông cũng dịu đi; ông cố không to tiếng, cố không ra vẻ nhỏ mọn. Điều kỳ lạ là cho dù Knox nhận ra đấy là thái độ màu mè, ông vẫn thấy ớn lạnh.
“Ông biết họ đã làm gì đối với anh ấy không - một nhân viên giỏi như vậy? Và tất cả chỉ vì thiếu may mắn một chút? Anh ấy là một trong những người giỏi nhất. Một nhân viên Công ty xả thân hết mình. Đáng lẽ bây giờ anh ấy phải được giao quyền quản trị, nhưng họ đã đẩy anh ấy đến một vùng hoang vu giữa chốn không người - không có lông thú gì cả, vùng đất trơ trụi. Tất cả chỉ vì thiếu may mắn một chút. Như vậy là không phải. Không phải chút nào, đúng không?”
“Đúng là không phải.” Cũng là điều không phải khi ông phải gánh lấy Mackinley đến làm khách trong nhà, nhưng ông không than phiền với ai được. Chỉ ước gì Mackinley đã đi tìm anh con trai Ross và để Moody lưu lại đây. Susannah cũng sẽ vui hơn.
“Tôi sẽ không để cho họ gạt mình qua một bên. Họ sẽ không làm như vậy đối với tôi.”
“Tôi tin chắc chuyện đó sẽ không xảy ra. Đó không phải là lỗi của ông.”
“Nhưng làm thế nào họ nghĩ về tôi như vậy? Tôi có trách nhiệm về pháp luật và trật tự ở pháo đài và vùng phụ cận. Có lẽ nếu ông viết một bức thư... nêu ra những sự kiện, đại loại như vậy...” Mackinley mở to mắt nhìn Knox như thể ý tưởng này mới chớm trong đầu mình.
Knox cố nén thở dài vì cảm thấy khó tin. Ông đã tự hỏi liệu Mackinley sẽ yêu cầu như thế hay không, nhưng rồi nghĩ việc này là quá trơ tráo. Ông im lặng một khoảnh khắc để cân nhắc câu trả lời.
Ông nhìn Mackinley, cố giữ nét mặt mình được ôn hòa: “Ông Mackinley ạ, nếu phải viết bức thư như vậy, theo lẽ công bằng thì tôi phải nêu ra mọi sự kiện mà tôi biết, để tránh gây hoang mang.
“À dĩ nhiên rồi...” Mackinley ngưng lại, mắt mở to: “Ý ông nói gì? Adam đã nói gì?”
“Adam không nói gì hết. Chính mắt tôi đã thấy ý tưởng của ông về công lý được thực hiện ra sao.”
Mackinley trân trối nhìn ông với vẻ giận dữ, nhưng không nói gì thêm. Knox cảm thấy thỏa dạ đã làm ông ta câm miệng.
Khi cuối cùng Knox rời khỏi nhà, tuyết và mây mù kết hợp lại để tạo ra một thứ ánh sáng lạ lùng, một quang cảnh nhợt nhạt trong bóng tối nhá nhem khiến không khí như trở lạnh thêm. Dù cho ngày ngắn, đêm dài và mặt trời di chuyển thấp qua đường chân trời, người ta có cảm giác được bù đắp - có lẽ đấy là dấu hiệu báo trước màn trình diễn của cực quang - giúp cho bước đi ông được nhẹ nhàng hơn. Điều lạ lùng là ông cảm thấy thảnh thơi trong khi đang chuốc lấy nỗi nhục nhã.
Thomas Sturrock mở cánh cửa và một luồng không khí ẩm mốc tràn vào hành lang. Rõ ràng ông là người tin rằng không khí trong lành phải ở bên ngoài.
“Tôi tin tối nay chúng ta sẽ bị chộn rộn. Đã có xung đột nội bộ, và những người chủ nhà của tôi can dự theo cách khác.”
Knox không biết trả lời ra sao. Nhưng ông không muốn giáp mặt với John Scott khi ông này đang uống rượu. Có lẽ trút nỗi bực bội lên bà vợ rồi ra ngoài tạo bộ mặt của một công dân tốt thì tốt hơn. Ông lấy làm xấu hổ vì ý nghĩ này, nên gạt bỏ nó trong đầu.
“Tôi nhận được tin nhắn của anh, và nóng lòng muốn biết anh nói gì.” Ông tự nhắc nhở mình phải cảnh giác, ngay cả đối với Sturrock.
“Tôi đang nghĩ tới Jammet, khi chúng ta đang tìm kiếm dọc bờ hồ.” Sturrock rót hai ly whisky và khẽ lắc làm cho thứ chất lỏng màu hổ phách sóng sánh. “Và tôi đang nghĩ tới một người quen trước kia, khi tôi làm nghề dò tìm. Tên anh ấy là Kahon’wes.”
Knox im lặng chờ nghe tiếp.
“Tôi không chắc có nên nêu chuyện này ra hay không... Tôi tự hỏi, lại sao một thương nhân như Jammet lại bị giết - với mục đích gì? Tuy tôi không chắc, dĩ nhiên là như vậy rồi, nhưng tôi nghĩ đó có thể là do tấm thẻ bằng xương.”
“Tấm thẻ bằng xương mà trước đây ông nói tới phải không?”
“Phải. Tôi đã nói với ông tôi cần nó cho việc nghiên cứu mà tôi đang theo đuổi vào lúc đó, và có lẽ ông nghĩ tôi cố chiếm nó cho bằng được, những người khác cũng muốn bằng mọi cách. Tuy nhiên... à, mặc xác, thậm chí tôi còn không biết nó đúng là thứ tôi nghĩ trong đầu hay không.” Khuôn mặt ông trong ánh sáng đèn trông khô khan và già cỗi.
“Ông nghĩ nó là cái gì?”
Sturrock nốc một hớp rượu rồi nhăn mặt như thể đó là dược phẩm.
“Điều này nghe ra ngớ ngẩn, nhưng... này, tôi tin nó có thể là chứng cứ của một thứ chữ viết thời xa xưa của người Da Đỏ.”
Knox muốn bật cười. Đúng là nghe ra ngớ ngẩn - một chuyện phiêu lưu của trẻ con. Ông chưa từng nghe chuyện gì nực cười như thế.
“Điều gì làm cho ông tin như vậy?” Ông không hề nghĩ Sturrock là người người ngu dốt, dù cho ông này có khuyết điểm. Có lẽ Sturrock đã sai lầm và đó là thiếu sót của ông ta; đó cũng là lý do tại sao ở tuổi lục tuần ông vẫn mặc chiếc áo choàng kiểu cổ xưa với khuy măng sét sờn.
“Tôi có thể thấy điều ông nghĩ là ngớ ngẩn. Tôi có lý do. Tôi đã nghiên cứu vấn đề này hơn một năm.”
Knox không thể dừng: “Nhưng ai cũng biết không có chuyện đó! Không có một tí bằng chứng gì cả. Nếu đã từng có thứ chữ viết như vậy, thì phải có vết tích... phải có tài liệu hoặc ghi chép, hoặc chứng cứ truyền khẩu... nhưng mà không có gì cả.”
Sturrock nhìn ông một cách nghiêm túc.
Giọng nói của Knox mang ý hòa giải: “Tôi xin lỗi nếu mình có ý bác bỏ, nhưng chuyện này là... quái dị.”
“Có lẽ vậy. Nhưng một số người vẫn tin là chuyện đó có thể đúng. Ông có nhìn nhận như vậy không?”
“Có. Có, dĩ nhiên là họ có thể tin.”
“Và nếu tôi đi tìm kiếm nó, những người khác cũng đi tìm.”
“Điều này có lẽ cũng đúng.”
“Vậy thì, điều mà tôi thường nghĩ là như thế này: người mà tôi nói tới, Kahon’wes, là một nhà báo, một nhà văn. Người Da Đỏ, nhưng là người có thiên bẩm. Có học thức, thông minh, có tài viết ra một câu văn nghe hay ho, đại loại như thế. Tôi vẫn nghĩ anh ấy có thể lai dòng máu da trắng, nhưng tôi chưa từng hỏi. Anh ấy có niềm hãnh diện một cách cuồng tín; bị ám ảnh bởi ý niệm cho rằng người Da Đỏ, vốn có một nền văn hóa vĩ đại của riêng họ, thì theo mọi mặt là ngang hàng với người da trắng. Anh ấy có niềm tin sôi sục giống như một số tín đồ tôn giáo. Anh ấy nghĩ tôi là người thông cảm với quan điểm của anh; mà đúng thế, đến một mức nào đó... Tinh thần anh ấy không được vững vàng, anh chàng tội nghiệp - sa vào tật uống rượu khi làm chuyện gì đó không gây tiếng vang như mong muốn.”
“Ông muốn ám chỉ điều gì?”
“Ý tôi nói là anh ấy, hoặc người nào đó giống anh ấy, vốn nồng nhiệt tin vào sắc tộc và văn hóa Da Đỏ, sẽ làm bất cứ việc gì để nắm được một chứng cứ như vậy.”
“Người này quen biết Jammet không?”
Sturrock lộ vẻ hơi ngạc nhiên: “Tôi thực sự không biết. Nhưng nhiều người nghe chuyện - ông không nhất thiết cần phải biết ai đó muốn cái họ đã có. Chỉ tới lúc tôi nghe Jammet nói về tấm thẻ trong một quán cà phê ở Toronto thì tôi mới quen biết anh ấy. Jammet không phải là người kín tiếng.”
Knox nhún vai. Ông tự hỏi liệu có phải Sturrock thực sự kéo ông ra khỏi nhà mình chỉ để kể câu chuyện lạ lùng này hay không. “Bây giờ cái anh Kahon’wes đó sống ở đâu?”
“Việc này thì tôi không biết. Lần cuối cùng tôi gặp anh ấy là nhiều năm về trước. Tôi biết anh ấy đang đi đây đi đó trên bán đảo, viết các bài báo. Như tôi đã nói, anh ấy sa vào tật nghiện rượu rồi biệt tăm biệt tích. Tôi chỉ nghe nói anh ấy đi qua bên kia biên giới.”
“Ông kể cho tôi nghe chuyện này vì ông nghĩ anh ấy là nghi phạm phải không? Không đủ cơ sở vững chắc, ông có nghĩ vậy không?”
Sturrock nhìn vào ly rượu đã cạn. Bụi đã rơi vào ly, khiến cho một ít rượu còn sót lại trở nên sánh đặc.
“Có một lần, Kahon’wes nói với tôi về một thứ chữ viết cổ xưa. Ý tôi nói là điều khả dĩ có thứ chữ viết này. Trước đó, tôi chưa từng nghe nói tới.” Sturrock cười hiu hắt, vành môi mím lại: “Dĩ nhiên là tôi nghĩ anh ấy điên khùng.” Ông nhún vai trong dáng điệu khiến cho Knox nhận rằng ông xem dường bi ai một cách lạ kỳ.
“Rồi tôi đối mặt với tấm thẻ. Tôi còn nhớ anh ấy nói gì. Điều tôi đã kể cho ông có thể bất lợi cho tôi, nhưng tôi nghĩ ông cần biết tất cả sự kiện. Có lẽ nó không quan trọng, tôi chỉ kể cho ông những gì tôi biết. Tôi không muốn hung thủ không bị trừng phạt chỉ vì tôi không nói ra.”
Knox nhìn xuống, cảm thấy lại có thêm một chuyện phi lý: “Tiếc là ông không tiết lộ thông tin này sớm hơn, trước khi tù nhân trốn thoát. Có lẽ ông đã có thể nhận dạng được hắn.”
“Thực vậy sao? Ông nghĩ... À, à.”
Nhìn vẻ mặt của Sturrock, Knox không hề tin ông này vừa mới nhận ra sự việc. Knox bắt đầu nghi ngờ toàn bộ câu chuyện. Có lẽ Sturrock có một động lực nào khác để kéo sự chú ý đến người có hai dòng máu, hầu đánh lạc hướng chú ý về mình. Thực tế là, càng suy nghĩ ông càng thấy câu chuyện trở nên khó tin. Knox thắc mắc liệu thực sự có tấm thẻ hay không; chỉ có Sturrock đề cập đến nó chứ không ai khác.
“À, Ông Sturrock ạ, cảm ơn ông đã cho tôi biết. Chuyện này có thể… hữu ích. Tôi sẽ thảo luận với Ông Mackinley.”
Sturrock dang hai tay: “Tôi chỉ muốn giúp mang kẻ giết người ra trước công lý.”
“Dĩ nhiên rồi.”
“Còn có một chuyện khác.”
Knox nghĩ: À, bây giờ chúng ta đi đến chủ đề chính yếu.
“Tôi đang tự hỏi có thể nào ông bao cho tôi thêm một ít đồng tiền nhơ bẩn không?”
Trên quãng đường ngắn, lạnh lẽo bước về nhà, Knox chợt nhớ ra, thật rõ ràng đến mức gớm ghiếc và nhức buốt, câu ông đã nói với Mackinley lúc trước: “Chính mắt tôi đã thấy ý tưởng của ông về công lý được thực hiện ra sao.”
Ông đã bảo Mackinley (hoặc ít nhất đã cho phép Mackinley tạo ấn tượng) rằng ông đã không trở lại để gặp tù nhân sau khi Mackinley đã tra vấn. Ông chỉ có thể hy vọng rằng Mackinley đã quá say hoặc quá chộn rộn nên không để ý.
Trong những tình huống này thì đấy là hy vọng khổ sở.
***
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói