They say love is blind…and marriage is an institution. Well, I’m not ready for an institution for the blind just yet.

Mae West

 
 
 
 
 
Tác giả: Angie Sage
Thể loại: Kinh Dị
Nguyên tác: Plyte
Dịch giả: Hương Lan
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Azazel123
Số chương: 50
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2462 / 24
Cập nhật: 2017-06-01 10:10:36 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 49 - Khinh Công
à Marcia bước qua hào nước Cung Điện, tiếng bước chân bà nện vang trên những tấm ván còn nóng ấm của cây cầu gỗ cũ. Bên cạnh bà là Milo Banda, người mang trọng trách xoa dịu bà Marcia suốt quãng đi bộ chóng vánh từ xưởng đống thuyền đến Cung Điện, sau cuộc chạm trán với dì Zelda.
Tại cửa Cung Điện, đứng bên cạnh chiếc ghế vàng nhỏ mà trên đó có con ma Godric ngồi ngủ gật, là một phó pháp sư, một phụ nữ trẻ duyên dáng có đôi mắt xanh lá cây long lanh.
"Chào buổi tối. Chào mừng đến với Cung Điện," cô phó pháp sư tươi cười.
"Chào buổi tối, Hildegarde," bà Marcia đáp lời.
Milo Banda lùi lại, đứng thập thò ở ngưỡng cửa. Bà Marcia để ý ông hơi run run và mắt ngân ngấn nước.
"Ồ," bà nói nhẹ nhàng. "Xin lỗi, Milo. Tôi không nghĩ ra. Ông có muốn chúng tôi để ông một mình một lúc không?"
Milo Banda gật đầu. Ông thơ thẩn đi xuống Lối Dài, nhìn vào những bức tường trống không và lắc đầu buồn bã.
Bất ngờ bà Marcia cảm thấy kiệt sức - quả là một ngày dài. Vụ Nhận Dạng đã để lại trong cái cảm giác trống rỗng một cách kỳ lạ, và hơn hết thảy, bàn chân bà đau thốn vì bị Khạc Lửa cạp hồi sáng. Thở phào một hơi nhẹ nhõm, bà ngồi phịch xuống chiếc ghế của Godric và tháo một chiếc giày ra. Con ma hoảng hồn nhảy khỏi ghế và rơi xuống sàn nhà thành một đống lùng nhùng.
"Ngài Alther," bà Marcia bực bội, "tôi tưởng ngài tống khứ tất cả lũ Cổ Nhân đi rồi chứ. Chúng ta không cần họ nữa. Chúng ta có đám phó pháp sư làm nhiệm vụ giữ cửa rồi."
"Godric rất bực mình khi ta yêu cầu ngài ấy đi, cho nên ta đã bảo ngài ấy ở lại. Dù sao thì," ngài Alther tặc lưỡi, "cô cũng nên có chút kính trọng đối với những Cổ Nhân. Cô rồi cũng sẽ là một Cổ Nhân, vào một ngày nào đó." Ngài Alther phủi bụi cho Godric và dìu ông ấy tới một chiếc ghế bành thỏai mái trong một góc tối u, yên lặng của đại sảnh. Con ma già chìm vào giấc ngủ sâu ngay tức khắc và không thức dậy cho đến nhiều năm sau đó, khi con gái của chính Jenna va phải ông bằng cái xe tập đi của nó.
Thật không may là khi trở về đến Cung Điện, Jenna đã không nhìn thấy ngài Alther và bà Marcia ngồi yên lặng tong một vùng tối mà những hàng nến lung linh đặt khắp đại sảnh không hắt tới được. Người đầu tên cô bé thấy, khi ông ta ló ra khỏi cảnh âm u của Lối Dài, là người lạ mặt của bến cảng. Chợt trông thấy Jenna, ông ta há hốc miệng và dừng sững lại ngay. Jenna thét lên thất thanh.
Bà Marcia đứng phắt dậy. « Jenna… chuyện gì vậy? » Bà hỏi liếc nhìn quanh lo lắng.
Jenna không trả lời. Cô bé chạy bán sống bán chết ra khỏi Cung Điện và xông đến náu chỗ Septimus, Nic**, dì Zelda và Thằng Sói đang chậm chạp băng qua những bãi cỏ Cung Điện, và con Khạc Lửa cứ nằng nặc đòi rượt theo một con thằn lằn cỏ.
« Ông ấy ở đây! » Jenna thét om khi đến bên dì Zelda. « Cái ông ấy đấy – ông ấy ở đây! »
« Ông nào? » Dì Zelda hỏi, vừa sửng sốt vừa thích thú trước cảnh bà Marcia tất tả chạy qua bãi cỏ về phía họ, chỉ mang có mỗi một chiếc giày.
« Jenna, » bà Marcia nói không kịp thở khi cuối cùng bắt kịp cô bé. « Jenna, có chuyện gì à? »
« Chuyện gì à? Chuyện cái ông ấy ấy – cái ông ở bến cảng. Cái ông đã túm lấy Thần Sấm, cái ông đã theo sau con, cái ông đồng lõa với Simon – thế mà bà bảo ông ấy đến Cung Điện của con. Đó! »
« Nhưng Jenna, » bà Marcia phản đối, « nười đàn ông đó có toàn quyền ở trong Cung Điện. Ông ây là Milo Banda. Ông là… »
« Con không quan tâm ông ấy là ai! » Jenna hét lớn.
« Nhưng Jenna, Jenna nghe ta này.. ông ấy là cha con. »
Mọi người điếng hồn nhìn bà Marcia sửng sốt.
« Không, không, » Jenna nói lắp bắp. « Ba đang ở dưới xưởng đóng thyền.. với mẹ. »
« Ừ, Silas đang ở dưới xưởng đóng thuyền, » bà Marcia nhẹ nhàng. « và Milo ở đây. Milo chính là cha ruột của con, Jenna. Ông ấy đến thăm con. »
Jenna im lặng một lúc lâu. Rồi bất ngờ cô nói, « Thế tại sao trước đây ông ấy không đén thăm con – khi con còn nhỏ? » Và cô bé chạy vùng ra khỏi bãi cỏ, đâm thẳng vào con đường dẫn tới mặt sau Cung Điện.
« Ôi trời, » bà Marcia kêu lên.
Silas Heap không đón nhận sự trở về của Milo Banda một cách tử tế cho lắm, đặc biệt là khi Sarah cứ nhất mực đòi tổ chức một bữa tiệc ăn mừng trên mái Cng Điện để chào mừng ông đã về nhà.
« Anh không hiểu làm thế nào mà em có thể ăn mừng khi thằng con cả của chúng ta đang bị kẹt cứng trong Đường Hầm Băng dễ sợ đó, » Silas phản đối.
Sarah đang bận rộn bày biện cái bàn khi Silas đổ người đánh rầm xuống một chiếc ghế vàng của Cung Điện và nhìn đăm đăm một cách thiểu não lên bầu trời mùa hè đang tối dần.
« Em thậm chí còn không muốn nghĩ về Simon nữa, » Sarah nói nhanh. « Đội Tìm Kiếm sẽ sớm tìm ra nó, và sau đó ít ra nó sẽ được về nơi nào đó an toàn và ấm áp. »
« An tòan và ấm áp trong Lâu Đài không phải là điều anh muốn cho nó, Sarah à, » Silas làu bàu.
Sarah lắc đầu. « Silas, nếu anh còn nhớ thì đến hôm qua chúng ta vẫn còn không biết đứa nào đang ở chỗ nào kìa. Hôm nay thì chúng ta đã có ba đứa trở về - bốn chứ, nếu tính cả Simon – và chúng ta nên xem mình là những kẻ may mắc. Từ nay em sẽ nhìn nhận sự việc theo cách đó. » Bà vuốt thẳng tấm khăn trải bàn và bảo nguwofi phục vụ bữa tối đi xem đầu bếp đang nấu nướng thế nào rồi. « Dù sao thì, Silas à, chúng ta cũng phải chào đón Milo Banda. Xét cho cùng thì ông ấy cũng là cha của Jenna. »
« Hứ, » Silấ cục cằn.
«Sarah cẩn thận đặt những giá cắm nến ưa thích của mình vào giữa cái bàn dài. « Chúng ta vẫn biết một ngày nào đó điều này sẽ xảy ra mà. Thật chẳng hay ho gì khi lạ lẫm với chuyện này. »
« Anh không lạ lẫm, » Silas phản đối. « Anh chỉ nghĩ là thật kỳ quái khi ông ta xuất hiện sau ngần ấy năm. Ys anh là, ông ta đã ở đâu suốt thời gian đó? Với anh thì có vẻ rất đáng ngờ. Hứ! »
« Đừng có « hứ » hòai, Silas. Làm thế trông anh quái gở lắm. »
« Ờ, có lẽ tôi quái gở thật. Và tôi sẽ cứ nói « hứ » nếu tôi muốn, Sarah. Hứ. »
« Bữa tối kéo dài đến tận đêm khuya. Sarah đã xếp cho Milo Banda ngồi ở đầu cái bàn trải khăn trắng đơn giản. Nó nhắc Jenna nhớ buổi sáng ngày sinh nhật thứ mười của mình, mà bây giờ cảm tưởng như đã là một cuộc đời khác. Jenna cố ngồi càng xa khỏi Milo Banda cang tốt - ở tuốt đầu bàn bên kia – nhưng hóa ra đến lúc ngồi xuống rồi cô bé mới nhận ra mình đang ngồi đối diện với Milo, và cứ hễ nhìn lên là cô bé lại thấy ông đang rángmỉm cười với mình hoặc đang cố bẳt ánh mắt mình. Mất gần trọn bữa ăn Jenna cứ phải nhìn chăm chăm vào đĩa đồ ăn của mình hay chuyện trò dấm dẳng với dì Zelda đang ngồi kế bên cô.
Khi những cây đuốc lụi dần và nửa đêm đến gần, không khí mùa hè thành mát dịu và mọi người bắt đầu ngáp. Dì Zelda chồm qua Jenna và nói thầm, « Ba con là một người đàn ông tốt, Jenna. Con nên nghe những gì ông ấy buộc phải nói. »
« Con không quan tâm ông ấy phải nói gì, » Jenna trả lời.
« Một Nữ Hoàng Trẻ khôn ngoan thì lắng nghe trước đã. Sau đó hẵng phán xét. »
« Bữa tối kết thúc. Bà Marcia, Septimus và Khạc Lửa đã trở lại tháp Pháp sư. Nic** đi về cùng Silas, ông muốn chỉ cho cậu thấy một đội hình đất thủ cờ Cản Bất mà ông vừa mới tìm thấy đằng sau một ống nước trong gác mái của Cung Điện; Sarah đang chăm sóc Thằng Sói, nó đã ngủ thiếp đi vào lúc bắt đầu bữa tối, và dì Zelda đang ở khu nhà bếp, cố gắngbảo đầu bếp trực khuya luộc một cây bắp cải cho bữa điểm tâm sáng hôm sau. Ngài Alther Mella ngồi yên lặng trong bóng tối, nghiền ngẫm những sự việc đã xảy ra trong ngày.
Và Jenna đang lắng nghe Milo Banda.
“Con biết không,” Milo nói, “mẹ con và ba đều vui mừng khôn xiết khi biết mình sắp có con. Cả ba lẫn mẹ đều hi vọng có một bé gái để sau này cô bé sẽ trở thành Nữ Hoàng. Dĩ nhiên, ba không bao giờ là vua cả - điều đó không có trong luật ở đây, không giống như mấy vương quốc Xa Xôi đâu. Ở đó, con có tin không, người ta trao quyền kế vị cho những đứa con trai. Nhưng ba rất vui là mình không phải làm Vua, bởi vì dù sao ba cũng chỉ là một thương gia bình thường nhưng ba yêu thích công việc của mình. Ba yêu cái sự phấn khích của việc đi đó đi đây và viễn cảnh một ngày nào đó ba sẽ kiếm được cả một gia tài cho riêng mình. Thế rồi, sáu tháng trước ngày con sinh ra, ba đã nắm bắt được một cơ hội đúng như thế. Với lời chúc phúc lành của mẹ con, ba thuê một con tàu ở bến cảng và bắt đầu lên đường. Vận may đến với ba và chả bao lâu sau ba đã có cả một con tàu chất đầy của cải để mang về cho con và mẹ con. Tất cả mọi thứ đều tốt đẹp, ba có một thủy thủ đoàn giỏi giang và những cơn gió bình yên suốt chặng đường về nhà, và ba đã về đến bến cảng ngay đúng ngày con hẳn là sẽ chào đời. Mọi thứ, bà nghĩ, đều hòan hảo. Nhưng rồi thì… khi ba cập cảng…” giọng của Milo nghẹn lại. “Ba… ba nhớ cứ như mới hôm qua thôi… một thủy thủ trên tàu báo tin cho ba, cái tin khủng khiếp đã lan truyền khắp bến cảng… rằng Cerys thân yêu của ba – mẹ của con – đã bị giết. Và con gái bé bỏng của ba cũng vậy.”
“Nhưng con không bị giết,” Jenna làu bàu.
“Ừm. Giờ ba mới biết điều đó. Nhưng khi đó… ba đã không biết. Ba tin những gì mọi người nói.”
“È, họ sai. Thế tại sao ông không đến Lâu Đài và xem có thật vậy không? Tại sao ông không đến tìm tôi? Ông đã chạy trốn.”
“Ừ, Ba cho rằng dường như là thế. Nhưng lúc đó ba không thể chịu nổi để mà ở lại. Bar a đi ngay trong dòng thủy triều kế tiếp và đi lang thang bất cứ nơi đâu cơn gió đưa ba đi – cho đến khi ba bị Deakin Lee bắt giữ.”
“Deakin Lee!” Jenna há hốc miệng. Ngay cả cô, kẻ chẳng ham mê gì về bọn cướp biển, mà còn nghe về tay Deakin Lee khét tiếng đó.
Milo đánh bạo mỉm cười ảo não với Jenna. Cô bé đáp lại ông một nụ cười nửa miệng rụt rẻ.
Ba sẽ không bao giờ quên bảy năm dài đăng đẳng trong ách kìm kẹp của Deakin Lee,” ông xuống giọng. “Từng giờ từng phút bà luôn nghĩ đến điều kinh hoàng đã xảy ra với con và mẹ thân yêu của con…”
“Làm thế nào ba trốn thóat?” Jenna hỏi.
“Một đêm nọ, vào mùa xuân năm ngoái, con tàu gặp phải những cơn sóng dữ. Ba đã nghe nói rằng chúng là song nhồi từ một trận bão Hắc Thuật cách xa hang ngàn dặm, nhưng chúng la những con song tốt lành đối với ba. Deakin Lee bị song đánh rơi xuống biển và thủy thủ đòan của hắn thả bar a. Ba nắm quyền chỉ huy con tàu. Vài tuần sau cập tàu vào một cảng nhỏ và ba đã nghe tin đồn rằng con còn sống. Ba gần như không tin điều đó – ba cảm thấy như cuộc đời mình hồi sinh lại một lần nữa. Ba dong buồm lên đường ngay lập tức và gió yên bình suốt chặng đường đưa ba đến bến cảng. Bọn ba đã căng cờ thông báo cho Hải quan, và Chỉ huy Hải quan xuống tàu ba ngay sang hôm sau. Bà ta nhìn một lượt châu báu trên tàu và bảo chúng ta phải đợi cho đến khi kho hang chính được giải phóng đã – bà ta là một người hung bạo, cái bà quan Nettles đó. Nhưng ba biết ơn bà ta, vì nếu bà ta không làm thế thì ba đã không gặp con vào buổi tối hôm đó.”
Jenna nhớ cảnh ở kho hang. Đến giờ thì mọi thứ đều rõ rang.
Milo kể tiếp, “Khi ba nhìn lên và thấy con đang ngồi trên lưng ngựa, đúng y cung cách mà mẹ con vẫn thế, và rồi ba thấy chiếc vòng nhỏ đội trên đầu con, thì ba biết chắc chắn con là con gái của ba. Nhưng ba xin lỗi, Jenna, ba nghĩ tối hôm đó ba đã làm con hoảng sợ. Ba đã không nghĩ ngợi gì – ba chỉ muốn nói chuyện với com. Jenna… Jenna?”
Jenna đã quay đi và nhìn chăm chăm vào bóng tối, chỗ những ngọn đuốc đang tan chảy trên mái Cung Điện không hắt ánh sáng tới.
“Jenna?” Milo lặp lại.
“Con cảm thấy ai đó đang nhìn mình,” cô nói.
Milo ngọ nguậy vẻ không thỏai mái. “Ba cũng cảm thấy vậy,” ông nói. Milo Banda và con gái nhìn trừng trừng vào những khoảnh tối nhưng cả hai đều không thấy được hồn ma của Nữ Hoàng đang nhìn chồng và con gái mình nói chuyện với nhau lần đầu tiên trong đời.
Ngài Alther bay thấp thoáng đến bên Nữ Hoàng. “Thật tốt khi thấy Người rốt cuộc cũng đánh liều ra khỏi phòng Nữ Hoàng,” ngài nói.
Nữ Hoàng cười buồn bã. “Ta phải trở lại ngay lập tức, ngài Alther; nhưung ta không thể cưỡng lại việc phải nhìn Milo yêu dấu của ta chỉ một lần nữa – và cả con gái nữa.”
“Người có thể an tâm rằng họ đã là cha và con rồi,” ngài Alther nhận xét.
“Ừ, đúng vậy.” Nữ Hoàng gật đầu chầm chậm. “Cái cách họ đứng với nhau, phải vậy không?”
“Trông cô ấy rất giống Người – giống một cách đáng kinh ngạc.”
“Ta biết,” Nữ Hoàng thở dài. “Chúc ngủ ngon, ngài Alther.”
“Ngài Alther nhìn Nữ Hoàng lẳng lặng trôi đi, ngang qua Jenna và Milo Banda, cả hai người đều đang nhìn thẳng vào Nữ Hoàng nhưng không thấy gì. Không lâu sao Nữ Hoàng đã tới tháp canh và khéo léo bước qua bức tường đá dày. Bên trong phòng Nữ Hoàng, ngọn lửa trong lò bừng sáng như vẫn luôn luôn thế và Nữ Hoàng ngồi im lặng trong ghế của Người, nhớ lại những sự việc trong ngày hôm nay – cái ngày mà Người đã đợi chờ rất nhiều năm rồi.
Septimus, bà Marcia và Khạc Lửa thủng thỉnh đi bộ dọc theo đường Pháp Sư. Những ngọn đuốc chiếu sáng rực trong cột trụ bằng bạc, và Khạc Lửa cứ nhảy nhót vào những mảng tối lập lòe hắt xuống vỉa hè. Giờ đã là sau nửa đêm và tất cả những cửa hiệu đều đóng cửa tối om, nhưng khi họ đi ngang qua Văn phòng Sao lục, Septimus nghĩ mình thoáng thấy ánh sáng đằng sau những chồng sách và giấy khổng lồ. Nhưng khi nhìn kỳ hơn thì nó lại không thấy gì.
Bà Marcia đi khập khiễng một cách đau đớn lên những bậc thang bằng đá hoa cương đến tháp Pháp Sư. Septimus đặt Khạc Lửa vào cái cũi rồng cho nó ngủ đêm.
« Phải đảm bảo để nó không ra ngoài được, Septimus, » bà Marcia dặn Septimus khi cánh cửa đôi bằng bạc của tòa tháp mở ra cho Pháp sư Tối thượng. « Và đừng quên cài then đôi cho cánh cửa. »
« Dạ, » Septimus đáp, và bà Marcia liêu xiêu đi vào trong với vẻ biết ơn.
Khạc Lửa nằm xuống ngoan ngoãn đến ngạc nhiên. Septimus đẩy hai cái then sắt khổng lồ xuyên qua cánh cửa và nhón gót đi khỏi tiếng ngáy của con rồng làm rung cả cái cũi.
Đó là một buổi tối đẹp trời. Sân trong của tháp Pháp Sư vắng vẻ; những ngọn đuốc Pháp Thuật được đặt dọc trên đỉnh những bức tường bao quanh sân thả ánh sáng màu đỏ tía dịu xuống mảnh sân lát đá phiến cũ, lờ mờ đủ cho Septimus vẫn nhìn thấy hàng vạn ngôi sao trên bầu trời đêm.
Septimus kề rề đi vào trong. Nó nhìn lên những vì sao và tất cả những giấc mơ bay xưa cũ ùa về trong nó. Nó biết mình không thể kháng lại nữa rồi – nó lấy bùa Khinh Công, mũi tên vàng với những cái đuôi bạc mới ra, ngồi đó vân vê trong tay, và Septimus cảm thấy một luồng Pháp Thuật chạy xuyên qua mình. Khi chùm đuôi bắt đầu vẩy vẩy, Septimus cảmt aháy mình nâng lên khỏi mặt đất, lên, lên, cho đến khi nó cao bằng với mái vòm lớn. Giữ mũi tên giữa ngón trỏ và ngón cái, nó chỉ mũi tên về phía Cung Điện, sau đó giang rộng cánh tay ra như nó đã có lần nhìn thấy ngài Alther làm – và nó bay.
Nó sà xuống đường Pháp Sư, thấp và nhanh đúng như ngài Alther vẫn thích làm, tăng tốc bay vù qua cổng Cung Điện, và rồi vút lên mái Cung Điện, y như nó vẫn luôn làm trong giấc mơ của mình. Bên dưới nó thấy Jenna và cha ruột của cô bé đang dựa người vào bức tường có lỗ châu mai, rù rì nói chuyện. Phân vân không biết có nên cắt ngang họ hay không, nhưng nó nóng lòng muốn làm Jenna ngạc nhiên và muốn biểu diễn cho cô thấy nó có thể Khinh ông tuyệt đến thế nào. Septimus lượn lờ một lúc, đợi may ra chộp được một khoảng nghỉ trong câu chuyện dông dài của Milo. Chợt có gì đó đập vào mắt nó.
Ở phía bên kia song, một con ngựa phi nước đại qua vùng nông trại. Cưỡi trên lưng con ngựa – vừa mới trộm được từ quán trọ Cá Bơn Sảng Khóai – là bóng dáng quen thuộc. Simon.
Septimus chỉ bùa Khinh Công về phía hình dáng lờ mờ của anh cả mình. “Bám theo,” nó thì thầm với bùa. Trong chớp mắt, nó thấy mình bứt xa khỏi Cung Điện và lao vèo vèo qua những bãi cỏ dẫn tới dòng song. Không lâu sau mùi ẩm ướt của dòng song đã tràn ngập lỗ mũi khi nó bay là đà qua mặt nước ban đêm lạnh giá, làm kinh sợ mấy con vịt đang bơi. Khi tiếng quác quác giận điên của lũ vịt chìm xuống, Septimus đã qua được đến bờ bên kia; nó bay phía trên mái lợp tranh của một căn nhà nông trại đơn độc và chao liệng một lúc, tìm kiếm anh mình. Qủa không sai, ở đằng xa, dọc theo con đường đất quanh co uốn lượn quanh vùng nông trại, Septimus thấy một kỵ sĩ thúc ngựa bươn vào màn đêm Một cú chuỷen tóc dọ chung cuộc thật ngoạn mục đưa Septimus ngang bằng với Simon, và Septimus bay – thọat đầu không bị nhing thấy – sát bên cạnh gà, dễ dàng giữ cho ngang tốc độ với con ngựa mồ hôi nhễ nhại.
Cuối cùng Simon bỗng nhận ra mọi việc không được suôn sẻ, “Mày!” Gã thét lên, dừng kịt lại trong đám mây bụi.
Septimus đáp xuống nhẹ nhàng đằng trước con ngựa.
“Mày… mày… mày lấy bùa Khinh Công của tao,” Simon líu lưỡi, nhìn thấy mũi tên vàng trong bàn tay Septimus.
“Tôi có bùa Khinh Công thật,” Septimus đồng ý, bay gọn ghẽ khỏi tầm với khi Simon lảo đảo chồm tới trước để giằng lấy bùa. “Nhưng bùa Khinh Công không phải là của tôi. Bùa Khinh Công không thuộc về ai cả, Simon. Anh nên biết rằng một lá bùa cổ xưa luôn là chủ nhân của chính nó.”
“Đồ ngu vênh váo,” Simon rít trong hơi thở.
“Anh nói gì?” Septimus hỏi, dù đã nghe rõ mồn một.
“Không gì cả. Biến khỏi đường tao đi thằng ranh, và đừng nghĩ lần này mày có thể thực hiện cái trò Chết Đứng rác rưởi đó.”
“Tôi sẽ không đi,” Septimus đáp, lượn lờ đằng trước con ngựa. “Tôi đến để bảo anh rằng anh phải đi khỏi nơi này.”
“Thế chính xác mày định sẽ làm gì,” Simon gầm lên.
Septimus giữ nguyên vị trí, chặn đường đi của Simon. “Tôi cũng đến để bảo anh rằng nếu anh còn muốn làm hại Jenna lần nữa, thì anh sẽ phải đối đầu với tôi. Hiểu chứ?”
Simon nhìn trừng trừng vào thằng em út. Septimus cũng nhìn trả lại trừng trừng, đôi mắt xanh lá cây rực của nó lóe sáng giận dữ. Simon không nói gì, bởi vì có một sức mạnh tóat lên ở Septimus mà hắn đã nhận ra – sức mạnh của người con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy.
“Hiểu không?” Septimus lặp lại.
“Hừm,” Simon ậm ừ.
“Giờ anh có thể đi,” Septimus nói lạnh lùng và đáp xuống đất, đứng dạt qua một bên để Simon có thể đi qua.
Simon nhìn xuống thằng nhóc áo xanh lá cây vô phương tự vệ giữa vùng nông trại hoang vắng, tối mịt mùng vào lúc quá nửa đêm. Chỉ cần một thoáng chớp thôi, làm cho thằng Septimus biến mất thật dễ biết chừng nào – không ai biết chuyện gì đã xảy ra. Không ai mảy may nghi ngờ… nhưng Simon không làm gì. Và rồi bất thình lình gã đá thúc con ngựa đi và phi nước đại vụt biến mất, ngoái đầu lại la lớn, “Tao ước phải chi mày đã chết khi bà mụ nhặt được mày!”
Septimus bay chầm chậm trở lại tháp Pháp Sư với những lời của Simon văng vẳng trong đầu.
Nó mỉm cười. Người cuối cùng trong số các anh trai nó đã chấp nhận nó.
Chuyện gì đã xảy ra trước đó...
Billy Pot
Billy Pot từng là chủ một cửa hàng chuyên bán bò sát nuôi trong nhà. Billy mê đám thằn lằn và rắn, anh ta đặc biệt chuyên về gây giống loài trăn màu đỏ tía. Con trăn lớn nhất mà Billy đã từng gây giống sống ở sân sau cửa hàng giày của Terry Tarsal. Terry, vốn chẳng ưa gì loài rắn, đã phải rất miễn cưỡng dùng bộ da đã lột của chúng để làm những đôi giày da trăn mũi nhọn cho bà Marcia.
Khi Bảo hộ Toàn quyền mua một bày rùa đớp từ cửa hàng của Billy và sau đó ra lệnh cho anh ta chuyển đến Cung Điện để trông nom chúng, Billy không dám từ chối. Cháu gái của Billy, Sandra, tiếp quản cửa hàng, và trước sự phản đối kịch liệt của Billy, cô nàng bắt đầu bán chuột đồng làm cảnh và thỏ lông mịn như tơ. Những mặt hàng thú mới của Sandra tỏ ra được rất nhiều người ưa chuộng và không lâu sau cô nàng đề nghị mua luôn cửa hàng thú cưng của Billy.
Với số tiền Sandra đã đưa cho mình để mua lại cửa hàng, Billy lập nên những hang nuôi thằn lằn gần bờ sông, sáng chế ra cỗ máy kỳ quặc và bắt tay vào công việc không bao giờ kết thúc là thực hiện cho được một bãi cỏ hoàn hảo. Khi gia đình Heap chuyển vào Cung Điện với Jenna, Silas mời Billy tiếp tục ở lại và giúp họ tống khứ bọn rùa đớp đi. Billy đồng ý, nhưng công việc cho thấy là không khả thi và anh ta đã bỏ cuộc sau khi suýt mất ngón tay cho một con rùa đặc biệt hung dữ.
Una Brakket
Una Brakket là quản gia ở Doanh trại Thiếu sinh quân khi Septimus mới chập chững biết đi. Una không thích lũ con trai, thậm chí không đoái hoài tới chúng và khiến bọn Thiếu Sinh Quân sợ chết khiếp; chẳng bao lâu sau mụ ta bị thuyên chuyển và trở thành quản gia cho Thợ Săn và đội truy sát của hắn. Una Brakket thật lòng thật dạ ngưỡng mộ Thợ Săn, mặc dù liệu Thợ Săn có thèm chú ý tới mụ hay không vẫn còn là một mối nghi ngờ. Có lần hắn chỉ hỏi mụ xem vớ của hắn đâu, thế mà mụ đã ngơ ngẩn đi loanh quanh trong cơn mộng tưởng suốt nhiều ngày sau đấy. Sau đó mụ bắt đầu thích giấu vớ của Thợ Săn để mong hắn có thể hỏi đến mụ lần nữa, nhưng hắn đã không bao giờ hỏi.
Khi Bảo hộ Toàn quyền chạy trốn và jenna trở về sống trong Cung Điện với tư cách là Công Chúa, Una lợi dụng Dự án Cơ Hội Thứ Hai[1] của ngài Alther và bà Marcia. Mụ xin vào làm quản gia cho Cung Điện, nhưng không thành vì Sarah Heap nghĩ mụ thật đáng sợ. Rốt cuộc, Dự án lại đưa mụ đến yết kiến giáo sư Weasal Van Klamff, ông đành nhận mụ vào làm chỉ bởi vì quá kinh sợ mụ nên không dám từ chối.
Tuy nhiên, cảm tình của Una vẫn dành cho DomDaniel, và mụ tham gia vào Tổ chức Khôi phục, một mạng lưới bí mật của những kẻ mong muốn hắn trở lại. Chúng gặp nhau mỗi tối thứ bảy dưới vỏ bọc là những buổi khiêu vũ kiểu đồng quê. Chính nhờ thông qua chúng mà Una bắt nối được với Simon Heap.
[1] Dự án Cơ Hội Thứ Hai: dự án giúp những kẻ thân bảo bộ có cơ hội hoàn lương và tạo dựng cuộc sống mới. (ND)
Giáo sư Weasal Van Klamff
Weasal Van Klamff xuất thân từ một dòng họ lâu đời gồm những giáo sư. Cách đây nhiều trăm năm, giáo sư Doris Van Klamff đã phát minh ra một công thức bí mật rất phức tạp nhằm trừ khử Những Thứ Ám Ảnh. Những thứ này bao gồm Vong, chẳng hạn như Vong đi theo bà Marcia, và những Bóng Ma, giống như loại đã Chờ Đợi ngài Alther khi ngài còn là Học Trò của DomDaniel. Mặc dù dòng họ Van Klamff có khả năng toán học tuyệt vời, nhưng họ có khuynh hướng rất dễ bị mắc lừa và cực kỳ hay quên; Weasal không phải là ngoại lệ.
Sau khi cho của Weasal, Otto, trong khi pha chế một hợp chất để bay hơi đã tự thôi mình đi mất, cùng với phòng thí nghiệm Van Klamff truyền thống, Weasal quyết định từ bỏ việc thí nghiệm và sống một cuộc sống yên bình bên cạnh hào nước. Khi chuyển đến sống trong ngôi nhà của mình trên bờ trượt Rắn, ông hoảng hốt khi phát hiện ra một phòng thí nghiệm cổ bị giấu kín ở cuối một cụm đường hầm chằng chịt. Weasal đã mất nhiều nằm cố phớt lờ phòng thí nghiệm đó, nhưng cuối cùng sức lôi cuốn quá lớn, và ông quyết định tiếp tục công việc của cha mình. Ông đã hoàn chỉnh Hợp chất của Otto, nhờ đó nó hoạt động như một bức màn tất đắc lực, che chắn được năng lượng. Hắc thuật, và do đó đã vô tình cung cấp một nơi ẩn nấp lý tưởng cho những khúc xương của DomDaniel.
Weasal Van Klamff là một người cả tin và không biết tí ti gì về việc Una Brakket thuộc về Tổ chức Khôi phục.
Beetle
Beetle chỉ một đứa bé. Cậu lớn lên ở khu Mở Rộng – ba mẹ cậu có hai phòng lớn ở ngay tầng bên dưới gia đình Heap. Một trong những kỷ niệm đầu đời của Beetle là mẹ cậu thúc mạnh lên trên trần nhà bằng cán chổi, và thét vang, “Ôi lạy trời yên lặng coi!” Ba mẹ Beetle quyết không cho Beetle lèo bánh hay dính líu bất cứ điều gì tới nhà Heap, và như thể chỉ càng khiến gia đình mang vẻ hấp dẫn hơn đối với Beetle, và chẳng bao lâu sau cậu đã kết bạn với Jo-Jo Heap, đứa bằng tuổi cậu.
Vào lúc mười một tuổi, thật vui mừng khôn xiết đối với bà mẹ, Beetle vượt qua bài kiểm tra tuyển người mang tính cạnh tranh rất cao của Văn phòng Sao lục. Beetle bắt đầu bằng chân chạy việc vặt, và sau khi nhân viên Kiểm tra rời khỏi ván trượt và gãy mắt cá chân, Beetle được tin cậy đủ để tiếp quản vị trí kiểm tra đường hầm băng hàng tuần.
Beetle thích Heaptimus lắm, nó gợi cho cậu nhớ vè Jo-Jo, nhunwng nó cũng chia sẻ sự yên thích của Beetle về Phép Thuật và sở thích những thức uống có ga kỳ lạ. Beetle cùng chia sẻ sự ghê lạnh của Septimus đối với Hắc thuật, như có lần cô đã nói với Septimus khi đang uống ca rễ cây xèo xèo, “Tất cả các thứ Hắc thuật đều đen tối. Cái lão già kinh khủng đó vừa trở về tháp Pháp Sư là con chuột đồng của anh chết luôn, mẹ anh bị một cái nhọt to tướng ở mũi, còn con mèo thì chạy mất. Tất cả chỉ vì cái thứ Hắc thuật bám vào người anh trong khi làm việc, xong rồi anh lại mang nó về nhà. Khủng khiếp.”
Septimus cũng rất thích Beetle. Nó tin cậu hoàn toàn.
Boris Catchpole
Trong trí nhớ của Boris Catchpole thì người ta chỉ gọi hắn bằng họ của hắn. Mẹ hắn đã cố hết sức để gọi hắn là Boris, nhưng cho đến lúc hắn bắt đầu đi được chập chững thì cuối cùng bà cũng phải như những người khác, tức là bỏ cuộc và chuyển qua gọi một cách đơn giản là Catchpole – dù sao cái tên Boris cũng có vẻ quá phổ biến.
Hoài bão của Catchpole là trở thành Thợ Săn. Hắn chạy trốn khỏi nhà và gia nhập đội Truy sát ở Vùng Đất Hoang vào lúc DomDaniel đang chuẩn bị cuộc ám sát Nữ Hoàng. CatchPole đã rèn luyện chăm chỉ trong Đội, nhưng hắn không được chú ý. Hắn đã bỏ việc đánh răng từ khi còn bé và không hề có ý định đánh răng lại bởi vì hắn không có mẹ hắn ở đó để mà nhắc nhở. Khi né, hắn có một thói quen hãi hùng là búng tặc tặc lưỡi lên vòm miệng và khiến cho mọi người dễ bực mình, và trên hết, hắn lớn quá nhanh, chẳng bao lâu hắn đã trở nên quá cao nên không thể trở thành mọt Thợ Săn Giỏi được.
Catchpole, đúng như tên hắn(*), trở thành phố Thợ Săn nhưng không tiến xa hơn được nữa. Sau một cuộc lật đổ Bảo hộ Toàn quyền, hắn tham gia vào Dự án Cơ Hội Thứ Hai và được châp nhận làm một phó Pháp Sư – một vị trí pháp sư mới học hành cho những người trưởng thành hoặc không có kiến thức Pháp Thuật nền.
Hoài bão của Catchpole hiện giờ là trở thành một pháp sư đúng nghĩa. Ít nhất là hắn muốn trở thành một Pháp sư Thường đẳng, nhưng hắn đã quyết định rằng hắn sẽ không từ chối công việc của một Pháp sư Tối thượng nếu hắn được trao cho – Điều đó là điều không bao giờ xảy ra.
Jannit Maarten
Nếu bạn yêu cầu Jannit Maarten diễn tả về mình, bà sẽ nói, “thợ đóng thuyền.” Và bà sẽ chỉ nói như thế. Jannit chỉ dành chút thời gian chính trị, thậm chí cho đám pháp sư còn ít hơn. Bất kỳ chuyện gì diễn ra trong Lâu đài cũng không ảnh hưởng được đến Jannit, cả thế giới của bà chỉ là xưởng đóng thuyền ngay bên ngoài những bức tường Lâu Đài. Bà ngủ ngon lành trong chiếc vòng của mình vào ban đêm, thức dậy lúc bình minh và sung sướng tiêu hết thời gian ban ngày vào việc đóng, sửa, sơn, cào – cũng như hàng trăm việc tỉ mỉ khác mà những con thuyền đòi hỏi.
Mặc dù Nic** thấy thật khó tin, nhưng Jannit cũng đã từng là một bé gái, dù chính bà cũng đã quên điều đó – có thể bởi vì bé gái đó đã lớn lên trong một nông trại nhỏ ở giữa Vùng Nông Trại và rất không thích gà, rất ghét bò, và ghê tởm heo. Ba me của cô bé không bao giờ hiểu tại sao, lúc mười bốn tuổi, Jannit đã ăn bận như một thằng con trai và chạy biến ra biển. Lúc mười chín tuổi, cô trở về với một chiếc thuyền của chính mình và lập xưởng đóng thuyền Jannit Maarten sát bên bến hải quan bỏ hoang của Lâu Đài. Jannit hoàn toàn hạnh phúc với cuộc sống của mình và bất đắt dĩ mới đặt chân ra ngoài xưởng đóng thuyền yêu quý.
Bóng Săn
Bóng Săn đã có thời là một trái banh quần vợt. Nó mất hai năm nằm trong một cái rãnh ướt lũng bũng bên cạnh sân quần vợt của bến cảng sau khi ai đó đã đánh nó ra ngoài cửa sổ trong cơn nóng giận. Nó đã bị chuột gặm thảm hại và từ từ rả ra, cho đến một ngày nọ Simon Heap nhặt lén, đút nó vào túi gà và đưa nó trở về đài quan sát.
Trong vài tháng sau đó, Bóng Săn nằm trong một cái niêm phong được Simon Deap cẩn thận chăm sóc. Hắn thường xuyên chăm đầy khí độc và độc dược và đó, tụng niệm bên nó suốt nhiều giờ dài dằng dặc và bao bọc nó bằng những bùa Đảo Ngược. Khi Bóng Săn dần dần tỉnh lại, nó nghe những câu thần chú được lẩm bẩm phía trên mình vào nửa đêm và ngửi thấy mùi khói Hắc Thuật mà Simon rải đều khắp cái hộp. Nó đã nằm đó, lo lắng phập phồng nhưng thích thú, đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra.
Sau đó, một tối nọ, vào đêm Hắc ám của Mặt Trăng, Bóng Săn được thả ra khỏi hộp, lần đầu tiên nó được thấy thế giới, và nó vô cùng vui thích. Simon Heap cũng hài lòng với tạo vật của hắn không kém. Bóng Săn tỏa ánh sáng rực và xem ra khá thông minh; nó biết nghe lời và học hỏi rất nhanh. Chẳng bao lâu nó được theo Chủ Nhân đi khắp mọi nơi và trở thành đầy tờ trung thành và tin cậy nhất của Simon Heap.
Y ta Meredith
Y tá Agnes Meredith, cựu bà mụ chinh, cựu kẻ bắt cóc trẻ con, đến bến cảng sau khi được thả khỏi Nhà Thương Điên của Lâu Đài dành cho những kẻ bị lừa dối và đau khổ. Mụ đi lang thành trên các nẻo đường tìm kiếm thằng con của mình, Merrin, nhưng không gặp. Cuối cùng mụ tiêu cạn tiền trợ cấp của Nhà Thương Điên và tìm được việc làm là chân quét dọn tỏng một nhà trọ xơ xác ở Nhõ Dây Thừng, sát bên nhà của Bộ lạc Phù thủy bến cảng.
Chủ của nhà trọ là bà Lorrie Bundy, một phụ nữ to lớn cộc tính và nhớ dai. Florrie có mối thù sâu sắc, không nguôi với những mụ phù thủy hàng xóm của mình, và nguôi với những mụ phù thủy hàng xóm của mình, và chính từ một cuộc tranh cãi nóng nảy về một gói trà dùng rồi (Florrie cho rằng gói trà đó đã nhắm vào đầu bà một cách có chủ đích) mà dẫn đến sụ kết liễu của bà. Linda, kẻ một ngày nọ không biết làm gì hay hơn là ném gói trà thật vào đầu Florrie thật, cuối cùng đã chán ngấy chuyện bị la hét nên đã đặt một bùa Co Rút vào Florrie. Sau vài tuần, bùa co rút dần dần mòn kích thước của Florrie lại chỉ còn bằng đúng một gói trà, và một buổi sớm sương giá, bà trượt chân trên băng, rơi xuống cái mương bên ngoài cửa sau và chết đuối.
Anges Meredith đã quan sát Florrie co rút lại với vẻ khoái chí vô cùng. Một ngày nọ, khi không thể tìm thấy bà chủ nhà trọ bé tí đâu, y tá Meredith liền tiếp quản căn nhà trọ cứ như không gì xảy ra. Chẳng bao lâu sau mụ biến nó thành của chính mụ - treo giấy dán tường có rắc bột lên, dán lên tường những thông điệp kỳ dị và nhồi ngập căn nhà bằng hoa khô và búp bê. Mụ thích ở bên lũ búp bê của mụ, và sau một thời gian mụ đã ngừng tìm kiếm Merrin. Ít nhất là với búp bê, người ta biết mình đang ở đâu, mụ tự nhủ như vậy.
Maureen
Maureen đã một lần chạy trốn đến bến cảng với trưởng nhóm bóc vỏ khoai tây sau một biến cố trong nhà bếp Cung Điện. Maureen và trưởng nhóm bóc vỏ khoai tây, Kevin, đang dành dụm để mua một quán ăn của riêng mình. Khi Kevin được nhận làm đầu bếp trên một con tàu buôn lớn cho chuyến đi vòng quanh thế giới, Maureen nhận công việc duy nhất mà cô có thể tìm được lúc đó, tứ làm việc trong Nhà Búp Bê. Điều đó không lý tưởng lắm nhưng cô đã xoay xở để dành được tiền boa từ những vị khách dễ chịu, và ít ra thì sống trong cái buồng dưới cầu thang thì cũng có nghĩ là cô không cần phải trả tiền thuê nhà. Cô khát khao mong chờ ngày Kevin trở về và họ sẽ tìm được một nơi nhỏ bé của riêng mình gần bến tàu.
Bộ lạc phù thủy cảng: Veronica
Trong số những phù thủy thuộc Bộ lạc Phù thủy thì Veronica là người ở lâu nhất, nhưng mụ không nắm được chức vụ Mẹ Phù thủy vì tính hay quên, cộng với khuynh hướng hay mộng du ra khỏi Bộ lac rồi đi lạc nhiều ngày liền của mụ. Veronica yêu thích chuột, nỗi đam mê này mụ thừa hưởng từ cha mình, Jack, hiện đang sống trên bãi cỏ tranh gần Đầm Cỏ Thô. Giống cha, Veronica có một bộ sưu tập lớn những con chuột nhốt trong lồng đá mục rửa theo nhiều giai đoạn khác nhau.
Linda
Linda là người trẻ nhất trong đám phù thủy, và như cô ta vẫn tự đắc, “có thể nghĩ ra được bất cứ mưu mẹo gì”. Những phù thủy khác thích sống cùng Linda chứ không thích những trò đùa ác ý của cô ta. Linda tính khí hung hăng và có thiên hướng dùng những câu thần chú khủng khiếp nếu ai đó làm cô ta cáu tiết. Nhưng sau vụ Dorinda mọc tai voi, không ai trong số phù thủy thích cô ta nữa. Pamela, Mẹ phù thủy, thấy rằng Linda có tiềm năng và đang bí mật chuẩn bị cho cô làm người kế vị mình.
Daphne
Daphne là một người im hơi lặng tiếng trong Bộ lạc Phù thủy. Bà hay đi thơ thẩn xung quanh một cách hòa nhã và không thích giao du, sung sướng nuôi một bầy mọt khổng lồ, đang chầm chậm ăn mòn dần ngôi nhà. Daphne yêu lũ mọt và hầu như chỉ chuyện trò với chúng.
Pamela là Mẹ Phù thủy và một phù thủy Hắc ám trong Bộ lạc Phù thủy. Dĩ nhiên tất cả phù thủy đều nghĩ mình là Phù thủy Hắc thuật, nhưng Pamela mới là Hắc thuật thật sự. Mụ đã trả qua vài năm với DomDaniel ở Đài Quan sát và đã trở về với nhiều câu chuyện Hắc thuật để kể, những câu chuyện đó làm kinh sợ những thành viên khác trong Bộ lạc Phù thủy, mặc dù họ thà uống nước ép ếch thối còn hơn là thừa nhận điều đó. Pamela có căn phòng riêng khóa kỹ mà những phù thủy khác phải tránh xa thật xa, và đêm đến, khi những tiếng thét rợn óc vang lên từ căn phòng đó, những người còn lại của Bộ lạc Phù thủy phải nhét ngón tay vào lỗi tai và cố gắng ngủ.
Dorinda
Dorinda không hề phải lo lắng một cách thái quá đến diện mạo của mình cho đến cái đêm tai voi kinh hoàng đó. Cô ta biết mình không thuộc loại ưa nhìn đặc biệt cho lắm, vì mũi hơi bị cong sau cuộc tranh cãi với cái thang thoái hiểm, và cô ta không bao giờ thích mái tóc của mình. Nhưng Dorinda đã từ bỏ bất cứ sự cố gắng chải chuốt riêng tư nào sau khi Linda buộc tội cô ta nghe lén cuộc tình tự riêng tư của Linda với một thầy phù thủy trẻ mà Linda mang về nhà. Dorinda cực lực phủ nhận sự vụ - dẫu cả Bộ lạc Phù thủy đều biết tỏng cô ta hay rón rén đi quanh để lắng nghe qua lỗ khóa. Linda nổi cơn lôi đình và ban cho Dorinda một cặp tai voi (tai voi châu Phi – thứ tai lớn thật sự), bảo rằng “nếu nó định quạt tai lung tung khắp nơi này, thì nó sẽ có cặp tai tươm tất để mà tha hồ quạt.” Kể từ đêm hôm đó Dorina luôn dội một chiếc khăn tắm lớn quấn quanh đầu và luôn giả vờ đối với những người còn lại của Bộ lạc Phù thủy rằng mình vừa mới gội đầu xong, mặc dù họ biết mười mươi – và Dorina biết bọ biết – rằng bên dưới cái khăn tắm khổng lồ là một đôi tai voi châu Phi được gấp lại gọn gàng. Đó là câu thần chú vĩnh cửu, và thậm chí đến Pamela cũng không thể tống khứ nó đi được.
Hugh Fox, Trưởng phòng Sao chép Mật
Hugh Fox đang là một người sao chép văn bản tầm thường ở Văn phòng Sao lục suốt hai mươi lăm năm thì ông ta được chọn để trở thành Trưởng phòng Sao chép Mật.
Khi DomDaniel dụ bà Marcia trở về từ Đầm Cỏ Thô, nắn đã cướp quyển sách bà mang theo bên người, Vô Hiệu Hóa Hắc thuật Gã Thầy Đồng Gọi Hồn đã đưa quyển sách cho Waldo Watkins, lúc đó là Trưởng phòng Sao chép Mật và bắt ông ta dùng Quyền năng Hắc thuật Mật luôn luôn cõ sẵn ở mỗi Trưởng phòng để Mở Khóa những bí mật của nó. Watkins đã tù chối, và tối đó trên đường về nhà Waldo Watkins biến mất, không bao giờ lại nữa.
DomDaniel dứt khoát đòi một sự thay thế ngay lập tức và việc rút thăm được thực hiện. Rút thăm là một nghi thức mỗi người chép văn bản đặt cây bút của mình vào một bình tráng men lớn cổ xưa. Cái bình đó được đưa vào buồng Tuyệt Mật và để lại qua đêm. Sáng hôm sau sẽ có một cây bút được thấy nằm trên bàn, trong khi những cây khác vẫn còn lại trong bình. Theu truyền thống, người chép văn bản trẻ tuổi nhất sẽ được phái vào trong để mang cây bút được chọn ra.
Tuy nhiên, khi Hugh Fox được chọn, DomDaniel đồi đích thân mình phải vào buồng Tuyệt Mật để lấy cây bút. Khi hắn mang ra cây bút bị nhai nát của Hugh Fox, không ai tin nổi. Ngay cả Hugh Fox cũng không tin. Có tin đồn về việc chọn không công bằng, nhưng không gì có thể chứng minh cả.
Sự thật là DomDaniel đã đặt cây bút thuộc về Jillie Djinn, một người chép văn bản đọc giỏi và tài năng, trở lại bình, và kéo cây bút của Hugh Fox ra – bởi vì hắn cho là Hugh Fox là kẻ dễ lôi kéo.
Và vì thế Hugh Fox được cung cấp kiến thức từ trong cuốn sách Chép Tay Thần Bí, được giao những con dấu hành chính, và nhậm chức Trưởng phòng Sao chép Mật một cách hợp lệ. Nhưng thật tức đến phần uất đối với DomDaniel, Hugh Fox gặp những rắc rối lớn trong việc Mở Khóa những bí mật trong quyển sách của bà Marcia, tuy vậy lão ra cũng đã xoay xở tìm thấy bùa Khinh Công – được làm phép Giấu trong bìa sách – ngay đúng lúc DomDaniel trở thành một đống xương trong Đầm Cỏ Thô.
Sau sự kết thúc của DomDaniel và việc trở về tháp Pháp sư của bà Marcia cùng với Septimus, Tổ chức Khôi Phục đe doại Hugh Fox sẽ có số phận giống như số phận đã giáng xuống Watkins đáng thương nếu lão ta không cho Simon vào Đường Hầm Băng. Hugh Fox đồng ý. Và khi Simon Heap đòi hỏi bùa Khing Công, lão ta trao nó cho gã không một lời ú ớ. DomDaniel đã đúng – thật sự, Hugh Fox là một kẻ dễ lôi kéo.
Partridge
Colin Partridge đã từng là lính Bảo Hộ. Anh ta bị ép buộc phải tòng quân từ một ngôi làng nhỏ ở ngoại vi vùng chăn thả cừu. Partridge vốn là một đứa trẻ hay mơ mộng mà ngày giờ của nó phải dùng vào việc chăm nom bầy cừa cho cha. Partridge đã làm mất nhiều cừu hơn là cha nó tính, và cha nó tuyệt vọng không tin nó có thể là một người chăn cừu giỏi. Vì thế khi Đoàn Chiêu Mộ lính Bảo Hộ hứa sẽ “rèn luyện nó nên người”, cha của Partridge để anh chàng Colin trẻ tuổi khăn gói và ra đi ngay, trước nỗi hoảng loạn vô cùng của người mẹ lẩm cẩm.
May mắn cho Partridge, anh ta tòng quân ngay lúc kết thúc của triều đại Bảo hộ toàn quyền, và trong vòng một tháng ra quân, anh ta ghi tên vào Dự án Cơ Hội thứ Hai và được Văn phòng Sao lục giành giật ngay. Partridge chưa bao giờ vui hơn thế trong đời.
Những con ma đường hầm băng
Eldred và Alfred Stone là an hem. Họ, giống như nhiều thợ xây đá khác, đã được đưa vào đúng thời Đại họa bên dưới Lâu Đài. Họ làm việc khẩn trương nhiều giờ liền để cố gắng sửa chữa những lỗ thủng trong đường hầm nhưng không có kết quả. Họ thuộc số ba mươi người bị kẹt bởi bùa Đông Cứng Khẩn Cấp và không bao giờ thấy lại ánh sang ban ngày nữa. Cùng với những người đồng hành với mình, họ không ngừng đi lang thang trong cụm đường hầm, không nhận thức được rằng đã hàng trăm năm trôi qua kể từ khi họ bị Đông Cứng. Cả hai anh em tin rằng cuộc sống vẫn đang chờ đợi họ, chỉ cần ai đó chỉ cho họ lối ra.
Ellis Crackle
Ellis Crackle đã từng là Đồ Đệ của DomDaniel khi lần đầu Thầy Đồng Gọi Hồn là pháp sư tối thượng ở Lâu Đài, cách đây nhiều năm. Ellis là một thanh niên trẻ tuổi vụng về, chậm chạp với rất ít khả năng Pháp Thuật, nhưng DomDaniel không quan tâm. Hắn chọn Ellis chẳng qua là vì anh chàng này là em trai của Betty Crackle. Vào lúc đó Betty Crackle là Người Canh Giữ Thuyền Rồng. Bà ta là một phù thủy thiện bừa bãi, người có ý định tốt, nhưng luôn luôn để lại sau mình những chuyện rắc rối, do tính đãng trí và sự thiếu gọn gàng, ngăn nắp nói chung. Cuối cùng dì Zelda đã phải nắm quyền thay cho Betty sau khi dì đi vơ vẩn tới bến cảng vào một đêm mùa đông và bị kẹt lại bởi Trận Gío Bấc.
Ellis Crackle thậm chí còn cẩu thả hơn Betty, nhưng DomDaniel đã suy đóan rằng phải có cái gì đó rất quan trọng ở ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm – một cái gì đó đã ngăn cản hắn kiểm sóat hòan toàn Lâu Đài – và hắn muốn tìn ra cái đó là cái gì. Thuê mướn em trai của Betty Crackle là một cách tốt để luồn lách tìm ra bí mật đó.
Rủi thay cho DomDaniel, sau khi Ellis nhận vị trí Học Trò, thì Betty và Ellis có một trận cãi nhau nảy lửa. Ellis cứ khoe khoang về vị trí mới cực kỳ quan trọng của mình, và Betty, vốn là kẻ hay ghen tị, không thể chịu đựng được. Bà ta ếm bùa lên ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm để khiến Ellis tránh xa ra và không bao giờ nói chuyện với em trai của mình nữa. Và vì vậy cho nên DomDaniel đâm ra không bao giờ phát hiện ra Thuyền Rồng ở ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm – hay thậm chí ngôi nhà tranh đó ở đâu hắn cũng không biết.
Khi dì Zelda thay thế Betty Crackle, Ellis không còn lợi ích gì cho DomDaniel nữa. Hắn nhận Alther Mella làm Học Trò mới và Ellis bị Lơ Lửng – một quy trình Hắc Thuật kinh tởm nhằm hạ ai đó thành Vong. DomDaniel giữ lại Ellis bất hạnh để sử dụng sau này. Sau đó Ellis trở thành hữu dụng ngay, khi hắn thành Vong ám bà Marcia.
Hildegarde
Hildegarde làm việc cho Hội đồng Bảo hộ trong hộ phận tài chánh, và đã tiêu tốn hầu hết thời gian của mình để kiềm chế thói tiêu xài hoang phí của Bảo hộ Toàn quyền. Đó là một nhiệm vụ bất khả thi. Sau đo Hildegarde bị chuyển sang Lực lượng Bán hàng, buộc phải bán tất cả của cải quý giá của Cung Điện. Hildegarde đem long yêu mến những bức tranh cổ và những đồ đạc mà cô buộc long phải đem bán, nhưng cô thực hiện những cuộc mặc cả thật sát ván và bán được chúng với giá cao.
Hildegarde rất vui mừng khi Dự án Cơ hội Thứ hai giúp cô được nhận vào huấn luyện thành phó pháp sư. Cô hơi thấy bất tiện khi làm bổn phận canh gác Cung Điện, và khi nhìn vào những nơi trống rỗng vốn xưa kia từng phủ đầy của cải thì lương tâm cô cắn rứt. Cô hạ quyết tâm sẽ trở thành Pháp sư Thượng đẳng và sẽ thưc hiện bất cứ cuộc sửa chữa nào có thể.
@Hết
Septimus Heap Tập 2 - Khinh Công Septimus Heap Tập 2 - Khinh Công - Angie Sage Septimus Heap Tập 2 - Khinh Công