A friend is someone who knows all about you and still loves you.

Elbert Hubbard

 
 
 
 
 
Tác giả: Albert Vulliez
Thể loại: Lịch Sử
Dịch giả: Lê Thị Duyên
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Dung Nguyen
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1633 / 67
Cập nhật: 2016-03-08 20:49:24 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Anh Hùng Ca Của Thủy Quân Lục Chiến
ác tin tức đáng lo ngại từ Melbourne chuyển đến cho Ghormley đã xuất phát từ một nguồn cung cấp vừa bất ngờ vừa phi chính thống, nguồn tin mà cho đến lúc ấy quân Mỹ chấp nhận với rất ít tin tưởng.
Các nhà chức trách của Liên hiệp Anh và chính phủ Úc đã mô phỏng theo kiểu cơ quan tình báo Anh, tổ chức một màng lưới nhân viên tình báo gọi là "coast watchers" (trinh sát viên duyên hải) trên các đảo thuộc quyền tại phía nam Thái Bình Dương. Các nhân viên này được tuyển mộ hoặc trong số công chức của cơ quan hành chính, hoặc trong số các chủ đồn điền sống trên các đảo từ lâu. Phần đông đấy là những người bạo gan, biết rất rõ rừng sâu và rất quen thuộc với phong tục tập quán của dân bản xứ mà họ có thể giao tiếp bằng thổ ngữ. Họ đã được huấn luyện từ thời bình về các sứ mạng tình báo và mỗi người có một máy phát tin xách tay giúp họ có thể liên lạc được với Melbourne. Khi quân Nhật đến chiếm đảo, họ rút lui vào rừng với các hướng đạo viên bản xứ. Trên các đảo như Tân Bretagne, họ vẫn ẩn trốn trong rừng nhờ sự thông đồng của dân bản xứ. Tại Bongainville, viên chức Read rút lên phía bắc đảo, trong khi phía nam, chủ đồn điền Paul Mason, một người nhỏ thó chừng 40 tuổi mà dưới một vẻ bề ngoài hiền lành nhu nhược, ẩn giấu cả một ý chí và một tinh thần táo bạo khó tin, thì canh chừng các eo biển cho đến đảo Shortland. Cả hai người này sẽ vẫn giữ vững cứ điểm của mình cho đến khi lãnh thổ họ được giải phóng, bất chấp các thử thách tàn bạo, mà không hề được tưởng thưởng, được thăng cấp gì cả, và trong gần một năm trời đã liên tục cung cấp nhiều tin tức vô giá.
Tại Tân Georgie, chính viên chức hành chính Tân Tây Lan, tên Đonal Kennedy phụ trách việc canh chừng địch. Sau vô số nghịch cảnh phải chịu đựng, ông đến ở trên bán đảo Ségi nằm về phía cực nam của đảo, tại đó ông sống trong một ngôi nhà xa hoa theo kiểu một nhân vật của Jack London. Không những chỉ thông báo cho Henderson Field các phi đoàn và hải lực địch đi qua, ông còn thu lượm các phi công bị bắn hạ và cùng với các cảm tử quân bản xứ luôn luôn làm cho các toán quân Nhật đi lùng kiếm phải chịu thất bại.
Vào cuối tháng 8, được ông báo cho biết rằng hải quân Nhật đang thể hiện một mức hoạt động không ngừng gia tăng giữa Rabaul và Shortland, Ghormley ra lệnh cho Fletcher nhổ neo với các mẫu hạm Enterprise và Saratoga được hộ tống bởi một thiết giáp hạm (đây là chiếc North Carolina vừa mới được tách khỏi hạm đội Đại Tây Dương để đến tăng cường cho hạm đội của Ghormley), bốn thiết dương hạm và mười khu trục hạm.
Về phía Nhật, Yamamoto phái Nagumo với các mẫu hạm Shokaku, Zuikaku và tiểu hạm Ryujo đến phía đông quần đảo Salomon để che chở tầm xa cuộc đổ bộ quân của tướng Kawaguchi.
Hai lực lượng hải quân Nhật, Mỹ gặp nhau ngày 24 tháng 8 trong các điều kiện gần tương tự với trường hợp xảy ra trong biển Corail. Các phi đoàn Mỹ bay đến chiếc tiểu mẫu hạm Tyujo đi đầu, trong khi đó phi cơ của chiếc Zuikaku tấn công chiếc Enterprise và chiếc thiết giáp hạm North Carolina. Nhiều trận không chiến cực kỳ dữ dội đã nối tiếp nhau không ngừng suốt buổi sáng mà không quyết định được kết quả cuộc chiến. Chiếc Enterprise bị trúng ba quả bom, tay lái bị hư Riêng chiếc Ryujo thì bị chìm ngay đợt tấn công đầu tiên.
Vào quá trưa, bầu trời phủ đầy mây và hai bên đối thủ tách rời nhau ra. Đến tối Fletcher quyết định dứt chiến và đưa chiến hạm của ông trở về Espiritu Santo.
Cuộc đụng độ không có kết quả rõ rệt này một lần nữa lại được hai bên coi là chiến thắng của mình. Có lẽ đó là một chiến thắng của Mỹ thật nếu như chiếc Saratoga lại không bị trúng thủy lôi của một tàu ngầm Nhật khiến bị hư hại nặng trên đường về. Các cuộc giao đấu ấy gia dĩ lại không có ảnh hưởng gì đến tình hình tại Guadalcanal. Chúng không ngăn cản được Lữ đoàn bộ binh của Kawaguchi đổ bộ trong đêm tối về phía đông nhờ các khu trục hạm đi đi lại lại.
Lần này Vandegrift bị đe dọa bởi một lực lượng quan trọng khác hẳn với đoàn quân của Ichiki: hơn bảy ngàn người nay đã có mặt trên đảo và đang chuẩn bị một cuộc xung phong mới.
Trong thời gian hai tuần lễ tiếp theo, hai bên đối thủ phân phối lực lượng, dự liệu cho cuộc chiến đấu. Vandegrift nhận thêm được hai Trung đoàn tăng viện của Sư đoàn 2 Thủy quân lục chiến đang được thành lập và Kawaguchi tiếp đón các binh sĩ tiên phong của công binh và đã cực nhọc vạch được một con đường mòn khá rộng trong rừng rậm giúp bọc vòng chu vi phòng thủ của Mỹ về phía nam và nối tiếp được với các Thủy quân lục chiến Nhật đang đóng tại phía tây sông Lunga từ đầu cuộc chiến.
Ngày 12 tháng 9, ngay giữa đêm tối, tiếng súng vang động như sấm và ánh hỏa châu đã đánh dấu phút khởi đầu của cuộc tấn công. Một giờ trước đó, áp dụng một phương pháp mà sau đó sẽ được hoàn thiện mỹ mãn, Kawaguchi đã biệt phái các toán "đánh trộm" chỉ võ trang bằng kiếm, xâm nhập vào phòng tuyến sau khi cắt cổ lính gác mà họ không kịp kêu một tiếng nào. Ngay từ khi bắt đầu hành động, nhiều kẽ hở thật sâu bị mở toang trên sườn phía nam của chu vi phòng thủ. Nhiều trận đụng độ khốc liệt đã xảy ra suốt đêm và, khi bình minh vừa ló dạng, hàng trăm oanh tạc cơ Nhật bay đến hết đợt này đến đợt khác dưới sự yểm trợ của vài khu trục cơ. Một cuộc trình diễn bi thảm bên trên các chiến binh, trong một bầu trời tối sẫm vì tiếng nổ và khói từ các phi cơ bị bắn hạ. Sau hai ngày đụng độ ác liệt, các Tiểu đoàn của Kawaguchi đã bắt buộc quân Mỹ lùi lại một cây số trên cạnh sườn một đỉnh núi san hô tơi tả, song song với dòng sông Lunga, được quân Mỹ đặt cho tên "Bloody Ridge" (Đỉnh đồi máu). Nhiều cuộc xâm nhập đã xảy ra và bộ chỉ huy của Vandegrift suýt bị tiêu diệt... Kiệt sức vì ba mươi sáu giờ chiến đấu liên tục trong không khí nóng bức ngột ngạt của rừng già, Thủy quân lục chiến Mỹ sắp sửa buông xuôi. Nhưng thái độ anh hùng của các sĩ quan và sự hiện diện liên tục của ông tướng Tư lệnh tại điểm bị tấn công mạnh nhất đã nâng đỡ được tinh thần dũng cảm của binh sĩ. Về phía quân Nhật, họ bị những tổn thất kinh khủng. Thấy lực lượng của mình giảm dần, Kawaguchi từ bỏ việc theo đuổi cuộc tấn công và ra lệnh rút lui toàn diện.
Trong tâm trí ông, đấy chỉ là một cuộc rút lui chiến lược. Trận đánh này đã cung ứng cho ông các bài học mà ông tìm kiếm. Ông đã hoàn thiện chiến thuật chiến đấu trong rừng rậm và đối với ông, chắc chắn ông sẽ chiến thắng ngay khi nhận được vài Tiểu đoàn hiện đang bị thiếu hụt.
Rủi thay cho ông ta, Turner, nhờ các mối giao thiệp cao cấp mà ông còn giữ được với Ngũ giác đài, đã nhận được trong thời gian ấy tăng viện về vũ khí, phi cơ và người. Ngày 18 tháng 9, một đoàn công voa đầu tiên với sáu hải vận hạm - trong đó có chiếc Mac Cawley táo bạo đổ bộ 4.000 người và 147 xe thiết giáp trên bờ biển Lunga dưới sự che chở của khu trục cơ và oanh tạc cơ đâm bổ. Thành công của chiến dịch sẽ toàn vẹn nếu chiếc mẫu hạm Wasp, mà Fletcher phái đến để tung các phi cơ lên trên Henderson Field, lúc quay về không bị rơi vào ổ phục kích của tàu ngầm Nhật, và bị thủy lôi của chúng đánh chìm.
Bất chấp vụ què quặt mới xảy đến cho hạm đội che chở ấy, Turner tiếp tục một cách can đảm các chuyến đi về tiếp tế và đổ thêm lên bãi biển vài Tiểu đoàn nữa.
Vững mạnh nhờ ưư thế về số lượng, Vandegrift quyết định tấn công bãi biển đổ bộ của Nhật tại phía tây sông Lunga. Ông đã thất bại. Địa thế rất khó khăn. Hàng trăm Thủy quân lục chiến suýt bị bao vây gữa hai con sông. Cuộc tấn công bị hủy bỏ ngay cả trước khi bắt đầu.
Kết quả của cuộc điều quân này là đưa quân Nhật lên đóng trên núi Austen, một ngọn đồi cao chung quanh bao phủ bởi một khu rừng già nổi danh là không thể xuyên qua được, từ đó họ chế ngự được vòng đai phòng thủ và có thể quan sát được tất cả hoạt động của Henderson Field.
Đến đầu tháng 10 năm 1942, đội quân trú phòng của Vandegrift đã được nâng lên đến 19.500 người, quân số của Kawaguchi chỉ mới được là 12.000 người, nhưng các vị trí của ông thì không thể nào bị chiếm được và tạo thành các cc xuất phát tuyệt diệu. Ngoài ra, gần như hàng đêm ông nhận được tiếp viện nhờ các đoàn công voa nhỏ gồm có các khu trục hạm chuyển vận mà quân Mỹ đặt cho cái tên là "chuyến tốc hành Đông Kinh".
Từ đó, trận đánh tại Henderson Field mang một hình thái khác. Tất cả mọi hoạt động của hải quân và không quân đều được tập trung vào phi trường này làm như nó là trung tâm điểm của trái đất. Một cuộc chạy đua bằng tốc độ được tung ra cho bên nào đến trước đổ được nhiều quân và chiến cụ nhiều nhất. Trong các trận đánh kéo dài bất tận đó, cả hai đối thủ đều sẽ chứng tỏ cùng can đảm như nhau cùng lì lợm như nhau và - cần phải nói điều này - cùng thiếu óc tưởng tượng như nhau. Thay vì tử tìm cách khác - chẳng hạn như xây dựng một phi trường cạnh đó - họ bám cứng ngắt ở đó như các con cừu đực húc đầ gài sừng vào nhau và không thể nào tách rời nhau ra được nữa...
Đến giữa tháng 10, rốt cuộc hiểu rằng họ sẽ không bao giờ thắng được nếu chính họ không mang đến đại pháo và thiết giáp, quân Nhật quyết định phá hủy các kho dự trữ xăng và các cơ sở tại Henderson Field bằng các cuộc hải pháo. Một lực lượng đặc nhiệm Nhật gồm nhiều thiết dương hạm và hai thiết giáp hạm được tập họp tại Shortland.
Được Mason đảm lược báo trước, ông ta vẫn luôn luôn canh chừng địch bất chấp các thử thách Ghormley cũng vậy, phái các thiết dương hạm của mình đến xung quanh đảo Savo để chặn ngang eo biển. Nhiều cuộc đụng độ rối loạn xảy ra trong đêm tối trước mũi Espérance, nhưng chúng không ngăn cản được quân Nhật cày nát Henderson Field bằng các cuộc hải pháo vĩ đại từ các thiết dương hạm và thiết giáp hạm.
Các cuộc pháo kích này đã đạt đến mức tột đỉnh trong đêm 15 rạng 16 tháng 10 năm 1942. Ánh mặt trời lên cao chiếu sáng một quang cảnh lăng nhục nhất. Những Thủy quân lục chiến còn đang ngô ngô thất thểu vì những tiếng nổ của đạn pháo từ các chiến hạm và của những phuy xăng, khi bước ra khỏi hầm trú ẩn liền thấy bốn hạơc năm tàu chở hàng của Nhật đổ quân lên bãi như trong một cuộc thực tập. Không một khu trục cơ nào của Mỹ còn sót lại sau cuộc tận diệt có thể cất cánh, và viên sĩ quan chỉ huy trưởng căn cứ hò hét ầm ĩ: "Trời ơi! Các anh hãy đi tìm xăng đi, và lẹ lên!". Các binh sĩ phân tán khắp phi trường và chạy hụt hơi tìm kiếm các thùng xăng dự trữ được che giấu. Họ tìm được vài thùng, rồi chuyển bằng ống cao su vào bình chứa của các pháo đài bay B-17 vừa từ Úc đến, tất cả đều ít nhiều bị hư hại vì cuộc hải pháo. Một giờ sau, các khu trục cơ đầu tiên cất cánh để che chờ cho các phi cơ vận tải chờ xăng được Turner hấp tấp phái đến. Buổi tối, một tàu ngầm đem đến thêm 30 tấn nữa. Nhờ đó Henderson Field lại được diên trì thêm một lần nữa, nhưng chưa bao giờ các quân nhân phòng thủ lại cảm thấy khốn khổ đến như thế.
Cùng ngày hôm đó, Đô đốc Nimitz, vốn cam tâm chịu đựng thái độ dửng dưng của Bộ Quốc phòng từ trước đến nay, đã tóm tắt tình hình trong mấy dòng sau: "Đã có chứng cớ cho thấy chúng ta không có khả năng kiểm soát hải phận trong khu vực Guadalcanal nữa. Vì vậy chúng ta không thể tiếp tục tiếp tế cho các cứ điểm bạn với giá những hy sinh quá lớn lao tình hình không đến nỗi tuyệt vọng, nhưng đã quá đỗi hiểm nguy".
Sự lượng giá rất đụng chạm này vốn của một người luôn luôn mềm dẻo như ông đã đem lại kết quả mong muốn. Đô đốc King, mặc dầu bị thu hút hoàn toàn vào mối ưu tư dành cho các đoàn công voa lớn lao tiến tới Bắc Phi vừa nhổ neo ra khơi, đã thông báo kịp thời cho Roosevelt. Tổng thống Mỹ lập tức gửi một điệp văn đầy đe dọa cho các thành viên ủy ban tham mưu hỗn hợp đồng minh, truyền lệnh "tăng viện cho Guadalcanal, và làm mau...".
Một loạt các biện pháp mạnh mẽ được áp dụng mà biện pháp đầu tiên - và chắc chắn là biện pháp ít thích nghi nhất - là một sự xáo trộn toàn diện bộ chỉ huy cao cấp. Đô đốc Halsey, với sức khỏe đã khả quan, đến thay Ghormley. Đô đốc Kinkaid đến thế chỗ nhân vật đảm lược Fletcher người bị trách cứ là đã rút lui các mẫu hạm quá sớm trong đêm 8 tháng 8. Quả thật là một vụ thay đổi xà ích ngay khúc sông cạn...
Nhiều biện pháp khác tiếp tục được áp dụng mang lại cho các chiến sĩ bảo vệ Henderson Field một sự tiếp cứu rõ rệt hơn. Một thiết giáp hạm mới 35.000 tấn, chiếc South Dakota vừa mới được trang bị một rừng cao xạ DCA, 6 tuần dương hạm, 90 oanh tạc cơ đâm bổ, 75 khu trục cơ của lục quân, 2 phi đoàn B-17, 24 tiềm thủy đỉnh, và một hải đoàn khinh tốc đỉnh, đấy là món quà mừng lên chức của vị Tư lệnh mới.
Vì biết rằng sự bổ nhiệm vừa qua bắt nguồn ở danh tiếng hiếu chiến của ông, Halsey lập tức ra lệnh cho tất cả chiến hạm dưới quyền nhổ neo ra khơi.
Về phía Nhật, Bộ Tư lệnh cũng chịu đựng các thay đổi tương tự. Kawaguchi bị đặt dưới quyền Đại tướng Maruyama vừa đến cùng với quân tăng viện và Đô đốc Kondo, mặc dầu liên tục chiến đấu ngay từ đầu, đã thay thế Nagumo chỉ huy hạm đội hàng không mẫu hạm. Trong lúc Maruyama tung ra một đợt tấn công mới và cày nát Henderson Field từ trên cao đỉnh Austen, Lực lượng Đặc nhiệm của Kondo chạy xuống nam dọc theo phía đông quần đảo Salômn hy vọg gặp hạm đội Mỹ, mà theo các tin tức ông có được, thì chỉ còn lại có một mẫu hạm.
Ít ra cùng là trên điểm này, dự đoán của ông quá lạc quan. Ngoài mẫu hạm Hornet, Halsey còn có chiếc Enterprise vừa được sửa chữa vội vàng, đã trở lại chiến tranh chiến đấu. Hai thiết giáp hạm, hai tuần dương hạm nặng và ba tuần dương hạm phòng không bổ huyết cho Lực lượng Đặc nhiệm của Hoa Kỳ như thế là được trang bị một hỏa lực phòng không tập trung mạnh mẽ cho đến lúc ấy chưa bao giờ được thực hiện.
Bình minh ngày 26 tháng 10 năm 1942, trong lúc mẫu hạm Enterprise và Hornet tiến ngược lên theo phía đông quần đảo Salomon đến ngang đảo Guadalcanal, một PB-Y Catalian báo hiệu thấy hạm đội địch. Bất chấp lực lượng chênh lệch, ông Tư lệnh hăng hái Halsey tung ra một hiệu lệnh rất đúng kiểu của ông: "Tấn công! Tấn công! Tôi lặp lại: Tấn công!". Mẫu hạm Enterprise vốn đã phóng lên một phi đoàn oanh tạc cơ tuần tiễu, liền chuyển cho nó mệnh lệnh tấn công này. Thấy chiếc tiểu mẫu hạm Zuiho đi đầu Lực lượng Đặc nhiệm Nhật, các oanh tạc cơ đâm bổ nhào vào và đánh chìm nó trong vài phút. Nhưng các phi đoàn của mẫu hạm Zuikaku và Shokaku đã lên đường. Chúng gặp các phi cơ của mẫu hạm Enterprise, và các khu trục cơ Zéro, ẩn nấp trong mây, đâm bổ từ 7000 thước xuống để tiêu diệt địch. Một nửa tổng số oanh tạc cơ Mỹ bị hạ. Những chiếc khác theo đuổi cuộc tấn công và đánh trúng chiếc Shokaku rồi tiếp đến lại các phi đoàn của chiếc Hornet bay đến oanh tạc.
Trong thời gian đó các phi đoàn Nhật vượt qua mẫu hạm Enterprise vốn được một cơn mưa rào nhiệt đới thiên nhiên che chở. Thấy chiếc Hornet chúng đổ dòn đến tấn công bất chấp hàng rào phòng không kín mít của các giàn cao xạ trên những tuần dương hạm. Viên phi công một oanh tạc cơ bị bốc cháy điều khiển để phi cơ đâm vào sàn tàu mẫu hạm, trong lúc đó phi công một phi cơ phóng thủy lôi tấn công hụt, tự ý đâm sầm phi cơ xuống phi đạo của mẫu hạm, thế là họ đã khai mào cho chiến thuật tự sát ghê rợn, mà hai năm sau sẽ được tổng quá hóa một cách bi thảm. Bị cháy từ trước ra sau và không thể nào điều khiển được nữa, chiếc mẫu hạm đáng thương biến thành tấm bia cho các đợt phi cơ tiếp nối nhau và sau cùng bị thủy thủ đoàn bỏ lại. Sau đó ít lúc, nó chìm luôn. Đến lượt mẫu hạm Enterprise bị tấn công, nó nhận lãnh hai quả bom, mà một quả trúng thang máy nâng phi cơ và chỉ nhờ vào hỏa lực của chiếc thiết giáp hạm South Dakota mới thoát khỏi tay những phi cơ tấn công.
Về phía Nhật, Kondo cũng chịu đựng nhiều tổn thất. Mẫu hạm Shokaku lại bị trúng bom nữa và chiếc Ruyho bị đánh chìm và mang theo chừng 30 phi cơ cùng chừng ấy phi công. Khi được báo cáo là chiếc Hornet và chiếc Enterprise "bốc cháy", vị Tư lệnh hạm đội Nhật quyết định không theo đuổi cuộc tấn công nữa. Đến 11 giờ sáng ngày một bản tin chiến thắng quá lạc quan của tướng Maruyama lại khiến ông nghĩ rằng việc chiếm Henderson Field chỉ còn là vấn đề thời gian. Ông liền tập họp hạm đội và trở về Rabaul tin rằng đã mang về một đại chiến công.
Đấy là một chiến thắng theo kiểu Pyrrhus. Quân Nhật mất 100 phi cơ và 80 phi công phần đông không thể thay thế được vì họ là nhóm ưu tú nhất của không lực thuộc hải quân Nhật. Tình hình bên phía Mỹ cũng trầm trọng như thế. Ngoài việc mất chiếc Hornet và 75 phi cơ, những hư hỏng xảy đến cho chiếc Enterprise sắp khiến cho hạm đội của Halsey không còn lại hàng không mẫu hạm nào đúng vào lúc các đơn vị phòng thủ Henderson Field phải chịu đựng cuộc tấn công quy mô nhất trong trận chiến.
Trong tình trạng không thể cung ứng cho Turner sự che chở bằng không quân cần thiết để thực hiện cuộc đổ bộ các lực lượng tăng viện và tiếp tế cho Guadalcanal vào ban ngày, Halsey ra lệnh cho ông phái các hải vận hạm đến ban đêm trước Lunga theo kiểu "chuyến tốc hành Đông Kinh".
Không muốn tái diễn kinh nghiệm đáng buồn đêm 9 tháng 8 tại đảo Savo, Turner điều nghiên thật kỹ các biện pháp phải làm trước khi bắt đầu công tác nguy hiểm này. Trong tám ngày liền, ông phái các phi cơ B.17 và B25 từ Espiritu Santo đến oanh tạc các vị trí Nhật để tiêu diệt các ổ súng phòng thủ bãi biển và cho tập họp tất cả tuần dương và khu trục hạm để chặn ngang eo biển trong khi có cuộc đổ bộ. Ông còn yêu cầu cả Halsey cho biệt phái khi cần hai thiết giáp hạm thuộc quyền, chiếc South Dakât và chiếc Washington vừa mới đến. Ý tưởng sử dụng các đại chiến hạm như thế này rất cách mạng, được Halsey chấp thuận trên nguyên tắc.
Kể từ 11 tháng 11 năm 1942, các hải vận hạm của Turner gần như đi lại hàng đêm và một thứ trò chơi cút bắt kỳ lạ đã xảy ra giữa các tuần dương hạm Mỹ đảm bảo sự che chở chung quanh đảo Savo và các tuần dương hạm cùng khu trục hạm của "chuyến tốc hành Đông Kinh" tìm cách vượt qua eo biển. Khi các cuộc đụng độ xảy ra, thường thường chính quân Nhật nắm thế chủ động bởi vì, mặc dầu có ưu thế lớn lao nhờ vài giàn rada tinh xảo mà quân Mỹ có trong tay, tình trạng thiếu huấn luyện cho các chuyên viên chưa cho phép quân Mỹ vượt trội hơn các trinh sát viên đêm của Nhật vốn có khả năng phi thường. Các chiến hạm Mỹ thường bị bất ngờ vì ánh lửa léo lên đột ngột do tiếng nổ của một thủy lôi Nhật và tiếp theo đó những ánh chớp rung chuyển của tiếng đại bác. Nhờ có số đông, chiến hạm Mỹ trả đũa bằng một màn hỏa lực thường không chính xác nhưng cũng đủ nguy hiểm chết người khiến phải e dè. Cuộc mạo hiểm kết thúc bằng các trận đánh đối phương cận chiến tương tự lạ lùng với những trận chiến tại Lépante năm 1571. Điểm khác biệt duy nhất là chúng chỉ kéo dài có 30 hoặc 40 phút thay vì suốt ngày, nhưng cũng giống như tại Lépante, các bên đối thủ tản mác đi nơi khác mà không biết ai là kẻ thắng trận.
Cuộc đụng độ bi tráng sau cùng thuộc loại này đã xảy ra đêm 14 rạng ngày 15 tháng 11 năm 1943 tại eo biển rất xấu giữa Savo và mũi Espérance. Hai đối thủ đã tung ra tất cả các lực lượng cơ hữu. Phía nhật thì thiết giáp hạm Kirishima, ba tuần dương và mười khu trục của Đô đốc Kondo, bên phía Mỹ thì hai thiết giáp hạm Washington và South Dakota do bốn khu trục hạm hộ tống - tất cả các tuần dương hạm của Mỹ đều bị đánh đắm hay bị hư hại nặng trong những lần đụng độ trước. Trận chiến khởi đầu rất tệ cho bên Mỹ vì vài khu trục hạm hộ tống đã bị áp đảo bởi ưu thế tuyệt đối về kỹ thuật cũng như về số lượng của khu trục hạm Nhật. Ngoài ra rủi ro còn muốn cho chiếc South Dakota bị hỏng điện nên không thể bắn được. Chính Đô đốc Lee, trên thiết giáp hạm Washington, là người đã cứu vãn tình thế. Vừa cho chiến hạm chạy lên ngang chỗ các khu trục hạm bị tàn sát và vừa ném bè cấp cứu xuống cho các thủy thủ đoàn đang vùng vẫy trong mặt nước đầy dầu cặn, ông khám phá qua máy rada các tuần dương hạm của Kondo và chiếc thiết giáp hạm Kirishima đang nhào đến Lunga để tiêu diệt phi trường Henderson Field. Biết rằng không bị địch trông thấy, ông để cho họ tiến đến gần còn 8.000 thước và, đúng 12 giờ đêm, ông ra lệnh khai hỏa. 75 đạn pháo 480 ly, chỉ trong vài phút, rơi xuống thiết giáp hạm Nhật khiến nó biến ngay thành một xác tàu cháy đỏ rực, trong khi Đô đốc Kondo và các tuần dương hạm của ông phải mở hết tốc lực rút lui. Yamamoto không bao giờ tha thứ hành động chạy trốn này, và mặc dầu có một quá khứ sáng chói, ông ta cũng bị Yamamoto tước quyền Tư lệnh ngay.
Trong khi xảy ra các trận hải chiến ác liệt này, lực lượng Thủy quân lục chiến của Vandegrift đã được tăng viện gần như toàn diện Sư đoàn 2 và một Sư đoàn bộ binh được thành lập vội vàng tại Tân-Calédonie và mang một danh xưng rất mỹ lệ: Americal Division (American Caledoian Division). Vandegrift đã mở lại cuộc tấn công dọc theo bờ biển hướng về con sông Manitaku và sắp vượt qua. Quân Nhật mưu toan thực hiện một cuộc đổ bộ lên phía đông của chu vi phòng thủ nơi mà Yamamoto ra lệnh phải lập một phi trường khác, nhưng họ đã bị thất bại đổ máu. Tiếp theo cuộc hành quân đắt giá này, quân Nhật tập trung về phía bắc và phía tây chu vi phòng thủ Mỹ, nơi đây họ còn có thể bám chắt ven biên nhờ cứ điểm kinh khủng trên đồi Austen.
Tình trạng mất quân bình lực lượng ngày càng gia tăng. Bị báo động vì các tổn thất về chiến thuyền và nhất là phi cơ, Yamamoto đề nghị với Tojo bỏ Guadalcanal. Vừa mới từ bỏ kế hoạch đẩy Mac Arthur ra khỏi Tân-Guinée, để có thể tăng viện cho Guadalcanal quân đoàn của Maruyama, Tojo từ chối cuộc rút lui nhục nhã ấy.
Yamamoto phải nhượng bộ, nhưng dường như, ngay từ lúc ấy, ông đã coi như canh bài đã bị thua, vì không bao gìơ ông còn tái diễn một cuộc hành quân qui mô nào để đánh Henderson Field nữa. "Chuyến tốc hành Đông Kinh" chót có tầm khá quan trọng đã vượt qua các eo biển ngày 30 tháng 11 trong một đêm trời tối đen như mực. Điểm đổ bộ được dự liệu là một bãi cát gần một vùng biển nhỏ đầy đá gọi là Tassafaronga. Đoàn công voa gồm có tám khu trục hạm không có tuần dương hạm nào hộ tống. Mặc dầu các cầu tàu chật ních quân lính, phuy xăng và thùng lương thực đạn dược tiếp liệu, các chiến hạm nhỏ này đã thực hiện một thành tích đẹp đẽ nhất trong cuộc chiến bằng cách phóng thủy lôi vào bốn tuần dương hạm Mỹ đến chặn đầu chúng. Một trong các tuần dương hạm bị đánh chìm, và ba chiếc khác bị hư hại nặng nề đến nỗi phải trở về Mỹ. Hành động sáng chói này nếu đã có thể giúp mang lại đôi chút thoải mái cho các đoàn quân Nhật Bản mệt nhoài và thiếu ăn, thì cũng là một hành động vô vọng chót.
Từ đầu tháng 12 năm 1942, quân số của Mỹ trên đảo gia tăng đến 40.000 người; quân số của Nhật rớt xuống còn 25.000 trong tình trạng thể chất và tinh thần tệ hại. Đây là lúc thích nghi nhất để cho di tản Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến vốn phải chịu dựng trong năm tháng liền những trận đánh hàng ngày trong các điều kiện vô nhân đạo. Những trường hợp mắc bệnh sốt rét, kiết lỵ và suy nhược thần kinh đã vọt tăng nguy hiểm. Đã đến lúc phải cho đơn vị vinh quang này nghỉ ngơi.
Ngày 9 tháng 12, tướng Vandegrift bàn giao quyền chỉ huy lại cho tướng Patch, Tư lệnh Sư đoàn Americal, và vĩnh viễn rời luôn Guadalcanal cùng với các bộ phận còn lại của Sư đoàn ông. Những người mới đến, hầu hết đều thuộc Lục quân, phải mất ít lâu mới làm quen được với rừng già Guadalcanal và khí hậu ghê rợn tại đấy. Cho đến cuối năm ấy, hai bên đối phương án binh chờ đợi, quân Nhật đành phải tiếp tế tằng tiện cho binh sĩ của họ bằng cách phái các tàu ngầm ban đêm chở đến một số thực phẩm, phuy xăng, phần quân Mỹ thì ngày nào cũng gửi dương vận hạm đến, dưới sự che chở của một lực lượng không quân khổng lồ.
Trong tháng giêng năm 1943, cuộc tấn công đầu tiên vào cứ điểm đồi Austen đã chạm phải một hệ thống phòng thủ không thể vượt qua được. Không dám tiến quân trước khi vô hiệu hóa cứ điểm ấy, Patch chờ được tăng viện thêm người và vật liệu để bao vây ngọn đồi, do đó mặt trận trở nên ổn định.
Về phía Halsey, ông đã rút ra bài học nhân các sự thất bại vừa qua. Nimitz, đã theo ý kiến của ông, viết một phúc trình cho rằng nguyên nhân của các thất bại ấy là sự huấn luyện đáng phàn nàn của các tuần dương hạm và khu trục hạm theo chiều hướng chỉ biết có sứ mạng hộ tống khiến cho chúng mất hết các ý tưởng tấn công. Sự ổn định tình hình tại Guadalcanal và sự biến dần các "chuyến tốc hành Đông Kinh" dường như cho thấy một chiều hướng mới trong chiến lược của Nhật, Halsey liền gọi các chiến hạm trở về phía nam để tập họp lại và huấn luyện chúng.
Trong hai tuần đầu của tháng giêng, cuộc tấn công lên đồi Austen bị hoãn lại ngày này đến ngày khác vì lý do thiếu hụt chiến xa nhẹ và tình trạng bi đát của các phi đạo bị các con sông đầy bùn lầy cản trở. Tuy vậy ngày 18 tháng giêng, ba chiến xa nhẹ cũng tấn công lên sườn phía tây. Hai chiếc bị sa lầy nhưng chiếc thứ ba bò lên được đến đỉnh. Trong khi nó pháo và phía sau pháo đài Gifu, nơi dường như còn các binh sĩ khỏe mạnh cuối cùng của Nhật rút vào ẩn nấp, các thông dịch viên Mỹ dùng loa phóng thanh thúc giục họ đầu hàng. Lời kêu gọi chẳng có kết quả gì. Một vài tù binh bị bắt khi được thẩm vấn đã cho rằng một số binh sĩ không mong gì hơn là được đầu hàng, nhưng họ sợ các sĩ quan và cũng chẳng còn sức đâu mà đi tới được nữa...
Nhiều chiến xa đã tiếp nối được chiếc đầu tiên chạy đến tận pháo đài Gifu, sau hai ngày oanh tạc dữ dội, Patch ra lệnh thử tấn công. Một chiến xa chọc thủng được phòng tuyến và một cuộc cận chiến hung tàn xảy ra sau nó, trong hệ thống mê cung gồm hang hốc và các hầm trú ẩn che đậy bằng các thân cây. Đến 2 giờ sáng đêm 22 rạng 23 tháng giêng, chừng 100 binh sĩ Nhật nhảy ra khỏi chỗ ẩn nấp theo lệnh của thiếu tá Inagaki, chỉ huy trưởng cứ điểm, vừa ném lựu đạn vừa nổ súng tự động. Tất cả toán quân đều bị đốn ngã mau lẹ. Khi trời sáng, 85 xác chết nằm sóng sượt trước các hầm ẩn nấp trong đó hai đại đội bộ binh Mỹ rút vào để đẩy lùi cuộc phản công tự sát này. Trong số xác chết có Inagaki, một Tiểu đoàn trưởng khác, tám đại úy và mười lăm trung úy. Khi tiến vào pháo đài, quân Mỹ chỉ tìm thấy những sinh vật ngơ ngẩn hình dáng chỉ còn lại bộ xương và những thương binh đang hấp hối.
Vừa được báo tin, lập tức Patch cho tiến quân qua phía tây trên một mặt trận rộng lớn. Cuộc tiến quân qua các bờ sông dựng đứng giúp cho quân Nhạt tung ra nhiều trận đánh trì hoãn. Từ ngày 26 tháng giêng cho đến ngày 6 tháng 2 năm 1943, quân Mỹ tiến được mười lăm cây số, lần lượt vượt qua các bãi biển đầy xác tàu được dùng để đổ quân và vật liệu từ các "chuyến tốc hành Đông Kinh". Địch quân vừa đánh vừa rút lui, nhưng càng lúc họ phải bọ lại càng nhiều xe cộ và trọng pháo.
Tại Henderson Field, mỗi ngày nghe tiếng súng rời xa hơn, Bộ tham mưu của Patch bắt đầu tiếp đón các cuộc viếng thăm. Sau Đonal Kennedy, Halsey đã đến. Rồi do sự thiếu kín đáo, một đài phát thanh đã loan khắp căn cứ một sửng sốt: không những các Đô đốc Nitmitz và King được loan báo, mà cả Bộ trưởng Hải quân, Frank Knox cũng đã rời Washington đáp máy bay đến viếng thăm Guadalcanal! Rõ ràng là các nhân vật ấy muốn chứng kiến tận mắt chiến trường của các trận đánh đã từng gây cho họ biết bao lo âu đó. Họ cũng muốn thảo luận tại chỗ các bài học rút ra được từ trận chiến đắt giá này và để biết trong điều kiện nào có thể bắt đầu trận kế tiếp. Có lẽ họ cũng hy vọng chứng kiến cuộc bao vây và cuộc đầu hàng quân Nhật. Về điểm này, họ bị thất vọng. Cuộc tiến quân của Mỹ diễn tiến rất chậm chạp và tiếng súng như sấm động liên tục vẫn rung chuyển ngày đêm.
Bình minh ngày 8 tháng 2, cường độ tác xạ pháo binh đột nhiên gia tăng. Tại nhiều nơi, địch quân tung ra nhiều cuộc phản công ác liệt đánh bất ngờ vào đạo quân của Patch. Đến tối, quân Mỹ vấp phải một hàng rào chống cự tàn khốc với nhiều cuộc cận chiến tương tự như trường hợp tại pháo đài Gifu. Rồi đến nửa đêm, trật tự lại được ổn định. Lúc trời sáng, một không khí bình an kỳ dị đột nhiên nối tiếp những tràng súng đạn liên miên mà từ sáu tháng nay vẫn chám phá các đêm thức trắng canh phòng của đạo quân tại phi trường Henderson. Binh sĩ vốn quen với tiếng động, nhảy ra khỏi hố cá nhân với một cảm tưởng khó chịu như bị bệnh. Mặt trời lên cao trên một cảnh rừng già bình yên, đang còn ngái ngủ trong sương sớm.
Trên đảo không còn bóng dáng một quân sĩ Nhật nào nữa. Họ hoàn toàn biến mất như có phép lạ... "Chuyến tốc hành Đông Kinh" cuối cùng đã cặp vào làng Visale nay tại chỗ đức cha Aubin tiếp những người Nhật đầu tiên cách sáu tháng trước. Các hạm trưởng khu trục hạm Nhật đã thành công phi thường trong việc cặp tàu vào hải cảng tí hon, đưa lên tàu gần 10.000 người và ra đi trước khi trời sáng mà không hề làm cho quân Mỹ chú ý.
Các tiền thám viên đầu tiên đến Visale trông thấy các kiến trúc của phái bộ truyền giáo bị cướp phá. Dân bản xứ chạy trốn vào rừng đã trở về từng nhóm nhỏ. Nhờ đó, quân Mỹ mới biết được rằng tất cả các tu sĩ đều rút lui được vào rừng sâu do các hướng đạo viên của các Coast Watchers hướng dẫn, ngoại trừ hai linh mục và một nữ tu sĩ bị bắn bỏ.
Các sử gia Hoa Kỳ kể lại rằng những binh sĩ Nhật Bản kiêu dũng vốn đã đương đầu với một chống mười trước cuộc tiến quân của Patch được tiếp đón rất tệ bạc tại Rabaul, vì bị sa thải hết tại chỗ, "để tránh cho họ mối nhục phải trở về nước trong tư thế những người bại trận". Điều này khá đúng sự thật, vì sau những khổ đau mà họ phải chịu đựng, họ không còn có ích nữa và vì Bộ Tư lệnh Nhật muốn dấu công luận tin tức về cuộc thối lui nhục nhã này.
Ta có thể tìm thấy trong các xứ khác nhiều tấm gương vô ơn bạc nghĩa cũng khó chịu như vậy. Chỉ nói đến Mỹ thôi, cũng không ai ngạc nhiên khi biết không có một vị Đô đốc nào tham dự ngay từ đầu "cuộc mạo hiểm ghê rợn" ấy lại được tưởng thưởng xứng với công lao của họ. Sau khi bị tước quyền Tư lệnh chỉ vì quá thận trọng, Fletcher chìm trong bóng tối cho đến khi hết chiến tranh, và Ghirmley thì không được giữ một chức vụ quan trọng nào khác. Khi cơn nguy hiểm vừa qua, ai cũng quên ngày những trách nhiệm ngàn cân từ rất lâu đè nặng trên vai những người phòng vệ pháo đài cuối cùng.
Chính ngay cả Vandegrift cũng vậy, mặc dầu được thăng lên trung tướng và được huy chương phủ đầy ngực, cũng không được sự tôn kính long trọng như ông xứng đáng được hưởng. Có lẽ người ta đã xét đoán rằng ông ta có đôi phần lăng nhục khi thú nhận rằng, nếu không có nhiệt tâm bất khuất của một ông thiếu tướng và một nhóm nhỏ Thủy quân lục chiến, thì chiến thắng đã lọt vào tay quân địch từ lâu.
Sấm Sét Thái Bình Dương Sấm Sét Thái Bình Dương - Albert Vulliez Sấm Sét Thái Bình Dương