A friend is someone who knows all about you and still loves you.

Elbert Hubbard

 
 
 
 
 
Tác giả: Tấn Minh
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: quốc huy vũ
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 34
Cập nhật: 2021-01-29 22:22:26 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
ụ Án Thứ 2 - Tiếng Súng Lúc Nửa Đêm (1)
Tuy thầy tắt điện thoại, nhưng tôi không hề cho rằng những lời mình nói khi nãy là vô nghĩa. Thực ra bản thân cơ thể con người vô cùng kỳ lạ. Đôi khi vết thương trông có vẻ rất nhẹ nhưng nó lại đủ sức lấy mạng con người, lại có những lúc vết thương nhìn có vẻ rất nặng nhưng người bệnh lại vẫn có thể sống sót. Khi tôi thực tập ở quê nhà từng gặp một trường hợp như thế.
----------
Mặc dù Lâm Đào chưa có bạn gái, nhưng tôi luôn cho rằng cậu ta là kẻ có mới nới cũ, mấy hôm trước còn mân mê ảnh của Tô My, hôm nay đã bắt đầu chủ động "bóc quýt" cho Trần Thi Vũ. Đương nhiên, sở thích ấy cũng áp dụng luôn trong công việc, gặp vụ án mới, cậu ta lập tức quên vụ án cũ. Tôi thì hoàn toàn trái ngược với cậu ta, tuy chúng tôi phá giải được vụ huyết án giết nhiều người, nhưng vụ án quái lạ không có chút manh mối nào liên quan đến 'Kẻ dọn rác' kia vẫn đeo đẳng trong đầu tôi, khiến từ đáy lòng dấy lên một cảm giác không lành.
"Tiêu rồi! Xém chút tôi quên mất vụ đó." Lâm Đào nói xong, liền cười chữa ngượng, rồi lục điện thoại bấm gọi cho ai đó.
"Đợi chút!" Tôi kéo Lâm Đào lại, "Cậu không xem giờ là mấy giờ hay sao mà còn gọi điện thoại cho người ta?"
"Cá một bữa sáng nhé! Tôi cược là anh cả Ngô này dậy rồi." Lâm Đào không chịu ngừng động tác bấm điện thoại, "Anh tin không? Không tin à?"
Điện thoại nhanh chóng được kết nối, Lâm Đào chỉ "Ừm... À..." đáp lời, rồi tắt máy.
"Đi nào! Chúng ta đến Sở Cảnh sát." Lâm Đào nheo mắt nói, "Trên đường anh đãi tôi bữa sáng đấy nhé! Vì anh thua cược!"
"Chưa đến bảy giờ mà anh Ngô đã đến văn phòng rồi ư?" Tôi ngạc nhiên. Trong ấn tượng của tôi phòng Giám định chữ viết là phòng nhàn rỗi nhất trong cả Sở Cảnh sát, chẳng ngờ mới sáng sớm tinh mơ thế này, người ta đã đi làm rồi, đúng là chẳng ai học được chữ ngờ.
Ngô Kháng năm nay bốn mươi lăm tuổi, là trưởng khoa Giám định chữ viết, tuy chức hàm không cao nhưng lại vang danh khắp cả nước. Anh ấy nói mình chỉ hợp làm chuyên môn, không hợp làm lãnh đạo, thế là ngày nào anh cũng trốn trong phòng thí nghiệm mải mê nghiên cứu đống văn kiện tài liệu. Thành quả mà anh đạt được từ các đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực giám định chữ viết còn nhiều hơn bất kỳ giáo sư nào thuộc khoa Giám định chữ viết ở các Học viện Cảnh sát.
Nghiên cứu học thuật thường chia ra làm hai loại, những người theo nghề nghiên cứu học thuật mang tính lý luận thường đem lại cho người ta cảm giác cứng nhắc và bài bản, còn những người nghiên cứu học thuật mang tính thực tiễn thì thông thường đều rất đơn thuần. Ngô Kháng là một "Lão Ngoan Đồng (1)" chính hiệu.
(1) Lão Ngoan Đồng: Là biệt hiệu của Chu Bá Thông, một nhân vật trong tiểu thuyết Anh hùng xạ điêu của Kim Dung, ý nói người có tính tình ngây thơ, hay đùa giỡn như trẻ con.
Tuy bốn mươi lăm tuổi chưa thể coi là già, nhưng đã ở tuổi trung niên mà Ngô Kháng hễ rảnh lại gọi điện rủ chúng tôi chơi trò World of Warcraft (Thế Giới Warcraft) hoặc Leagues of Legends (Liên Minh Huyền Thoại), hành động đó có lẽ chỉ dùng cụm từ "tâm tính trẻ con" mới đủ sức hình dung mà thôi.
Vì anh thường chơi với hội thanh niên hơn hai mươi hoặc hơn ba mươi tuổi như chúng tôi nên các anh em trong tổ mới tôn trọng gọi anh là "anh cả Ngô". Bất kể xét về mặt học thuật hay xét về mặt nhân phẩm, anh ấy đều xứng đáng là anh cả của chúng tôi.
"Chuyện này thì các anh chưa hiểu rồi." Hàn Lượng vừa nheo mắt lái xe vừa nói, "Trên Weibo thường nói thế này: Bạn tự nhiên tỉnh dậy lúc mấy giờ vào sáng sớm, sẽ nói cho bạn biết bạn thuộc thế hệ mấy X, ví dụ mặc dù tối hôm trước tôi cố gắng ngủ sớm đến đâu thì sáng hôm sau cũng phải tám giờ hơn tôi mới tỉnh tự nhiên mà không cần ai hay công cụ nào báo thức. Điều đó nói lên tôi thuộc thế hệ 8X, lớp người già như anh Ngô dậy lúc hơn sáu giờ sáng là phải rồi."
"Vớ vẩn! Anh Ngô vẫn còn thanh niên lắm, ngoại hình và nội tâm đều tương đương chúng ta." Tôi biết Hàn Lượng lắm lời nên cắt ngang, "Bữa sáng này đổi thành cậu đãi đấy nhé, nếu không tôi sẽ đi mách anh Ngô. Còn nữa, tôi cảm thấy nếu giờ mà chạm vào gối, đảm bảo tôi sẽ ngủ đến tận chiều, cậu bảo tôi thuộc thế hệ mấy X?"
"Quy luật này không hợp với những người ngủ ngày cày đêm như anh." Hàn Lượng cười đáp.
"Tôi là bị bắt buộc trở thành cú đêm đấy nhé!" Tôi ngáp dài, "Ai không muốn đúng giờ trở về nhà ôm vợ ngủ chứ hả?"
Tôi huênh hoang kéo dài chữ "vợ" làm Lâm Đào quay lại nhìn khinh bỉ, sau đó cậu ta liếc trộm Trần Thi Vũ đang lơ đãng ngồi ở hàng ghế sau.
Trong phòng thí nghiệm bày đủ loại dụng cụ dùng để kiểm tra mẫu chữ với các công dụng khác nhau: máy quét phân tích cao tần, máy phân tích thời gian viết chữ, máy kiểm tra con dấu,... Đương nhiên vật nổi bật nhất vẫn là màn hình tinh thể lỏng độ nét cao 45 inch để trên bàn ngay giữa phòng thí nghiệm. Lúc nghỉ trưa, chúng tôi từng nối PS2 chơi bóng đá trên màn hình cỡ đại này, sau đó bị thầy bắt ngay tại trận, từ đó mới không dám "sử dụng của công vào việc tư" nữa.
Lúc này trên màn hình hiển thị cảnh tượng luôn luẩn quẩn trong đầu tôi - ba chữ viết bằng máu 'Kẻ dọn rác'.
"Đến rồi à?" Anh Ngô ngồi vắt chéo chân, chỉ vào màn hình nói, "Bức ảnh này chụp không tốt lắm, hơi rung."
Tôi nhìn Lâm Đào bằng ánh mắt khinh bỉ.
Trần Thi Vũ nói xen vào: "Trong máy tôi có hình chụp cảnh này." Nói xong liền cắm dây kết nối máy ảnh của mình vào máy tính của anh Ngô.
Mắt anh Ngô bừng sáng: "Có thế chứ! Đúng là trình độ chuyên nghiệp! Bức này thì rõ rồi!"
"Thế anh có nhìn ra manh mối gì không?" Tôi sốt ruột hỏi.
Anh Ngô cầm hộp sữa đậu nành đặt trên bàn rít một hơi, chậm rãi nói: "Ba chữ này viết hơi ngoáy, nhưng nét chữ lại rất uyển chuyển. Điều đó cho thấy người viết chữ không thể là người có trình độ văn hóa thấp."
"Đợi chút! Anh dùng từ 'uyển chuyển' ở đây là ý gì?" Tôi mở to mắt ngạc nhiên, "Chẳng lẽ anh có thể phán đoán được giới tính của người viết chữ sao?"
Anh Ngô lắc đầu: "Tôi không đánh giá cao việc phán đoán giới tính thông qua nét chữ. Tuy cũng có đề tài về phương diện này, nhưng đó đều là đề tài nghiên cứu chữ viết trên giấy, vì khi hạ bút trên giấy cũng chẳng khác nào đóng dấu. Nhưng lấy chữ viết trên tường để phán đoán giới tính thì phần đa đều không chuẩn. Trong vụ án này, tôi chỉ có thể kết luận hung thủ có trình độ văn hóa nhất định. Điều tôi muốn nhắc nhở các cậu là dáng điệu viết chữ cho thấy khi viết ba chữ này, hung thủ rất ung dung."
"Ung dung ư?" Tôi nhíu mày, "Điều đó chứng tỏ tố chất tâm lý của hắn rất vững, giết người mà không hề hoảng loạn sao?"
"Ừ! Cậu nói đúng một phần rồi đấy!" Anh Ngô nói, "Còn phần nữa, hung thủ không khom lưng, không ngồi xổm cũng không kiễng chân để viết."
"Hả?" Mắt tôi sáng bừng lên, "Suy đoán này hay quá, như thế ta có thể phán đoán chiều cao của hung thủ."
Tôi lấy điện thoại ra, giơ bút lục khám nghiệm tử thi và bút lục kiểm tra hiện trường sau mỗi lần khám nghiệm tử thi kết thúc.
"Thông thường khi một người viết chữ ở tư thế đứng, vị trí của chữ thường nằm ngang tầm giữa mũi và miệng của người viết." Anh Ngô bổ sung, "Ba chữ viết bằng máu kia cách mặt đất bao nhiêu?"
"Một mét rưỡi."
"Vậy phải cộng thêm hai mươi centimet nữa! Đó chính là chiều cao của hung thủ." Anh Ngô nói.
Đại Bảo vân vê chòm râu ở cằm, nói: "Một mét bảy mươi, đó hẳn là một phụ nữ khá cao đấy!"
"Phụ nữ?" Tôi quay sang nhìn Đại Bảo, "Sao cậu biết là phụ nữ?"
Đại Bảo lắc đầu không nói.
Lâm Đào nhăn mày: "Với chiều cao như thế mà là nam giới thì hơi thấp, nhưng nếu là nữ giới thì lại hơi cao. Bởi vậy, việc suy đoán chiều cao hung thủ trong tình trạng vẫn chưa phát hiện ra bất kỳ kẻ nào khả nghi như bây giờ thì chẳng có mấy tác dụng."
"Những phương diện khác thì sao?" Tôi hỏi, "Anh có suy đoán gì về các phương diện khác không?"
Anh Ngô nói: "Vì dùng máu viết lên tường thì phần các nét giao nhau sẽ thường in chồng lên nhau, không giống như viết trên giấy còn có độ hằn xuống của mặt giấy, bởi vậy khó lòng phán đoán được thói quen viết chữ từ thứ tự đặt bút. Tuy nhiên vẫn có thể phát hiện ra một vài quy luật từ thói quen viết nét chữ."
"Anh nói vậy là ý gì?" Tôi khấp khởi mừng thầm.
Anh Ngô cười lớn vỗ vai tôi: "Chẳng ý gì cả! Tôi nghĩ nếu các cậu mang tập tài liệu mà hung thủ viết đến đây, nói không chừng sẽ có giá trị so sánh."
Nếu thông báo tin này vào hậu kỳ công tác điều tra thì hẳn là một tin rất tốt, vì giám định chữ viết có thể coi là chứng cớ trực tiếp trước tòa án. Nhưng biết tin này trong giai đoạn đầu điều tra thì chẳng có gì hay ho cả. Giờ chúng tôi giống như con mèo mù lang thang trên phố, không biết phải gom góp bao nhiêu may mắn mới có thể vớ được khúc cá rán thiu. Thời điểm hiện tại, hướng điều tra đang mông lung thế này càng chẳng thể bàn đến việc xác định kẻ tình nghi là ai. Vả lại từ giọng điệu của anh Ngô có thể ngầm hiểu dẫu có bút tích của hung thủ thì cũng chưa chắc đã so sánh và xác định được rằng chúng đồng nhất.
"Điều tôi quan tâm bây giờ không phải chứng cứ." Tôi nói, "Chỉ cần có thể cung cấp phương hướng điều tra là tốt lắm rồi."
Anh Ngô lắc đầu: "Chữ người này rất ngoáy, tôi không phát hiện ra đặc trưng nổi bật nào có thể dùng để loại trừ đối tượng một cách trực tiếp. Đương nhiên khi viết chữ mỗi người đều có đặc trưng riêng, chỉ có điều hiện giờ những thông tin mà tôi nắm được quá ít ỏi, chỉ có ba chữ. Mỗi ba chữ! Các cậu coi tôi là thánh à?"
"Nhân vật đẳng cấp thần thánh thì phải làm được những việc thuộc đẳng cấp thần thánh tí chứ!" Lâm Đào cười.
Anh Ngô nói: "Nếu lại xảy ra một vụ thuộc chuỗi án liên hoàn này, rồi cầm ba chữ kia đến đây, nói không chừng tôi sẽ phát hiện ra điều gì đó."
"Lạy anh luôn!" Tôi suýt quỳ xuống vái sống anh Ngô, "Anh độc mồm vừa thôi! A di đà Phật!"
"Làm gì có chuyện nói đâu trúng đó thế được!" Anh Ngô nói giọng phớt đời, "Nếu tôi nói hai câu mà xảy ra án mạng thật thì tôi mới thực sự xứng danh nhân vật đẳng cấp thần thánh như các cậu vừa tôn vinh đấy!"
"Ôi thôi! Anh cả đừng nói nữa!" Lâm Đào nghiêm giọng nói, "Chuyện này cũng khó lý giải lắm, ví dụ như mỗi lần trưởng khoa Tần Minh nhà chúng ta mà nói nhàn thế, rỗi thế, thoải mái thế, chán thế thì y như rằng có án mạng xảy ra. Cái này người ta gọi là độc mồm độc miệng."
"Không đùa với các cậu nữa! Các cậu đang đùa với lửa đấy!" Tôi trừng mắt nhìn họ, rồi nói tiếp, "Năm người chúng ta thức trọn một đêm chưa được ngủ để phá án, giờ díp hết cả mắt, chúng ta nên về ngủ một lát trước đã!"
"Ha ha ha! Nếu tôi còn tiếp tục độc mồm độc miệng thì chẳng phải các cậu khỏi ngủ luôn còn gì?" Anh Ngô cười sung sướng.
"Tinh tang! Tinh tang!"
Tiếng chuông điện thoại của tôi reo lên khiến nụ cười trên môi mọi người lập tức tắt ngúm.
"Không phải chứ?" Anh Ngô trợn mắt kinh ngạc.
"Ổn không?" Thầy luôn nói ngắn gọn như thế, nhưng tôi nghe ra ẩn sau hai chữ đơn giản ấy là lần nữa chúng tôi trúng "chưởng thối mồm" của anh Ngô.
"Dạ... ổn!" Tôi đáp với giọng không chắc.
Dù lực lượng cảnh sát thiếu hụt trầm trọng thì khoa Pháp y, khoa Giám định dấu vết vẫn phải miễn cưỡng chia thành hai đội để đề phòng trường hợp lỡ cùng lúc xảy ra hai vụ án thì vẫn còn phương án đối phó. Nếu giờ mà tôi bỏ về nhà ngủ thì tổ pháp y còn lại gồm bác sĩ Tiêu và bác sĩ Phương buộc phải lập tức chạy đến hiện trường. Chỉ trong ba giây ngắn ngủi sau khi nhận được cú điện thoại của thầy, trong đầu tôi âm thầm diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng kịch liệt. Cuối cùng, sức hấp dẫn của việc phá án đã đè bẹp sức hấp dẫn của chiếc giường, thế là tôi liền gật đầu đồng ý.
Thầy nói: "Ở Trình Thành vừa xảy ra một vụ nổ súng, các cậu lập tức xuất phát ngay bây giờ, trong vòng hai tiếng phải tới được hiện trường."
"Vụ nổ súng sao?" Tôi hỏi, "Vậy có người chết không ạ?"
"Nói nhảm!" Thầy tắt điện thoại.
Tuy thầy tắt điện thoại, nhưng tôi không hề cho rằng những lời mình nói khi nãy là vô nghĩa. Thực ra bản thân cơ thể con người vô cùng kỳ lạ. Đôi khi vết thương trông có vẻ rất nhẹ nhưng nó lại đủ sức lấy mạng con người, lại có những lúc vết thương nhìn có vẻ rất nặng nhưng người bệnh lại vẫn có thể sống sót. Khi tôi thực tập ở quê nhà từng gặp một trường hợp như thế.
Hôm đó, tôi đang trực ban trong phòng Chẩn đoán pháp y, bố tôi là đội phó đội Điều tra hình sự của khu vực, ông gọi điện thoại cho tôi nói Viện Kiểm sát đang xử lý một vụ án, đó là vụ nổ súng, ông đã liên hệ với người ta bảo cho tôi xuống đó kiến tập.
Nhận được điện thoại của bố xong, tôi bật nhảy thật cao và sung sướng, tôi chưa từng nhìn thấy vết thương do súng bắn, ngay cả các thầy giáo ở Học viện Pháp y chúng tôi cũng rất hiếm khi gặp. Đương nhiên điều này có lợi cho việc kiểm soát súng ống của quốc gia một cách hữu hiệu. Khi đó tôi chẳng nghĩ gì, vội vàng bắt xe đến Bệnh viện Nhân dân của thành phố. Hồi ấy, cước phí khởi điểm của xe taxi là ba tệ, khoảng cách giữa phòng hội chẩn pháp y và bệnh viện vừa vặn nằm trong mức giá mở cửa đó. Lúc xuống xe, tôi hào phòng rút ra tờ năm tệ đưa cho tài xế mà bảo: "Chú cứ cầm lấy, không cần trả lại tiền thừa đâu! Đừng ngại!"
Vốn nghĩ rằng đồng chí phòng Pháp y của Viện Kiểm sát sẽ dẫn tôi đến thẳng nhà xác, nào ngờ họ lại dẫn tôi vào phòng bệnh. Trong hành lang của phòng bệnh có một người đang đứng tựa tường, đầu cuốn băng trắng xóa, luôn miệng lải nhải với bác sĩ: "Nói cho bác sĩ biết nhé! Ông đây bị súng bắn đấy, các người mà không giúp ông gắp viên đạn trong đầu ra thì ông liều mạng với các người!"
Anh ta nói câu đó nghe như thể đang hát đồng dao, tôi nghe kỹ lại thấy tâm trạng mình rất phức tạp. Nếu nói theo ngôn ngữ hiện đại thời bây giờ thì phản ứng của tôi khi đó là "ngớ người".
Sau khi xem phim chụp X-quang, tôi mới biết người này bị đạn nảy sát thương. Vì viên đạn bắn trúng tảng đá mất lực xoay chuyển nên cũng mất "hiệu ứng cộng hưởng hốc sau khi bị đạn bắn", nhờ đó lực sát thương của viên đạn cũng giảm đi hàng mấy trăm lần. Viên đạn này bật từ tảng đá văng trúng đầu người này. Tuy viên đạn đã bắn nát phần da và xương sọ của anh ta, vào hẳn trong hộp sọ nhưng viên đạn đã suy yếu đi rất nhiều và không còn chút lực sát thương nào nữa. Sau khi viên đạn mất lực sát thương chui vào trong đầu anh ta và dừng lại tại mô não, nó không làm tổn thương trung khu, cũng không làm vỡ mạch máu. Bởi vậy người bị trúng đạn không hề xảy ra hiện tượng xuất huyết não, cũng không xảy ra bất kỳ triệu chứng nào về hệ thống thần kinh, nhờ thế anh ta vẫn có thể đứng đó quát mắng bác sĩ.
Là bác sĩ pháp y, tôi hoàn toàn không có kinh nghiệm xử lý những vết thương kiểu này, căn cứ vào tiêu chuẩn chẩn đoán tình trạng vết thương lúc bấy giờ, căn cứ vào tình trạng hộp sọ bị tổn thương dạng mở, tôi đánh giá thương tích của anh ta vào loại nặng. Sau đó tôi cũng rất quan tâm đến tình hình chữa trị của anh ta, chẳng ngờ các bác sĩ chỉ cần nhẹ nhàng gắp viên đạn ra từ lỗ hổng trên hộp sọ của anh ta, mà không cần phải cưa hộp sọ.
Vì trải qua kinh nghiệm này nên tôi mới hỏi thầy câu đó.
Tuy Đại Bảo và Lâm Đào không hiểu dụng ý câu nói của tôi lắm nên cảm thấy buồn cười nhưng thời hạn thầy quy định vô cùng gấp gáp nên thậm chí chúng tôi còn không có thời gian mà trách móc anh Ngô, càng không có thời gian cười chọc tôi. Tất cả chạy xuống chỗ đỗ xe ở dưới tầng.
Hàn Lượng vẫn chưa đến, chúng tôi sốt ruột chờ đợi. Thế mà Lâm Đào vẫn nhàn nhã ngồi chỉnh sửa lại tóc mình và quay sang hỏi Trần Thi Vũ: "Buồn ngủ không?"
Trần Thi Vũ vẫn không đoái hoài đến cậu ta, điều đó làm tôi rất bất ngờ. Cô gái trước mặt liệu có phải phụ nữ không mà lại thờ ơ với Lâm Đào thế nhỉ?
Chúng tôi nóng lòng chờ đợi hai mươi phút mới thấy một chiếc Audi phóng như bay đến đội xe, Hàn Lượng tới rồi.
"Cậu làm sao thế? Không biết công việc này gọi một tiếng là phải đến ngay à?" Tôi hơi bực mình.
Hàn Lượng ấm ức: "Lúc ở trên tầng các anh bảo tôi về nhà nghỉ ngơi còn gì? Ai mà biết lại có vụ án mới. Hay các anh đi chùa khấn vái xem có đỡ hơn không? Chỉ trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ mà xảy ra những ba vụ án."
"Vừa mới sáng sớm cậu đã chạy đi tán gái rồi à?" Đại Bảo tỏ vẻ hiểu biết, "Lại thay bạn gái mới à?"
Hàn Lượng nhún vai: "Tôi chỉ đưa một em mới quen đi làm thôi mà! Dẫu sao tối qua trong lúc các anh khám nghiệm tử thi, tôi đã ngủ một giấc ngon lành rồi!"
"Thời điểm này mà đàn bà còn có sức hấp dẫn hơn cả giấc ngủ cơ à?" Tuy biết Hàn Lượng là cậu ấm con nhà giàu có thiên tình sử dài dặc, nhưng tôi vẫn không thể hiểu nổi hành vi của cậu ta.
Xe rung lắc khiến chúng tôi nhanh chóng đi vào giấc mộng, dường như tôi mơ thấy người bị trúng đạn đang giậm chân giậm cẳng trách cứ chúng tôi đến muộn.
Xe thoát khỏi đường cao tốc và chạy vào vùng giảm tốc, chúng tôi lần lượt tỉnh giấc, nhìn thấy hai chữ "Trình Thành" ở trạm thu phí đường bộ. Thì ra chúng tôi đã đến rồi.
Sau hai tiếng ngủ gà gật trên xe, tôi thấy tinh thần tỉnh táo hơn nhiều, mặc kệ thân thể đau ê ẩm, chúng tôi lao thẳng đến hiện trường bắt đầu hành trình phá giải vụ án mới.
Kẻ Dọn Rác
Tần Minh
Vụ Án Thứ 2 - Tiếng Súng Lúc Nửa Đêm (2)
Xe cảnh sát của chúng tôi đi theo xe cảnh sát địa phương hướng về phía tây ngoại ô thành phố. Một lát sau đã đến thôn. Đây là một miền quê khá trù phú và rộng lớn.
Hiện trường nằm ven đường cái cắt ngang thôn, phía ngoài vòng dây cảnh báo đã có rất nhiều người dân đứng vây quanh.
Tôi dụi mắt cho đỡ mỏi, vươn vai, rồi xách hòm dụng cụ khám nghiệm bước xuống xe.
Đây là đường chính dẫn vào trong thôn nên con đường đất đỏ này khá rộng rãi. Vì hiện trường ở ngoài trời nên để bảo quản vật chứng và các dấu vết xung quanh, cảnh sát dân sự đến trước đó đã dựng chướng ngại vật và căng dây cảnh báo cách hiện trường trung tâm hơn một trăm mét. Ba chúng tôi đeo thẻ điều tra, vượt qua khu vực phong tỏa hướng về phía hiện trường trung tâm.
Lần này vết thương do súng bắn đã lấy đi mạng người!
Một người đàn ông tầm ba, bốn mươi tuổi nằm dưới gốc cây ven đường, quanh thi thể có rất nhiều vết máu lớn. Từ hiện trường trung tâm hướng về phía bắc chừng mười mét có thể thấy dấu chân máu thành hàng, hướng bước chân cho thấy kẻ đó tiến vào hiện trường trung tâm.
Là kỹ thuật viên giám định dấu vết nên Lâm Đào rất hứng thú với dấu chân. Trong khi chúng tôi vẫn đang quan sát xung quanh hiện trường thì Lâm Đào đã chạy đến bên cạnh dấu chân, ghé sát mặt xuống xem xét. Nhìn một lúc, cậu ta lại bước đến cạnh thi thể, thấy đế giày của thi thể, cậu ta nói: "Ô, dấu chân thành hàng này là của chính bản thân nạn nhân."
"Không có dấu chân của người khác sao?" Tôi hỏi.
Lâm Đào lắc đầu: "Không! Từ đặc trưng của dấu chân cho thấy chỉ có một đôi giày, chính là đôi giày mà người chết đang đi."
"Vậy xem gần đây có dấu chân của những người khác không?" Trần Thi Vũ hỏi.
"Làm thế không có ý nghĩa gì hết! Cô đừng quên đây là đường cái, trên đường đương nhiên phải có rất nhiều dấu chân với đủ mọi kích cỡ, hình dạng. Ai dám khẳng định dấu chân nào là dấu chân do hung thủ để lại?" Lâm Đào thất vọng.
Tôi lần theo dấu chân máu bước đến điểm khởi đầu của dấu chân và quan sát trên mặt đất. Trên mặt đất có một vết bùn đất cọ sát còn mới, cạnh đó có một vùng máu lớn. Điểm khởi đầu của dấu chân máu chính là từ đây. Tôi chỉ vũng máu nói: "Có lẽ nạn nhân bị thương ở đây, sau đó bước dần đến hiện trường trung tâm, ngã xuống và tử vong."
"Bị bắn mà còn đi được dài thế sao?" Trần Thi Vũ hỏi.
Đại Bảo cướp lời: "Lông Vũ, tại cô chưa hiểu đấy thôi. Đầu tiên, chúng ta không biết vị trí vết thương chí mạng của nạn nhân nằm ở đâu và vết thương chí mạng đó có nghiêm trọng hay không. Tiếp đó, chỉ xét riêng khả năng hành vi sau khi dính vết thương chí mạng thì mỗi cá nhân đã có sự khác biệt rất lớn. Thông thường khi bị một nhát dao đâm vào tim, đa số trường hợp tim sẽ ngừng đập, rồi tử vong ngay sau đó, nhưng cũng có người sau khi bị dao đâm vào tim sẽ chạy điên cuồng một trăm mét rồi mới ngã vật xuống đất và tử vong. Từ dấu vết để lại có thể thấy nạn nhân bị thương ở đây, nhưng vẫn tiếp tục đi được ngoài chục mét mới chết là chuyện rất bình thường."
Trần Thi Vũ gật đầu, nhưng ngay sau đó lại nhăn mày nói: "Tên tôi là Trần Thi Vũ, ok? Tên hay thế mà bị anh gọi chẳng ra làm sao cả!"
Cạnh tử thi có một khẩu súng, trên thân súng dính vài vết máu. Đây là khẩu súng săn tự chế, ống đạn đơn. Vì muốn đảm bảo có thể bắn đạn từ cự ly xa mà không thay đổi đường đạn nên nòng súng được thiết kế rất dài, phải đến tám mươi centimet, cộng cả thân súng và báng súng thì khẩu súng này dài chừng một mét hai mươi.
Nhà nước quản lý súng ống vô cùng nghiêm ngặt, không chỉ quản lý nghiêm ngặt với việc thực thi sản xuất súng ống mà còn quản lý nghiêm ngặt cả với các loại súng tự chế, nếu phát hiện sẽ lập tức bị tịch thu, không những thế còn xử phạt nghiêm khắc với những người tàng trữ súng ống. Nhưng có lẽ do vấn đề tồn đọng của lịch sử nên súng tự chế ở Trình Thành vẫn còn khá nhiều. Tuy bộ phận cảnh sát an ninh thường xuyên tổ chức các chuyến ra quân quy mô lớn để thu hồi súng ống và xử lý đương sự, nhưng tình trạng chế tạo và buôn bán súng ống phạm pháp vẫn cứ tồn tại, đặc biệt đối với những trường hợp chế tạo và cất giữ súng ống tại nhà lại càng không có biện pháp gì từ bỏ tận gốc. Dẫu có người báo án thì khi cảnh sát dân sự đến kiểm tra vẫn rất khó khăn mới tìm ra được nơi giấu súng ở địa bàn nông thôn người thưa đất rộng này.
Tuy thấy súng ống ở Trình Thành không phải việc gì kỳ quái nhưng cảnh sát địa phương vẫn vô cùng căng thẳng, bởi họ không quản lý súng ống chặt chẽ gây hậu quả chết người, chắc chắn trưởng đồn cảnh sát là người phải chịu trách nhiệm về việc này.
"Đây đâu phải địa điểm thuận tiện để giết người nhỉ?" Tôi đứng thẳng người, thắc mắc, "Xung quanh hiện trường rất trống trải, không có vật che chắn. Tuy hộ gia đình gần đây nhất cũng cách hơn hai trăm mét, nhưng chỉ cần ai đó đứng ở cửa là có thể nhìn rõ mọi thứ xảy ra tại đây. Trong ấn tượng của tôi, những kẻ dùng súng bắn người thông thường đều lên kế hoạch từ trước, nhưng lên kế hoạch giết người ở đây thì không hợp lý chút nào."
Đại Bảo nghe tôi nói vậy cũng đứng thẳng người nhìn bốn phía xung quanh.
"Tình hình chúng tôi điều tra được là thế này..." Đồn trưởng cảnh sát Lưu châu đầu lại chủ động trình bày, "Nạn nhân tên là Hồ Kỳ, ba mươi bảy tuổi, sống ở thôn Hồ Gia, nông dân, đạo đức không tốt lắm, có tiền án về tội trộm cắp. Hơn nữa tật xấu lớn nhất của người này là yêu rượu hơn cả mạng sống. Mà hễ uống rượu là đánh vợ, đánh mẹ già, ra ngoài động tay động chân với các bé gái, thường xuyên tranh chấp cãi cọ với người khác. Nói chung mọi người trong thôn rất ghét anh ta, nghe đến tên anh ta là đã cau mày khó chịu. Chắc anh ta bị coi là ác bá mất, người dân trong vùng đều nói loại cặn bã như anh ta chết đi là phúc đức cho xã hội."
Tôi hiểu hàm ý trong câu nói của đồn trưởng, anh ta muốn kể lể các tật xấu của nạn nhân lúc còn sống hòng giảm nhẹ trách nhiệm của mình. Nhưng tôi tin rằng cho dù nghĩ vậy anh ta cũng không dám bịa đặt tình tiết, có lẽ lúc còn sống nạn nhân quả thật đầy rẫy chiến tích bất hảo.
"Còn nữa..." Đồn trưởng bổ sung, "Chúng tôi từng nhìn thấy khẩu súng này rồi, cũng đối chiếu rồi, nó là súng tự chế của anh ta. Tháng trước không biết anh ta lấy đâu ra một ống thép, thế là anh ta bắt đầu chế tạo súng ngay tại nhà, đại khái là hai tuần trước thì làm xong. Chuyện này, mẹ của anh ta là Triệu Tú Liên và vợ của anh ta là Trương Việt có thể làm chứng. Chúng tôi cũng đã lục soát trong hầm chứa nhà anh ta, tìm thấy vật liệu còn thừa dùng để chế tạo súng, cùng mấy viên đạn tự chế."
"Hiện tại cảnh sát bước đầu nhận định nạn nhân Hồ Kỳ nửa đêm mang súng ra khỏi nhà không cẩn thận làm súng cướp cò bắn trúng người mình dẫn đến mất máu quá nhiều và tử vong." Bác sĩ pháp y ở Trình Thành họ Dương lên tiếng, "Chúng tôi vẫn chưa tiến hành khám nghiệm nên cũng chưa thể khẳng định quan điểm của họ."
Súng của mình lấy đi chính tính mạng của mình, đây là cái cớ tốt nhất để đồn trưởng làm giảm nhẹ trách nhiệm khi bị truy cứu.
"Các anh sờ vào khẩu súng đó rồi à?" Lâm Đào nghe họ nói đã nhận diện khẩu súng tại hiện trường rồi liền vội hỏi.
Tôi cũng lo lắng hệt như Lâm Đào, chỉ sợ tên đồn trưởng cuống lên muốn thoát khỏi trách nhiệm đã phá hoại dấu vết trên khẩu súng.
"Không! Không!" Đồn trưởng xua tay, "Chúng tôi dẫn nhân chứng đến hiện trường để nhận diện. Chúng tôi cũng có ý thức bảo quản vật chứng chứ!"
"Vậy phần vật liệu thừa giờ ở đâu?" Lâm Đào cau mày, "Tôi muốn tiến hành đối chiếu chỉnh thể phân tách."
Kỹ thuật đối chiếu chỉnh thể phân tách là một trong những ngón võ hữu dụng của chuyên ngành giám định dấu vết. Phương pháp cụ thể như sau: Thông qua việc đối chiếu dưới kính hiển vi, nhân viên giám định sẽ tiến hành kiểm tra, giám định lắp ráp lại, quan sát các đặc trưng nhỏ ở miệng các vết lắp ráp phần đầu bị vỡ hoặc gãy của hai vật thể, sau đó phán đoán xem hai vật thể đó có phải cùng một vật không hay chúng là hai vật thể riêng rẽ.
"Để tôi cho người đi lấy." Đồn trưởng nói xong liền gọi điện thoại cho nhân viên kỹ thuật hình sự của đồn.
"Ai báo án vậy?" Tôi hỏi.
Đồn trưởng hướng mắt về đám người ở phía xa, rồi chỉ một thanh niên trẻ, hét to gọi cậu ta: "Hồ Lê Miêu, cậu lại đây kể cho lãnh đạo trên tỉnh biết tất cả những gì cậu phát hiện và quá trình đi báo cảnh sát."
Nghe thấy cụm từ "lãnh đạo trên tỉnh", đám đông đột nhiên nhao nhao như chợ vỡ, mọi người thi nhau bàn luận, có thể họ cho rằng tất cả lãnh đạo trên tỉnh đều được cử xuống điều tra vụ án này, điều đó chứng tỏ vụ án này nhất định phải là vụ án lớn chứ hoàn toàn không đơn giản giống suy nghĩ ban đầu của họ.
Tôi ngại ngùng gãi đầu, trừng mắt nhìn đồn trưởng, lòng thầm mắng sao anh to mồm thế? Đám đông vây quanh chắc không biết rằng trong Sở Cảnh sát, phòng Pháp y thực ra chỉ là đơn vị cơ sở. Ngoại trừ những vụ án đơn giản, thông thường thì chỉ khi Đội Cảnh sát không đủ nhân lực, chúng tôi mới được nhúng tay vào. Còn lại chúng tôi chỉ việc đi giám định hiện trường và giải quyết các vấn đề ở cơ sở, giúp các đơn vị pháp y cơ sở thêm tay thêm chân, thêm con dao mà thôi.
Hồ Lê Miêu theo chân một cảnh sát dân sự băng qua khu vực phong tỏa tiến về phía chúng tôi. Trông cậu ta mắt la mày lém, dọc đường đi luôn ngó trước dòm sau.
"Cậu nói đi! Rốt cuộc xảy ra chuyện gì?" Tôi đứng trước mặt Hồ Lê Miêu, che tầm nhìn của cậu ta, không cho cậu ta nhìn thấy thi thể người chết, đồng thời tháo găng tay dính máu trên tay mình ra.
Hồ Lê Miêu rụt đầu nói: "Chuyện là thế này ạ... Tối qua tôi đánh mạt chược ở nhà anh tôi, lúc hơn mười giờ đêm đột nhiên tôi nghe thấy một tiếng "Pằng!" giống như nhà ai nổ pháo. À không, còn giòn hơn cả tiếng pháo. Bốn người chúng tôi lập tức chạy ra ngoài xem, nhưng chẳng thấy ánh pháo gì cả."
"Đợi chút! Nhà anh cậu ở đâu?" Tôi hỏi.
Hồ Lê Miêu và đồn trưởng cùng chỉ về phía đông của hiện trường rồi đáp: "Nhà anh tôi nằm ở phía đông cách đây ba trăm mét."
"Men theo con đường này phải không?"
Hồ Lê Miêu gật đầu.
"Vậy các cậu nhìn thấy gì không?"
"Khi đó trăng rất sáng, chúng tôi nhìn thấy một bóng người đi về hướng tây." Hồ Lê Miêu nói, "Xem bóng lưng rất giống anh ta." Nói xong Hồ Lê Miêu chỉ tay về phía thi thể của Hồ Kỳ nằm trên mặt đất.
Tôi ngoảnh đầu nhìn đồn trưởng để xác thực xem cậu ta khai đúng không.
Đồn trưởng gật đầu: "Chúng tôi đã lấy khẩu cung rồi, mấy người chơi mạt chược đều xác nhận chuyện này là thật."
"Cậu chắc chỉ thấy một bóng người chứ?" Tôi hỏi.
Hồ Lê Miêu kiên định gật đầu.
"Căn cứ vào manh mối này, về cơ bản chúng tôi xác định nạn nhân tử vong vì súng tự chế của mình bị cướp cò." Đồn trưởng nói.
Tôi xua tay: "Đừng vội đưa ra kết luận! Nhà Hồ Kỳ ở đâu?"
Đồn trưởng chỉ tay về phía tây đáp: "Nằm ở phía tây cách đây một trăm mét, qua khu vực phong tỏa, rẽ trái, rồi rẽ phải là đến."
Tôi nhìn theo hướng tay chỉ của đồn trưởng và thấy vòng hết ngã nọ đến ngã kia thì tầm nhìn bị nhà vệ sinh công cộng chắn mất.
Sau khi nghe thấy tiếng súng, khoảng bao lâu thì các cậu đi ra ngoài?" Trần Thi Vũ hỏi. Câu cô ấy hỏi cũng là câu mà tôi đang muốn hỏi.
Hồ Lê Miêu cúi đầu nghĩ một lát rồi đáp: "Chúng tôi ở vườn sau, chỉ cần mở cửa, đi qua vườn, mở cổng là ra đến ngoài rồi. Nên tôi đoán chỉ tầm hai mươi giây là cùng."
Tôi "Ồ!" lên một tiếng bảo: "Các cậu cứ kể tiếp đi! Khi nãy cậu nói cậu nhìn thấy một bóng người."
"À vâng!" Hồ Lê Miêu hắng giọng, "Chúng tôi thấy Hồ Kỳ loạng choạng đi về phía tây, cũng chính là phía nhà của anh ta. Vì nghĩ thường ngày Hồ Kỳ luôn thích uống rượu, mà cứ uống nhiều là dáng đi lại xiêu vẹo, nghiêng ngả như thế nên chúng tôi không để ý, tất cả quay vào chơi tiếp ván mạt chược đang dở. Lát sau thì trời sáng, tôi thắng hơn ba ngàn tệ, hề hề!"
Nói xong cậu ta liền phát giác mình lỡ lời nên liếc nhìn đồn trưởng, thấy đồn trưởng không có ý truy cứu việc nhóm cậu ta đánh bạc, nên mới mạnh dạn nói tiếp: "Sáng sớm tinh mơ, tôi từ nhà anh trai đi theo hướng tây, cứ đi tiếp con đường này đến đầu bên kia chính là nhà tôi. Chẳng ngờ khi đi ngang qua qua đây thì nhìn thấy anh ta nằm trên đất, bên cạnh có vũng máu to làm tôi sợ hết hồn."
Đồn trưởng liếc mắt ra hiệu cho Hồ Lê Miêu, cậu ta liền vội nói tiếp: "Loại cặn bã như anh ta chết là tốt nhất."
Tôi phản cảm xua tay nói: "Nghĩa tử là nghĩa tận, đừng độc ác như thế, dẫu anh ta đã làm đủ điều bại hoại đạo đức nhưng chí ít anh ta vẫn có quyền được sống."
"Thế các anh cần hỏi tiếp nữa không?" Hồ Lê Miêu hỏi.
"Nhà anh trai cậu chỉ cách hiện trường ba trăm mét, nửa đêm thanh vắng như vậy mà các cậu không nghe thấy tiếng kêu la, vật lộn hay cầu cứu gì sao? Bởi tôi thấy không phải anh ta tử vong tại chỗ mà còn đi hơn chục bước nữa mới chết." Đại Bảo hỏi.
Đúng là câu hỏi này vô cùng quan trọng.
Hồ Lê Miêu lắc đầu: "Chắc chắn chúng tôi không nghe thấy gì hết cả!"
"Súng của anh ta cướp cò, thêm vào đó lại uống quá nhiều rượu nên chưa chắc anh ta đã kêu la." Đồn trưởng giải thích.
Tôi thấy đồn trưởng nói cũng có lý nên không thêm vào câu gì, chỉ lẳng lặng đeo găng tay tiến hành khám nghiệm bước đầu ở phía ngoài tử thi.
Nạn nhân mặc áo phông dài tay và quần thể thao, ống quần phải gần như thấm đẫm máu trong khi áo lại không dính vết máu nào. Đại Bảo vươn tay sờ quần của nạn nhân nhưng bị tôi ngăn lại: "Đừng chạm vào! Cậu nhìn kìa, trên ống quần có dấu vết của họng súng."
Dấu vết họng súng là đặc trưng của kiểu bắn cự ly gí sát. Kiểu bắn cự ly gí sát là một dạng thể hiện khoảng cách giữa họng súng và mục tiêu.
Ai có hứng thú với khí tài quân sự đều biết rằng súng ống chủ yếu được chia thành hai loại, đó là súng có nòng xẻ rãnh xoắn và súng nòng trơn.
Súng có nòng xẻ rãnh xoắn là loại súng mà nòng súng được xẻ rãnh theo đường xoắn ốc, như vậy khi bắn đi, đạn sẽ bay ra theo đường xoắn ốc, nhờ đó giúp gia tăng cự ly bắn đi xa của đường đạn, không những vậy còn tăng độ chính xác và lực sát thương. Nếu loại súng ống này bắn gí sát thì trên da sẽ để lại dấu vết họng súng, nếu cự ly bắn dưới một mét (bắn ở cự ly gần), do đầu đạn xóay vào da thịt với tốc độ cao nên trên da sẽ lưu lại vết bầm giập, vết trầy xước, vết bỏng với các chấm thuốc nổ li ti và vết ám khói cùng vệt thuốc nổ trầm lắng quanh bờ vết thương. Còn nếu cự ly ngắm bắn ngoài một mét (bắn ở cự ly xa) thì trên da sẽ để lại lỗ đạn kèm theo vòng trầy xước và vòng vết bẩn quanh vết thương mà hoàn toàn không nhìn thấy vết bỏng và vết ám khói.
Nhưng súng có nòng xẻ rãnh đòi hỏi công nghệ chế tác khá cao, bởi vậy trong các loại súng tự chế, người dân chủ yếu chọn loại súng nòng trơn. Súng nòng trơn còn gọi là súng bắn đạn ghém. Loại súng này chỉ dùng được những loại đạn với đường kính tuân theo một quy cách nhất định, trong viên đạn đổ đầy thuốc nổ và các viên đạn nhỏ. Khi bóp cò, những viên đạn nhỏ bắn ra theo hình chóp, bởi vậy phán đoán cự ly bắn của loại súng nòng trơn này chủ yếu phải căn cứ vào diện tích của đạn phân bố trên bề mặt da, nếu chỉ có một lỗ thủng lớn, điều đó chứng tỏ cự ly bắn tương đối gần, nếu vết đạn găm vào cơ thể là một dải lỗ nhỏ thì cự ly bắn lại khá xa. Cự ly bắn của loại gần thì lực sát thương mới lớn. Đương nhiên, giống như súng có nòng xẻ rãnh xoắn, súng nòng trơn cũng sẽ để lại dấu vết của họng súng trên da khi bắn gí sát.
"Dấu vết của họng súng này có điểm gì đó khá kỳ quái, Lâm Đào, cậu nhớ chụp ảnh đấy!" Đại Bảo liếc sang tôi, "Thông thường bắn gí sát chỉ xảy ra trong hai trường hợp là súng cướp cò hoặc tự sát, bởi vậy rất có thể súng anh ta bị cướp cò giống như lời đồn trưởng nói."
Lâm Đào đứng bên cạnh cầm gói vật liệu mà cảnh sát dân sự lấy được trong nhà của nạn nhân, đối chiếu với khẩu súng được bảo quản trong túi nilon đựng vật chứng mà cảnh sát thấy ở hiện trường, cậu ta nhận định hai vật này có cùng chất liệu, điều đó cũng có nghĩa là khẩu súng này đúng là súng tự chế của nạn nhân.
Lâm Đào bước đến và nói cho chúng tôi biết kết quả đối chiếu, nhưng kết quả này dựa trên phán đoán về vật liệu lấy trên công cụ. Nếu muốn xác định chắc chắn theo phương pháp chỉnh thể phân tách thì phải thực hiện thí nghiệm trong phòng thí nghiệm chuyên ngành có liên quan.
Lâm Đào chụp ảnh xong, liền quan sát dấu vết họng súng trên da nạn nhân và họng súng lấy được từ hiện trường. Dưới góc nhìn chuyên môn của chuyên gia giám định dấu vết, cậu ta hơi mỉm cười: "Có điều, từ dấu vết họng súng trên vết thương có thể thấy khẩu súng gây sát thương chính là khẩu súng mà ta tìm thấy tại hiện trường."
Kẻ Dọn Rác
Tần Minh
Vụ Án Thứ 2 - Tiếng Súng Lúc Nửa Đêm (3)
Quả thực không cần nhân viên chuyên nghiệp cũng có thể phán đoán điều đó. Vì là súng tự chế nên đầu họng súng trông rất thô sơ, hẹp thành hình bầu dục, mà dấu vết họng súng trên quần nạn nhân cũng xuất hiện hình bầu dục, đường kính vết họng súng trên quần và đường kính họng khẩu súng tại hiện trường hoàn toàn đồng nhất.
Sau khi xem xét kỹ dấu vết họng súng, tôi và Đại Bảo hợp lực nhẹ nhàng cởi bỏ quần nạn nhân, rồi cho vào túi nilon đựng vật chứng bảo quản cẩn thận. Vừa tháo ống quần ra khỏi chân, chúng tôi liền nhìn thấy một vết thương đen ngòm hình bầu dục trên đầu gối, bờ vết thương cháy đen, đó là vết bỏng do thuốc súng. Thi thể xảy ra vài thay đổi nhỏ, máu tươi từ hố đen ngòm của vết thương bắt đầu chảy ra.
"Bắn trúng chân rồi!" Tôi nói, rồi chau mày suy nghĩ.
"Ồ! Tôi biết trong pháp y học có một nguyên lý gọi là "hiệu ứng cộng hưởng hốc" sau khi bị đạn bắn." Trần Thi Vũ nói, "Nhưng vẫn không thể ngờ hiệu ứng này lại gây ra hậu quả ghê gớm như vậy, bắn trúng chân thôi mà mất mạng."
Đại Bảo được dịp khoe khoang kiến thức: "Cô biết cơ chế hình thành "hiệu ứng cộng hưởng hốc" không? "Hiệu ứng cộng hưởng hốc" chỉ xảy ra khi viên đạn xoáy sâu vào các mô trong cơ thể. Duy loại súng nòng xẻ rãnh xoắn mới có thể tạo ra hiệu ứng như vậy. Nhưng khẩu súng tự chế này là súng nòng trơn, vậy nó xoáy kiểu gì? Tạo ra hốc kiểu gì?"
Đại Bảo nói không sai, "hiệu ứng cộng hưởng hốc" là cơ chế chủ yếu gây ra lực sát thương của viên đạn, nhưng hiệu ứng này chỉ xảy ra với súng có nòng xẻ rãnh xoắn, đây cũng là nguyên nhân súng nòng xẻ rãnh xoắn có lực sát thương lớn hơn súng nòng trơn. Áp dụng kỹ thuật chụp phim tốc độ bằng tia X có thể quan sát thấy mô hình bị đạn bắn trúng sẽ hình thành một hốc rỗng sau khi đầu đạn đi qua mô. Cái hốc này xuất hiện nhanh mà biến mất cũng nhanh, bởi vì khi đầu đạn đi xuyên qua cơ thể, nó không chỉ khiến các mô mềm bị tách ra, mà quan trọng hơn là động năng xoáy tròn của đầu đạn đã giải phóng cho các mô ở xung quanh, khiến các mô mềm lấy đầu đạn làm trung tâm dịch chuyển vị trí ra bốn phía theo hình tỏa tia, từ đó hình thành hốc thịt lớn gấp nhiều lần so với thể tích của đầu đạn. Vào khoảnh khắc bị đạn bắn trúng, tuy hốc chỉ duy trì trong thời gian ngắn ngủi nhưng có thể khiến các mô mềm xung quanh bờ vết thương lan rộng, rách giập và vỡ mạch máu. Các mô sẽ bị giập nát vì phải di chuyển với biên độ vượt quá mức đàn hồi của nó, dẫn đến thay đổi giống như phát nổ và để lại vết thương mang tính phức hợp rất nghiêm trọng và phức tạp trên cơ thể. Sau khi trải qua quá trình thay đổi khuếch tán, thu nhỏ, rồi lại khuếch tán, thu nhỏ lặp đi lặp lại nhiều lần, cái hốc dần dần biến mất, cuối cùng để lại vết thương với thể tích nhỏ hơn nhiều so với thể tích hốc, đây chính là đường vết thương do súng bắn để lại trên da thịt mà bác sĩ pháp y nhìn thấy.
Cơ chế chủ yếu mà súng nòng trơn tạo ra vết thương chính là lực sát thương của đầu đạn. Đầu đạn làm vỡ mạch máu dẫn đến mất máu quá nhiều và tử vong. Đầu đạn làm vỡ các cơ quan, khiến các cơ quan trong cơ thể mất máu, kiệt sức dần rồi chết. Khi gí sát nòng của súng nòng trơn vào mục tiêu, thì các viên đạn nhỏ vẫn đang trong giai đoạn tập trung dày đặc nên vết thương được tạo ra có hình một đường thẳng, đường vết thương đó được hình thành do tác dụng cùng lúc của các viên đạn nhỏ.
"Để tôi giải thích cho cô hiểu." Đại Bảo nói với Trần Thi Vũ, "Thực ra một phát súng không thể gây ra lực sát thương lớn lắm, nhìn chân của nạn nhân không hề biến dạng là biết vùng đùi của anh ta không bị gãy. Sở dĩ chảy nhiều máu như vậy là bởi má đùi trong của anh ta có một động mạch rất lớn, rất quan trọng - động mạch đùi. Nếu các viên đạn nhỏ bắn vào má trong của đùi, làm vỡ động mạch thì rất nguy hiểm. Loại động mạch to như thế này không thể nào tự đông máu được, nếu không được cầm máu kịp thời thì máu sẽ tuôn ra như suối chảy, chẳng bao lâu sau nạn nhân sẽ rơi vào trạng thái hôn mê và ngất xỉu. Nếu còn không được cấp cứu ngay lập tức, nạn nhân nhất định sẽ tử vong. Nạn nhân của vụ án này đã chết như vậy đấy!"
"Chất cồn trong cơ thể quá nhiều, mạch máu phình to, tuần hoàn máu tăng tốc cũng có thể đẩy nhanh quá trình tử vong." Bác sĩ pháp y Dương đứng bên cạnh bổ sung.
Trong khi họ đang bàn luận thì tôi lấy cây kim thăm dò đầu tròn trong hòm đựng dụng cụ khám nghiệm ra.
Tác dụng chủ yếu của kim thăm dò là thăm dò, đo độ dài và hướng đi của vết thương. Vết thương chí mạng của nạn nhân là một đường dài rất rõ ràng, vết thương này làm đứt động mạch đùi. Nhưng hướng của vết thương thì không thể phát hiện bằng mắt thường được mà phải dùng một cây kim thăm dò rất nhỏ.
Tôi thận trọng cắm đầu kim vào vết thương, sau đó tiến hành dò tìm theo các hướng, chẳng bao lâu sau tôi đã tìm ra đường đi của nó. Vết thương xuất phát từ gối, chạy ngược lên trên, cuối cùng dừng lại trên má đùi cách bộ phận sinh dục chừng 5 centimet. Tôi cắm kim vào đùi của nạn nhân men theo đường vết thương, chỉ chừa phần cán kim ở bên ngoài, rồi gọi Trần Thi Vũ đến chụp ảnh.
Như vậy, thông qua ảnh là có thể nhìn rõ hướng đi của vết thương.
"Mọi người có nhìn ra vấn đề gì không?" Tôi hỏi Đại Bảo và Lâm Đào.
Hai người họ lơ mơ chưa hiểu.
Tôi liền quay sang nói với đồn trưởng: "Phiền anh liên lạc với đồng chí làm việc ở nhà xác mang thi thể này đến phòng giải phẫu để chúng tôi giải phẫu ngay bây giờ."
Thông qua điều tra, khám nghiệm tử thi đã xác định được nạn nhân tử vong do súng cướp cò, đây là cái chết ngoài ý muốn và xếp vào hạng mục các vụ án tử vong do nguyên nhân bất thường. Có điều muốn giải phẫu tử thi thì phải được sự đồng ý của người nhà nạn nhân, trừ trường hợp xác định rõ ràng đây là án mạng, các cơ quan công an mới được phép cưỡng chế giải phẫu tử thi.
"Nhưng gia đình nạn nhân không đồng ý giải phẫu đâu!" Đồn trưởng khó xử.
"Thì cứ việc viết một thông báo yêu cầu cưỡng chế giải phẫu." Tôi nói, "Vì đây là một vụ án mạng."
"Án mạng ư?" Đồn trưởng bật thốt lên với vẻ vô cùng bất ngờ, tóc trên đầu anh ta cơ hồ dựng đứng cả lên.
Tôi mỉm cười nói: "Các anh xem, hướng vết thương đi từ dưới ngược lên trên. Các anh lại quan sát kỹ khẩu súng này, nó dài những một mét hai mươi, thêm vào đó được bắn ở cự ly gí sát. Bây giờ chúng ta tái hiện hiện trường gây án một chút nhé!"
Nói xong, tôi cầm khẩu súng đựng trong túi nilon trong suốt, lấy khẩu súng gí vào đầu gối của nạn nhân và nói: "Đạn đi ngược lên trên, vậy thì báng súng phải ở phía dưới đầu gối. Các cậu thử nói xem, như vậy làm sao mà cướp cò được?"
Nếu là cướp cò thì với khẩu súng dài thế này nạn nhân phải bị bắn vào phần trên eo hoặc đường đạn phải đi xuống phía dưới mới đúng. Nếu bắn trúng gối mà đường đạn lại đi ngược lên trên, thì cách đặt súng như vậy là rất vô lý, vả lại nạn nhân cũng không thể với tới cò súng. Dẫu nạn nhân ngồi xuống và gí súng vào đầu gối, thì vị trí của cò súng còn vượt qua cả ngón chân anh ta, dù anh ta rướn tốt đến đâu, cũng không thể với tới cò súng."
Tôi nói xong, mọi người tại hiện trường đều đồng thanh kêu lên: "Có lý!"
"Bởi vậy chỉ còn khả năng có người khác cầm khẩu súng của anh ta, gí vào đầu gối và bắn một phát." Tôi nói, "Hiện giờ chúng ta cần tiến hành giải phẫu tử thi."
Trong phòng giải phẫu tử thi của Viện Pháp y thành phố Trình Thành, Trần Thi Vũ vẫn im lặng đứng bên cạnh. Đây là hiện trường thứ ba và là vụ giải phẫu tử thi thứ bảy mà cô ấy chứng kiến trong vòng chỉ vỏn vẹn hai ngày. Đào tạo kiểu này chẳng khác nào "nhồi vịt", bây giờ cô ấy không chỉ hoàn toàn thích ứng với công việc khám nghiệm tử thi, mà còn có thể nói rõ ràng vị trí giải phẫu của thi thể, điều đó khiến chúng tôi không khỏi thán phục về khả năng thích ứng, khả năng tiếp thu quá nhanh của cô ấy. Tôi cũng cố gắng tiến hành các thao tác một cách quy phạm nhất để cho cô đồng nghiệp nữ như trang giấy trắng này có được nhận thức quy phạm về công tác pháp y.
Chúng tôi tiến hành khám nghiệm bên ngoài của thi thể một cách toàn diện. Ngoại trừ vết thương ở đầu gối trái nạn nhân, chúng tôi còn tìm thấy một vết tụ máu khá lớn ở sau gáy anh ta, bề mặt xung quanh vết tụ máu còn có vài vết trầy xước nông. Da đầu không có vết thương, chỉ tụ máu và trầy xước. Dưới con mắt của bác sĩ pháp y thì đây là vết thương được tạo thành do vật tày có bề mặt thô ráp, diện tích bề mặt khá rộng và cũng tương đối nặng. Có khả năng anh ta ngã ngửa trên mặt đất, cũng có khả năng bị vật gì đó đánh vào.
"Các cậu xem này! Quả nhiên anh ta còn có những vết ngoại thương khác." Tôi hứng khởi nói.
Đại Bảo cầm dao phẫu thuật, chuẩn bị cạo tóc của nạn nhân, thì tôi nói: "Đợi chút đã!"
Chúng tôi lật xác nạn nhân lại, để lộ phần gáy, sau đó nhẹ nhàng rẽ tóc ra, tôi nhanh chóng tìm thấy một vài vụn nhỏ màu vàng gạch.
Tôi lấy kẹp gắp những vụn nhỏ đó bỏ vào túi nilon, nói: "Công cụ sát thương đã lộ diện, đó là gạch."
Đại Bảo tán thưởng gật đầu: "Mở hộp sọ xem sao, để đề phòng anh ta bị ngã ngửa đập đầu vào gạch sau khi trúng đạn."
Nếu nạn nhân ngã sẽ tạo nên các vết thương đối trọng (1) ở trong hộp sọ, còn vết thương do bị đánh trực tiếp vào gáy sẽ không đối trọng.
(1) Vết thương đối trọng: vết thương gây ra do hiện tượng phần đầu đang trong trạng thái vận động với tốc độ cao thì đột nhiên bị giảm tốc, dẫn đến tình trạng phần da đầu, xương sọ, mô não bị chấn thương và xuất huyết, đồng thời mô não ở vị trí đối diện cũng bị chấn thương xuất huyết do đập vào vách sọ theo lực quán tính, nhưng phần da đầu ở vị trí tương ứng lại không hề bị trầy xước hay tổn thương.
Mở hộp sọ của nạn nhân, quả nhiên gáy của anh ta có một vết thương nhỏ, trong khi ở phần trán đối diện với gáy không hề phát hiện vết thương tương tự như vậy.
"Không có vết thương đối trọng! Chắc chắn anh ta bị kẻ nào đó đập gạch vào gáy, mà vết thương này có phản ứng sống, điều đó chứng tỏ anh ta bị đánh trước khi bị bắn." Tôi nói, "Vết thương nhỏ như thế này không đủ khiến anh ta tử vong, thậm chí còn không đủ để hôn mê, nhưng lại cung cấp cho chúng ta một phương hướng, phương hướng tìm kiếm vật chứng có thể tồn tại."
Mở hộp sọ xong, Đại Bảo và bác sĩ Dương tiến hành giải phẫu toàn diện theo quy tắc thông thường, khám nghiệm giải phẫu có hệ thống. Khi Đại Bảo hạ dao, có thể vì lao lực quá nên cậu ta lỡ tay dùng dao phẫu thuật cứa phải khoang não của nạn nhân.
"Ôi trời! Cẩn thận chứ!" Bác sĩ Dương kêu lên, "Quá trình khám nghiệm tử thi được quay lại đấy, đừng để người nhà nạn nhân nhìn thấy. Nếu buộc phải nói vết thương này do hung thủ tạo ra là xong đời."
Đại Bảo lấy tay quệt quệt vết thương nhỏ do cậu ta cắm dao vào, nói: "Không sao! Vết cắm này vừa nhỏ lại vừa mỏng, không ai nhận ra đâu mà sợ. Hơn nữa lại không có phản ứng sống, trước khi khám nghiệm chúng ta cũng chụp ảnh tử thi rồi. Không ảnh hưởng gì cả!"
Tôi cười nói: "Anh Dương, bây giờ anh bị báo chí làm cho thần hồn nát tính thế cơ à? Trong quá trình khám nghiệm tử thi, bác sĩ pháp y không cẩn thận lỡ tay gây ra vết thương cho thi thể là chuyện rất thường tình, không có gì đáng phải làm lớn chuyện cả."
Bác sĩ Dương cười ngượng nghịu, tiếp tục tiến hành giải phẫu theo hệ thống cùng Đại Bảo. Ngoại trừ khi mở dạ dày của nạn nhân, mùi rượu nồng nặc xộc thẳng vào mũi ra thì không có hiện tượng gì khác thường.
Trong lúc họ đang tiến hành giải phẫu thì tôi nắm lấy hai tay của nạn nhân, quan sát tỉ mỉ nhưng không nói gì.
Khám nghiệm tử thi xong, tôi rủ mọi người đi ăn mì bò ở một quán gần hiện trường trong thôn. Ngoại trừ mục đích giải quyết cơn đói ra, tôi rủ mọi người đi ăn còn có mục đích khác. Trên đường đi ngang qua hiện trường, tôi thấy vành đai phong tỏa đã được tháo dỡ, chỉ để lại những vết máu hình thành từng dải trên mặt đường. Tôi bảo Hàn Lượng dừng lại, rồi xuống xe đi vòng quanh hiện trường một lượt. Lát sau, tôi nhặt một viên gạch cho vào túi nilon đựng vật chứng và lên xe.
"Lâm Đào, lát nữa cậu xem hộ tôi viên gạch này." Tôi nói, "Nó là hung khí đấy!"
Đại Bảo hiếu kỳ hướng đầu ra ngoài cửa sổ xe nhìn ngó loanh quanh, nói: "Anh xem, ven đường có bao nhiêu gạch đá thế này, sao anh dám chắc viên gạch anh vừa nhặt là hung khí?"
Tôi cười lớn: "Vì trên viên gạch đó dính vết máu và tóc."
Thức đêm cộng nỗi mệt nhọc do cuộc hành trình này mang lại đột ngột ập đến, sau khi ăn trưa xong, chúng tôi vội vàng tìm một nhà trọ ngủ li bì và chờ đợi các kết quả khám nghiệm khác ở phòng thí nghiệm ra lò.
Bốn giờ chiều, chúng tôi cùng tới tổ chuyên án báo cáo công việc, đồng thời cùng nghe kết quả khám nghiệm kỹ thuật hình sự chuyên nghiệp.
"Nạn nhân bị đạn hoa cải bắn vào đùi, dẫn đến vỡ động mạch đùi. Vì không được cấp cứu kịp thời nên mất máu quá nhiều và tử vong." Tôi nói, "Ngoài ra, phần gáy nạn nhân có vết thương do bị vật tày đánh vào, hung thủ gây ra vết thương này cho nạn nhân trước khi hắn nổ súng. Đây là một vụ án mạng!"
"Thế thì hơi lạ đấy!" Viên cảnh sát điều tra nói, "Thông qua điều tra, chúng tôi được biết tối qua nạn nhân và mấy người bạn uống rượu đến tận hơn chín giờ tối, có người lái xe máy chở anh ta đến gần hiện trường thì anh ta xuống xe. Khoảng chín rưỡi tối, nạn nhân trở về nhà đòi vợ đưa thêm tiền, vợ anh ta không cho nên anh ta đạp vợ mấy cú, sau đó cố tình giật lấy mấy trăm tệ và rời khỏi nhà. Khoảng hai mươi phút sau, nạn nhân lại trở về nhà trong tình trạng say ngất ngưởng, luôn miệng lải nhải mắng chửi, anh ta xuống tầng hầm lấy súng và rời khỏi nhà. Sau mười phút thì xảy ra chuyện."
"Ồ thế à? Trách gì trong túi quần anh ta có bốn trăm sáu mươi sáu tệ. Có điều như anh kể thì chẳng phải anh ta muốn đi đánh nhau với ai đó sao? Thế thì có gì kỳ quái chứ?" Đại Bảo nói, "Chắc chắn anh ta cãi nhau với ai đó, sau đó diễn tiến thành đánh nhau, kết quả đánh không lại người ta nên bị người ta bắn chết thôi mà."
Viên cảnh sát điều tra lắc đầu nói: "Thông thường khi người ta uống nhiều rượu thì rất thích gây sự, đó là sự thật. Lần nào họ cũng mang theo gậy gộc, dao búa, hò hét đòi đánh đòi chém, nhưng hễ thấy đối thủ thực sự thì lại mềm nhũn cả người. Vả lại gần đó có người đánh mạt chược, không thể có chuyện họ không nghe thấy âm thanh cãi chửi, ẩu đả."
"Các anh xem có phải thế này không." Tôi nói, "Sau khi uống rất nhiều rượu, nạn nhân muốn đi đánh mạt chược với họ, nên về nhà lấy thêm tiền. Khi đánh mạt chược thì xảy ra tranh chấp, nạn nhân trở về nhà lấy súng, rồi trở lại chiếu bạc. Lúc đang trên đường đến thì bị tấn công. Vì chính những người trong đám đánh mạt chược kia ra tay tấn công nên bọn họ đương nhiên phải nói họ không hề nghe thấy bất kỳ âm thanh gì."
Phòng chuyên án im phăng phắc, mọi người đều nghĩ đến khả năng này.
Một lát sau, tổ trưởng tổ chuyên án nói: "Khả năng này là lớn nhất. Các cậu mau đi bắt người! Những tổ chuyên môn khác tiếp tục báo cáo tình hình."
Một viên cảnh sát vâng lệnh lập tức ra ngoài.
Người phụ trách phòng Hóa nghiệm hắng giọng nói: "Tôi xin báo cáo tình hình lý hóa nghiệm. Xét nghiệm máu của nạn nhân cho thấy nồng độ cồn trong 100ml máu cao đến 280mg, trong khi chỉ cần đạt 80mg đã có thể coi là say. Chỉ số này tiệm cận đến lượng gây chết người. Điều đó chứng tỏ nạn nhân uống say nghiêm trọng. Trong tình trạng nồng độ rượu cao như thế, khả năng kiểm soát và khả năng điều chỉnh hành vi của anh ta rất kém. Nếu thực sự phải đánh nhau thì anh ta gần như không có năng lực phản kháng."
"Say rượu nghiêm trọng cũng là một trong những nhân tố làm gia tăng tốc độ mất máu gây tử vong." Đại Bảo bổ sung thêm.
"Ngoài ra..." Người phụ trách phòng Hóa nghiệm nói tiếp, chúng tôi lấy được một vài hạt vi lượng trên tóc nạn nhân, chất này hoàn toàn đồng nhất với viên gạch mà các anh lấy được từ hiện trường."
"Đáng tiếc là..." Lâm Đào nói vẻ tiếc nuối, "Bề mặt của viên gạch quá thô ráp nên không lưu lại vết hằn của ngón tay cũng như dấu vân tay, nghĩa là chúng ta không thu hoạch được chứng cứ và các điều kiện manh mối."
"Việc giám định súng thế nào rồi?" Tôi hỏi.
Lâm Đào nói: "Tôi đã tiến hành đối chiếu chỉnh thể phân tách, vật liệu còn dư ở nhà nạn nhân và khẩu súng được xác định là một chỉnh thể, điều đó có nghĩa khẩu súng này chính xác là khẩu súng của nạn nhân. Ngoài ra, tôi đã tiến hành giám định bề mặt súng, vì bề mặt súng không được trơn nhẵn nên không phát hiện thấy dấu vân tay có giá trị giám định và đối chiếu."
Đây đúng là một tin xấu! Đã là mưu sát thì rất có khả năng kẻ bắn súng sẽ để lại dấu vân tay trên thân súng, chỉ đáng tiếc lại không có điều kiện đó. Tôi hỏi tiếp: "Thế đã tiến hành giám định đạn trong súng chưa?"
Đối với các vụ án liên quan đến súng ống thì đây là thử nghiệm bắt buộc, thử nghiệm này phải tiến hành trong phòng thử nghiệm. Đặt súng lên báng súng, lấy dây kích hoạt cho súng nổ và bắn vào mục tiêu. Tiến hành thử nghiệm bắn đạn có thể hiểu được tính năng của khẩu súng, từ đó tiến hành đối chiếu, xác định mức độ sát thương của khẩu súng, đây cũng là căn cứ giúp tòa án đưa ra phán quyết.
"Trong súng không có đạn. Tôi sẽ yêu cầu đồn trưởng đến nhà nạn nhân tìm kiếm." Lâm Đào nói.
Đồn trưởng tiếp lời: "Người nhà nạn nhân đang rất kích động, ban đầu họ không chịu phối hợp, sau đó tôi phải làm công tác tư tưởng rất vất vả, họ mới cho phép lục khám nhà kho và tìm thấy mấy viên đạn đã đúc xong. Ồ, nó đây này!"
Nói xong, anh ta móc mấy viên đạn tự chế trong túi ra.
"Vậy tôi sẽ đem đi làm thí nghiệm ngay bây giờ." Lâm Đào nói.
"Đợi đến sáng mai cũng chưa muộn." Tôi nói, "Một mặt cần xem kết quả thẩm vấn bốn người đánh mạt chược kia thế nào đã, mặt khác cậu phải mau chóng cùng tôi đi kiểm tra lại viên gạch kia."
Kẻ Dọn Rác
Tần Minh
Vụ Án Thứ 2 - Tiếng Súng Lúc Nửa Đêm (4)
Vừa bước vào phòng họp của tổ chuyên án, chúng tôi đã nghe tiếng ồn ĩ phát ra từ Sở Cảnh sát. Nghe kỹ thì thấy có người đang kêu oan. Không cần nghĩ cũng biết bốn người đánh mạt chược đã bị tóm cổ về đồn.
Chúng tôi lên thẳng phòng của đội hình sự, bước vào phòng vật chứng. Bác sĩ Dương đang gắp viên gạch trong túi nilon đựng vật chứng ra.
Mặt không dính máu và hai cạnh của viên gạch đã bị hun đen, đó là do Lâm Đào hun đen để hiện dấu vân tay khi giám định. Ở mặt bị hun đen thấp thoáng ẩn hiện mấy dấu vân tay.
Dấu tay rất nhỏ, tuy không thể nhìn thấy vân tay nhưng vẫn có thể nhìn thấy các vết đốt ngón tay, ở mặt cạnh của viên gạch có vệt khá nhỏ, có lẽ là dấu ngón tay cái, song chưa đến nửa đốt, cạnh còn lại có ba dấu vân tay, lần lượt là ngón cái, ngón giữa và ngón đeo nhẫn, mỗi ngón tay chỉ lưu lại nửa đốt là cùng.
"Lạ thật! Cậu đã suy nghĩ về vấn đề này chưa?" Tôi quay sang hỏi Lâm Đào, "Thông thường khi chúng ta cầm gạch thì phải lưu lại một đốt rưỡi đến hai đốt ngón tay trên viên gạch, nhưng dấu vết ngón tay này mảnh quá, mà chỉ lưu lại nửa đốt. Dùng đầu ngón tay mà cầm gạch chẳng phải bất tiện lắm sao?"
Lâm Đào chau mày không nói.
Tôi cũng chau mày không nói.
Ngẫm nghĩ một lát, tôi bảo: "Đã không nhìn ra được dấu vân tay thì cứ kệ nó đã. Mấy gã chơi mạt chược kia đặt cược khá nhiều tiền, chắc sẽ bị xử phạt hành chính. Bắt họ vào đây chỉ là mượn cớ, cứ đợi kết quả thẩm vấn xem sao. Chúng ta về ngủ thôi!"
Lâm Đào nói: "Anh cứ về ngủ trước đi! Tôi ở lại làm nốt thí nghiệm về mấy viên đạn rồi ngủ sau."
"Được!"
Trở về nhà khách, từng màn của vụ án cứ lờ mờ hiện ra trước mắt tôi, trực giác mách bảo vụ án này sắp được phá giải rồi. Hơn nữa động cơ gây án thể hiện rất rõ ràng, có lẽ chỉ vì bốc đồng hoặc thù hận mà thôi, bởi vậy phạm vi đối tượng cũng không rộng lắm. Vụ án 'Kẻ dọn rác' kia vẫn khó nhằn hơn. Liệu kẻ nào đã gây ra chuyện đó? Giết người vô tội lại còn xóa dấu vết rất chuyên nghiệp. Mà muốn xóa dấu vết, sao lại còn viết chữ lên tường lưu lại manh mối cho cảnh sát?
Nỗi mệt mỏi mấy ngày đổ ụp xuống, tôi nghĩ mãi nghĩ mãi rồi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay, thậm chí khi nào Lâm Đào về, tôi hoàn toàn không hay biết gì.
Tám giờ sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy, cầm điện thoại đặt trên mặt tủ ở đầu giường xem thời gian. Con số hiện ra trên màn hình khiến tôi bỗng dưng nhớ đến câu chuyện cười mà Hàn Lượng kể. Người thuộc thế hệ bao nhiêu X thì buổi sáng sẽ tự nhiên tỉnh dậy vào lúc bấy nhiêu giờ. Xem ra luận điểm đó không tồi, có lẽ vì nó đã trải qua kiểm nghiệm thực tế.
Tôi lay Lâm Đào đang ngủ trên chiếc giường khác, cậu ta lười nhác mở mắt quay lại.
"Ừm... mấy giờ rồi heo?" Lâm Đào hỏi.
"Cậu là heo thì có!" Tôi chú ý đến sự thay đổi trong cách xưng hô của cậu ta.
"Tối qua tôi về phòng gọi anh dậy, nhưng lay kiểu gì anh vẫn ngáy khò khò. Thế chẳng phải heo thì là gì?" Lâm Đào cười cười trêu chọc.
"Tối qua phát hiện thấy gì mới không?" Tôi chuyển chủ đề.
"Chẳng có gì cả!" Lâm Đào chán chường, "Đó chỉ là mấy viên đạn tự chế rất phổ thông."
Nhìn vẻ mặt ngập tràn thất vọng của tôi, cậu ta ngừng một lát rồi nói tiếp: "Có điều kỹ thuật chế tạo súng của anh ta còn non tay lắm, khẩu súng đó chưa hoàn thiện."
"Cậu nói vậy là ý gì?" Tôi khấp khởi dấy lên hy vọng.
"Giữa hộp đạn và nòng súng có một khe hở." Lâm Đào nói, "Sau khi bắn, rất nhiều thuốc súng sẽ rơi ra từ khe hở này. Lúc tôi bắn thử, nhìn báng súng dính toàn vụn thuốc súng."
"Quá tuyệt!" Tôi ngồi bật dậy, "Thế mà cậu bảo không phát hiện ra được gì hả? Đây là phát hiện lớn, phát hiện rất quan trọng đấy!"
Lâm Đào ngơ ngác không hiểu gì.
"Lúc trong phòng khám nghiệm tử thi, tôi nhìn kỹ và thấy tay của nạn nhân không hề có hạt thuốc súng bám vào." Tôi nói.
"Ôi giời!" Lâm Đào thất vọng ra mặt, "Chẳng phải ngay từ đầu chúng ta đã phán đoán không phải nạn nhân chết do súng cướp cò rồi còn gì?"
"Đúng thế!" Tôi nói tiếp, "Nhưng chắc chắn trên tay hung thủ phải dính bụi thuốc súng! Đây chính là manh mối, mà cũng là chứng cứ đấy!"
"Tôi cũng đã nghĩ đến vấn đề này." Lâm Đào nói, "Nhưng rốt cuộc vụ án xảy ra từ tối hôm kia, dẫu trên tay hung thủ có dính bụi thuốc súng thì bây giờ chắc cũng đã rửa sạch rồi còn đâu?"
"Thế mới nói cậu không phải dân chuyên nghiệp! Ha ha!" Tôi cười hoan hỉ, "Khi bắn, thông thường thuốc súng cũng bay ra theo và dính vào tay của người bắn. Nhưng trường hợp này chỉ hay xảy ra trong các vụ án mạng sử dụng súng ngắn, còn trong các vụ án mạng sử dụng súng thường thì thuốc súng rất khó dính vào tay của xạ thủ, bởi vậy tôi mới bảo cậu tiến hành thí nghiệm đạn trong súng, chẳng ngờ khẩu súng này lại bị lỗi kỹ thuật khiến thuốc súng rơi ra."
"Anh đi thẳng vào vấn đề xem nào!" Điều Lâm Đào quan tâm là bột thuốc súng liệu có bị rửa trôi hay không.
Tôi nói: "Thuốc súng bay ra khỏi súng là nhờ lực phát nổ. Khi đó thuốc súng bỏng giãy. Lớp sừng trong lòng bàn tay luôn có các khe rất nhỏ, những lỗ này đủ rộng để bột thuốc súng "trốn" vào. Rửa tay chỉ có thể làm các vụn thuốc nổ dính trên bề mặt da trôi đi, chứ không thể hoàn toàn rửa sạch những hạt bụi thuốc súng "giấu mình" trong các khe của lớp sừng. Chúng ta chỉ cần lấy kính lúp soi da, rồi dùng thiết bị bám dính là được. Đây vừa là manh mối lại vừa là chứng cứ!"
"Tôi nghĩ cũng không quan trọng nữa." Lâm Đào nói, "Không chừng hội Hồ Lê Miêu đã khai ra rồi cũng nên."
"Không! Không phải họ làm đâu." Tôi khẳng định chắc như chém đinh chặt sắt.
Đến tổ chuyên án, nhìn các cảnh sát ủ rũ với vẻ mặt mệt mỏi là biết suy đoán của tôi đã chính xác.
"Tuy hỏi thêm được một vài tình tiết, nhưng tất cả đều không mấy giá trị." Viên cảnh sát thấy tôi và Đại Bảo đi vào liền trình bày.
"Vậy sao? Anh nói cho tôi biết đã hỏi thêm được những tình tiết gì?" Tôi nói.
"Ban đầu khẩu cung của nhóm Hồ Lê Miêu rất đồng nhất, giống hệt như lúc mới báo cảnh sát." Viên cảnh sát nói, "Nhưng sau khi chúng tôi tiến hành điều tra loại trừ thì đêm đó cả thôn chỉ có một mình nhà anh trai của Hồ Lê Miêu tổ chức đánh bạc, Hồ Kỳ về nhà lấy tiền rồi ra khỏi cửa, chắc chắn là đi đến nhà họ đánh bạc. Dùng chiêu lần trước, chúng tôi đã tiến hành thẩm tra sâu hơn. Kết quả cho thấy khẩu cung của bọn họ rất giống nhau: Hồ Kỳ đi ngang qua cổng nhà họ lúc hơn chín giờ tối, vào cửa thấy họ đang đánh mạt chược thì bỏ đi. Khoảng hơn hai mươi phút sau, Hồ Kỳ trở lại nhà họ, yêu cầu Hồ Lê Miêu nhường vị trí cho anh ta đánh. Mấy người họ đều biết Hồ Kỳ thắng thì chạy làng mà thua thì ì ra không trả tiền nên đều không muốn cho anh ta đánh cùng. Anh ta liền móc mấy trăm tệ ra, nói rằng lần này nhất định sẽ không chầy bửa bùng nợ nữa. Song họ vẫn không đồng ý. Hồ Kỳ tức giận phừng phừng chạy đi. Họ sợ cái chết của Hồ Kỳ dính líu đến mình nên mới bảo nhau khai cùng một khuôn."
"Sau đó thì sao?" Tôi hỏi.
"Lát sau họ nghe thấy tiếng súng nổ." Viên cảnh sát nói, "Họ ra ngoài cửa thấy Hồ Kỳ ở đằng xa đang đi loạng choạng nên cũng không để ý nhiều. Mấy người họ đều khai như vậy."
"Xem ra họ không nói dối." Lâm Đào từ ngoài bước vào. Trước đó tôi đã bảo cậu ta đi xem tay của nhóm người Hồ Lê Miêu trong phòng thẩm vấn, nhưng tay họ đều không có dấu vết của thuốc súng.
"Đã vậy thì tôi nảy ra một luồng suy nghĩ mới." Tôi day huyệt thái dương như thể làm thế trí tuệ sẽ cung cấp thêm sức mạnh cho mình.
"Anh nói xem nào!" Một đêm mất ngủ khiến viên cảnh sát nói với giọng vô cùng uể oải.
Tôi nói: "Đầu tiên, tôi cho rằng hung thủ là nữ."
"Là phụ nữ sao?" Khóe môi viên cảnh sát nhếch lên thành nụ cười không tin tưởng, "Anh căn cứ vào đâu mà phán đoán thế?"
"Thứ nhất, tôi căn cứ vào viên gạch tang chứng để lại hiện trường." Tôi vừa bật máy chiếu vừa nói, "Hai cạnh của viên gạch chỉ có dấu của đầu ngón tay mà không có dấu của các đốt ngón tay. Dùng đầu ngón tay để cầm gạch e rằng rất khó, nên chẳng ai cầm như vậy bao giờ... ngoại trừ tay của người đó rất nhỏ, đành phải cầm như vậy."
Tôi ngừng một lát, rồi nói tiếp: "Kích thước tiêu chuẩn của một viên gạch có độ rộng là hai mươi centimet. Tay của người đàn ông bình thường đều có thể áp bụng ngón tay vào hai thành viên gạch khi cầm nó lên, nhưng tay của phụ nữ nhỏ và ngắn hơn nên chỉ đủ với đầu ngón tay lên hai thành."
Có người đồng ý, có người nghi ngờ suy đoán của tôi.
Tôi nói tiếp: "Thứ hai, khi dùng viên gạch đánh thẳng vào đầu thì sẽ gây ra vết thương tương đối nghiêm trọng, nhưng ở đây, người chết chỉ bị xây xước nhẹ ở phần da đầu và tụ máu dưới da, hộp sọ không hề bị nứt vỡ, màng cứng cũng không xuất huyết, vết thương ở mô não cũng rất nhẹ. Điều này chứng tỏ lực từ tay của hung thủ rất yếu. Tổng hợp hai điểm nói trên, tôi kết luận rất có thể hung thủ là nữ."
"Tại sao một phụ nữ lại muốn giết anh ta?" Tổ trưởng tổ điều tra hỏi, "Khi điều tra, các anh có phát hiện thấy anh ta nảy sinh quan hệ trai gái bất chính nào không?"
Tôi nói: "Đây chính là vấn đề thứ hai. Có lẽ hung thủ và nạn nhân quen nhau, hơn nữa quan hệ của họ rất gần gũi. Chúng ta có thể tạm thời tái hiện lại hiện trường thế này: Nạn nhân bị hung thủ đập gạch vào gáy, sau đó ngã xuống đất. Khẩu súng anh ta đang cầm trên tay rơi ngay cạnh. Hung thủ liền nhặt súng lên, bắn vào đùi anh ta một phát."
"Nạn nhân bị bắn trong tư thế nằm sao?" Đại Bảo xen lời.
"Đương nhiên cũng có khả năng là ở tư thế ngồi." Tôi nói, "Đường đạn và xương đùi gần như song song nhau, hướng đạn đi từ dưới xuyên ngược lên trên. Khẩu súng dài như thế, trừ phi hai chân của nạn nhân duỗi thẳng, bằng không sẽ không thể hình thành vết thương kiểu này được."
"Có lý!" Đại Bảo gật gù, "Nhưng nạn nhân và hung thủ không có mối quan hệ nam nữ bất chính, mà anh lại nói họ có mối quan hệ gần gũi là sao?"
Tôi nói tiếp: "Trong suốt quá trình này, mấy người đánh bạc bị loại khỏi danh sách kẻ tình nghi kia đã nói họ không hề nghe thấy động tĩnh gì lúc xảy ra vụ án, điều đó chứng tỏ nạn nhân không hề sợ hung thủ, anh ta còn cho rằng hung thủ không dám bắn mình, anh ta không cần phải kháng cự, cũng không cần hét lên kêu cứu. Sau khi bị bắn, vì quá sợ hãi, cộng thêm mất máu quá nhiều và tác dụng của rượu đối với cơ thể nên anh ta không có cách nào hét lên kêu cứu."
Tôi thấy mọi người đang vội vã ghi chép lại những phân tích của tôi nên dừng lại uống một ngụm trà cho họ có thời gian ghi chép cẩn thận hơn, sau đó mới nói tiếp: "Vấn đề thứ ba, tôi nhận ra nơi ở của hung thủ có lẽ ở trong ngõ cách hiện trường khoảng một trăm mét quặt về phía tây. Tổng hợp môi trường xung quanh của hiện trường sẽ thấy nếu hung thủ chạy về phía đông thì buộc phải đi qua nhà của anh trai Hồ Lê Miêu, mà nếu muốn chạy xa hiện trường tầm ba trăm mét, chí ít phải mất hơn một phút. Vậy thì những người đánh bạc chỉ cần hai mươi giây là chạy được ra ngoài cửa xem động tĩnh chắc chắn sẽ nhìn thấy hung thủ. Nếu hung thủ chạy về phía tây, chỉ cần hai mươi giây là có thể chạy xa ngoài một trăm mét, nếu chạy ngang con ngõ đó và tiếp tục về hướng tây thì hung thủ sẽ bị những người sống ở phía đông cách đó mấy trăm mét nhìn thấy. Bởi vậy, trong vòng hai mươi giây ít ỏi đó, nếu hung thủ ngoặt vào trong ngõ thì có thể hoàn toàn tránh khỏi con mắt của mọi người. Tôi đã quan sát hiện trường, con ngõ đó được nhà vệ sinh công cộng che chắn nên nhóm người đánh mạt chược không nhìn thấy mọi việc diễn ra bên trong."
"Trong ngõ đó có bảy tám hộ gia đình sinh sống cơ đấy!" Viên cảnh sát nói, "Bao gồm cả nhà nạn nhân."
Tôi cười nói: "Vấn đề thứ tư, mọi người có từng nghĩ vì sao hung thủ lại đánh nạn nhân không? Tôi nói là đánh chứ không phải là giết. Khi đó nạn nhân nằm trên đất, vì tác dụng của rượu nên gần như không phản kháng gì. Nếu hung thủ muốn giết người thì đánh vào bất cứ chỗ nào cũng có thể giết chết nạn nhân, vậy tại sao hung thủ lại chọn cách khó có thể khiến nạn nhân chết nhất, đó là bắn vào đùi? Đương nhiên việc bắn vỡ động mạch đùi là kết quả mà chính hung thủ cũng không ngờ tới. Kết hợp với điều tra của cảnh sát, sau khi nạn nhân uống nhiều rượu đã lấy chân đạp vợ mình, rồi chạy khắp thôn sinh sự. Vậy người căm hận cái chân đó của anh ta nhất, ghét việc anh ta chạy khắp thôn kiếm chuyên nhất và cũng vì việc này mà cảm thấy mất mặt nhất chắc chắn chính là vợ của anh ta."
"Trước khi anh ta bị sát hại còn đạp vợ một cái đấy!" Đại Bảo nhắc lại cho mọi người nhớ.
"Bởi vậy tôi cho rằng đây là vụ án mạng gây ra do một phút nóng giận mà thôi." Tôi kết luận.
"Anh nói cũng có lý." Tổ trưởng tổ trinh sát gật đầu, "Có điều chúng tôi không có chứng cớ, cũng không biết làm cách nào xác định cô Trương Việt, vợ nạn nhân chính là hung thủ, mà không có chứng cứ thì không thể định tội được cô ta trước pháp luật."
"Có cách đấy!" Tôi nheo mắt cười, rồi lấy chiếc kính lúp từ trong cặp ra.
Đây là chiếc kính lúp viền bọc kim loại, cán bằng gỗ đỏ, chế tạo rất tinh xảo. Nó là món quà sinh nhật mà cậu bạn thân Bao Bao tặng tôi. Xem ra giờ là lúc nó phát huy được công dụng của mình rồi!
Tôi nói: "Khẩu súng do nạn nhân tự chế có một khiếm khuyết, đó là hộp đạn không kín hoàn toàn, thuốc súng sẽ rơi ra từ chỗ cò súng, dính vào tay của người bóp cò. Vì lúc đó thuốc súng đang rất nóng nên nó sẽ dính chặt vào tay của người cầm súng và rất khó rửa sạch. Chỉ cần các anh lấy kính lúp này soi vào tay của Trương Việt xem có tàn dư thuốc súng không là được."
"Được!" Niềm vui bất ngờ khiến tổ chuyên án tăng thêm niềm tin gấp bội, họ vội mang theo kính lúp của tôi rời khỏi đồn cảnh sát.
Có lẽ vì hoảng sợ và dằn vặt nên khi cảnh sát đến nhà nạn nhân lần thứ hai, thì vợ nạn nhân là Trương Việt đã ngoan ngoãn đưa hai tay vào còng số tám. Thậm chí cảnh sát còn không có cơ hội sử dụng chiếc kính lúp mà tôi đưa cho. Vậy là vụ án được phá giải.
Trên đường áp giải Trương Việt về đồn cảnh sát, nhân viên kỹ thuật hình sự đã sử dụng dụng cụ bám dính lấy thuốc súng tàn dư trên tay cô ta để dùng làm bằng chứng khi đưa ra tòa án xử tội.
Người đàn bà phong sương khắc khổ đã khóc và thành thật thừa nhận toàn bộ tội lỗi của mình sau khi vào phòng thẩm vấn.
Năm mười tám tuổi, Trương Việt được gả vào thôn Hồ Gia, trở thành vợ của Hồ Kỳ. Vẻ ngoài xinh xắn hơn người của Trương Việt khiến Hồ Kỳ vô cùng yêu thương cô, nhưng sau đám cưới một thời gian, bản chất Hồ Kỳ dần dần lộ rõ. Ăn sang, uống rượu, chơi gái, đánh bạc, trộm cắp... không thiếu khoản nào, đã thế lại hay gây gổ, sinh sự với hàng xóm và người thân. Ngay cả khi Hồ Kỳ đi trên đường, cô cũng cảm thấy người dân trong thôn chỉ chỉ trỏ trỏ khiến cô rất xấu hổ. Điều khiến cô không thể chịu nổi nhất chính là thói vũ phu sau khi uống rượu của Hồ Kỳ. Cô bị Hồ Kỳ đánh đập như cơm bữa. Cô đã nghĩ đến ly hôn, nhưng Hồ Kỳ liên tục giở ba trò, thứ nhất là khóc, thứ hai là gào, thứ ba là treo cổ, nhiều lần như vậy khiến cô mềm lòng. Trong lúc tuyệt vọng, cô từng nghĩ đến việc tự sát, nhưng cô không nỡ bỏ đứa con trai mới học tiểu học ở lại một mình. Con trai cô rất ngoan ngoãn, mặc dù bản thân và mẹ thường xuyên bị bố đánh, nhưng cậu bé luôn nhịn đau để an ủi mẹ.
May mà mẹ chồng cô rất tốt, luôn đứng về phía Trương Việt. Nhưng hai người phụ nữ yếu đuối và một đứa trẻ thì làm sao đấu lại được một người đàn ông khỏe mạnh, cao lớn.
Trước đêm xảy ra án mạng, Hồ Kỳ lại uống rượu say và đánh cô, sau đó xách súng ra khỏi nhà. Lần này khác với những lần trước ở chỗ: vật anh ta mang theo là súng! Trước đây anh ta đều tỏ vẻ anh hùng, nhưng cũng chỉ chửi bới cho sướng miệng, chưa bao giờ dám đánh nhau với người ta, nhưng lần này anh ta có súng, hơn nữa lại uống nhiều như thế, ai mà biết được sẽ xảy ra chuyện gì?
Trương Việt càng nghĩ càng sợ, liền đuổi theo sau. Cô định gọi để ngăn Hồ Kỳ lại nhưng Hồ Kỳ căn bản không chịu xuống nước, ngược lại còn lên nòng sẵn sàng và tiến thẳng về phía trước. Trương Việt nhặt một viên gạch ở ven đường định đánh ngất Hồ Kỳ. Đáng tiếc sức cô quá yếu nên chỉ làm Hồ Kỳ ngã ra đất. Anh ta trừng mắt tức giận, định bò dậy đánh cô. Cô vội vàng nhặt khẩu súng lên, ngắm thẳng vào Hồ Kỳ. Hồ Kỳ nhếch miệng cười nói: "Bắn đi! Cô dám giết chồng à? Nổ súng đi!"
Bao nhiêu cảm xúc hỗn độn ập đến, trong lúc bốc đồng, Trương Việt đã bóp cò. Tuy bốc đồng nhưng đàn bà luôn yêu đuối, bởi vậy cô nhích xuống phía dưới và bắn vào đùi anh ta. Cô nghĩ phải bắn để dạy cho anh ta một bài học, ít nhất trong thời gian ngắn không dám gây họa hại người khác nữa, coi như thế là tích đức cho hàng xóm láng giềng. Vả lại lự sát thương của súng không lớn lắm, chỉ cần lập tức cõng anh ta đi cấp cứu là xong.
Nào ngờ cùng lúc tiếng súng vang lên thì máu phun ra dữ dội, máu phun ồ ạt đến mức không thể nào cầm lại được. Cảnh tượng ấy khiến Trương Việt sợ hãi tột độ, cô quay người bỏ chạy. Chạy về đến nhà, cô liền kể hết mọi chuyện cho mẹ chồng nghe. Mẹ chồng vội cùng cô trở lại hiện trường, nhưng lúc đó Hồ Kỳ đã tắt thở.
Đó là con trai mình nên bà đau đớn như đứt từng khúc ruột, nhưng Triệu Tú Liên cũng hiểu rõ nếu để lại nghiệt chủng này thì chỉ sợ sau này bà còn phải nhận những hậu quả không thể nào lường trước được.
"Chúng ta cứ coi như súng bị cướp cò và nó tự bắn chết nó. Sau này con không phải con dâu của mẹ nữa mà con là con gái của mẹ." Triệu Tú Liên thở dài.
Trương Việt quỳ xuống đất khóc nức nở: "Mẹ..."
*
"Tôi bảo này, liệu chúng ta có cần điều tra rõ chân tướng sự thật không? Có nên coi đây là vụ súng cướp cò khiến nạn nhân tử vong mà kết thúc vụ án không?" Khóe mắt Trần Thi Vũ hoen đỏ, cô khẽ lên tiếng.
Tôi biết đây là quá trình tâm lý mà bất kỳ một cảnh sát hình sự nào đều phải trải qua. Tôi lắc đầu, đáp lại bằng giọng an ủi: "Tình người là tình người, pháp luật là pháp luật, pháp luật không thể dung nạp tình cảm, chân tướng sự thật cũng không thể dung nạp tình cảm."
"Anh có cần tàn nhẫn thế không?" Đại Bảo cũng phụ họa theo Trần Thi Vũ, "Cô ấy đáng thương quá! Hơn nữa đứa nhỏ vừa mất cha lại vừa mất mẹ, nó biết phải làm sao?"
Tôi biết không phải mình tàn nhẫn, bởi vì khi ấy tim tôi cũng nhói đau, nó nhói đau vì lòng trắc ẩn đối với người đàn bà tội nghiệp. Nó khiến tôi hoài nghi ý nghĩa công việc của mình.
Nhưng cuối cùng, tôi vẫn rắn rỏi nói: "Chúng ta phân tích đây là vụ đánh người gây thương tích dẫn đến tử vong, chứ không phải vụ cố ý giết người. Điều này nhất định phải viết rõ trong báo cáo phân tích hiện trường. Việc chúng ta có thể giúp cô ấy chỉ chừng ấy mà thôi!"
Pháp Y Tần Minh: Kẻ Dọn Rác Pháp Y Tần Minh: Kẻ Dọn Rác - Tấn Minh Pháp Y Tần Minh: Kẻ Dọn Rác