Love is a puzzle posed by the emotions and not likely to be solved by reason.

Anon

 
 
 
 
 
Tác giả: Mary Norton
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: The Borrowers (The Borrowers #1)
Biên tập: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2675 / 58
Cập nhật: 2018-03-18 01:33:44 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7
rong ba tuần sau đó Arrietty đặc biệt “ngoan ngoãn”: cô bé giúp mẹ dọn dẹp phòng kho; cô bé quét và tưới nước cho các hành lang và giậm giậm nền đất xuống: cô bé lựa chọn và phân loại hạt huyền (mà họ dùng để làm nút) cho vào nút xoáy của các lọ thuốc nhức đầu; cô bé cắt những chiếc găng tay cũ của trẻ con thành các ô vuông dùng vào việc đóng giày của ông Pod; cô bé mài những cái kim bằng xương cá sắc như kim của con ong; cô bé phơi đồ giặt ở cạnh cái lưới sắt làm cho đồ giặt bay trong gió nhẹ; và cái ngày đó cuối cùng đã đến - cái ngày đáng sợ, tuyệt vời, sẽ không bao giờ quên được - khi bà Homily, đang kỳ cọ bàn bếp, duỗi thẳng lưng và gọi, “Ông Pod!”
Ông đi vào từ phòng làm việc của mình, khuôn giày trên tay.
“Nhìn cái bàn chải này!” bà Homily kêu lên. Đó là một cái bàn chải bằng sợi mặt sau được bện.
“Ừ,” ông Pod nói, “mòn rồi.”
“Giờ nó cứ làm xước các đốt ngón tay tôi,” bà Homily nói, “mỗi lần tôi kỳ cọ.”
Ông Pod trông có vẻ lo lắng. Từ khi ông bị “nhìn thấy”, họ đã hạn chế việc đi mượn chỉ nội trong khu vực bếp, những đồ cần thiết tối thiểu như nhiên liệu và thực phẩm. Có một cái lỗ chuột cũ bên dưới bếp lò ở trên nhà mà, ban đêm khi ngọn lửa đã tắt hay rất yếu, ông Pod có thể dùng như một cầu trượt để khỏi phải bê vác. Từ sau việc xảy ra trên rèm cửa sổ họ đã đẩy một cái tủ với những ngăn kéo bằng hộp diêm vào bên dưới lỗ chuột, và đặt một chiếc ghế trên cái tủ ngăn kéo; và ông Pod, nhờ có bà Homily đẩy và hỗ trợ, đã học được cách lách lên chiếc cầu trượt thay vì xuống. Bằng cách này ông không phải mạo hiểm ra hành lang lớn và các lối đi; ông có thể chạy vụt ra, từ bên dưới cái bếp lò màu đen to tướng trong bếp, để lấy một cây đinh hương hay củ cà rốt hoặc một miếng thịt hun khói ngon lành. Nhưng đó không phải là cách sắp xếp thỏa đáng: ngay cả khi bếp lửa đã tắt, thường vẫn có tro nóng và than cháy dở dưới bếp lò và có lần, khi ông đang đi ra, một cái chổi khổng lồ trên tay bà Driver tiến về phía ông; và ông trượt trở xuống, đè lên bà Homily, cháy sém, run rẩy, và ho vì bụi. Một lần khác, vì lý do nào đó, bếp lửa đang cháy to thì ông Pod bất ngờ đến bên dưới cái địa ngục rực rỡ đang bắn tung ra những miếng than nóng trắng ấy. Nhưng thông thường, vào ban đêm, ngọn lửa đã tắt, và ông Pod có thể lần đường tránh những miếng than cháy dở để vào trong bếp.
“Bà Driver đang ở ngoài,” bà Homily nói tiếp. “Hôm nay là ngày nghỉ của bà ấy. Và Bà...” - họ luôn gọi bà dì Sophy là “Bà” - “đang yên ổn trên giường.”
“Họ không phải là người làm tôi lo lắng,” ông Pod nói.
“Tại sao,” bà Homily kêu lên gay gắt, “cậu bé không còn ở đây đúng không?”
“Tôi không biết,” ông Pod nói, “luôn có rủi ro,” ông nói thêm.
“Và sẽ luôn luôn có,” bà Homily đáp lại, “như khi ông ở trong hầm chứa than và xe than đến.”
“Nhưng hai người kia,” ông Pod nói, “bà Driver và Bà, tôi luôn biết họ đang ở đâu, kiểu thế.”
“Về chuyện đó thì,” bà Homily kêu lên, “một cậu bé còn tốt hơn. Ta có thể nghe thấy một cậu bé từ xa một dặm. Thôi,” bà nói tiếp sau giây lát, “làm theo ý ông đi. Nhưng nói về rủi ro thì thật chẳng giống ông tí nào...”
Ông Pod thở dài. “Được rồi,” ông nói và quay đi để lấy cái túi đi mượn của mình.
“Đem con bé theo,” bà Homily nói với ông.
Ông Pod quay lại. “Này, bà Homily,” ông cất giọng sợ hãi.
“Tại sao không?” bà Homily hỏi gay gắt. “Đã đến ngày đó. Ông không vượt quá cửa ra vào. Nếu cảm thấy lo lắng thì ông có thể để con bé lại cạnh cái đồng hồ, sẵn sàng chạy vụt vào bên dưới, xuống cái lỗ. Dù sao cũng để cho nó nhìn thấy chứ. Arrietty!”
Trong khi Arrietty chạy vào, ông Pod thử lại lần nữa. “Này nghe đây, bà Homily...” ông phản đối.
Bà Homily phớt lờ ông. “Arrietty,” bà phấn khởi nói, “con có muốn đi cùng bố và mượn cho mẹ những chiếc lông thảm cửa ở hành lang để làm bàn chải không?”
Arrietty khẽ nhảy cẫng lên. “Ôi,” cô bé kêu lên, “con được đi ư?”
“Ừ, cởi cái tạp dề ra,” bà Homily nói, “và thay ủng đi. Con cần đôi giày nhẹ khi mượn - nên đi đôi giày da đỏ.” Và rồi trong khi Arrietty quay đi, bà Homily quay về phía ông Pod. “Con bé sẽ ổn thôi,” bà nói, “rồi ông xem.”
Trong khi theo bố mình xuống lối đi, tim Arrietty bắt đầu đập nhanh hơn. Giờ đây khi cuối cùng lúc đó đã đến cô bé cảm thấy nó gần như quá sức chịu đựng. Cô bé cảm thấy hơi choáng váng, run rẩy, và trống rỗng vì phấn khích.
Họ có ba cái túi đi mượn giữa hai người (“Phòng trường hợp chúng ta nhặt được cái gì đó,” ông Pod giải thích. “Một Người Vay Mượn kém cỏi sẽ mất nhiều cơ hội vì thiếu một chiếc túi dự phòng.”) và ông Pod để những chiếc túi đó xuống để mở cánh cổng đầu tiên, được chốt bằng một cái kim băng. Đó là một cái kim băng to, cài quá căng nên không thể mở bằng những bàn tay nhỏ bé, và Arrietty nhìn bố mình đu cả trọng lượng của cơ thể trên thanh kim và hai chân ông nhấc bổng lên khỏi nền nhà. Đu mình bằng hai tay, ông chuyển trọng lượng cơ thể theo thanh kim về phía vòng chốt và, khi ông chuyển động, cái kim băng bật ra và cùng lúc ông cũng nhảy bật ra. “Con không làm được việc đó đâu,” ông vừa nhận xét vừa phủi bụi trên tay, “quá nhẹ. Mẹ con cũng không. Bây giờ đi theo bố. Khẽ thôi...”
Có những cái cổng khác; tất cả ông Pod đều để mở (“Không bao giờ được đóng cửa khi đang đi ra,” ông thì thầm giải thích, “con có thể phải quay lại gấp.”) và, sau giây lát, Arrietty nhìn thấy một ánh sáng mờ mờ ở cuối lối đi. Cô bé kéo tay áo của bố. “Đấy ư?” cô bé nói thầm.
Ông Pod đứng im. “Bây giờ khẽ thôi,” ông căn dặn cô bé. “Ừ, nó đấy: cái lỗ ở dưới đồng hồ!” Khi ông nói những từ này, Arrietty cảm thấy không thở nổi nhưng bề ngoài cô không để lộ ra. “Có ba bậc thang dẫn lên đó,” ông Pod nói tiếp, “hơi dốc, vì thế con hãy chú ý bước đi của mình. Khi con đến dưới đồng hồ thì phải dừng lại đó; đừng để ý nghĩ con sao nhãng và dõi mắt theo bố: nếu không có ai, bố sẽ ra hiệu cho con.”
Các bậc thang cao và hơi gập ghềnh nhưng Arrietty bước lên nhẹ hơn ông Pod. Khi cô bé trèo qua các cạnh lởm chởm của miệng lỗ cô bé chợt thoáng thấy ánh vàng nung chảy chói lọi: đó là ánh sáng mặt trời mùa xuân trên những viên đá sáng màu của sàn hành lang. Đứng thẳng dậy, cô bé không thể nhìn thấy điều này nữa; cô bé chỉ nhìn thấy những hõm tối trong cái hộp vĩ đại phía trên mình và nét mờ của những vật treo nặng. Bóng tối trống rỗng xung quanh cô bé rung động theo âm thanh; đó là một âm thanh an toàn - vững chắc và đều đặn; và cách xa bên trên đầu mình, cô bé nhìn thấy chuyển động của quả lắc; nó hơi sáng bóng lên trong không gian tranh tối tranh sáng, tách biệt và cẩn trọng với sự đánh đu nhịp nhàng. Arrietty cảm thấy nước mắt ấm sau mi mắt mình và một niềm tự hào chợt dâng lên: vậy đây rốt cuộc là Clock! Cái đồng hồ của họ... họ đã được đặt tên theo nó! Hai trăm năm qua nó đã đứng ở đây, trầm tiếng và nhẫn nại, canh gác ngưỡng cửa của họ, và đo thời gian của họ.
Nhưng cô bé thấy ông Pod cúi xuống dưới cái vòm cửa chạm trổ ngược sáng. “Dõi mắt theo bố nhé,” ông nói, vì thế Arrietty cũng cúi xuống. Cô bé nhìn thấy sàn hành lang bằng đá màu vàng ánh kim vươn dài xa tắp; cô bé nhìn thấy các cạnh thảm, như những hòn đảo nhiều màu sắc trên một biển kim loại nung chảy, và cô bé nhìn thấy, trong vẻ huy hoàng của ánh mặt trời - như một cánh cổng vào thế giới thần tiên trong giấc mơ - cửa chính đang mở. Phía sau nó cô bé nhìn thấy cỏ và, in trên nền trời xanh trong, một chiếc lá lược xanh lục vẫy vẫy.
Ông Pod nhìn xung quanh. “Hãy đợi,” ông khẽ nói trong hơi thở, “và nhìn.” Và rồi như một tia chớp ông biến mất.
Arrietty nhìn thấy ông chạy vội vàng ngang qua sàn nhà sáng ánh mặt trời. Ông chạy nhanh - như một con chuột hoặc như một chiếc lá bị gió thổi - và đột nhiên cô bé thấy ông như “nhỏ bé”. “Nhưng,” cô bé tự nhủ, “bố không nhỏ bé. Bố cao hơn mẹ nửa cái đầu...” Cô bé nhìn ông chạy vòng qua một hòn đảo thảm màu nâu vào khoảng tối bên cạnh cái cửa. Ở đó, có vẻ như ông trở nên vô hình.
Arrietty quan sát và chờ đợi. Tất cả đều yên lặng trừ tiếng động vùn vụt bất thình lình trong chiếc đồng hồ. Một tiếng động vùn vụt nghiến rít, trên cao trong khoảng rỗng tối tăm trên đầu cô bé, rồi tiếng trượt kim loại của cái lưới sắt trước khi chiếc đồng hồ ngân lên tiếng chuông. Đồng hồ đánh ba tiếng, khoan thai và êm dịu, “Lấy hay bỏ,” chúng dường như đang nói, “nhưng thời gian vẫn là thời gian...”
Có một sự di chuyển đột ngột ở gần cái rầm đỡ khuất bóng nơi cửa chính và ông Pod lại xuất hiện, với chiếc túi trên tay, bên cạnh cái thảm; cái thảm cao tới gối phía trước ông như một cánh đồng cây hạt dẻ. Arrietty nhìn thấy ông lướt về phía đồng hồ và rồi cô bé nhìn thấy ông giơ tay lên.
Ôi, sự ấm áp của những viên đá lát khi cô bé chạy ngang qua sàn... ánh mặt trời vui vẻ trên khuôn mặt và bàn tay cô bé... cái không gian đáng sợ trên đầu và xung quanh cô bé! Cuối cùng thì ông Pod tóm được cô bé giữ lại, rồi vỗ vai cô bé. “Nào, nào...” ông nói, “nghỉ một chút đi nào - bé ngoan!”
Khẽ thở hổn hển, Arrietty nhìn xung quanh mình. Cô bé nhìn thấy những chiếc chân ghế khổng lồ hướng thẳng lên ánh sáng mặt trời; cô bé nhìn thấy những phần phía dưới khuất bóng của mặt ghế trải ra bên trên cô bé như những mái vòm; cô bé nhìn thấy những cái đinh và dây buộc bằng da và những miếng vải lụa và dây; cô bé nhìn thấy những bậc thang cao như vách đá, leo lên rất cao, cao nữa và cao nữa... cô bé nhìn thấy các chân bàn chạm trổ và một cái hang ở bên dưới tủ. Và trong suốt thời gian đó, trong sự yên lặng, chiếc đồng hồ nói - đo những giây phút, trải ra từng lớp sóng âm êm đềm.
Và rồi, quay đi, Arrietty nhìn ra khu vườn. Cô bé nhìn thấy một lối đi rải sỏi, đầy những hòn sỏi màu - bằng cỡ quả óc chó, rải rác đây đó là một lá cỏ trồi lên ở giữa, xanh trong suốt trước ánh mặt trời. Phía sau lối đi cô bé nhìn thấy một bờ cỏ mọc dốc lên tới một hàng rào bằng những bụi cây um tùm; và phía sau hàng rào, cô bé nhìn thấy cây quả, rực rỡ nở hoa.
“Đây là một cái túi,” ông Pod thì thầm với giọng khàn khàn, “bắt tay vào việc thôi.”
Một cách ngoan ngoãn Arrietty bắt đầu dứt những cái lông; chúng cứng và phủ bụi. ông Pod làm việc nhanh nhẹn và cẩn thận, gom lại thành những bó nhỏ, và bỏ ngay từng bó vào túi. “Nếu con bất thình lình phải chạy,” ông giải thích, “con sẽ tuyệt chẳng muốn để lại cái gì cả.”
“Làm thế này thì đau tay lắm,” Arrietty nói, “đúng không?” Và cô bé bất chợt hắt hơi.
“Tay bố không bị đau,” ông Pod nói, “nó đã chai sạn rồi, kiểu thế,” và Arrietty lại hắt hơi lần nữa.
“Bụi nhỉ?” cô bé nói.
Ông Pod đứng thẳng lưng lên. “Đừng dứt những cái lông buộc thẳng vào thảm,” ông vừa nói vừa quan sát cô bé. “Làm thế thì bị đau tay là đúng thôi. Nghe đây,” ông kêu lên sau giây lát, “con để đó đi! Đây là lần đầu tiên con lên nhà. Con hãy ngồi trên thềm kia và ngắm nhìn ra ngoài cửa.”
“Ôi, không...” Arrietty cất tiếng (“Nếu mình không giúp, bố sẽ không muốn mình đi theo lần nữa,” cô bé nghĩ), nhưng ông Pod cứ khăng khăng.
“Bố làm việc một mình tốt hơn,” ông nói. “Bố có thể tự chọn những cái lông ấy, nếu con hiểu ý bố, bố là người phải làm cái bàn chải.”
Những Người Vay Mượn Tí Hon Những Người Vay Mượn Tí Hon - Mary Norton Những Người Vay Mượn Tí Hon