Sometimes the dreams that come true are the dreams you never even knew you had.

Alice Sebold

 
 
 
 
 
Tác giả: Nicholas Sparks
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Phong Hạ
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bùi Thi Hoàng
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2416 / 76
Cập nhật: 2015-07-11 20:57:25 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9
ù đã có lớp cửa chớp cùng tấm rèm để ngắt bớt ánh nắng sớm,Paul vẫn thức dậy ngay lúc bình minh sáng thứ Sáu hôm ấy, và anh đã dành ramười phút để co duỗi cơ thể cho tan cơn đau nhức.
Mở toang hai cánh cửa chớp, anh đón khung cảnh buổi sáng vàophòng. Một lớp sương mù dày phủ trên mặt nước, còn bầu trời mang một màu xámlạnh lẽo như đồng. Những đám mây tích đua nhau trôi thành hàng song song với bờbiển. Cơn bão sẽ tới trước khi đêm xuống, anh thầm nghĩ, có lẽ là vào giữa buổichiều.
Anh ngồi trên mép giường để xỏ giày chạy, rồi khoác thêm mộtlớp áo gió bên ngoài. Anh lấy thêm một đôi găng từ ngăn kéo để xỏ vào tay rồibước xuống cầu thang và nhìn quanh. Adrienne vẫn chưa dậy, khiến anh cảm thấymột nỗi thất vọng thoáng hiện trong lòng vì không được gặp nàng, rồi đột nhiêntự hỏi sao mình lại quá để tâm tới việc đó. Anh mở khóa cửa, và chỉ một phútsau đã chạy chầm chậm dọc theo bãi biển, để cho cơ thể ấm dần lên trước khichuyển sang một nhịp chạy đều hơn.
Từ phòng mình, Adrienne nghe thấy tiếng kẽo kẹt khi anh bướcxuống những bậc cấp. Ngồi dậy, nàng tung chăn và xỏ chân vào đôi dép di dtrongnhà, thầm ước giá như nàng đã kịp pha sẵn cho Paul một chút cà phê trước khianh dậy. Không rõ liệu anh có muốn uống trước khi chạy không, nhưng ít ra đánglẽ nàng đã có thể mời anh.
Ở bên ngoài, các khớp trên người Paul thả lỏng dần và anhtăng nhanh sải bước của mình. Tốc độ này không thể so sánh được với nhịp chạycủa anh khi còn đôi ba mươi, nhưng cũng đều đặn và khiến thấy khỏe khoắnhơn.
Với anh việc chạy bộ chưa bao giờ chỉ đơn giản là tập thểdục. Anh đã chạy đến cái mức mà nó trở thành một việc không còn khó khăn chútnào, dường như việc chạy năm dặm liền không khiến anh tốn nhiều năng lượng hơnđọc một bài báo. Thay vào đó, anh coi đó là một cách tĩnh tâm, một trong nhữngkhoảng thời gian ít ỏi anh được ở một mình.
Hôm đó là một buổi sáng tuyệt vời để chạy. Dù đêm trước cómưa và anh có thể thấy những giọt nước trên cần gạt của xe ô tô, nhưng cơn mưachắc hẳn chỉ tạt qua nơi này chóng vánh, vì mặt đường hầu như đã khô. Chỉ cònnhững cụm sương vương vất trước buổi bình minh và di chuyển với hành trình maquái từ nóc nhà này tới nóc nhà khác. Ban đầu anh định chạy trên bờ biển vìkhông mấy khi có cơ hội, nhưng rồi anh quyết định dùng đường chạy của mình đểtìm nhà Robert Torrelson. Anh chạy dọc theo đường cao tốc, băng qua khu trungtâm, rồi rẽ ở góc đường đầu tiên, thầm thu vào mắt mọi cảnh vật xung quanh.
Rodanthe hiện ra như trong hình dung của anh: một làng chàicổ xưa nằm sát mép nước, một nơi mà cuộc sống hiện đại vẫn chưa về tới. Mọingôi nhà đều được dựng bằng gỗ, và dù một số được tu sửa tốt hơn hẳn, với nhữngkhoảnh vườn nhỏ chăm chút cẩn thận và một luống đất mỏng nơi những búp cây sẽnở vào mùa xuân, anh có thể thấy rõ sự hiện diện đầy khắc nghiệt của cuộc sốngven biển ở mọi nơi. Ngay cả những ngôi nhà chưa quá chục năm tuổi cũng đangbắt đầu mục nát. Các hàng rào và thùng thư có nhiều lỗ vì mưa gió ăn mòn, lớpsơn đã bong, mái nhà bằng thiếc điểm những vệt gỉ sét dài và rộng. Nằm rải ráctrong các khoảnh vườn là nhiều loại đồ dùng hằng ngày khác nhau đặc trưng chocuộc sống nơi đây: động cơ tàu thuyền nhỏ đã phỏ, những tấm lưới bắt cá chỉ cònđược dùng để trang trí, dây thừng và xích để ngăn người lạ.
Một số ngôi nhà trông không khác gì túp lều, các bức tườngmang một vẻ tạm bợ bấp bênh, như thể chỉ thêm một cơn gió mạnh nữa thôi là sẽđổ sập ngay. Ở một số căn, mái hiên trước nhà đã nghiêng ngả và được chống tạmbằng đủ thứ đồ tận dụng để ngăn chúng không đổ sập hoàn toàn: những khối bêtông hay chồng gạch, những thanh gỗ hai nhân bốn thò từ dưới lên như những câyđũa ngắn.
Nhưng ở nơi này, mọi sinh hoạt vẫn diễn ra, ngay từ lúc mờsáng, trong cả những ngôi nhà tưởng chừng đã bỏ hoang. Trong khi chạy, anh thấykhói bốc lên từ các ống khói và quan sát đàn ông và phụ nữ đang dùng ván gỗ đểche chắn cửa sổ nhà mình. Tiếng búa đinh đã bắt đầu vang lên trong không gian.
Anh rẽ ở khu nhà tiếp theo, kiểm tra biển tên đường rồi chạytiếp. Một vài phút sau, anh rẽ vào con phố nơi Robert Torrelson sống. Theo anhbiết, ông ta sống ở số nhà ba mươi tư.
Anh chạy qua số nhà mười tám, rồi hai mươi, rồi bắt đầungước mắt lên nhìn phía trước. Một vài người hàng xóm dừng công việc của mìnhquay ra dõi nhìn anh bằng ánh mắt cảnh giác khi anh chạy qua. Một lát sau, anhđã đến nhà Robert Torrelson, liếc nhìn về phía đó, cố gắng không quá lộ liễu.
Đó là một ngôi nhà giống như hầu hết các ngôi nhà khác trêncùng dãy phố: không còn chỉn chu lắm, nhưng cũng không quá xập xệ. Đúng hơn, nókẹp giữa hai tình trạng đó - một tình trạng hòa hoãn giữa con người và thiênnhiên trong cuộc chiến giành giật lấy ngôi nhà. Ít nhất là đã tồn tại nửa thếkỷ, ngôi nhà là một tòa kiến trúc một tầng, với mái thiếc; không có ống máng đểchuyển hướng nước chảy, nước mưa của hàng ngàn cơn bão đã hằn những vệt xám lênlớp sơn nhà màu trắng. Trên hàng hiên là hai chiếc ghế bập bênh bạc phếch kêhướng vào nhau. Quanh các cửa sổ, anh thấy một dây đèn trang trí Giáng sinhgiăng trơ trọi.
Nằm ở mặt sau của ngôi nhà là một gian nhà phụ nhỏ với cửatrước được mở chống lên. Bên trong có hai chiếc bàn thợ phủ đầy lưới, cần câu,rương hòm và dụng cụ. Hai mỏ neo lớn đặt dựa vào tường, và anh có thể thấy mộtchiếc áo mưa màu vàng treo trên mắc ngay bên trong. Từ phía sau chiếc áo, bóngmột người đàn ông ló ra, tay cầm một chiếc xô.
Bóng người đó xuất hiện đột ngột anh không ngờ tới, thế làanh vội quay đi trước khi người đó thấy anh đang nhìn. Vẫn quá sớm cho cuộc gặpmặt, và anh cũng không muốn gặp trong bộ đồ chạy. Thay vào đó, anh ngẩng mặtlên hứng làn gió sớm, rẽ ở góc đường tiến theo, và cố gắng tìm lại nhịp chạy.
Việc đó không dễ chút nào. Hình ảnh người đàn ông nọ vẫnvương vất trong đầu anh, khiến anh thấy uể oải dần, mỗi bước chạy càng trở nênkhó khăn hơn. Dù trời đang lạnh, khi kết thúc đường chạy của mình, mặt anh đãlấm tấm mồ hôi.
Anh đi bộ mấy chục bước cuối cùng về Nhà Nghỉ, để hai chânmình thư giãn dần. Từ trên đường, anh có thể thấy ánh đèn trong nhà bếp đã đượcbật.
Hiểu ý nghĩa của điều đó, anh mỉm cười.
Trong khi Paul ra ngoài, các con của Adrienne đã gọi điện,vậy là nàng nói chuyện với chúng vài phút, mừng rằng chúng đang vui vẻ bên bố.Một lát sau, ngay khi giờ làm việc vừa bắt đầu, nàng gọi điện cho viện điềudưỡng.
Dù cha nàng không thể nghe điện thoại, nàng đã sắp xếp đểGail, một cô y tá, trả lời thay ông, và cô ấy đã nhấc ống nghe sau hồi chuôngthứ hai.
"Chị gọi thật đúng lúc," Gail nói. "Tôi vừa nói với bố chịlà chị sẽ gọi bất cứ lúc nào."
"Hôm nay ông thế nào?"
"Ông hơi mệt, còn đâu thì vẫn ổn cả. Chị chờ một lát để tôiđặt ống nghe cạnh tai ông nhé?"
Một lát sau, khi nghe thấy tiếng thở nặng nhọc của cha mình,Adrienne nhắm mắt.
"Con chào bố," nàng cất tiếng, và nàng bắt đầu trò chuyệnvới ông trong vài phút như thể đang ở ngay cạnh ông. Nàng kể với ông về NhàNghỉ và bờ biển, về những đám mây dông và sấm chớp, và dù nàng không nhắc tớiPaul, nàng tự hỏi liệu cha nàng có nghe được vẻ xao động trong giọng nàng mỗikhi tránh nói đến tên anh như nàng đang cảm thấy hay không.
Paul bước lên bậc thềm nhà, ngửi thấy mùi thịt muối thơmngào ngạt trong không khí, như thể đang chào mừng anh trở lại. Một lát sau,Adrienne bước ra qua cánh cửa nhà bếp.
Nàng mặc quần jean cùng một chiếc áo len màu xanh nhạt tiệpmàu với mắt nàng. Trong ánh sáng sớm mai, chúng ngả sang màu xanh ngọc, nhắcanh nhớ đến các sắc màu trong suốt của bầu trời mùa xuân.
"Anh dậy sớm nhỉ?" nàng nói, vén một sợi tóc qua tai.
Paul cảm thấy cử chỉ ấy gợi cảm đến khác thường, và anh laumồ hôi đọng trên lông mày. "Vâng, thường ngày tôi phải chạy xong rồi mới làm gìthì làm."
"Anh thấy dễ chịu chứ?"
"Không được như mọi khi, nhưng ít nhất cũng xong rồi." Anhchuyển trọng tâm từ chân nọ sang chân kia. "Nhân tiện, mùi trong này thơm quá."
"Tôi bắt đầu làm bữa sáng trong khi anh ra ngoài."" Nàng chỉqua vai. "Anh muốn ăn ngay bây giờ hay chờ lát nữa?"
"Tôi muốn tắm trước đã, nếu được."
"Được thôi. Đằng nào thì tôi cũng đang định nấu cháo yếnmạch, mà món đó mất đến hai mươi phút. Anh thích món trứng làm thế nào?"
"Trứng chưng được không?"
"Tôi nghĩ tôi làm được." Nàng dừng lại, thích thú vì vẻ thậtthà trong cái nhìn của anh và kéo dài khoảnh khắc ấy thêm lát nữa. "Để tôi lấythịt hun khói ra kẻo cháy mất," cuối cùng nàng nói. "Gặp lại anh sau vài phútnữa nhé?"
"Hẳn rồi."
Sau khi nhìn nàng quay đi, Paul leo lên cầu thang và phòngmình, vừa đi vừa lắc đầu thầm nghĩ trông nàng thật đáng yêu. Anh cởi quần áo,giặt qua chiếc áo trong bồn rồi treo nó lên khung rèm và mở vòi nước. Đúng nhưAdrienne đã báo trước, mất một lúc lâu nước nóng mới chảy ra.
Anh tắm rửa, cạo râu và mặc một chiếc quần âu Docker với áocó cổ, xỏ đôi giày lười rồi xuống với nàng. Trong bếp, Adrienne đã bày bàn xongvà đang mang hai chiếc bát cuối cùng của bữa sáng lên bàn, một chiếc đựng bánhmì, chiếc kia đựng hoa quả thái lát. Khi Paul bước vòng qua nàng, anh ngửi thấymột thoáng hương dầu gội đầu mùi hoa nhài mà nàng dùng sáng hôm đó.
"Tôi hy vọng anh không thấy phiền khi tôi lại ngồi cùng,"nàng nói.
Paul kéo ghế ra cho nàng. "Không hề. Tôi đang mong thế làkhác. Mời cô ngồi." Anh ra hiệu cho nàng ngồi xuống.
Nàng để anh đẩy ghế cho mình, rồi nhìn anh cùng ngồi xuống."Tôi đã định tranh thủ mua một tờ báo," nàng nói, "nhưng lúc tôi đến thì quầybáo ở cửa hàng tạp hóa đã trống không."
"Cũng phải thôi. Sáng nay có nhiều người ra ngoài lắm. Tôiđoán mọi người đều đang lo không biết hôm nay sẽ tệ đến mức nào."
"Xem ra chẳng tệ hơn hôm qua là mấy."
"Đấy là vì cô không sống ở đây thôi."
"Anh cũng có sống ở đây đâu."
"Vâng, nhưng trước đây tôi đã chứng kiến một cơn bão lớnrồi. Thực ra tôi đã bao giờ kể với cô về cái lần tôi còn học đại học và xuốngtận Wilmington..."
Adrienne bật cười. "Vậy mà anh đã thề không bao giờ kểchuyện đó."
"Chắc là do đã phá lệ một lần rồi thì những lần khác sẽ dễnói hơn. Mà đó lại là câu chuyện thú vị duy nhất của tôi. Mọi chuyện khác đềurất chán."
"Tôi không tin đâu. Từ những gì anh kể với tôi, tôi nghĩ củacuộc sống của anh còn lâu mới chán."
Anh mỉm cười, không rõ câu nói của nàng có ý khen ngợi haykhông, nhưng vẫn thấy hài lòng.
"Jean nói hôm nay phải làm những việc gì?"
Adrienne xúc một ít trứng rồi đẩy cái bát về phía anh.
"Ừm, phải mang đồ đạc ngoài hiên cất vào trong kho. Cửa sổphải đóng và cài then cửa chớp từ bên trong. Rồi phải dựng cửa chống bão lên.Hình như chúng gắn liền với nhau và mình phải cài vài cái móc gì đấy vào để giữcho đúng chỗ, rồi sau đó chống lên bằng gỗ hai nhân bốn. Gỗ ấy hình như cũngđược cất cùng chỗ với cửa chống bão."
"Hy vọng cô ấy có thang."
"Nó cũng ở dưới hầm."
"Nghe không tệ lắm. Nhưng như tôi đã nói hôm qua, tôi sẵnlòng giúp cô một tay sau khi về."
Nàng nhìn anh. "Anh có chắc không? Anh không phải làm việcđó đâu."
"Có phiền gì đâu. Dù sao tôi cũng không có dự định gì kháccả. Và thành thực mà nói, tôi không thể ngồi trong nhà trong khi cô làm tất cảmọi việc được. Tôi sẽ thấy áy náy dù là khách."
"Cám ơn anh."
"Không có gì."
Họ chia phần thức ăn, rót cà phê và bắt đầu ăn. Paul quansát nàng chăm chú phết bơ lên bánh mì. Trong ánh sáng bàng bạc của buổi sớm,trông nàng thật đẹp, còn đẹp hơn anh thấy ngày hôm trước.
"Anh sắp đi nói chuyện với cái người anh nhắc đến hôm quaà?"
Paul gật đầu. "Sau bữa sáng," anh nói.
"Anh có vẻ không vui về việc đó."
"Tôi cũng không biết có nên vui hay không nữa."
"Tại sao?"
Sau một thoáng do dự, anh kể với nàng về Jill và RobertTorrelson - về cuộc phẫu thuật, cuộc khám nghiệm tử thi, và tất cả những gì đãxảy ra sau đó, bao gồm cả lời nhắn anh nhận được trong bức thư. Sau khi anh kểxong, Adrienne có vẻ đang nhìn anh dò xét.
"Và anh không biết ông ấy muốn gì?"
"Tôi đoán là chuyện về vụ kiện."
Adrienne không nghĩ thế, nhưng nàng không nói gì. Thay vàođó, nàng với lấy cốc cà phê của mình.
"Chà, bất kể là chuyện gì, tôi nghĩ anh đã làm một việc đúng đắn. Cũng như việc anh đang làm với Mark."
Anh không nói gì, nhưng cũng không cần phải nói. Việc nànghiểu những điều anh làm đã là quá đủ rồi.
Những ngày gần đây, tất cả những gì anh muốn chỉ là có ai đóhiểu mình như vậy, và dù anh mới chỉ gặp nàng hôm trước, anh có cảm giác rằngbằng cách nào đó nàng đã biết anh rõ hơn hầu hết mọi người khác.
Hay có lẽ, anh thầm nghĩ, rõ hơn bất kỳ ai.
Những Đêm Ở Rodanthe Những Đêm Ở Rodanthe - Nicholas Sparks Những Đêm Ở Rodanthe