He who lends a book is an idiot. He who returns the book is more of an idiot.

Arabic Proverb

 
 
 
 
 
Tác giả: Chris Colfer
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 24
Cập nhật: 2021-05-22 19:07:56 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7 - Tòa Tháp Của Rapunzel
ọn trẻ đã chạy liên tục non một giờ đồng hồ, và chúng bắt đầu thấm mệt. Adrenaline trong chúng từ từ cạn kiệt, và cơn nhức nhối bên hông tăng dần với mỗi bước chạy. Nhưng vì những chuyện nguy hiểm có vẻ luôn xảy ra mỗi lần chúng ngừng lại nên bọn trẻ có động lực để tiếp tục.
“Sau tất cả những vụ chạy nhảy này, kiểm tra thể dục chỉ là chuyện nhỏ như con thỏ thôi,” Conner nói với tiếng thở hổn hển nặng nhọc.
“Chúng ta sắp tới rồi,” Alex nói một cách thiếu thuyết phục. “Thêm chút nữa thôi!”
Khu rừng thay đổi dần khi bọn trẻ chạy băng qua. Cây cối không còn quá dày, có thêm nhiều khoảng trống và cỏ giữa rừng. Ánh nắng rọi qua những cành cây nhiều hơn, nên không có gì khuất trong bóng tối. Lối mòn cũng trở nên rộng rãi và dễ nhìn.
Bọn trẻ không còn cảm thấy bị đe dọa bởi cảnh vật xung quanh nhiều như trước nữa; khu rừng hầu như trở nên thân thiện hơn khi bọn chúng gần đến Vương quốc Góc Khuất.
Conner ngã vật xuống đất. Cậu bé thở nặng nhọc hơn cả một con cá lìa khỏi nước.
“Em không thể chạy tiếp nữa! Em không thể bước thêm bước nào nữa!” cậu nói với tay chân duỗi thẳng đơ như thể đang làm hình thiên thần tuyết trên đường đất.
“Chúng ta không thể ngừng bước cho đến khi tới được Vương quốc Góc khuất,” Alex nhắc em qua hơi thở nặng nhọc của chính mình.
“Em nghĩ chúng ta tới rồi,” Conner nói.
“Em biết được bằng cách nào?” Alex hỏi.
“Bằng cách kia kìa,” Conner đáp, và trỏ lên không.
Xa xa, một tòa tháp cao nổi lên trên ngọn của rừng cây. Tòa tháp tròn được xây từ những viên đá tảng vuông vức. Chỉ có duy nhất một khung cửa sổ gần đỉnh tháp, ngay bên dưới chiếc mái nhọn làm từ cỏ khô. Nhiều chỗ tường tháp bị che phủ dưới một lớp dây thường xuân dày.
Alex há hốc miệng và siết chặt hai tay.
“Đó là tòa tháp của Rapunzel!” Alex thốt lên, và đôi mắt cô bé mờ đi trước cảnh tượng đó.
“Chị khóc thật đấy à?” Conner nói, vẫn đang ngồi bệt dưới đất.
“Nó đúng như chị tưởng tượng vậy!” Alex đáp. “Đứng lên đi! Chúng ta đến gần xem sao!”
Alex kéo tay em đến khi cậu đứng dậy một cách khó nhọc, rồi cả hai rảo bước qua rừng cây đến dưới chân tòa tháp.
Nó thậm chí còn cao hơn mong đợi, ít nhất cũng đến vài trăm feet. Cổ của bọn trẻ bắt đầu mỏi sau một lúc ngước nhìn tòa tháp. Một bảng hiệu lớn bằng vàng được trưng ra trên mặt đất phía trước ghi rõ:
TÒA THÁP CỦA NỮ HOÀNG RAPUNZEL
“Chắc nữ hoàng đau buồn lắm,” Alex nói. “Nàng nhìn thấy những con người và nơi chốn thật xa xôi mà chẳng bao giờ có thể đến đó.”
“Ít nhất là cô nàng không bao giờ phải lo sợ trộm cướp,” Conner đáp.
“Chị phải lên trên ấy mới được,” Alex tuyên bố.
“Chị có động cơ phản lực hay móc sắt mà em không biết à?” Conner hỏi chị.
“Không. Chị sẽ phải tự mình trèo lên,” Alex đáp, tuyên bố này làm chính cô bé cũng phải kinh ngạc.
“Chị đã chính thức bị mất trí rồi!” Conner khẳng định. “Chúng ta suýt bị giết chết hai lần, mà mình chưa ở đây đến một ngày nữa! Chúng ta cần phải ngừng long nhong chơi giỡn và tìm đường về nhà thôi, Alex! Chị không hiểu chỗ nào trong đó chứ?”
“Nghe này,” Alex nói. “Chị sẽ trèo lên đó trong vài phút thôi, rồi ngay khi chị xuống, chúng ta sẽ đọc quyển nhật ký và tìm hiểu cần tất cả những vật dụng gì để tạo thành Bùa Ước, được không?”
“Alex…” Conner mở lời ngăn cản. Gương mặt của cậu đang ửng hồng.
“Làm ơn đi mà, Conner,” Alex nài nỉ. “Chị cần phải làm chuyện này, nếu không chị sẽ ân hận suốt đời!”
Conner lắc đầu, chỉ có anh chị em ruột mới gây cho nhau nỗi bực bội thế này. Cậu bé muốn trách móc Alex về cách hành xử trẻ con này. Nhưng cái cách mà chị đang nhìn cậu, với đôi mắt mở to, tha thiết đã ngăn cậu lại. Hiếm khi Alex lại cần cái gì đó, chắc một lần dừng chân nữa cũng chẳng hại gì.
“Đừng hại chết chính mình đấy,” Conner dặn. “Nhưng trong khi chị ở trên kia, em sẽ bắt đầu đọc quyển nhật ký và lập danh sách các vật dụng Bùa Ước mà chúng ta cần phải tìm.”
Alex gật đầu sung sướng và đặt cặp của mình xuống đất. Cô bé duỗi người chuẩn bị cho cuộc leo trèo sắp sửa thực hiện.
Conner ngồi bệt xuống đất và bắt đầu lật giở những trang nhật ký.
Trèo lên ngọn tháp là việc nói thì dễ hơn làm. Sau khi tìm kiếm một chỗ để đặt bước chân đầu tiên quanh chân tháp, Alex đã hiểu vì sao lại cần một dòng tóc dài vàng óng mới trèo lên ngọn tháp được. Rốt cuộc, cô bé cũng tìm được một tảng đã bị vỡ một mảng đủ lớn để đặt chân vào và trèo lên nấc đầu tiên.
“Chị đi đây,” Alex nói. “Than ôi, ước gì chị có một chiếc máy ảnh!”
“Tin em đi,” Conner đáp. “Alex thực sự mà em biết sẽ không muốn lưu lại bằng chứng chuyện này đâu.”
Nó cũng giống như leo lên bức tường leo núi khó trèo nhất thế giới vậy. Alex phải dựa vào những khe nứt, mảng vỡ và những viên gạch lồi lõm đủ để đặt tay chân, di chuyển thật cẩn trọng. Nếu cô bé lớn hơn, cách này sẽ không thực hiện được.
“Chị vẫn còn ở chân tháp sao?” Conner cất tiếng nói, ngước nhìn lên khỏi quyển nhật ký sau vài phút.
“Im đi, Conner!” Alex quát trả.
“Em không có ý xúc phạm đâu, nhưng với tốc độ mà chị đang trèo ấy, mẹ sẽ thành bà lão tám mươi khi mình về đến nhà, dù có khác biệt về thời gian hay không,” cậu bé nói.
Mất một lúc lâu sau, Alex mới trở nên thành thục, cô bé di chuyển nhanh hơn, cẩn thận đu người lên nhờ những búi dây thường xuân. Càng trèo lên cao, Alex càng ít nhìn xuống đất, sợ việc đó sẽ ngăn trở nỗ lực trèo lên đỉnh của mình.
Cô bé nhất định phải thấy được đỉnh tháp, được vào trong căn phòng mà Rapunzel đã sống và được thấy những gì Rapunzel đã trông thấy qua khung cửa sổ của nàng mỗi ngày. Alex muốn được ở vào nơi người khác đã sống trong những ngày cô độc nhất cuộc đời họ.
Câu chuyện của Rapunzel bao giờ cũng làm cho Alex dễ dàng đồng cảm. Alex cảm thấy như em luôn ngự trong tòa tháp của chính mình, trông ra thế giới từ một nơi bất khả xâm phạm.
Cô bé đã trèo được gần nửa đường lên ngọn tháp, vượt trên tất cả các ngọn cây trong rừng. Một bước sẩy chân không chỉ có thể làm bị thương, mà còn có nghĩa là cái chết.
“Phải có lý do mụ phù thủy mới giữ Rapunzel trên ấy, chị biết mà!” Conner gọi với lên. “Để không ai có thể đến với nàng!”
“Chị không nghe em đâu!” Alex đáp lại, và rồi, ngớ ngẩn làm sao, cô bé nhìn xuống.
Những giọt mồ hôi lấm tấm xuất hiện trên trán Alex. Cô bé cảm thấy tim mình đã rớt ra khỏi cơ thể. Mình đang làm gì thế này? Không cách nào có thể trèo xuống được. Chẳng lẽ em mạo hiểm tính mạng mình chỉ để nhìn vào bên trong tòa tháp hay sao? Nếu lên được đến đỉnh, rồi em có xuống được không? Liệu em có phải chờ cho đến khi tóc đủ dài mới trèo xuống để gặp lại mọi người được chăng?
Conner sẽ làm gì nếu Alex bị mắc kẹt trên đó đây? Liệu cậu có tìm được một nơi nào tương tự như trạm cứu hỏa trong thế giới cổ tích này với một cái thang đủ cao để đưa chị mình xuống? Hay cậu sẽ tự mình đi tìm những vật dụng Bùa Ước rồi trở về nhà mà không có chị?
Alex càng lo lắng lại càng trèo lên cao hơn. Cô bé biết âu lo mà lại ở một chỗ cũng chẳng được tích sự gì nên cứ tiếp tục trèo. Em cảm thấy như hàng giờ đã trôi qua.
Alex nhìn lên. Cô chỉ còn cách khung cửa sổ vài tấc thôi! Chỉ vài tấc nữa rồi Alex sẽ đến đích! Cuối cùng, cô bé đã với tay chạm đến bậu cửa sổ và từ từ đu mình lên đó… rồi qua đó… cô bé sắp qua được cửa sổ rồi…
Alex đưa chân qua khung cửa sổ vào trong tòa tháp.
“Ơn trời,” Alex tự nhủ. Cô bé có thể bị kẹt trong tòa tháp, nhưng ít nhất em cũng được an toàn.
Alex nhìn quanh tòa tháp; nó chẳng hề giống với những gì em trông đợi. Đó là một căn phòng tròn, rộng lớn, không có bất cứ một món đồ nội thất hay trang trí nào. Thực ra, nó hoàn toàn trống rỗng, chỉ có vài sợi cỏ khô và phân chim rải rác trên sàn.
“Chào chị, Alex!” một giọng nói cất lên từ trong ngọn tháp.
Alex giật bắn mình và hét lên. Cô bé vô cùng sửng sốt khi thấy Conner đang ngồi tựa vào bức tường cách mình vài bước.
“Chị lên đây cũng lâu thật đấy!” Conner vừa nói vừa cười. Cậu bé đang nhấm nháp một quả táo, và quyển nhật ký để mở trên đùi cậu.
“Làm thế quái nào mà em lên được đây vậy!” Alex căn vặn. Cô bé vẫn chưa lấy lại sức sau chuyến leo trèo.
“Em đi cầu thang,” Conner toét miệng cười châm chọc. “Lúc đó em đang đọc quyển nhật ký. Nó kể rằng sau khi Rapunzel trở thành nữ hoàng, nàng cho xây cầu thang trong tháp để có thể trở lại thăm nơi này bất cứ lúc nào nàng muốn. Cửa dẫn vào cầu thang ở phía bên kia tòa tháp. Chúng ta chỉ không trông thấy nó mà thôi.”
“Ồ,” Alex ngượng ngùng nói. “Vậy cũng có lý.”
“Theo những gì người ta biết thì Rapunzel là người duy nhất chịu sự giám hộ của mụ phù thủy, khi mụ chết, Rapunzel kế thừa toàn bộ đất đai của mụ ta. Cô ấy trở thành nữ hoàng như vậy đấy,” Conner kể cho chị biết. “Nếu chị chịu đọc quyển nhật ký thì đã biết chuyện này rồi. Nó chứa đầy những thông tin thú vị và những chỉ dẫn hữu ích để biết cách đi vào những chốn hiểm nghèo.”
“Chị cho là thế,” Alex đáp và kéo thẳng lại chiếc cài tóc. Cô bé sẽ không để sự việc này phá hỏng cảm giác chiến thắng của mình sau khi trèo lên được ngọn tháp. Cô bé quay lại nhìn ra cửa sổ của Rapunzel.
Tòa tháp nằm giữa biển cây cối mênh mông. Ở phía xa, Alex thoáng trông thấy dăm mái nhà của một ngôi làng nhỏ; xa hơn nữa là một rặng núi hùng vĩ trùng điệp dọc chân trời. Đây đúng là cái mà Alex hằng trông đợi.
“Cảnh đẹp thật, phải không?” Conner hỏi.
“Phải,” Alex đáp, gần như thì thầm. “Thật ngoạn mục. Chị ước mình có thể thấy được mọi thứ nơi Miền Cổ Tích này. Nhưng chị đã suy nghĩ nhiều trên đường lên đây, và chị biết chúng ta phải về nhà. Đó là việc chúng ta phải tập trung làm được.”
“Về việc đó thì,” Conner lên tiếng. “Chị cần phải đọc quyển nhật ký này thôi, Alex. Em chỉ đọc lướt qua đôi chút – hầu hết đều khó đọc, vì nó được viết tay – nhưng tình hình nghiêm trọng hơn chúng ta tưởng nhiều.”
Cậu bé đưa chị quyển nhật ký. Alex ngồi xuống bên cạnh em, mở ra trang đầu tiên và bắt đầu đọc.
Các bạn thân mến,
Tôi không biết bằng cách nào, vì sao, hay ở đâu mà bạn tìm ra quyển nhật ký này, nhưng vì nó đã đến được tay bạn, tôi mong rằng nó sẽ có ích.
Những gì tôi sắp kể với các bạn đây sẽ nghe có vẻ phi lý, nhưng tôi khẩn cầu bạn hãy để tôi giải thích. Nếu tôi không được đích thân chứng kiến thì chính tôi đây cũng không sao tin được.
Tôi là một người đàn ông giản dị đến từ một ngôi làng giản dị trong Vương quốc Charming, thế mà tôi đã từng đến một thế giới khác. Đó là một thế giới với những con người và kỹ thuật mà thế giới của chúng ta chỉ dám mơ tới và những nơi chốn mà ta chỉ có thể tưởng tượng thôi. Tôi biết nghe có vẻ ngớ ngẩn, nhưng tôi đoan chắc với bạn rằng có một nơi rất phi thường tồn tại ở ngoài kia. Chỉ là chúng ta không thấy được nó mà thôi.
Trong chuyến đi của mình, với vô vàn những thứ đã được trải nghiệm, tôi đã yêu. Tôi đã yêu sâu đậm đến độ nó không giống như bất cứ cái gì tôi từng biết.
Tôi chưa từng nghĩ tình yêu thế này là có thật. Như thể tôi không còn sống vì bản thân mình nữa, mà vì nàng. Vì vậy, tôi phải tìm đường trở lại. Tôi phải tìm cách để gặp lại nàng.
Lần đầu tiên tôi đến với thế giới khác rất giản đơn. Một bà tiên biết về sự tồn tại của nó đã cho phép tôi đi cùng bà. Bà cảnh báo tôi không được gắn bó với bất cứ thứ gì hay bất cứ ai, nhưng trong khi lý trí của tôi vâng theo yêu cầu của bà, trái tim tôi lại phản bội nó.
Bà tiên từ đó cấm tôi không được đi cùng bà nữa. Vì vậy, lần này, tôi phải tự tìm ra con đường của mình để đi vào thế giới khác.
Vốn dĩ tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu. Làm cách nào một người có thể đến một thế giới khác được? Ai là người để tôi hỏi thăm đây? Làm sao tôi có thể hỏi được mà không có vẻ điên rồ? Người ở xứ Lọ Lem rất hay phê phán người khác, và tôi chắc chắn sẽ bị chế nhạo nếu nguyện vọng của mình bị phát hiện.
Tôi đã đi đến quyết định rằng tôi phải hỏi một người mà chính họ cũng điên rồ, để không ai tin nếu họ nói ra những điều tôi đã hỏi. Tôi cần ai đó mà tôi có thể tin tưởng, nhưng không được thế giới này tin.
Tôi cho rằng người như thế không tồn tại, và mất hết hy vọng, cho đến khi tôi nhớ ra Người Bán Rong. Ông ta nổi tiếng chuyên tìm những đứa trẻ ngây thơ trong rừng và lấy những vật có giá trị của chúng đổi những thứ mà ông khẳng định là có phép thuật. Người ta đồn đại rằng ông ta là người đã cho Jack hạt đậu thần.
Nếu có ai đã được nghe nói về một thế giới khác, đó chắc chắn là ông ta. Ông ta lúc nào cũng bôn ba nơi này nơi nọ, vì lệnh truy nã ông ta đã được ban bố khắp các vương quốc. Ông ta gần như không thể tìm thấy, nhưng nói đi cũng phải nói lại, cả chuyến truy tìm của tôi cũng gần như bất khả đấy thôi.
Một đêm khuya, tôi rời nhà đi ngược dòng suối đến một quán trọ ở thượng nguồn. Ở đó, tôi kết bạn với hai nông dân, rồi lại khoản đãi họ hết chầu này đến chầu khác. Sau khi chúng tôi được mấy trận cười sảng khoái về những chuyến phiêu lưu tuổi thơ và những lầm lỡ tuổi thành niên, tôi hỏi họ có nghe nói về Người Bán Rong chăng.
Họ đều trở nên im lặng và gần như bị xúc phạm bởi câu hỏi đó. Tôi trấn an họ rằng đó hoàn toàn là do hiếu kỳ thôi, và tôi không buộc tội họ gì cả. Tôi trả thêm một chầu nữa, và sau khi ly đã cạn, hai người nông dân thú thực họ đã có việc làm ăn với ông ta hồi còn trẻ.
“Tôi đổi hai con dê lấy một cái bình tưới được cho là có thể tự tưới nước cho mọi thửa vườn của tôi một cách mầu nhiệm,” một người nông dân nói. “Cái thứ khốn khiếp ấy chẳng hề được việc, mà lại bị rò nước nữa! Đó là sai lầm lớn nhất đời tôi.”
“Tôi đổi hai con bò lấy một con ngỗng mà ông ta nói là đẻ được trứng vàng!” người còn lại tức tối nói. “Nó là con ngỗng đực! Ông ta đã giao cho tôi một con ngỗng đực đấy!”
Họ cố gắng thuyết phục tôi từ bỏ việc tìm kiếm ông ta, nhưng sau một chầu cuối cùng; họ cho tôi biết lộ trình mà ông ta vẫn lén lút đi qua rừng.
Tôi đã sục tìm từng khoảnh rừng nhỏ trong Vương quốc Charming. Cuối cùng, trong khu rừng phía nam biên giới Vương quốc Quàng Khăn Đỏ, tôi đã tìm thấy ông ta.
Người Bán Rong là một người đàn ông kỳ quặc, lớn tuổi, bộ dạng nhếch nhác. Ông ta vận nhiều lớp quần áo rách rưới và có một bộ râu xám dài. Dưới mắt ông ta có quầng thâm, và một con mắt bị lé sang bên trái, nên thật khó để biết ông ta đang nhìn vào ai hay cái gì.
Ông ta đi đây đi đó với một chiếc xe kéo to được kéo bởi một con la duy nhất. Khi tôi gặp, ông ta đang mặc cả với một chú bé đang bế một con gà.
“Mang cái móng gấu này vào thì chú sẽ lớn lên thành cậu trai khỏe mạnh nhất trong làng,” Người Bán Rong nói với chú bé, choàng quanh cổ chú ta một sợi dây chuyền có một cái móng gấu to rồi giằng lấy con gà từ tay chú.
Chú bé mỉm cười và chạy đi. Người Bán Rong đặt con gà vào phía sau xe. Ông ta chắc hẳn đã có nhiều vụ trao đổi khác ngày hôm đó, vì ông đã lấy được hai con ngỗng và một con lợn rồi.
“Anh là bạn hay thù?” Người Bán Rong hỏi tôi.
“Là bạn, tôi tin là thế.” Tôi đáp.
“Ồ, tốt,” ông ta nói và vỗ tay vui vẻ. “Vậy thì tôi làm gì được cho anh, anh bạn? Anh có thích một túi bi phép thuật có thể nở to thành đá tảng không? Anh chỉ cần bỏ ra một con vịt thôi! Hay chăng anh thích đổi một con lợn lấy một ổ bánh mì sẽ giúp anh không bao giờ bị đói nữa?”
“Không, cảm ơn,” tôi thận trọng đáp. “Tôi đến để hỏi xin ông lời khuyên.”
“Lời khuyên?” Người Bán Rong thắc mắc. Hàng chân mày trên con mắt bị lé của ông ta nhướng lên. “Cái đó, anh bạn của tôi ơi, là một thứ mà chưa ai từng hỏi xin tôi. Anh muốn biết điều gì?”
“Tôi tự hỏi…” Tôi cất tiếng, nhưng không chắc làm cách nào diễn đạt thành lời. “Khoảng xa nhất mà ông từng đi được là bao nhiêu?”
Người Bán Rong gãi đầu và suy nghĩ về nó.
“Ừ thì, thật lòng mà nói thì không có nơi nào trong thế giới này mà tôi chưa từng đến,” ông ta bảo tôi. “Tôi đã đi từ Tây Nam đến Đông Bắc và từ Đông Nam đến Tây Bắc. Tôi đã từ đáy Vương quốc Góc Khuất đến đỉnh Vương quốc Say Ngủ và từ đầu mút Đế quốc Yêu Tiên đến bến bờ Vương quốc Tiên…”
“Xa hơn thế thì sao?” Tôi cắt ngang lời ông ta, sợ ông ta lại liệt kê hết từng chuyến đi mà ông đã thực hiện.
“Xa hơn thế hả?” Giờ thì cả hai bên chân mày của Người Bán Rong đều nhướng lên. “Còn gì xa hơn thế? Chỉ có biển là xa hơn thế, và thế là hết.”
“Một thế giới khác thì sao? Ông đã bao giờ nghe nói đến một người hay cách thức nào đó để đến đấy chưa?” Rốt cuộc tôi cũng hỏi được.
Đôi mắt Người Bán Rong lóe lên một cái nhìn kỳ lạ - hay tôi nên nói là một mắt thôi nhỉ.
“Anh bạn trẻ, tôi đã đi khắp thế giới, và tôi chưa bao giờ thấy dấu hiệu nào chỉ ra rằng có một thế giới khác,” ông ta nói.
Chủ đề này vì lý do gì đó đã làm ông ta khó chịu, ông ta nhảy phốc lên xe kéo của mình và cầm lấy dây cương con la.
“Chờ đã! Làm ơn đừng đi!” Tôi van nài.
“Bọn trẻ các người luôn lấy làm thích chí khi quấy rầy một lão già. Tốt thôi, ta không cho phép chuyện đó xảy ra đâu,” ông ta nói.
Ông ta bắt đầu quay ngược lại. Tôi đã tuyệt vọng quá rồi, bèn đứng cản trước con la của ông ta và suýt bị giẫm lên.
“Tôi không có ý làm hại ông đâu, ông già ơi!” Tôi trấn an ông ta. “Ông không hiểu! Tôi đã từng đến một thế giới khác, một không gian và thời gian khác, đã từng thấy những thứ phi thường! Tôi cần phải trở lại đó! Đó có lẽ là ước vọng tha thiết nhất mà tôi từng có.”
Tay tôi dang ra, và tôi quỳ gối xuống. Tôi cảm thấy như một gã ngốc, giãi bày một ước mong ngớ ngẩn với một gã ngẩn ngơ.
Người Bán Rong ngồi im, con mắt lành của ông ta dán vào tôi.
“Đó có thật là điều ước tha thiết nhất trong tim anh không?” ông ta hỏi.
“Phải!” Tôi khẩn thiết nói. “Tôi chưa bao giờ mong muốn cái gì hơn thế trong đời mình.”
“Nếu đó là mong ước mà anh khao khát, vậy anh chỉ cần một thứ.” Ông ta nói.
“Đó là gì?” Tôi hỏi ông ta.
“Bùa Ước,” Người Bán Rong đáp.
Thoạt đầu tôi cứ ngỡ ông ta nói đùa.
“Bùa Ước ư?” Tôi hỏi lại. “Ý ông là thần thoại của trẻ con đấy à?”
“Nó cũng thật như cái mũi trên mặt ta vậy,” Người Bán Rong khẳng định. “Có nhiều người đã dành cả đời để cố gắng có được nó. Truyện kể rằng nếu một người thu thập được một nhóm các vật dụng và đặt chúng lại gần nhau, điều ước chính đáng của người đó sẽ thành hiện thực.”
Tôi không biết nên tin ông ta hay không. Có lẽ ông ta đang đùa giỡn với tôi. Đầu tôi đầy hoài nghi, nhưng trái tim tôi quyết phải tìm hiểu thêm.
“Và bằng cách nào tôi mới tìm được những vật dụng này?” Tôi hỏi.
“Ta chẳng biết tí gì đâu,” ông ta đáp.
Bấy giờ tôi đã phát cáu với ông ta. Kể lể cho đã rồi chẳng được gì cả! Tôi quay lưng lại với lão và bắt đầu đi về nhà. “Nhưng ta biết có người biết điều đó!” Người Bán Rong gọi với theo tôi.
“Ai?” Tôi gặng hỏi.
“Ta chưa bao giờ đổi chác miễn phí cả,” Người Bán Rong đáp, và chìa một bàn tay mở rộng về phía tôi.
Tôi cho vài đồng tiền vàng vào tay lão. Ông ta vẫn chìa tay ra, và tôi cho thêm vài đồng vào đó cho đến khi ông ta vừa ý.
“Tên của bà ta là Hagatha,” Người Bán Rong nói.
“Tôi có thể tìm bà ấy ở đâu?”
“Đi theo đường này về hướng tây vào Rừng Chú Lùn, qua ba tảng đá, rồi theo hướng khói.” Người Bán Rong nói, và đó là tất cả chỉ dẫn. Rồi ông ta cầm lấy cương con la và đi xa khỏi tôi.
Nếu tôi suy nghĩ thấu đáo, tôi đã chạy theo ông ta và hỏi xin nhiều lời chỉ dẫn hơn, nhưng thay vào đó tôi đã bỏ đi, chạy về hướng Rừng Chú Lùn.
Tôi chưa bao giờ vào Rừng Chú Lùn trước đó. Tôi đã được nghe kể về mối hiểm nguy rình rập trong đó kể từ khi còn là một đứa trẻ, và khi đã đến đó tôi hiểu vì sao người ta đã cảnh báo tôi. Cây cối mọc dày và san sát đến độ một người có thể đứng cách bạn ba bước mà bạn chẳng hề nhận ra.
Mất hai ngày tôi mới tìm thấy ba tảng đá mà Người Bán Rong đã nói đến.
Đó là ba tảng đá lớn dựng đứng trên mặt đất và nghiêng theo một thế đứng đặc biệt. Tôi thiết nghĩ có lẽ chúng đang chỉ vào vật gì, vì vậy tôi quay đầu nhìn theo hướng đó.
Ba tảng đá chỉ thẳng đến khoảng giữa hai cái cây cách nhau vừa đủ để bạn có thể thấy một khoảnh trời, và tôi có thể thấy khói!
Tôi chạy về hướng mà khói bốc lên. Dù cho nó từ đâu đến, chỗ đó hoàn toàn tách khỏi con đường, và tôi gần như đã làm mình bị thương nghiêm trọng khi nhảy qua những bụi rậm và rễ cây trên đường.
Thảng hoặc, tôi có thể nhìn thấy bầu trời xuyên qua đám cành lá và nhận biết được mình có lạc hướng hay không. Tôi hẳn đã đi theo vòng tròn hàng giờ. Mỗi lần tôi chợt nghĩ mình sắp tìm đến nơi mà khói bốc lên, gió lại chuyển hướng.
Tôi bị lạc. Mỗi ngã rẽ đều giống hệt nhau. Tôi cảm thấy như thể khu rừng đã nuốt chửng mình.
Mặt trời lặn dần, và làn khói trở nên khó thấy hơn. Tôi bắt đầu hoảng hốt; không có nơi trú ẩn nào trong tầm mắt cả. Tôi đoan chắc rằng một con thú quỷ quyệt sẽ thấy tôi trong bóng đêm và đánh chén tôi.
Tôi lại bắt đầu chạy. Lúc này tôi hầu như không thấy được mình đang đi về đâu nữa. Tôi có thể nghe tiếng rú rít xa xa. Tôi bị vấp và ngã thẳng vào một bụi gai lớn.
Tôi ngã mạnh xuống bãi cỏ phía bên kia bụi gai. Tôi bị cào xước, xây xát, và chảy máu.
Tôi đứng dậy và nhìn quanh; Tôi đang đứng tại một trảng trống lớn, tròn trịa trong rừng, vây quanh bởi một bức tường gai lớn. Giữa vùng trống này có một túp lều nhỏ với mái tranh và ống khói bằng gạch. Và tuôn ra từ ống khói này là làn khói mà tôi đang theo đuổi.
Hèn gì nó khó tìm đến thế! Tôi hẳn đã chạy vòng vòng quanh nó, không biết rằng nó ẩn sau những bụi gai.
Tôi tiến về túp lều thật chậm. Nó có một cửa chính và hai cửa sổ, và đó là tất cả. Tôi tiến đến định gõ cửa, nhưng nó mở tung ra trước khi tôi có thể làm thế.
“Ngươi là ai?” người phụ nữ hiện ra từ trong túp lều hỏi.
Tôi biết ngay từ cái nhìn đầu tiên rằng đó là Hagatha. Bà trông hệt như một gốc cây người, với vóc dáng thâm thấp và một tấm áo choàng nâu có mũ trùm. Những nếp nhăn sâu phủ lấy gương mặt bà, và một mắt bà bị lác. Mũi bà là một trong những cái mũi nhỏ nhất tôi từng thấy và cạnh đó có một nốt ruồi kếch xù.
“Bà có phải là Hagatha không?” Tôi hỏi bà.
“Làm sao ngươi tìm được ta?” bà ta cấm cảu.
“Tôi vấp ngã qua bụi gai,” tôi đáp.
“Nhưng làm sao ngươi biết ta ở đây?” bà ta hỏi. Con mắt đã lác lại càng lác thêm.
“Người Bán Rong,” Tôi nói bà biết. “Ông ta nói rằng bà biết về Bùa Ước.”
Hagatha làu bàu và thở dài cùng lúc. Môi bà mím lại và nhìn tôi từ đầu xuống chân. Một cách miễn cưỡng, bà khoa tay ngụ ý bảo tôi theo vào trong.
“Vào đi, vào đi!” Hagatha nói.
Bên trong túp lều thật là bừa bộn. Có các lọ nhỏ đựng dung dịch kỳ lạ ở khắp mọi nơi; cái sủi bọt, cái lấp lánh, cái lại bốc hơi. Có hàng tá lọ thủy tinh đựng những thứ quái dị nhất: bò sát còn sống hay đã chết, côn trùng đủ loại, có cả một cái lọ thủy tinh chứa cầu mắt nữa. Mặc dù chúng đã bị móc ra khỏi hốc mắt chủ nhân, tôi thề rằng một trong số chúng đã nháy mắt với tôi.
Tôi cũng rất kinh ngạc khi thấy có bao nhiêu là thú vật ở trong túp lều; đủ loại từ ngỗng và gà đến chim ruồi rồi lại khỉ, tất cả sống trong những cái lồng. Bọn chúng tất thảy đều nhốn nháo, rõ là bị cầm tù.
“Ngồi xuống đi,” Hagatha ra lệnh. Bà trỏ vào chiếc ghế ở cuối một cái bàn lớn đến nỗi chiếm gần hết chỗ trong lều.
“Tôi nhận thấy hình như bà là một nhà sưu tầm,” tôi mở lời.
Bà ta không sẵn lòng trò chuyện. Bà phớt lờ tôi và lượm lặt vài thứ rải rác trong phòng, đây một cái tô, kia một chiếc lọ.
“Những bụi gai bao quanh nhà bà rất khéo,” tôi nói. “Nó hẳn ngăn được những vị khách không mời.”
“Phần lớn thôi,” bà ta đáp, và nhìn tôi chằm chằm. “Bụi gai lấy từ Vương quốc Say Ngủ đấy. Ta trồng nó ở đây và nó mọc quanh nhà ta theo một vòng tròn hoàn hảo, hệt như cách nó mọc quanh tòa lâu đài trong khi hoàng hậu đang trong giấc say ngủ trăm năm. Ngươi là người đầu tiên vượt qua nó.”
“Tôi thật xin lỗi…”
“Ngươi phải bỏ ra mười lăm đồng tiền vàng,” Hagatha nói và ngồi vào ghế đối diện tôi.
“Cho cái gì cơ chứ?” tôi hỏi.
“Ngươi muốn biết những vật dụng làm nên Bùa Ước là gì, phải không?”bà ta hỏi. “Đó là lý do ngươi đến đây, không phải sao?”
Tôi cho tay vào trong túi và đặt tất cả những đồng tiền còn lại của mình lên bàn. Bất hạnh thay, việc làm ăn với Người Bán Rong khiến tôi không còn đủ tiền.
“Tôi chỉ có mười bốn đồng thôi,” tôi bảo bà.
Hagatha có vẻ không hài lòng. “Lũ trẻ ngốc nghếch và mớ điều ước của các ngươi. Tốt thôi,” bà ta nói rồi vơ cả đống tiền với một cái quơ tay.
Bà đặt một cái tô ở trước mặt và cho dung dịch bên trong hai lọ nhỏ vào đó: cái đỏ, cái xanh.
“Một con mắt đại bàng, đôi cánh tiên, và một quả tim sa giông,” Hagatha nhẩm, và cho ba vật đó vào trong tô. “Thêm vào ba giọt máu khổng lồ, ngón chân cái yêu tinh và một sợi rơm vàng. Như vậy là hoàn tất món độc dược.”
Khi mọi nguyên liệu đã được cho vào, dung dịch trong tô bắt đầu bốc khói và phát sáng. Hagatha cúi nhìn vào nó rồi hít một hơi. Bà nhắm mắt lại và chìm đắm vào suy nghĩ miên man.
“Độc dược này cho bà biết các vật dụng Bùa Ước là gì sao?” tôi hỏi bà.
“Không, nhưng nó giúp ta nhớ ra.” Hagatha đáp. “Ngươi không phải là người đầu tiên, và ngươi cũng chẳng phải là người cuối cùng yêu cầu cho danh sách đó. Ngươi đã được cảnh báo rồi đó: Nhiều người đã mất mạng trong lúc cố gắng lấy được những vật này. Không thể lấy được chúng đâu.” “Tôi thà chết trong khi cố gắng còn hơn sống phần đời còn lại mà trăn trở liệu mình có thể làm được hay không,” tôi nói.
“Vậy thì hãy lắng nghe cho kỹ những gì ta sắp nói, bởi vì ta chỉ nói một lần thôi,” Hagatha tuyên bố.
Tôi nghiêng người lại gần bà nhất có thể. Trạng thái trông chờ làm cho mỗi giây dài như thể một giờ. Đây là cái mà vì nó tôi đã đến tận đây…
“Có tám thứ,” Hagatha cho biết. Bà hít một hơi thật sâu và liệt kê chúng ra:
“Mảnh thủy tinh ẩn chứa một tâm hồn cô độc đến tiếng chuông cuối cùng lúc nửa đêm.
Thanh kiếm từ đáy biển sâu thẳm nhất, để cho vị phò mã thành bất tử.
Vỏ chiếc giỏ được cầm trong cơn sợ hãi khi chạy trốn tiếng sủa với cú táp.
Chiếc vương miện bằng đá làm ra để chia sẻ, được tìm thấy sâu trong hang ổ thâm u.
Cây kim đã đâm xuyên làn da nõn nà của nàng công chúa với vẻ đẹp thẳm sâu.
Một lọn dây thừng óng vàng gợn sóng từng là hy vọng tự do duy nhất.
Những viên đá quý lấp lánh tăng giá trị sau khi bảo quản người chết giả.
Nước mắt của một nàng tiên không có cả phép màu lẫn niềm vui.”
Tôi nhắc đi nhắc lại danh sách với chính mình suốt trên đường về nhà, viết lại danh sách Bùa Ước và hành trình của tôi từ bấy đến nay trong quyển nhật ký này. Tôi không biết làm cách nào để lấy được những vật này, nhưng mục đích của tôi là tìm thấy chúng và ghi lại làm thế nào mình làm được, phòng trường hợp mình phải thực hiện lại.
Nếu bạn đang đọc quyển nhật ký này, tôi hy vọng điều đó có nghĩa là tôi đã thành công, và nếu bạn đang đọc nó và sắp bắt đầu hành trình của chính mình, tôi chúc bạn may mắn.
“Ôi chao,” Alex thốt lên, ngước mắt khỏi quyển nhật ký.
“Em hoàn toàn đồng ý với chị đấy,” Conner đáp. “Chị đọc nhanh hơn em rồi.”
“Em còn đọc thêm chút nào nữa không?” Alex hỏi. “Ông ấy có tìm được tất cả những vật đó không? Ông ấy có trở lại được không?”
“Em không biết. Có rất nhiều trang bị mất,” Conner nói.
Alex xem qua danh sách những vật làm Bùa Ước. Cô bé không nghĩ rằng chúng lại được ẩn giấu bên trong những câu đố.
“Hầu hết những vật này cũng dễ đoán ra thôi,” cô bé cất lời. “Như ‘Một cây kim đã đâm xuyên làn da nõn nà của nàng công chúa với vẻ đẹp thẳm sâu,’ chẳng hạn. Đó hiển nhiên là cái xa quay trong guồng sợi của Người Đẹp Ngủ Trong Rừng.”
“Và ‘Một lọn dây thừng óng vàng gợn sóng từng là hy vọng tự do duy nhất,’” Conner nói. “Đó rõ là một lọn tóc của Rapunzel!”
Conner nhìn quanh chỗ ngồi của mình. Từ giữa hai tấm ván sàn, cậu bé lấy ra một lọn tóc dài, vàng óng.
“Tìm thấy một thứ rồi nhé!” Conner kêu lên. “Một trong những chi tiết đầu tiên em nhận ra khi lên đây là mớ tóc mà cái cô Rapunzel ấy đã rụng! Giờ thì chúng ta đi được một phần tám chặng đường về nhà rồi!”
Alex cẩn thận gói lọn tóc vàng vào một miếng khăn giấy trong cặp.
“Em nghĩ ‘Thủy tinh ẩn chứa một tâm hồn cô độc đến tiếng chuông cuối cùng lúc nửa đêm’ nghĩa là gì?” cô bé hỏi. “Tâm hồn ai lại ở trong thủy tinh chứ?”
“Em biết rồi!” Conner reo lên. “Giày thủy tinh của Lọ Lem! Nó bao bọc lấy lòng bàn chân của cô ấy!”
“Phải rồi!” Alex thốt lên. “Danh sách này là do bà ấy đọc. Có lẽ Hagatha định nói là lòng bàn chân, chỉ chân người ấy, nhưng người đàn ông này lại nghe thành linh hồn, nghĩa là linh hồn một người! Conner, em là thiên tài!”
“Có cách đánh vần khác ư?” Conner hỏi, nhưng Alex đã tiếp tục.
“Chị tự hỏi ‘Vỏ một cái giỏ được cầm trong cơn sợ hãi khi chạy trốn tiếng sủa với cú táp’ là gì,” Alex suy nghĩ thật lực. “Giỏ, giỏ, giỏ… cắn, cắn, cắn… Cô bé Quàng Khăn Đỏ! Chiếc giỏ của cô bé hẳn là làm từ vỏ cây! Và tiếng sủa với cú táp ý nói về Con Sói To Hung Tợn!”
“Được rồi,” Conner nói. “Thế hợp lý đấy.”
Alex đứng dậy và bắt đầu đi tới đi lui trong tòa tháp.
“‘Những viên đá quý lấp lánh tăng giá trị sau khi bảo quản người chết giả.’ Cái này khó đây,” cô bé lẩm nhẩm. “Ai chết giả chứ?”
“Chẳng phải mọi người nghĩ Bạch Tuyết đã chết sau khi nàng cắn vào quả táo độc sao?” Conner lên tiếng hỏi.
“Đúng, đúng rồi!” Alex vừa nói vừa nhún nhảy. “Cô ấy có một cỗ quan tài làm từ thủy tinh và đá quý lấy từ mỏ của các chú lùn! Chắc đó là ý của nó!”
“Em rất mừng là cha và Bà đã đọc cho chúng ta nghe nhiều truyện từ khi còn bé!” Conner nói. “Ai biết chúng lại có lúc hữu ích thế này chứ?”
“‘Nước mắt của một nàng tiên không có cả phép màu lẫn niềm vui.’ Chị đoán là chúng ta chỉ phải tìm một nàng tiên vừa mới chia tay với bạn trai hay đại loại thế,” Alex đoán già đoán non.
“Chị không nghĩ là chúng ta có thể đá cô ta một cú và làm cô ta khóc sao?” Conner hỏi. “Vậy thì có vẻ dễ hơn với em đấy.”
Alex phớt lờ cậu và hăng hái lật qua những trang nhật ký lần nữa.
“Giày thủy tinh? Rồi! Xa quay? Rồi! Cỗ quan tài? Rồi!” Alex tiếp tục lẩm nhẩm. “Theo như những dòng chữ nguệch ngoạc bên lề, tác giả quyển nhật ký có vẻ đồng ý với phỏng đoán của chúng ta. Chị vẫn không biết những thứ còn lại là gì, như ‘Thanh kiếm từ đáy biển sâu thẳm nhất, để cho vị phò mã thành bất tử’ hay ‘Chiếc vương miện đá được làm ra để chia sẻ, được tìm thấy sâu trong hang ổ thâm u.’”
“Em đã nói mà, có rất nhiều trang bị mất,” Conner nói.
Alex cảm thấy hơi mất tinh thần vì thế. Những vật chúng đã biết thì gần như không thể lấy được, chưa kể những vật chúng không biết. Cô bé đi đến bên cửa sổ và nhìn ra cảnh vật bên ngoài. Mặt trời sắp lặn, và, lần lượt, những chiếc lò sưởi trong ngôi làng gần đó được thắp lên và thả ra những làn khói lên bầu trời đang thẫm dần.
“Lỡ như chúng ta đoán sai mấy câu đố thì sao?” cô bé hỏi. “Lỡ như chúng ta đoán nhầm thì sao? Lỡ như tác giả cũng đoán nhầm? Lỡ như ông không bao giờ trở lại được? Lỡ như ông đã chết trong khi cố gắng?”
“Chúng ta chỉ phải cố gắng hết sức thôi,” Conner nói, đến bên cửa sổ cùng Alex. “Một cô gái khó chịu từng nói với em rằng sự lạc quan luôn được đền đáp, và cô ấy vẫn thường nói đúng.”
Alex dành cho cậu em một nụ cười ấm áp.
“Được rồi, vậy thì,” cô bé lên tiếng. “Đến giờ thì chúng ta đã có một lọn tóc của Rapunzel. Mình vẫn còn phải tìm giày thủy tinh của Lọ Lem, cây kim trên xa quay của Người Đẹp Ngủ Trong Rừng, đá quý trên cỗ quan tài của Bạch Tuyết, vỏ cây từ chiếc giỏ của Cô bé Quàng Khăn Đỏ, nước mắt một nàng tiên, cộng thêm hai thứ khác mà chúng ta không biết đó là gì.”
Conner nuốt khan khi nghe danh sách. Chúng cùng nhìn về phía chân trời và vào biển cây mênh mông bao quanh tòa tháp. Ở đâu đó ngoài kia, tất cả những vật này đang chờ chúng tìm thấy.
“Có vẻ như chúng ta sẽ được thấy nhiều điều về Miền Cổ Tích hơn mình tưởng đấy,” Conner nói.
Lạc Vào Miền Cổ Tích 1 - Bùa Ước Lạc Vào Miền Cổ Tích 1 - Bùa Ước - Chris Colfer Lạc Vào Miền Cổ Tích 1 - Bùa Ước