When they asked me what I loved most about life, I smiled and said you.

Unknown

 
 
 
 
 
Thể loại: Cổ Tích
Biên tập: Hoài Nam
Upload bìa: Hoài Nam
Số chương: 239
Phí download: 14 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5349 / 75
Cập nhật: 2018-02-03 14:00:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Tập III - V. Sự Tích Anh Hùng Nông Dân
ác phẩm gồm nhiều tập này (trong số đó 2 tập đã được công bố vào năm 1957 và được tái bản vào năm 1961) có tham vọng tập hợp lại phần chính yếu của cổ tích và truyền thuyết Việt-nam cổ truyền; có thể nói công trình này cũng tương đương với những gì Hăng-ri Pua-ra (Henri Pourra) đã hoàn thành về văn hoá dân gian của nước Pháp xưa (Kho tàng cổ tích (Trésor des contes), Nhà xuất bản Ga-li-ma (Gallimard)).
Nhiều tác giả đương đại, cả Pháp và Việt-nam, đã tự đặt cho mình nhiệm vụ thu thập và phổ biến truyện cổ Việt-nam, nhưng hình như Nguyễn Đổng Chi là người đầu tiên theo đuổi công việc ấy một cách khoa học và hoàn chỉnh hơn cả. Tác phẩm của ông gồm ba phần, mà phần thứ nhất và phần thứ ba là hai công trình nghiên cứu rất bổ ích để hiểu và đánh giá lĩnh vực truyện cổ tích trong văn chương truyền miệng Việt-nam. Hiện nay, chúng tôi chưa phân tích được phần thứ ba trong tác phẩm của Nguyễn Đổng Chi, phần đề cập đến ý nghĩa, giá trị và những đặc điểm của truyện cổ tích Việt-nam, xét từ quan niệm nghệ thuật văn chương và tư tưởng triết học: phần thứ ba ấy thuộc tập cuối, tập sẽ được công bố sau. Như vậy, ta hãy phân tích những gì đã được công bố - phần thứ nhất và một phần của phần thứ hai.
Phần thứ hai của tác phẩm gồm khối lượng những truyện cổ do tác giả chọn ra, theo những tiêu chuẩn qua đó có thể phân biệt một cách khá rõ cổ tích với các thể loại khác trong văn chương truyền miệng. Các tập I và II chứa 80 truyện cổ, không phải được phân loại, mà được tập hợp lại dưới một số tiêu đề, để tạo điều kiện dễ dàng cho trình tự trước - sau trong khi đọc: những truyện giải thích " nguồn gốc sự vật "; những truyện giải thích gốc gác các thắng cảnh danh tiếng trong nước (truyền thuyết về địa thế và địa danh); những truyện được rút ra từ các câu chuyện có thực (và đã trở nên mẫu mực để phân biệt chính với tà, đồng thời đã đẻ ra một số thành ngữ mang chất ngạn ngữ và tính ẩn dụ); truyền thuyết tán dương sức mạnh, đạo đức hay trí thông minh của các nhân vật lịch sử hoặc á-lịch sử.
Phần thứ hai này của tác phẩm, tuy mới được công bố có một phần, lại rất đáng lưu ý vì mang nhiều ưu điểm, mà thoạt tiên, khi tác giả kể chuyện, là văn phong giản dị, linh lợi, vọt lên một mạch, khi thì hài hước, khi lại hiện thực, hoàn toàn phù hợp với tích truyện được kể. Về mặt này, phải công nhận ưu thế của Nguyễn Đổng Chi so với các tác giả đương đại khác cũng viết sưu tập truyện cổ. Ông có năng khiếu của một nhà văn biết cách diễn dịch lại một cách trung thành lòng nhiệt hứng, tính chân chất và nỗi rung cảm của những người kể chuyện và nhà thơ dân gian. Dưới ngòi bút của ông, một số truyện cổ đã hoàn toàn trở thành những kiệt tác nho nhỏ, trong đó thi cảm và hiện thực cuộc sống hoà hợp vào nhau thành một thể thống nhất về ý vị (xem: truyền thuyết về đá Bà-rầu, I, tr. 205 - 207; truyền thuyết về đứa cháu vô đạo bị biến thành chim, I, tr. 80 - 82). Một số truyện cổ khác lại tuyệt vời, vì tính buồn cười và phẩm chất hài hước nảy sinh từ các hoàn cảnh nguy cấp của một hiện thực đầy rẫy những sự biến cấp tập, hoặc mang tính bi kịch, hoặc vừa bi vừa hài (xem truyền thuyết giải thích vết sẹo dưới cổ loài trâu, I, tr. 136 - 138; truyền thuyết giải thích gốc gác của loại ruộng " thác đao " mà nghĩa đen là ruộng ném dao; truyền thuyết về người anh hùng dân gian và nông dân mang tên Chang Lia, II, tr.125 - 132).
Cũng đáng lưu ý là tính phong phú đa dạng của hệ tư liệu tham khảo đã cung cấp cho Nguyễn Đổng Chi chất liệu của các cổ tích. Hệ tư liệu ấy thoạt tiên dựa trên các nguồn truyền miệng mà tác giả trực tiếp thu thập tại nhiều vùng từ Bắc chí Nam của đất nước, và cả tại một vài dân tộc thiểu số, chẳng hạn người Tiền Đông-dương [1] trên các cao nguyên miền Trung Việt-nam. Tiếp đó, hệ tư liệu ấy còn dựa trên các văn bản viết bằng chữ Nho (Bội văn vận phủ, Thiếu vị thông giám, Dân gian văn nghệ tuyển tập), cũng như bằng tiếng Việt (các công trình của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Ngọc) và tiếng Pháp (các côg trình của Cô-xcanh (Cosquin), Lăng-đờ (Landes), Xét-xbrông (Cesbron), Jê-ni-bren (Génibrel; Duy-mu-chi-ê (Dumoutier)...).
Một trong những ưu điểm lớn của tác giả Kho tàng truyện cổ tích Việt-nam: ông là người đầu tiên đã sắp xếp, sau văn bản của từng truyện, một loạt " dị bản ", cũng như các mặt đối chiếu và điểm bổ sung, trích ra không chỉ từ lĩnh vực truyện cổ Việt-nam, mà cả từ lĩnh vực ấy của nhiều tộc ở Cựu Thế giới: Trung-hoa, Ấn-độ, Áp-ga-ni-xtăng (Afghanistan), châu Phi, Ma-đa-gát-xca (Madagascar), Xi-xin (Cicile), Nga, Ả-rập (Arabie). Công việc này nối dài những nghiên cứu của Cô-xcanh (Cosquin), của Prơ-di-luyt-xki (Przyluski), v.v... về mối quan hệ bà con giữa các truyện ấy, về con đường truyền bá các truyện ấy từ lục địa này qua lục địa kia, hay từ tiểu lục địa này qua tiểu lục địa kia, lần đầu tiên được đem ra áp dụng vào truyện cổ tích Việt-nam, và như thế là đã vượt qua giai đoạn phân tích chỉ liên quan đến chủ đề, có thể nói là giai đoạn hình thái học. Công việc nghiên cứu đó, về ngọn nguồn và gốc gác của truyện cổ sẽ rất có ích và có lẽ là cần thiết nữa, để hiểu biết sự hình thành và phát triển của nền văn minh Việt-nam, một nền văn minh có nhiều nguồn gốc bác tạp.
Trước phần thứ hai của tác phẩm, phần chứa văn bản các truyện xưa mà ta vừa phân tích một cách tóm tắt, cả văn phong, việc sưu khảo tư liệu và cách giới thiệu, còn có một phần mở đầu quan trọng mang tên Nghiên cứu truyện cổ tích nói chung và truyện cổ tích Việt-nam, trong đó số trang dành cho các nhận xét lý thuyết và tổng quát là rất kiềm chế, nếu ta so chúng với những nhận xét đặc thù về bản chất, nguồn gốc và quá trình phát triển của truyện cổ tích Việt-nam (1, tr.7 - 64).
Chương I luận về bản chất truyện cổ tích. Ở đây tác giả lần lượt đề cập đến các vấn đề sau: phê phán các hệ phân loại đã được đề xuất về truyện cổ Việt-nam trước khi công trình của ông ra đời; phân biệt truyện cổ tích với các thể loại văn chương Việt-nam khác, cả truyền miệng và viết; trình bày một hệ phân loại mới và nêu bật lên những đặc tính của thể loại văn chương này. Trước khi nêu rõ sự khác biệt có lúc vô cùng phức tạp giữa cổ tích và truyền thuyết (trong đó có truyền thuyết lịch sử), ngụ ngôn, truyện khôi hài, truyện tiếu lâm, truyện thời sự, tiểu thuyết và lịch sử, tác giả đã gạt ra một bên những hệ phân loại từng được đề xuất trước đấy, chừng nào các hệ đó không hề tính đến những tiêu chuẩn logic, những tiêu chuẩn ta phải tìm ngay trong bản chất của truyện cổ. Theo ông, sau đây là những đặc điểm quan trọng nhất: 1. Tính chất cổ của các sự việc được kể ra, những nét cổ kính gán cho các nhân vật, cho môi trường trong đó họ hoạt động, nói tóm lại, một hình ảnh càng lùi xa về quá khứ càng tốt, hình ảnh quen thuộc với dân chúng vì cõi vô thức của họ đã thấm nhuần nó rồi; 2. Tính chất dân gian của các sự kiện được kể ra, mà phù hợp với thiên tài của tộc người Việt-nam; các sự kiện ấy không được bao gồm những yếu tố ngoại lai so với tâm lý dân gian, những gì thoát ra khỏi cách nhìn thế giới mà dân chúng đã chấp nhận qua truyền thống. Vả chăng, truyện cổ là một tác phẩm tập thể phản ánh vùng đất bản địa, những tập quán và phong tục của dân chúng: Nguyễn Đổng Chi đã nhấn mạnh " dân tộc tính " của các truyện cổ; 3. Tính chất nghệ thuật và ý nghĩa " triết lý " của truyện cổ: chỉ có thể xem là truyện cổ những tích bao hàm một hiềm hứng thú đối với người nghe hay người đọc, một ý nghĩa có liên quan đến cuộc sống con người, một lời kết, một ý niệm, dù là tư tưởng tiềm tàng hay được biểu hiện rõ rệt, nhưng bao giờ cũng có ý nghĩa. Ngoài nội dung tư tưởng ra, truyện cổ còn phải đáp ứng một đòi hỏi về thẩm mỹ văn học, phải là các tích chứa đựng những tình tiết hợp thành một chuỗi diễn biến có mở đầu, có phát triển, có mở nút để đi đến một kết luận mà người ta đã đoán trước (hoặc bất ngờ, nhưng cũng hợp với sự thực, và làm mãn nguyện được trí tưởng tượng của người nghe), đã thế lại mang một tâm lý khiến cho các nhân vật hoạt động trong những ranh giới phải chăng của lòng trắc ẩn, của nỗi kinh hoàng, của thái độ không tán thành hay của lòng khâm phục. Như vậy, một truyện cổ phải là một văn phẩm tương đối được tinh luyện với một tài năng nào đó.
Sau khi đã lọc ra được các đặc điểm trên của truyện cổ, tác giả đề xuất một hệ phân loại gồm ba loại: truyện cổ tích hoang đường; truyện cổ tích lịch sử; và truyện cổ tích thế sự.
Chương II của phần thứ nhất đề cập đến nguồn gốc truyện cổ tích, qua đó tác giả xem xét đặc biệt vấn đề sau đây: con đường dẫn từ thần thoại đến truyền thuyết và cổ tích; sự hình thành của một truyện cổ từ một sự kiện lịch sử hay một sự kiện thế sự thông thường; cách nhìn thế giới làm nền cho vũ trụ của truyện cổ, mà cũng là vũ trụ được dân chúng Việt-nam truyền thống chấp nhận từ buổi đầu của quá trình phát triển cho đến hôm nay. Cách nhìn thế giới ấy có thể được tóm tắt thành mấy nét như sau: linh hồn nhờ luân hồi mà bất tử, và ở trong thân thể con người, hoặc trong các loài vật và các loài thực vật; ngoài trần thế này ra, còn có ba thế giới khác nữa, thế giới trên Trời, thế giới dưới Nước và Âm phủ; trần thế không chỉ là nơi cư trú của con người mà còn là nơi qua lại của thần linh và quỷ quái bất tử; những thực thể siêu nhiên ấy tự phân thành hai loại, tốt và xấu, mà ta cũng có thể phân biệt thành những vị thần dễ thương và đáng yêu và những kẻ đáng ngờ hoặc đáng ghét, thực thể siêu nhiên nói trên cũng biết đam mê, cũng có tính tốt và tính xấu, y hệt về mọi mặt với các biểu hiện của tính tình con người.
Chương III xét đến quá trình tiến hoá của truyện cổ Việt-nam qua các thời đại. Thời đầu tiên được định vị sau thời thần thoại. Buổi ra đời của truyện cổ hẳn khớp với thời kỳ Bắc thuộc tiếp sau thời kỳ chế độ bộ lạc của người Tiền Việt-nam: các anh hùng và lực sĩ được lý tưởng hoá, thần linh hoá, từ đó mà ra đời những huyền tích có tác dụng an ủi dân chúng bị cầm trong vòng nô lệ, nuôi dưỡng ý muốn thoát ly và chiến thắng của họ. Thời thứ hai khớp với thời kỳ chế độ phong kiến độc lập: trong thời kỳ này, cổ tích và truyền thuyết sinh sôi nảy nở, một mặt thì phản ánh đời sống của người nông dân, các quan niẹm của họ về số kiếp, cuộc sống và thế giới, mặt khác lại nói lên đạo lý, sức mạnh và trí thông minh của một số nhân vật dân gian đại diện cho thiên tài của dân tộc. Truyện cổ chịu ảnh hưởng của những tôn giáo chính thức được du nhập từ bên ngoài (Phật giáo, Đạo giáo): những nhân vật được dàn dựng không còn giữ được tính cách bột phát, tự sinh, vô tâm hay xấc xược của các nhân vật thần thoại nữa. Nhưng nghệ thuật văn chương in dấu lên các cổ tích và truyền thuyết ấy lại cao hơn nghệ thuật của thần thoại. Diễn biến và các tình tiết của tích truyện được nối liền lại một cách logic hơn, tâm lý của các nhân vật trở nên phức tạp hơn, được điều hoà một cách tinh tế hơn, cho phù hợp hơn với các truyền thống nhân bản của con người văn minh. Dưới các triều Lê và Nguyễn, truyện cổ tích chịu ảnh hưởng của Nho giáo, nhất là trên bình diện luân lý. Sau khi đã phát triển đến đỉnh cao qua các giai đoạn quân chủ, truyện cổ tích đi dần đến tình trạng sa sút: qua các thế kỷ cuối cùng đó, nó bị cạnh tranh do bước phát triển của một nền văn chương dân gian và bác học, với vô vàn truyện dài, truyện ngắn và kịch bản, rồi sau đó lại chịu sự cạnh tranh của các phương tiện thông tin đại chúng, như chiếu bóng, báo chí. Thời suy thoái của các truyện cổ tích cũng là thời mà chúng bắt đầu được các nhà nghiên cứu sưu tầm và cố định lại, trong một cố gắng nhằm cứu vớt phần đang nói đây của kho quý văn chương dân gian.
Thực ra mà nói, việc sưu tầm truyện cổ đã mở ra từ dưới triều Trần, với tác giả của Việt điện u linh tập. Nhưng các tác giả thời xưa quan tâm đến công việc này không phải vì bản thân truyện cổ là chính mà chủ yếu vì tư liệu lịch sử và tôn giáo. Nguyễn Đổng Chi đưa ra một danh sách có vẻ đã cùng kiệt về mọi bộ sưu tập mà ta thừa hưởng từ truyền thống lâu dài của những nhà sưu tầm tuân phục đạo Nho, từ Lý Tế Xuyên đến Phạm Đình Dục (1, tr. 54 - 58). Cuối cùng, ông nhắc đến vài tác giả đương đại đã ra sức bảo vệ gia tài văn hoá dân gian Việt-nam bằng cách thu thập và công bố cổ tích và truyền thuyết (I, tr. 63). Việt làm của các tác giả đầy thiện chí ấy, tuy nhiên, vẫn để lộ ra những nhược điểm xuất phát từ phương pháp nghiên cứu của họ, và từ những tiêu chuẩn họ đề xuất trong việc đánh giá truyện cổ, cả về hình thức lẫn nội dung. Các tác giả ấy là những người đi tiên phong. Trong Kho tàng truyện cổ tích Việt-nam của mình, Nguyễn Đổng Chi đã cố gắng bổ khuyết các thiếu sót của những người đi trước, bằng cách đề xuất lần đầu tiên một phần dẫn luận khá phát triển về những vấn đề có liên quan đến nguồn gốc và cuộc tiến hoá của thể loại văn chương bình dân này.
Phần dành cho việc đánh giá ý nghĩa và các giá trị của truyện cổ rồi đây sẽ ra mắt. Nhưng với việc công bố hai tập đầu của tác phẩm dài hơi này, khoa học nghiên cứu truyện cổ tích Việt-nam đã ghi lại một bước tiến rõ rệt.
LÊ VĂN HẢO
Tập san Trường Viễn Đông bác cổ
/B.E.F.E.O/, Số 1 - 1964, Tr. 275-278.
NGUYỄN TỪ CHI dịch
[1] Các tác giả Pháp, hay viết bằng tiếng Pháp, thường dùng từ “Tiền Đông-dương” (proto – Indochinois) để chỉ những tộc hiện nay ta quen gọi là Thượng (người dịch).
TRÉSOR DES CONTES VIETNAMIENDE NGUYEN DONG CHI[2]
Cet ouvrage en plusieurs volumes (dont 2 parus en 1957 et réedités en 1961) a l’ambition de réunir l’essentiel des contes et légendes du Vietnam traditionnel: c’est en quelque sorte l’équivalent de ce qu’a fait Henri Pourra pour la littérature populaire de la Vieille France (Trésor des contes, Gallimard).
Plusieurs auteurs contemporains, français et vietnamiens, se sont déjà donné pour tâche de recueillir et de faire connaître les contes vietnamiens mais Nguyễn Đổng Chi semble être le premier à accomplir ce travail de façon assez scientifique et adéquate. Son ouvrage comporte trois parties dont la première et la troisième sont deux études très utiles pour la compréhension et l’apréciation de ce domaine de la littérature orale vietnamienne: les contes. Nous ne pouvons pas actuellement analyser la troisième partie de l’ouvrage de Nguyễn Đổng Chi relative à la signification, à la valeur et aux caractéristiques des contes vietnamiens des points de vue de l’art littéraire et de la pensée philosophique, cette partie se trouvant dans le dernier volume à paraître. Analysons donc ce qui a été publié - la première et un morceau de la deuxième partie.
La deuxième partie de l’ouvrage est constituée par la masse des contes choisis par l’auteur suivant des critères qui les distinguent assez nettement des autres genres de la littérature orale. Les volumes 1 et 2 renferment 80 contes qui sont, non pas classés mais groupés sous certaines rubiques qui facilitent l’ordre dans la lecture: rubiques "contes explicatifs de l’origine des bêtes et des choses", contes explicatifs des sites célèbres du pays (légendes topographiques et toponymiques), contes tirés des histoires véctues (et devenues exemplaires pourle discernment du bien et du mal et donnant lieu à des locutions proverbiales allusives), légendes exaltant la force, la vertu ou l’intelligence des personnages historiques ou pseudo-historiques.
Cette deuxième partie de l’ouvrage, quoique partiellement publiée, est remarquable par plusieurs qualités: d’abond le style de l’auteur est, quand il raconte, simple, alerte, primesaitier, tantôt humoristique, tantôt réaliste, tout à fait adapté au fenre du conte narré. A ce point de vue il faut reconnaître la supériorité de Nguyễn Đổng Chi sur les autres auteurs contemporains des recueils de contes. Il possède les dons d’un écrivain qui sait transcrire fidèlement la verve, la naïveté et l’émotion des conteurs et poètes populaires. Certains contes, sous sa plume, sont devenus de purs petits chefs - d’œuvre òu la posésie et le réalisme de l’existence sont fondus dans une unité d’intérêt (Cf.: la légende de la dame triste, I, p. 205 - 207; la légende du neveu impie transformé en oiseau, I, p. 80-82). D’autres contes sont admirables par la drôlerie et la qualité de l’humour qui jaillisent des circonstances critiques d’une réalité riche en péripéties mouvementées, dramatiques ou tragico - comiques (Cf. la légende explicative de la cicatrice sous le cou des buffles, I, p.136 - 138; la légende explicative de l’origine des rizières dites "thác đao" (litt. "lancer le couteau"); légende du héros populaire paysan Chàng Lía, II, p. 125 - 132).
Remarquable aussi est la diversité de la documentation qui a fourni à Nguyễn Đổng Chi la substance des contes. Cette documentation s’appuie d’abord sur des sources orales recueillies directement par l’auteur dans plusieurs régions, du Nord ou Sud du pays, et aussi chez certains peuples minoritaires tels que les Proto-Indochinois des Haut - Plateaux du Centre Vietnam. Elle s’appuie ensuite aussibien sur les textes écrits en langue chinoise (Bội văn vận phù, Thiếu vi thông giám, Dân gian văn nghệ tuyển tập) que ceux écrits en langue vietnamiene (travaux de Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Ngọc) et franąaise (travaux de Cosquin, Landes, Cesbron, Génibrel, Dumoutier, etc.).
Un des grands mérites de l’auteur du Trésor des Contes Vietnamiens est d’avoir été le premier à établir, après le texte de chaque conte, des "variantes", rapprochements et comléments puisés non seulement dans le domaine Vietnamien mais aussi dans le domaine des contes de plusieurs peuples de l’Ancien Monde: Chine, Inde, Afghanistan, Afrique, Madagascar, Europe, Sicile, Russie, Arabie, Ce travail, prolongeant les recherches de Cosquin, de Przyluski, etc... sur la parenté des contes, sur leur circulation d’un continent ou d’un sous-continent à l’autre, est apliqué pour la première fois aux contes vietnamiens, dépassant le stade analytique, thématique et pour ainsi dire morphologique. Ce travail de recherches sur les sources et les origines des contes sera utile et peut être indispensable à la connaissance de la genèse et du développement de la civillisation vietnamienne aux origines composites multiples.
Pré édant la deuxième partie de l’ouvrage qui renferme le texte des contes dont nous venons d’analyser brièvement le style, le travail de documentation et de présentation, une importante partie introductive s’intitule "les Contes en générales est d’ailleurs fort réduite en regard des considérations particulières à la nature, à l’origine et à l’évolution des contes vietnamiens (I, p. 7-64).
Le chapitre I traite de la nature des contes: l’auteur y aborde succesivement: la critique des systèmes de classification qui ont été proposés avant lui pour les contes vietnamiens; la distinction des contes d’avec les autres genres de la littérature orale et écrite vietnamienne, l’exposition d’une nouvelle classification et la mise en évidence des caractéristiques de ce genre littéraire. Avant de faire la différence parfois fort complexe entre contes et légendes (légendes historiques notamment), fables, histoires drôles histoires bouffonnes (tiếu lâm), histoires d’actuallité (truyện thời sự), roman et histoire, l’auteur a écarté les classifications traditionnellement proposées quand elles ne tiennent pas compte des critères logiques critères qui doivent être recherchés dans l’essence même des contes. Selon lui, les caractéristiques les plus importantes en sont les suivantes: 1. le caractére ancien des faits racontés, la vétusté des traits prêtés aux personnages, de l’ambiance dans laquelle ils se meuvent, bref une image qui doit être autant que possible immémoriale, familière au peuple dont l’inconscient est fortement imprégné; 2. le caractère populaire, conforme au génie de l’ethnie vietnamienne, des faits racontés: ceux-ci ne doivent pas comporter des éléments étrangers à la mentalité du peuple et sortant de la vision du monde traditionnellement adoptée par lui. Les contes sont d’ailleurs une œuvre collective, réflétant le terroir, les coutumes et les mœurs du peule. Nguyễn Đổng Chi a insisté sur ce caractère "ethnologique" (dân tộc tính), des contes; 3. le caractère artistique et la signification "philosophique" des contes: ne peuvent être considérés comme des contes que les histoires qui impliquent un intérêt pour l’auditeur ou le lecteur, une signi- fication relative à l’existence humaine, une conclusion, idée, pensée tacite ou clairement exprimée, mais toujours significative. En plus du contenu de la pensée, les contes doivent répondre à une exigence de l’esthétique littéraire, être des histoires pourvues d’une intrigue qui débute, se développe, se dénoue vers une conclusion prévue (ou imprévue mais vraisemblable et satisfaisante pour l’imagination de l’auditeur) et d’une psychologie qui fait mouvoir des personnages dans les limites raisonnables de la pitié, de la terreur, de la désapprobation ou de l’admiration. Un conte doit être donc une œuvre littéraire ralativement élaborée avec un certain talent.
Après avoir dégagés ces caratéristiques des contes, l’auteur a proposé une classification en trois catégories: les contes fabuleux, les légendes historiques et les histoires vraisemblables.
Le chapitre II de la première partie aborde le problème de l’origine des contes. L’auteur y examine notamment: le chemin parcouru des mythes aux légendes et aux contes, la genèse d’un conte à partir d’un fait historique ou d’un fait d’ actualité courante, la vision du monde sous-jacente à l’univers des contes qui est aussi celle qu’adopte le peuple vietnamien traditionnel depuis le début de son évolution jusqu’à maintenant. Cette vision du monde peut se résumer dans les traits suivants: l’âme est immortelle grâce à la métempsycose, elle réside soit dans le corps humain, soit dans les animaux, soit dans les végétaux. En dehors du monde terrestre il existe aussi trois autres mondes: ceux du Ciel, des Eaux et de l’Enfer. Le monde terrestre n’est pas seulement l’habitat des humains et d’autres êtres vivánts mais aussi le lieu de passage des divinités, immortels démons et diables.
Ces êtres surnaturels se divisent en deux espèces: ceux qui sont bons et ceux qui sont mauvais; on peut encore distinguer ceux qui son aimables et adorables et d’autres suspects ou haïssables mais dont il faut néanmoins se concilier les faveurs. Ces êtres surnaturels ont des passions, des qualités et des défauts en tous points semblales aux manifestations du caractère humain.
Le chapitre III examine l’évolution des contes vietnamiens à travers les âges: le premier âge des contes se situe après celui des mythes. Leur naissance date sans doute de l’époque de la domination chinoise qui suit l’époque du régime tribal des Protovietnamiens: des héros et athlètes sont idéalisés, divinisés, et donnent lieu à des légendes qui consolent le peuple en esclavage et nourrissent son désir de s’émanciper, de vaincre. Le deuxième âge corespond à l’époque de la féodalité indépandante: pendant cette époque, contes et légendes foisonnetm réflétant d’une part l’existence du paysan, ses conceptions sur la destinée, la vie et le monde et, d’autre part, la vertu, la force et l’intelligence d’un certain nombre de personnages populaires qui représentent le génie national. Les contes subissent l’influence des religions officielles d’importation étrangère (bouddhisme, taoïsme) les êtres qu’ils mettent en scène n’ont plus le caractère spontané, primesautier, imsouciant ou insolent des personnages de la mythologie, mais l’art littéraire qui caractérise ces contes et légendes est supérieur à celui des mythes. L’intrigue, les péripéties du récit comportent un enchainement plus logique, la psychologie des personnages se fait plus complexe, plus nuancée, plus conforme aux traditions humanistes des hommes civilisés. Sous les dynasties Lê et Nguyễn, les contes subissent l’influence du confucianisme, notamment sur le plan moral. Après avoir atteint l’apogée de leur évolution au cours des périodes monarchiques, ils s’acheminent vers une décadence et durant ces derniers siècles sont concurrencés par le développement d’une littérature populaire et savante, fertile en romans, nouvelles et pièces de théâtre, puis par celui des moyens d’information de masse tels que le cinéma, le journal. L’âge de décadence des contes est aussi celui òu ils commencent à être collectés et fixés par des contes chercheurs qui essaient ainsi de sauvegarder cette part du trésor de la littérature populaire.
A vrai dire le travail de collecte des contes a commencé depuis l’époque de la dynastic des Trần avecl’ auteur du Việt điện u linh tập, mais les anciens auteurs se sont intéressés à ce travail moins pour les contes eux-mêmes que pour ladocumentation historique et religieuse. Nguyễn Đổng Chi a donné une liste qui semble exhaustive de tous les recueils de contes que nous a laissé la longue tradition descollecteurs d’ obédience confucéenne depuis Lý Tế Xuyên jusqu’à Phạm Đình Dục (I, p. 54-58). Il a évoqué enfin quelques auteurs contemporainsqui cherchent à préserver le patrimoine culturel populaire du Vietnam en recueillant et en publiant des contes et légendes (I, p. 63). Le travail deces auteurs animés de la meilleure volonté présente pourtant des faiblesses provenant, de leur méthode de recherche et des critères qu’ilsapportent dans l’appréciation des contes, tant au point de vue de la forme qu’ au point de vue du contenu. Ces auteurs ont effectué surtout un travail de pionniers. Dans son Trésor des Contes et Légendes Vietnamiens, Nguyễn Đổng Chi s’estefforcé de combler les insuffisances de ses prédécesseurs en présentant pour la première fois une introduction assez développée aux problemesralatifs à l’origine et à l’évolution de ce genre littéraire populaire. La partie concernant l’appréciation dela signification et des valeurs des contes est à paraître, mais avec la publication des deux premiers volumes de ce long ouvrage, l’étude des contes vietnamiens a déjà marqué un net progrès.
LÊ VĂN HẢO
(BEFEO, No 1-1964; p. 275-278)
[1] Theo Lăng-đờ (Landes). Sách đã dẫn.
[2] Édités par Institut d’Études historiques en plusieurs volumes, Hanoi, 1961, 2 éd., 2 volumes parus: 221 p. et 196 p. in- 12.
Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Nguyễn Đổng Chi Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam