Reading - the best state yet to keep absolute loneliness at bay.

William Styron

 
 
 
 
 
Tác giả: Nicholas Sparks
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2404 / 97
Cập nhật: 2017-08-09 10:28:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 18
ối hôm đó, tôi ngủ lại trên giường cha tôi, đó cũng là lần duy nhất tôi làm chuyện đó trong suốt cuộc đời mình. Cơn bão đã qua và nhiệt độ tăng cao khủng khiếp. Thậm chí mở hết các cửa sổ cũng không khiến căn phòng mát hơn bao nhiêu, tôi trằn trọc tr6en giường hàng giờ liền. Tỉnh dậy vào buổi sáng hôm sau, tôi tìm thấy chìa khóa xe của cha tôi treo trên móc trong nhà bếp. Tôi ném một số đồ cá nhân vào phía sau xe và chọn ra vài thứ đồ đạc trong nhà mà tôi muốn giữ. Ngoài những bức ảnh, cũng chẳng nhiều nhặn gì. Sau đó, tôi gọi cho vị luật sư nhờ ông ấy tìm người lo liệu thủ tục bán nhà. Tôi bỏ chìa khóa nhà trong hòm thư.
Trong garage, phải mất vài giây động cơ chiếc xe mới có thể hoạt động trở lại. Tôi lùi xe ra, đóng cửa garage và khóa lại. Từ sân tôi ngắm nhìn ngôi nhà, nghĩ về cha tôi và biết rằng tôi sẽ không bao giờ lại nhìn thấy nơi này lần nữa.
Tôi lái xe đến viện dưỡng lão, thu dọn đồ đạc của cha tôi, sau đó rời Wilmington, thẳng tiến phía tây qua một dọc những tiểu bang khác, để xe tự lái. Đã một vài năm trôi qua kể từ lần cuối đi qua quãng đường này, tâm trí tôi hờ hững với đường sá xe cộ xung quanh, nhưng những cơn sóng cảm xúc về nơi thân quen này lại cứ thế trào lên. Tôi đ thị trấn một thời tuổi trẻ của tôi, thẳng hướng Raleigh tới Chapel Hill, nơi những ký ức đau đớn nhá lên, tôi thấy mình tăng tốc, cố để tất cả lại phía sau.
Tôi lái xe qua Burlington, Greensboro, và Winston-Salem. Ngoài việc ngừng lại đổ xăng vào lúc sáng sớm, tôi cũng mua một chai nước, vì quãng đường dài phía trước, tôi cố nhấp một ít nước nhưng không tài nào nuốt trôi nổi thứ gì. Bức hình cha con tôi chụp chung lăn lóc trên chiếc ghế cạnh tôi, mỗi lần nhìn nó tôi lại cố nhớ lại cậu bé trong ảnh. Tôi lái xuống phía bắc, dọc theo một con đường cao tốc nhỏ bao quanh bởi nhưng rặng núi xanh thẳm trải dài từ bắc vào nam, như một vết đứt gãy nhẹ của lớp vỏ trái đất.
Chiều muộn tôi ngừng xe lại, thuê một phòng ở một nhà trọ tồi tàn trên đường. Người tôi tê cứng, sau vài phút nằm xoài ra, tôi đi tắm và cạo râu. Tôi thay một chiếc quần jean và một áo thun sạch, ngần ngừ không biết có nên ăn gì không nhưng tôi vẫn không thấy đói. Khi mặt trời xuống núi, không khí nóng ẩm của miền biển biến mất nhường chỗ cho mùi hương của những cây lá kim trên những ngọn núi dạt xuống. Đây là nơi Savannah được sinh ra, và bằng cách nào đó tôi biết em vẫn còn ở đây.
Dù tôi đã có thể đến nhà cha mẹ em để hỏi, nhưng tôi đã bác bỏ cái ý nghĩ ấy đi ngay, sau tất cả những gì đã xảy ra tôi không chắc họ sẽ phản ứng với sự hiện diện của tôi như thế nào. Thay vào đó, tôi lái xe xuống những con đường ở Lenoir, đi qua mấy khu bán lẻ, vòng một vòng qua khu bán đồ ăn nhanh, và bắt đầu cho xe chaỵ là đà khi bước qua địa phận thị trấn. Phần này của thị trấn không hề thay đổi, nơi những người mới và khách du lịch luôn được chào đón nhưng sẽ không bao giờ được coi là dân địa phương. Chạy dọc theo con đường xuống hồ bơi, một nơi nhắc tôi nhớ về những ám ảnh thời tuổi trẻ của mình. Đèn neon chiếu sáng rực những biển quảng cáo bia trên cửa sổ, và bãi đỗ xe phía trước đã kín chỗ. Những nơi như thế này sẽ giúp tôi tìm thấy câu trả lời mà tôi cần.
Tôi bước vào bên trong. Tiếng kèn của Hank Williams phát ra từ chiếc máy hát tự động, khói thuốc lá lơ lửng trong không khí. Bốn chiếc bàn chơi pun chụm lại một chỗ, mỗi người chơi đội một chiếc mũ bóng chày, và hai trong số họ rõ ràng là rất tự mãn nhai thuốc lá chóp chép. Giải thưởng được treo trên tường, bao quanh bởi khoảnh khắc đáng ghi nhớ của NASCAR. Có những bức ảnh chụp trận Talladega và Martinsville hay North Wilkesboro và Rockingham, và cho dù quan niệm của tôi về môn thể thao này không thay đổi, khung cảnh vẫn mang lại cho tôi một cảm giác thoải mái kỳ lạ. Ở một góc quán, dưới gương mặt tươi cười của Dale Earnhardt quá cố, là một hũ đầy tuyên góp cho nạn nhân ung thư. Cảm giác đồng cảm bất tử trỗi dậy, tôi cũng ném vào đó vài đô. Tôi kiếm một chỗ trong bar và nói chuyện với người pha chế đồ uống. Anh ta khoảng tầm tuổi tôi và cái giọng vùng cao của anh ta khiến tôi nhớ tới Savannah. Sau khoảng hai mươi phút chuyện trò rôm rả, tôi lấy bức ảnh của Savannah trong ví ra, và giải thích rằng tôi là một người bạn của gia đình. Tôi dùng tên của ba mẹ em và hỏi những câu ngụ ý rằng tôi đã từng ở đó trước đây.
Anh ta đã cảnh giác, cũng rất thẳng thắn. Người dân ở thị trấn nhỏ thường rất có ý thức tự bảo vệ, nhưng mọi chuyện đảo ngược khi anh thổ lộ anh đã có vài năm ở trong thủy quân lục chiến. Anh gật đầu.
“Vâng, tôi biết cô ấy,” anh nói. “Cô ấy sống trên đường Old Mill, cạnh nhà ba mẹ cô ấy.”
Chỉ mới sau tám giờ một chút, hoàng hôn xam xám nhưng một chiếc chăn mỏng trùm lên vạn vật. Mười phút sau, tôi rời khỏi quán bar ra cửa.
Tâm trí tôi là một khoảng trống tò mò khi tôi tiến vào vùng đất của những chú ngựa. Ít nhất, đó là những gì tôi cảm thấy vào lần cuối tôi ở đây. Con đường tôi lái xe hơi dốc lên trên, và tôi bắt đầu nhận ra những điểm mốc của vùng này; tôi biết vài phút trước tôi đã băng ngang qua nhà ba mẹ Savannah. Khi qua đó, tôi nghiêng người trên tay lái, tìm khúc gián đoạn ở hàng rào tiếp theo trước khi tiến vào một con đường trải sỏi dài hun hút. Khúc cua, tôi nhìn thấy một bảng chỉ dẫn viết tay sơn dòng chữ "Hope and Horses."
Xe tôi cán rôm rốp lên con đường rải sỏi tạo ra thứ cảm giác thoải mái kỳ dị, và tôi đậu xe dưới tán liễu rủ, cạnh một chiếc xe tải nhỏ vỡ nát. Tôi nhìn về phía căn nhà. Mái hình vuông dốc thoai thoải, với một lớp sơn trắng mà đôi chỗ đã bong tróc, một ống khói chĩa thẳng lên trời, tạo cảm giác dường như mọc ra từ mặt đất một hình thù ma quái kỳ dị từ hàng trăm năm nay. Một bóng đèn duy nhất trước hiên nhà sập sệ, và một chậu cây nhỏ treo gần quốc kỳ, cả hai đang đung đưa nhè nhẹ trong gió.
Mặt bên của ngôi nhà là một chuồng ngựa cũ kỹ theo năm tháng và một bãi quây gia súc nho nhỏ; phía xa xa một đồng cỏ xanh mướt được bao quanh bởi một hàng rào trắng tinh sạch sẽ trải dài cạnh một dọc những cây sồi to lớn. Một cái lán khác được dựng cạnh chuồng ngựa, và trong bóng râm tôi có thể nhìn thấy những đường nét lờ mờ của những nông cụ già nua. Tôi tự hỏi một lần nữa tại sao mình lại ở đây. Vẫn chưa quá trễ để rời đi, nhưng tôi không thể buộc mình vòng xe lại. Những loang màu đỏ và vàng bừng lên trước khi mặt trời lặn hẳn, bao ph những ngọn núi trong tấm màn bóng tối. Tôi bước ra khỏi xe và bắt đầu tiến về phía căn nhà. Những giọt sương trên cỏ khiến giày tôi ẩm ướt và tôi lại ngửi thấy mùi hăng hăng của những loại cây lá kim. Lắng nghe tiếng dế kêu râm ran và tiếng hót véo von của một con chim sơn ca. Những âm thanh ấy dường như tiếp thêm cho tôi sức mạnh khi tôi bước vào hiên nhà. Tôi cố nặn ra những lời lẽ tôi sẽ nói với em nếu em mở cửa. Hoặc những điều mà tôi phải nói với anh ta.
Trong khi tôi đang cố ra quyết định sẽ phải làm gì, một cái đuôi đang ngoáy tít sán lại gần tôi. Tôi ngửa bàn tay ra và cái lưỡi thân thiện của nó liếm láp lòng bàn tay tôi trước khi nó quay đi và bước xuống những bậc thang. Cái đuôi tiếp tục ngoáy tít khi nó dẫn đầu đi vòng vòng quanh nhà và lắng nghe tiếng gọi của cùng một thứ đã mang tôi tới Lenoir, tôi rời khỏi hiên và rảo bước theo nó. Nó cúi đầu thật thấp, dán bụng xuống đất chui qua thanh ngang của hàng rào và phi thong thả vào chuồng ngựa.
Ngay khi chó biến mất, tôi nhìn thấy Savannah bước ra khỏi chuồng ngựa với những khoanh cỏ khô kẹp bên tay. Những con ngựa trên đồng cỏ phi nước kiệu về phía em khi em tiếp cỏ khô vào những cái máng khác nhau.Tôi tiếp tục tiến về phía trước. Em xoay mình và chuẩn bị quay đầu về phía chuồng ngựa thì vô tình nhìn về hướng tôi. Em bước tới một bước, nhìn lại lần nữa và khựng lại. Trong một lúc lâu, cả hai chúng tôi đều không di chuyển. Cái nhìn của em khóa lấy anh mắt tôi khiến tôi nhận ra rằng thật không đúng khi đến đây, tự nhiên xuất hiện mà chẳng hề báo trước thế này. Tôi biết mình nên nói gì đó, bất cứ thứ gì, nhưng chẳng có gì xuất hiện trong đầu tôi. Tất cả những gì tôi có thể làm là nhìn em ngây ngốc. Những kỷ niệm đột ngột ùa về, tất cả chúng, và để ý thấy từng chút một em đã thay đổi thế nào kể từ lần cuối tôi gặp em. Giống như tôi em cũng đang mặc quần jean với áo thun, lấm lem bùn đất, và đôi ủng của em bị kéo lê trên mặt đất. Bằng cách nào đó tất cả những thứ đó khiến cho em có một vẻ ngoài bụi bặm. Tóc em đã dài hơn so với tôi vẫn nhớ, nhưng em vẫn còn khoảng răng sưa giữa hai răng cửa mà tôi vẫn luôn rất yêu. “Savannah,” cuối cùng tôi cũng thốt lên. Không phải cho đến khi tôi thốt nên lời tôi mới nhận ra rằng em cũng đang ngây ngốc như tôi. Em cười thật tươi với vẻ hài lòng trong sáng. “John?” em la lên.
“Được gặp lại anh thật tốt.”
Em lắc đầu, như thể cố làm cho bản thân tỉnh táo, sau đó lại nheo mắt nhìn tôi lần nữa. Cuối cùng em cũng đã tự thuyết phục được mình rằng tôi không phải là một ảo ảnh, em đẩy nhẹ cánh cổng và chặn ngay cửa. Chỉ một lát sau, tôi có thể cảm vòng tay em quanh tôi, cơ thể em ấm áp và chào đón. Trong một giây, dường như giữa chúng tôi chưa từng có chuyện gì thay đổi. Tôi muốn ôm em mãi mãi, nhưng khi em đẩy ra, ảo tưởng vỡ vụn, và chúng tôi lại trở lại thành những người xa lạ. Biểu hiện của em cũng chính là câu hỏi tôi không thể tự mình trả lời trong suốt quãng đường đến đây.
“Anh làm gì ở đây vậy?”
Tôi lảng nhìn đi nơi khác. “Anh không biết,” tôi nói. “Anh chỉ biết là anh cần phải đến đây thôi.” Dù em không hỏi gì, nhưng vẻ tò mò xen lẫn ngần ngại vẫn cuộn lên trong biểu hiện của em, như thể em không chắc em có muốn một câu giải thích rõ ràng hơn không. Tôi lùi lại một bước, cho em chút không gian. Tôi có thể thấy bóng dáng lờ mờ của những con ngựa trong bóng tối và những sự kiện trong vài ngày vừa qua lại ùa về trong tôi.
“Cha anh mất rồi,” tôi thì thầm, những từ ngữ dường như bật ra từ hư vô. “Anh vừa mới rời khỏi đám tang của ông ấy.”
Em im lặng, cử chỉ của em cũng mềm đi bởi lòng tốt bột phát để tôi được dịp tuôn ra hết. “Ôi, John…Em rất tiếc,” em thầm thì.
Em bước lại gần và lần này ôm choàng lấy tôi một cách chóng vánh. Khi em đẩy ra, nửa khuôn mặt em đã chìm vào bóng tối. “Chuyện đó đã xảy ra thế nào?” em hỏi, em đưa tay ra chạm vào tay tôi.
Tôi có thể nghe thấy sự đau buồn chân thật trong giọng nói của em, và tôi khựng lại, không thể tóm tắt tất cả những sự việc xảy ra trong vài năm vừa qua chỉ bằng một câu nói. “Đó là một câu chuyện dài,” tôi nói. Trong ánh sáng hắt ra từ chuồng ngựa, tôi có thể nhìn thấy những dấu vết của những kỷ niệm mà em cố chôn chặt, một cuộc đời đã từ rất lâu. Em buông tay tôi ra, và tôi nhìn thấy chiếc nhẫn cưới trên tay trái em. Hình ảnh đó như dội vào tôi một gáo nước lạnh.
Em nhận ra biểu hiện trên gương mặt tôi. “Vâng,” em nói, “Em đã kết hôn.”
“Anh xin lỗi,” tôi nói, lắc đầu. “Lẽ ra anh không nên đến.” Ngạc nhiên thay, em chĩ phẩy tay. “Không sao mà,” em nói, nghiêng nghiêng đầu. “Làm sao anh tìm được em?”
“Đây chỉ là một thị trấn nhỏ.” Tôi nhún vai. “Anh hỏi người ta.”
“Và họ chỉ đơn giản… nói với anh thế à?”
“Anh có khả năng thuyết phục mà.”
Thật vụng về, cả hai chúng tôi dường như chẳng biết phải nói gì để tiếp tục câu chuyện. Một phần trong tôi tràn trề hy vọng rằng chúng tôi sẽ tiếp tục đứng ở đây như những người bạn cũ nói với nhau tất cả những việc đã xảy ra trong cuộc sống của chúng tôi kể từ lần cuối chúng tôi gặp nhau. Phần khác tôi lại mong đợi chồng em sẽ đột ngột xuất hiện sau vài phút và bắt tay tôi hoặc thách thức tôi đánh nhau. Một chú ngựa hý vang phá tan bầu không khí yên lặng, qua vai em tôi có thể nhìn thấy bốn con ngựa đang cúi mình bên máng cỏ, một nửa chìm vào bóng tối nửa còn lại được chiếu sáng bởi ánh đèn hắt ra từ chuồng ngựa. Ba con khác, kể cả Midas, đang nhìn hau háu vào Savannah, như thể đang băn khoăn tự hỏi liệu có phải em đã bỏ quên chúng rồi không.
Cuối cùng Savannah ra hiệu qua vai mình. “Em nên cho chúng ăn luôn,” em nói. “Giờ là giờ ăn mà, và chúng đang phát cáu lên kìa.”
Tôi gật đầu, Savannah bước lùi ra sau rồi quay đi. Chỉ khi bước tới cánh cổng, em mới ra hiệu. “Anh có muốn giúp em một tay không?”
Tôi thoáng ngần ngừ, liếc nhìn về phía căn nhà. Em lần theo ánh nhìn của tôi. “Đừng lo,” em nói. “Anh ấy không có ở đây đâu, và em cũng có thể nhờ bất kỳ ai giúp đỡ mà.” Giọng em đều đều một cách ngạc nhiên. Dù tôi không chắc lắm về điều khiến trả lời như vậy, nhưng tôi vẫn gật đầu. “Anh rất vui lòng.”
Em đợi tôi và đóng cánh cổng lại sau lưng chúng tôi. Em chỉ vào một đống phân. “Coi chừng dẫm. Chúng sẽ dính vào giày của anh đấy.”
Tôi rên rỉ. “Anh sẽ cố.”
Trong chuồng ngựa, em tách đôi một thanh cỏ khô và đưa chúng cho tôi.
“Đổ chúng vào trong mấy cái máng. Em đi lấy ít yến mạch.”
Tôi làm như em chỉ dẫn, và những con ngựa tiến lại gần. Savannah trở ra ôm thêm hai cái thùng.
“Có lẽ em muốn một cái phòng nhỏ cho chúng. Cứ thế này chúng sẽ làm em phát điên lên.”
Tôi bước lùi ra, và Savannah treo mấy cái thùng lên hàng rào. Đám ngựa đầu tiên phi tới. Savannah ngắm chúng, vẻ tự hào hiển hiện trên mặt.
“Một ngày em cho tụi nó ăn mấy lần?”
“Hai lần một ngày. Mỗi ngày. Nhưng mà có nhiều việc để làm hơn là chỉ cho ăn. Anh sẽ ngạc nhiên khi biết thỉnh thoảng chúng vụng về tới mức nào. Tụi em cũng có bác sỹ thú y cho những rắc rối trong chuồng ngựa.”
“Nghe như có rất nhiều việc để làm đấy nhỉ?”
“Nhiều lắm. Người ta nói sở hữu một con ngựa giống như sống với một cái mỏ neo vậy. Trừ phi anh có ai đó giúp, rất khó để có thời gian rảnh rỗi, kể cả cuối tuần.”
“Ba mẹ em có thường xuyên giúp đỡ không?”
“Thỉnh thoảng khi em thực sự cần thôi. Nhưng ba em càng ngày càng lớn tuổi. Mà việc chăm sóc một con ngựa cũng rất khác với việc chăm sóc bảy con.”
“Anh sẽ ghi nhớ chuyện này.”
Trong vòng tay ấm áp của màn đêm, tôi lắng nghe tiếng ve kêu râm ran, hít thở bầu không khí yên bình của nơi này và cố kìm nén những suy nghĩ đang chạy đua trong đầu.
“Anh luôn tưởng tượng ra rằng em sẽ muốn được sống ở một nơi như thế này,” cuối cùng tôi nói.
“Em cũng vậy,” em đáp. “Nhưng khó khăn hơn nhiều so với những gì em vẫn tưởng. Có hàng đống thứ phải sửa chữa. Anh không tưởng tượng nổi có bao nhiêu chỗ dột nát trong chuồng ngựa đâu, và một phần hàng rào dài đã đổ vào mùa đông năm ngoái. Tụi em bận túi bụi suốt mùa xuân.”
Dù tôi nghe thấy từ “tụi em” và biết là em đang nói về chồng em, tôi vẫn chưa sẵn sàng thảo luận bất cứ điều gì về anh ấy. Và có vẻ như em cũng vậy.
“Nhưng ở đây vẫn rất đẹp, thậm chí dù anh có có hàng đống việc để làm. Những đêm như thế này, em thích ngồi nơi hiên nhà, lắng nghe thế giới. Anh khó có thể nghe thấy những tiếng động cơ xe, chỉ là nó… yên bình. Nó giúp đầu óc em thư thái, đặc biệt là sau một ngày dài.”
Khi em nói tôi cảm thấy sự chừng mực trong giọng nói của em, mong giữ cho cuộc chuyện trò của chúng tôi được an toàn. “Anh cá là vậy.”
“Em cần vệ sinh mấy cái móng ngựa,” em tuyên bố. “Anh muốn giúp không?”
“Anh không biết làm thế nào?” tôi thừa nhận. “Dễ lắm,” em nói. “Em sẽ chỉ cho anh.” Em biến mất bên trong cái chuồng ngựa và bước ra mang theo cái gì đó giống như hai cái đinh nhỏ cong cong. Em đưa một cái cho tôi. Trong khi mấy con ngựa đang ăn, em bước đến phía trước một con.
“Tất cả những gì anh phải làm là tóm lấy cái móng, kéo lại gần và gõ nhè nhẹ vào phía sau chân của nó,” em vừa nói vừa làm. “Sau đó cạy hết đất ở xung quanh cái móng ra. Chỉ cần làm vậy thôi.”
Tôi di chuyển tới phía trước con ngựa cạnh em và cố bắt chước, nhưng chẳng có gì xảy ra. Con ngựa vừa to lớn lại vừa cứng đầu. Tôi gõ nhẹ một lần nữa vào chân nó, đúng chỗ, sau đó kéo, và lại gõ. Con ngựa tiếp tục ăn lờ đi những nỗ lực của tôi. “Nó không chịu nhấc chân lên,” tôi than vãn.
Em vừa làm xong cái móng bên kia, sau đó dịch sang bên con ngựa của tôi. Một cái gõ và rồi kéo lại, cái móng ở ngay giữa chân em. “Chắc chắn là nó sẽ làm vậy mà. Nó chỉ không biết anh đang làm gì thôi và anh không thoải mái cạnh nó nữa. Anh phải tự tin mới được.” Em thả cái móng xuống, và tôi thế chỗ em, cố thử lại lần nữa. Một lần nữa, con ngựa lại lờ tôi đi.
“Nhìn em làm này,” em nói thật thận trọng. “Anh đang nhìn mà,” tôi phản đối.
Em làm lại, con ngựa nhấc chân lên. Một lát sau, tôi bắt chước y chang và con ngựa vẫn lờ tôi đi. Dù tôi không có khả năng đọc suy nghĩ của một con ngựa, tôi có một ý niệm lạ lùng rằng con ngựa này đang thích thú với sự khổ sở của tôi. Thất vọng, tôi lại gõ lại kéo liên túc cho đến khi như một phép màu, con ngựa cũng chịu nhấc chân lên. Dù chỉ là một thành quả nhỏ bé so với công sức tôi đã bỏ ra, tôi vẫn cảm thấy niềm tự hào trỗi dậy. Lần đầu tiên tử lúc tôi tới đây, Savannah bật cười.
“Làm tốt lắm. Giờ chỉ cần cạo bùn ra và bắt đầu với cái móng tiếp theo.”
Savannah đã làm sạch móng cho sáu con ngựa trong khi tôi làm xong cho một con. Khi chúng tôi làm xong, em mở cổng và những chú ngựa phi nứơc kiệu vào đồng cỏ tối om. Tôi không chắc mình đang mong đợi điều gì nhưng Savannah đã bước về phía nhà kho. Em mang theo hai cái xẻng trên tay.
“Tới lúc phải dọn dẹp rồi,” em nói đưa tôi một chiếc.
“Dọn dẹp?”
“Dọn phân ngựa,” em nói. “Nếu không chúng sẽ ngập lụt chỗ này mất.”
Tôi lấy xẻng. “Em làmviệc này hàng ngày hả?”
“Cuộc sống là một tuyệt tác phải không?” em đùa cợt. Em rời đi một lần nữa và quay lại với một cái xe cút kít.
Khi chúng tôi bắt đầu xúc phân ngựa, mảnh trăng bàng bạc treo lơ lửng trên đầu một ngọn cây. Chúng tôi làm việc trong im lặng, tiếng xẻng leng keng đều đặn của em lấp đầy không gian, Khi cả hai đều hoàn tất công việc của mình, tôi nghiêng người trên cái xẻng, ngắm nhìn em. Trong bóng tối lờ mờ của sân chuồng ngựa, trông em thật đáng yêu và khó nắm bắt như một hồn ma. Em chẳng nói gì nhưng tôi biết em cũng đang đánh giá tôi.
“Em ổn chứ?” cuối cùng tôi hỏi.
“Sao anh lại tới đây, John?”
“Em đã hỏi rồi còn gì.”
“Em biết em đã hỏi,” em nói. “Nhưng anh chưa thực sự trả lời em.”
Tôi nhìn em. Không, tôi vẫn chưa thực sự trả lời. Tôi không chắc tôi có thể tự mình giải thích không nữa, tôi chuyển trọng tâm từ chân này sang chân kia. “Anh chẳng biết phải đi đâu.”
Ngạc nhiên thay, em gật đầu. “Ừ,” em thừa nhận. Có một sự chấp nhận yếu ớt trong giọng nói của em khiến tôi nói tiếp.
“Anh nói thật đấy,” tôi nói. “Xét theo một khía cạnh nào đó, em là người bạn thân nhất anh từng có.”
Tôi có thể nghe thấy sự mềm mỏng trong giọng nói của em. “Được rồi,” em nói. Sự hồi đáp của em nhắc tôi nhớ về cha tôi, và sau khi em trả lời em cũng nhận ra điều đó. Nó buộc tôi phải xem xét những khả năng.
“Đây là trang trại em luôn mơ ước, phải không?” tôi hỏi. “Hope and Horses là cho những trẻ em bị bệnh tự kỷ, đúng chứ?”
Em luồn tay qua mái tóc, vén một lọn qua tai. Em có vẻ hài lòng vì tôi vẫn nhớ. “Vâng,” em nói. “Đúng vậy.”
“Em nghĩ chừng này là đủ hả?”
Em bật cười và giơ tay lên. “Thỉnh thoảng,” em nói. “Nhưng đừng nghĩ ngay rằng nó trang trải đủ cho tất cả mấy cái hóa đơn. Cả hai tụi em đều có việc làm, và mỗi ngày em nhận ra rằng em cũng không học được gì nhiều từ trường lớp như em tưởng.”
“Không ư?” Em lắc đầu. “Vài đứa trẻ đến đây hay mấy đứa bên trung tâm quả thật rất khó để tiếp cận.” Em ngần ngừ, cố tìm ra từ thích hợp. Cuối cùng em lắc đầu. “Em đoán là em tưởng rồi tất cả bọn chúng cũng sẽ được chữa khỏi như Allan, anh biết không?” Em ngước lên. “Anh còn nhớ lúc em kể anh nghe về anh ấy chứ?”
Khi tôi gật đầu, em tiếp. “Hóa ra trường hợp của Alan là một trường hợp đặc biệt. Em không biết – có thể là do anh ấy lớn lên ở một nông trại, nên anh ấy thích nghi với chỗ này tốt hơn nhiều so với hầu hết những đứa trẻ khác.”
Khi em chẳng nói gì, ánh nhìn tôi lướt qua em. “Đó không phải là điều em đã kể với anh. Theo như anh nhớ, thì lúc đầu Alan cũng gặp rất nhiều khó khăn.”
“Vâng, em biết, nhưng sau đó… anh ấy đã quen dần dần. Và đó mới là vấn đề. Em không thể kể hết những trường hợp không bao giờ có thể thích nghi được, dù tụi em có cố gắng trong bao lâu chăng nữa. Đó không phải vấn đề ngày một ngày hai, có những đứa trẻ đã đến đây thường xuyên trong hơn một năm. Tụi em làm việc ở một trung tâm đánh giá phát triển, nên tụi em dành rất nhiều thời gian với hầu hết bọn trẻ, và khi tụi em mở trang trại này, tụi em đã khẳng định là mở nó cho bọn trẻ dù vần đề của chúng có nghiêm trọng đến mức độ nào. Tụi em cảm thấy đó là một cam kết quan trọng, nhưng với vài đứa trẻ… Em chỉ ước em biết cách nào đó để tiếp cận được với chúng. Thỉnh thoảng, em có cảm giác rằng việc mình đang l chỉ như là dã tràng xe cát mà thôi.”
Tôi có thể thấy Savannah đang lục tìm những ký ức của mình. “Em không có ý nói là việc tụi em đang làm chỉ lãng phí thời gian,” em tiếp. “Vài đứa trẻ cũng được hưởng lợi từ việc tụi em đang làm. Chúng đến đây, trải qua vài dịp cuối tuần, và giống như một nụ hoa chầm chậm hé nở, bừng lên tuyệt đẹp. Giống như điều đã từng xảy ra với Allan vậy. Điều đó giống như anh có thể cảm nhận được trí óc chúng đang mở ra với những ý tưởng, những khả năng mới, và khi chúng đến đây với nụ cười bừng lên trên khuôn mặt, điều đó giống như không có bất kỳ thứ gì khác trên thế giới là quan trọng nữa. Đó là một cảm giác tuyệt vời, và anh chỉ muốn nó cứ tiếp diễn mãi với tất cả những đứa trẻ đến đây. Em từng nghĩ mấu chốt của vấn đề là cần phải kiên nhẫn, rằng tụi em có thể giúp tất cả chúng vượt qua nhưng tụi em không thể. Vài đứa không bao giờ chịu lại gần mấy con ngựa, hay chịu cưỡi nó một mình.”
“Em biết đó không phải là lỗi của em chứ. Anh cũng không quá phấn khích với cái ý tưởng cưỡi chúng, em còn nhớ chứ?”
Em cười khúc khích, nghe thật dịu dàng. “Vâng, em nhớ. Đó là lần đầu tiên anh ngồi trên lưng một con ngựa, trông anh còn có vẻ sợ hãi hơn hầu hết bọn trẻ.”
“Không phải, anh không có mà,” tôi phản bác. “Thêm nữa, con Pepper rất ngỗ nghịch.”
“Ha!” em hét lên. “Anh nghĩ tại sao em lại để anh cưỡi nó chứ? Nó là con ngựa dễ bảo nhất mà anh có thể tưởng tượng được. Em không nghĩ là có bao giờ nó lồng lên khi có ai đó cưỡi nó chưa nữa.”
“Nó rất ngỗ ngược,” tôi khăng khăng.
“Xem anh ngang như cua kìa,” em trêu. “Nhưng dù anh có nói sai thì em vẫn thấy cảm động vì anh còn nhớ điều đó.”
Giọng điệu vui vẻ của em khiến những đợt sóng hồi ức dồn dập ùa về. “Dĩ nhiên là anh nhớ,” tôi nói. “Đó là những ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời anh. Anh sẽ không bao giờ có thể quên được.” Qua vai em, tôi có thể nhìn thấy một con chó đang lang thang ngoài bãi thả. “Có lẽ, đó cũng là lý do tại sao anh chưa thể kết hôn.” Cùng với câu nói của tôi, ánh nhìn em trở nên chao đảo. “Em vẫn còn nhớ.”
“Thật sao?”
“Dĩ nhiên,” em nói. “Có thể anh không tin, nhưng đó là sự thật.” Câu nói kỳ quặc của em nặng nề rơi tõm vào không khí.
“Em có hạnh phúc không, Savannah?” Rốt cuộc tôi cũng hỏi.
Em gượng cười. “Hầu hết thời gian. Anh thì sao?”
“Anh không biết,” tôi nói, khiến em lại bật cười.
“Đó là câu trả lời chuẩn mực của anh, anh biết chứ. Khi anh được hỏi về bản thân anh. Đó giống như một phản xạ với anh vậy. Luôn luôn là như vậy. Tại sao anh không hỏi em điều anh thực sự muốn hỏi.”
“Anh thực sự muốn hỏi điều gì?”
“Như em có yêu chồng em không? Ý anh là vậy phải không?” em hỏi, quay đi một lát.
Trong giây lát tôi đã không thể thốt nên lời nào, nhưng tôi nhận ra bản năng của em đã mách bảo chính xác. Đó thực sự là lý do tôi tới đây. “Vâng,” em nói, như thể đọc được suy nghĩ của tôi. “Em yêu anh ấy.”
Sự chân thành không thể lầm lẫn trong giọng nói của em khiến tôi đau nhói, nhưng trước khi tôi kịp tiêu hóa điều đó, em đã quay mặt lại. Vẻ mặt em thoáng chút lo lắng, như thể em vừa nhớ ra điều gì đau lòng, nhưng nó biến mất rất nhanh.
“Anh ăn tối chưa?” em hỏi.
Tôi vẫn cố sắp xếp mọi chuyện vừa xảy ra cho hợp lý. ”Chưa,” tôi nói. “Thực ra, anh vẫn chưa ăn sáng hay ăn trưa gì cả.”
Em lắc đầu. “Em còn một ít thịt bò còn sót lại trong nhà. Anh có thời gian dùng bữa tối không?”
Dù một lần nữa tôi lại thắc mắc về chồng em, tôi vẫn gật đầu. “Anh rất muốn,” tôi nói.
Chúng tôi thẳng tiến về phía ngôi nhà và ngừng lại khi chúng tôi chạm tới hiên nhà với những đôi ủng cao bồi lấm bùn. Savannah vịn vào tay tôi một cách tự nhiên đến mức tôi thấy đau lòng, dựa vào tôi để lấy thăng bằng khi em cởi đôi ủng của em ra. Có lẽ, sự đụng chạm của em như khuyến khích tôi thực sự nhìn thẳng vào em và dù tôi nhìn thấy sự bí ẩn và trưởng thành đã luôn khiến em có vẻ cuốn hút, tôi cũng để ý thấy dấu vết của nỗi buồn và sự thận trọng. Với trái tim đau đớn của mình, sự kết hợp ấy thậm chí còn khiến em đẹp hơn.
John Yêu Dấu John Yêu Dấu - Nicholas Sparks John Yêu Dấu