Những lần thất bại chính là hạt giống gieo mầm cho thành công sau này. Bạn có thể buồn nhưng đừng tuyệt vọng.

Khuyết danh

 
 
 
 
 
Tác giả: Nicholas Sparks
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2404 / 97
Cập nhật: 2017-08-09 10:28:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 15
ó một điều mà tôi chắc chắn: Những ký ức về ngày 11 tháng chín sẽ theo tôi mãi mãi. Tôi theo dõi cột khói cuộn lên từ Tòa Tháp Đôi và Lầu Năm Góc và nhìn thấy những khuôn mặt tối sầm của những người đồng đội quanh tôi khi họ xem người ta nhảy vào chỗ chết. Tôi đã chứng kiến sự sụp đổ của tòa nhà và đám mây khổng lồ những bụi và mảnh vụn bốc cao. Tôi cảm thấy giận dữ khi người ta sơ tán khỏi Nhà Trắng.
Trong vài giờ nữa, tôi biết Nhà Trắng sẽ có hành động đáp trả vụ tấn công và rằng các lực lượng vũ trang sẽ tiên phong. Căn cứ được đặt vào tình trạng báo động khẩn cấp, và tôi biết rằng sẽ không có thời khắc nào tôi có thể tự hào hơn về những người đàn ông này. Những ngày tiếp theo, tất cả những xung đột cá nhân hay bè phái chính trị đều biến mất. Trong một khoảng thời gian ngắn, tất cả chúng tôi đều đơn giản là những người Mỹ.
Công tác tuyển dụng bắt đầu được đẩy mạnh trong c nước cho bất kỳ ai muốn gia nhập quân đội. Những sỹ quan đã nhập ngũ như chúng tôi, tinh thần khao khát được phụng sự cho Tổ Quốc dâng cao hơn bao giờ hết. Tony là người đầu tiên trong đơn vị tôi tình nguyện gia hạn thời hạn phục vụ thêm hai năm, và từng người từng người một đều noi gương anh. Kể cả tôi, người luôn mong ước đến ngày xuất ngũ vào tháng mười hai, kẻ đang đếm từng ngày để được về nhà với Savannah, cũng bị cuốn đi trong cơn sóng nhiệt tình ấy và xin gia hạn thêm.
Nói thì thật dễ, rằng tôi bị tác động bởi những sự kiện diễn ra xung quanh mình và đó là lý do tôi làm việc ấy. Nhưng đó chỉ là cái cớ. Công nhận là tôi đã bị cuốn vào làn sóng yêu nước đang sôi sục, nhưng hơn thế nữa, tôi bị ràng buộc bởi sợi dây tình bạn và trách nhiệm. Tôi hiểu đồng đội của mình, tôi quan tâm đến những đồng của mình, và cái ý nghĩ bỏ mặc họ trong thời điểm này đối với tôi là sự hèn nhát không thể chấp nhận được. Chúng tôi đã cùng sát cánh bên nhau, cùng đồng cam cộng khổ, tôi thậm chí không thể nghĩ đến chuyện sẽ rời bỏ họ vào những giờ khắc đen tối của năm 2001 này.
Tôi gọi cho Savannah để báo tin. Ban đầu, em đã ủng hộ tôi. Giống như những người khác, em đang hoảng sợ tột độ với những sự kiện vừa xảy ra, và em hiểu gánh nặng nghĩa vụ đang đè nặng trên vai tôi, thậm chí trước cả khi tôi cố giải thích. Em nói em rất tự hào về tôi.
Nhưng thực tế đã sớm được quyết định. Lựa chọn phục vụ tổ quốc, tôi đã phải hy sinh. Dù công tác điều tra thủ phạm đã được tiến hành nhanh chóng, song tình hình an ninh trở nên bất ổn hơn bao giờ hết. Lực lượng bộ binh của chúng tôi không tham dự vào vụ lật đổ chính quyền Taliban ở Afghanistan, thật là một sự thất vọng lớn cho mọi người trong đơn vị chúng tôi. Thay vào đó, chúng tôi trải qua phần lớn mùa đông và mùa xuân tập luyện và chuẩn bị cho cuộc xâm lược tương lai ở Iraq. Tôi cho là vào thời điểm này, những lá thư từ Savannah bắt đầu thay đổi. Trước đây chúng đến đều dặn mỗi tuần, giờ là cách mười ngày, và sau đó thời gian như dài mãi ra, và cứ cách hai tuần mới có một lá. Tôi cố an ủi bản thân rằng lời lẽ trong những lá thư chưa hề thay đổi, nhưng với thời gian chúng cũng đã đổi thay. Những đoạn mô tả cuộc sống bên nhau tưởng tuợng của em hay những đoạn hồi tưởng mà tôi vẫn mong đợi đã không còn nữa. Chúng tôi biết rằng giấc mơ đã vuột khỏi tầm tay với khoảng cách hai năm đằng đẵng. Viết một tương lai xa vời chỉ khiến em nhớ rằng chúng tôi sẽ còn phải xa nhau trong bao lâu, và điều đó khiến cả hai chúng tôi đau đớn đến thế nào.
Tháng năm vụt qua, tôi tự an ủi bản thân rằng ít nhất chúng tôi cũng có thể gặp lại nhau vào kỳ nghỉ phép kế tiếp. Tuy nhiên, số phận, lại đùa giỡn với chúng tôi ch vài ngày trước khi tôi được trở về nhà. Chỉ huy của tôi đã triệu tập một cuộc gặp và khi tôi hiện diện ở văn phòng, ông chỉ tôi chỗ ngồi. Cha tôi, ông nói với tôi, đã bị lên cơn đau tim, đã nhập viện và tôi được cấp cho một kỳ phép khẩn cấp. Thay vì đến thẳng Chapel Hill và ở cùng Savannah hai tuần, tôi đã trở về Wilmington và trải qua những ngày nghỉ phép của mình bên giường ông, hít vào mùi thuốc sát trùng luôn khiến tôi nghĩ về việc chữa trị hơn là về cái chết. Khi tôi đến, cha tôi đang ở trong phòng chăm sóc đặc biệt, ông đã ở đó gần hết chuyến về phép của tôi. Da ông tái xám lại, hơi thở dồn dập và rất yếu. Trong tuần đầu tiên, ông thường rơi vào trạng thái hôn mê, nhưng khi ông tỉnh táo, tôi nhìn thấy những xúc cảm mà cha tôi hiếm khi biểu hiện ra ngoài và chẳng bao giờ lẫn lộn như lúc này: sự sợ hãi tuyệt vọng, hoang mang nhất thời và sự biết ơn khiến tôi đau lòng khi ông thấy tôi ở bên cạnh ông. Hơn một lần tôi đã chạm vào tay ông, lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Bởi vì một ống dịch được nối trực tiếp vào cổ họng ông khiến ông không thể nói nên tôi đã phải nói cả phần của hai cha con. Dù tôi cũng kể cho ông nghe một ít tình hình ở đơn vị nhưng chủ yếu vẫn là chủ đề những đồng xu. Tôi đọc cho ông nghe bảng Greysheet; xong đâu đấy, tôi trở về nhà, lấy những bản sao cũ ông cất trong ngăn kéo và cũng đọc cho ông nghe. Tôi tìm thông tin về những đồng xu trên mạng - ở những trang web như David Hall Rare Coins hay Legend Numismatics – và đọc những thông tin chào hàng cũng như cập nhật giá cả mới nhất. Giá cả làm tôi ngạc nhiên và tôi ngờ rằng bộ sưu tập của cha tôi, dù đã qua rồi cái thời hoàng kim xưa cũ, vẫn đáng giá hơn ngôi nhà mà ông đang sở hữu trong nhiều năm khoảng mười lần. Cha của tôi, người không thể học được nghệ thuật hội thoại đơn giản, đã trở thành người giàu có hơn bất kỳ ai tôi từng biết.
Cha tôi không hề quan tâm đến giá trị của chúng. Mắt ông sa sầm lại mỗi khi tôi đề cập tới việc đó, và tôi nhanh chóng nhớ lại chuyện mà không biết bằng cách nào đó tôi đã quên mất: rằng đối với cha tôi, việc theo đuổi những đồng xu thú vị hơn chính đồng xu đó, và đối với ông, mỗi đồng xu đại diện cho một câu chuyện với một kết thúc có hậu. Với suy nghĩ đó, tôi cố nhớ lại những đồng xu chúng tôi đã cùng nhau tìm ra. Bởi vì cha tôi lưu lại những cuốn băng đặc biệt, tôi sẽ xem lại trước khi đi ngủ, và từng chút từng chút một, những ký ức ấy lại ùa về. Những ngày tiếp theo, tôi gợi lại những câu chuyện về những chuyến đi cùng ông với Raleigh, Charlotte hay Savannah. Dù sự thật là thậm chí bác sỹ cũng không chắc là đến khi nào ông mới có thể hồi phục, nhưng trong những tuần đó cha tôi đã cười nhiều hơn cả toàn bộ phần đời của ông. Ông đã được trở về nhà trước ngày tôi định rời đi, và bệnh viện cũng đã sắp xếp để ai đó có thể chăm sóc ông trong thời gian ông hồi phục.
Nhưng nếu thời gian ở bệnh viện củng cố mối quan hệ giữa cha con tôi thì vẫn chẳng giúp được gì cho mối quan hệ của tôi với Savannah. Đừng hiểu nhầm ý tôi – em tranh thủ giúp tôi bất cứ khi nào có thể, em vừa động viên vừa cảm thông với tôi. Nhưng bởi vì tôi phải dành thời gian quá nhiều ở bệnh viện, nên nó không thể giúp hàn gắn những vết nứt bắt đầu hình thành trong mối quan hệ của chúng tôi. Thành thật mà nói, tôi thậm chí còn không chắc điều mình thực sự muốn ở em là gì: Khi em ở đó, tôi cảm thấy chỉ muốn được ở một mình với cha, nhưng khi em đi rồi, tôi lại muốn có em bên cạnh. Bằng cách nào đó, Savannah lái bất kỳ hành động căng thẳng quá khích nào mà tôi nhắm về phía em mà chẳng hề phản ứng gì. Dường như em biết tôi đang nghĩ gì và dự đoán được điều tôi muốn thậm chí còn tốt hơn cả tôi.
Cái mà chúng tôi cần là thời gian bên nhau. Được ở một mình cùng nhau. Nếu mối quan hệ của chúng tôi là một viên pin, thời gian tôi ở nước ngoài đang tiếp tục rút cạn năng lượng nó, cả hai chúng tôi đều cần thời gian để sạc lại. Một lần, khi ngồi với cha và lắng nghe nhịp bíp đều đặn của máy trợ tim, tôi nhận ra rằng Savannah và tôi chỉ trải qua 4 tuần cùng nhau trong 104 tuần. Ít hơn 5 phần trăm. Kể cả những lá thư và những cuộc điện thoại, thỉnh thoảng tôi nhìn chằm chằm vào khoảng trống trước mặt, tự hỏi làm thế nào mối quan hệ chúng tôi có thể tồn tại chỉ với những gì chúng tôi đang có.
Chúng tôi đi dạo cùng nhau và ăn tối với nhau hai lần. Nhưng bởi vì Savannah đang dạy học và phải đến lớp nên em không thể ở lại.Tôi cố không đổ lỗi cho em vì điều đó, ngoại trừ việc khi tôi làm vậy chúng tôi kết thúc bằng việc cãi nhau. Tôi ghét điều đó, cũng như em vậy, nhưng dường như không ai trong chúng tôi có thể ngừng được. Và dù em không nói gì, và thậm chí có phản bác lại điều đó khi cãi cọ, tôi biết vấn đề thực sự là nên về nhà mãi mãi và tôi đã không làm thế. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất Savannah nói dối tôi.
Chúng tôi để những cuộc cãi vã lại phía sau và nói lời chào tạm biệt trong nước mắt, dù quá đau đớn như lần trước. Sẽ thật thoải mái khi nghĩ rằng bởi vì chúng tôi đã từng trải qua chuyện này một lần, hoặc bởi vì giờ đây cả hai chúng tôi đều đã trưởng thành hơn, nhưng khi ngồi trên máy bay, tôi biết điều không-gì-có-thể-thay-đổi-được giữa chúng tôi nay đã thay đổi. Ít nước mắt hơn là bởi vì tình cảm giữa chúng tôi đang phai nhạt dần.
Thực tế thật đau lòng, và vào đêm trăng tròn tiếp theo, tôi lang thang vô định trong sân tập bóng đá. Và cũng chỉ vì tôi đã hứa với em trong lần về phép đầu tiên. Tôi cũng suy ngẫm về lần về phép thứ hai của mình, nhưng lạ thay, tôi chẳng hề muốn nghĩ đến lần về phép thứ ba dù tôi biết ngày về đã được định
Mùa hè qua đi, tình hình của cha tôi cũng ngày một khá lên, dù hơi chậm. Trong những lá thư ông gửi cho tôi, ông kể ông thường đi bộ vòng quanh khu nhà ba lần mỗi ngày, mỗi chuyến đi như thế kéo dài đúng hai mươi phút, nhưng cũng đã phải rất khó khăn. Nếu nói về mặt tích cực của toàn bộ việc này thì chính là việc nó giúp ông có thêm việc gì đó để làm ngoài những đồng xu sau khi ông nghỉ hưu, chỉ có thế. Ngoài việc gửi thư đều đặn cho ông, tôi cũng bắt đầu gọi điện cho ông vào đúng một giờ ngày thứ ba và ngày thứ năm hàng tuần, chỉ để đảm bảo là ông vẫn ổn. Tôi chú ý tới bất kỳ dấu hiệu mết mỏi nào trong giọng nói của ông và nhắc nhở ông ăn, ngủ và uống thuốc đầy đủ. Tôi luôn đề cập tới những việc đó trong hầu hết cuộc trò chuyện. Cha phát hiện ra rằng những cuộc chuyện trò điện thoại thậm chí còn gây đau lòng hơn những cuộc tiếp xúc trực tiếp nên có vẻ như ông luôn muốn gác máy thật nhanh. Tôi luôn chọc ông về điều đó, nhưng tôi cũng không chắc ông có hiểu đó chỉ là một câu nói đùa không nữa. Điều đó khiến tôi buồn cười, và thỉnh thoảng tôi cười phá lên nhưng ông chẳng hề đáp lại, giọng ông chỉ đột nhiên sôi nổi hẳn lên, trong một chốc trước khi lại rơi vào im lặng. Không sao cả. Tôi biết ông luôn mong ngóng những cuộc điện thoại này. Ông luôn trả lời ngay từ hồi chuông đầu tiên và chẳng khó khăn gì để tưởng tượng ra ông đang nhìn chằm chằm đồng hồ và chờ đợi.
Tháng tám qua đi, tháng chín lại đến, rồi tháng mười sang. Savannah đã hoàn tất khóa học ở Chapel Hill và chuyển về nhà trong khi cố tìm một công việc. Qua báo chí, tôi được biết Liên Hiệp Quốc và các quốc gia Châu Âu đang tìm mọi cách để giữ chúng tôi không can thiệp vào cuộc chiến ở Iraq. Trong liên minh Nato, tình hình cũng trở nên căng thẳng; theo nguồn tin, đã có những cuộc biểu tình của công chúng và những lời tuyên bố mạnh mẽ từ những người dẫn đầu cuộc biểu tình rằng nước Mỹ đang phạm một sai lầm khủng khiếp. Trong khi đó, lãnh đạo của chúng tôi đang cố áp lực khiến họ đổi ý. Tôi và những người khác trong đơn vị vẫn tiếp tục luyện tập cho một quyết định nghiệt ngã không thể thay đổi. Tháng mười một, chúng tôi quay lại Kosovo. Chúng tôi không ở lại lâu, nhưng như thế cũng đã là quá lắm rồi. Tôi đã quá mệt mỏi với Balkans, quá mệt mỏi với nhiệm vụ gìn giữ hòa bình. Quan trọng hơn hết, tất cả chúng tôi đều biết chiến tranh ở Trung Đông sắp nổ ra, dù Châu Âu có muốn hay không.
Suốt thời gian đó, những lá thư từ Savannah vẫn đến đều đặn cũng như những cuộc gọi của tôi. Thường thì tôi gọi cho em trước lúc bình minh, khoảng nửa đêm theo giờ của em và dù trước đây tôi luôn có thể gặp em vào giờ này; nhưng hơn một lần em không ở nhà. Dù tôi cố gắng tự thuyết phục bản thân mình rằng có lẽ em ra ngoài với bạn hay ba mẹ em thôi, nhưng thật khó để giữ cho những suy nghĩ của mình không i tung lên. Sau khi gác máy, thỉnh thoảng tôi vẫn tưởng tượng vơ vẩn rằng em đang gặp gỡ một người con trai khác mà em quan tâm. Thỉnh thoảng, tôi gọi thêm hai hay ba lần nữa trong vòng một tiếng đồng hồ tiếp theo, cơn giận cứ bốc lên ngùn ngụt theo mỗi hồi chuông không được trả lời.
Cuối cùng em cũng nhấc máy, lẽ ra tôi có thể hỏi em đã ở đâu, nhưng tôi chưa bao giờ làm thế. Không bao giờ kể cả khi em tình nguyện giải thích lý do. Tôi biết mình đã phạm sai lầm khi giữ im lặng, đơn giản bởi vì nó không thể trục xuất những câu hỏi cứ lảng vảng trong đầu tôi, thậm chí kể cả khi tôi cố tập trung vào cuộc đối thoại. Thường xuyên như thế, tôi tỏ ra căng thẳng trên điện thoại và phản ứng của em cũng vậy. Dần dà, những cuộc chuyện trò của chúng tôi ít những trao đổi tình cảm vui vẻ hơn là những cuộc trao đổi thông tin bắt buộc. Sau khi gác máy, tôi luôn cảm thấy chán ghét bản thân bởi cảm giác ghen tức cứ trào lên, và tôi cố đánh bại cơn dở chứng ấy trong mấy ngày tiếp theo, tự hứa sẽ không bao giờ để chuyện đó xảy ra lần nữa.
Những lần khác, Savannah vẫn là người con gái mà tôi hằng mong nhớ và tôi có thể nhận thấy em quan tâm tới tôi đến nhường nào. Sau tất cả, tôi vẫn yêu em nhiều như tôi hằng yêu em, và tôi thấy đau đớn cho những khoảng thời gian trong quá khứ. Dĩ nhiên, tôi biết điều gì đang xảy ra. Khi chúng tôi chia cách, tôi cố cứu vãn một cách tuyệt vọng những gì chúng tôi từng có với nhau, hệt như một vòng luẩn quẩn, tuy nhiên, sự tuyệt vọng của tôi lại càng đẩy chúng tôi ra xa nhau hơn nữa.
Chúng tôi bắt đầu cãi nhau. Như lần cãi vã trước của chúng tôi ở căn hộ của em trong lần về phép thứ hai, tôi gặp rắc rối trong việc chuyển tải những cảm nghĩ của mình tới em, và dù em có nói gì, tôi vẫn không thoát được cái suy nghĩ rằng em đang trêu chọc tôi hoặc thậm chí em còn không cố giảm bớt những quan ngại của tôi. Tôi thậm chí còn ghét những cuộc gọi như vậy hơn cả việc tôi ghét sự ghen tuông của bản thân mình, dù tôi biết hai thứ đó đan xen vào nhau.
Mặc cho những rắc rối của chúng tôi, tôi cũng không bao giờ ngờ rằng chúng tôi sẽ làm việc đó. Tôi muốn sống bên Savannah hơn bất kỳ thứ gì tôi từng muốn trong đời.
Tháng mười hai, tôi cố gắng gọi điện đều đặn hơn, cố giữ cho sự ghen tuông của mình trong tầm kiểm soát. Tôi buộc bản thân mình tỏ ra lạc quan trên điện thoại, hy vọng em sẽ muốn nghe những điều đó từ tôi. Tôi nghĩ mọi chuyện rồi sẽ được cải thiện, và ngoài mặt thì đúng là như vậy cho đến bốn ngày trước giáng sinh, tôi nhắc em nhớ rằng tôi sẽ trở về nhà trong non một năm nữa. Thay vì phản ứng hào hứng như tôi mong đợi, em chỉ im lặng. Tất cả tôi có thể nghe thấy là nhịp thở đều đều của em.
“Em có nghe anh nói không?” tôi hỏi,
“Có,” em đáp, giọng thật êm ái. “Cũng chỉ là điều em từng nghe nói trước đây thôi mà.”
Đó là sự thật, cả hai chúng tôi đều biết điều đó, nhưng tôi đã không thể ngủ ngon trong suốt gần một tuần sau đó.
Ngày trăng tròn cũng là ngày đầu năm mới, và dù tôi có ra ngoài ngắm trăng và cố nhớ lại cái tuần chúng tôi bắt đầu yêu nhau, tất cả những hình ảnh đó đã trở nên nhạt nhòa, như thể bị xóa nhòa bởi nỗi đau thầm kín trong sâu thẳm tim tôi. Trên đường trở về, hàng tá những thanh niên túm tụm thành từng nhóm hoặc dựa người vào những tòa nhà nhẩn nha nhả thuốc, trông họ như những kẻ vô ưu vô lo vậy. Tôi tự hỏi họ nghĩ gì khi bắt gặp tôi lang thang ngoài này. Họ có cảm thấy nỗi mất mát lớn lao tôi đang phải hứng chịu? Hoặc giả rằng tôi đang ước mình có thể thay đổi quá khứ?
Tôi không biết và họ cũng chẳng hỏi. Thế giới đã đổi thay nhanh chóng.
Hiệu lệnh chúng tôi đang chờ đợi đến vào sáng hôm sau, vài ngày sau đó đội chúng tôi có mặt ở Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu chuẩn bị cho cuộc đổ bộ vào Iraq từ mạn bắc. Chúng tôi hội họp, phân công công việc; nghiên cứu địa hình, và lập kế hoạch tác chiến. Có rất ít thời gian rảnh rỗi, nhưng khi chúng tôi mạo hiểm thám thính bên ngoài doanh trại, thật khó để làm ngơ trước những cái nhìn hằn học thù địch của quần chúng. Chúng tôi nghe được những tin đồn rằng Thổ Nhĩ Kỳ đang lên kế hoạch từ chối để quân đội chúng tôi sử dụng như cửa ngõ tiến vào Iraq và rằng những cuộc đàm phán gần đây nhằm gây áp lực đối với họ. Từ lâu chúng tôi đã học cách lơ đi những tin đồn, nhưng lần này tin đồn là chính xác, đội chúng tôi và những người khác được cử tới Kuwait bắt đầu thực hiện nhiệm vụ. Chúng tôi hạ cánh giữa trưa dưới bầu trời quang đãng, xung quanh tứ phía đều là cát. Hầu như ngay lập tức, chúng tôi lên xe buýt, xe chạy nhiều giờ liền và điểm đến là một thành phố lều lớn nhất mà tôi từng thấy. Quân đội đã làm hết sức để chúng trở nên tiện nghi nhất. Thức ăn rất ngon, và PX là tất cả những gì bạn cần dù hơi chán. Dịch vụ chuyển phát thư rất tệ - tôi chẳng nhận được lá thư nào – và đường dây điện thoại cách chỗ đóng quân hàng dặm. Trong những cuộc tập trận, tôi và những đồng đội của mình ngồi thành từng nhóm đoán già đoán non liệu chừng nào thì cuộc xâm lược bắt đầu hay luyện tập để mặc những bộ quần áo bảo hộ nhanh nhất có thể. Kế hoạch là đơn vị của chúng tôi sẽ hỗ trợ cho những đừ nhiều nhánh khác nhau tiến thẳng vào Baghdad. Tháng hai, cảm giác như đã hàng vạn năm trong sa mạc, đơn vị tôi và tôi đã sẵn sàng như chưa bao giờ sẵn sàng hơn thế.
Về điểm này, cũng có rất nhiều binh lính đã đóng quân tại Kuwait từ giữa tháng mười một, và những tin đồn được dịp rộ lên. Không ai biết điều gì đang đến. Tôi nghe nói về những loại vũ khí hóa học và vũ khí sinh học; tôi cũng nghe nói rằng Saddam, đã nhận được một bài học đích đáng ở sa mạc Storm và cắt giảm chi tiêu cho quân đội Cộng hòa ở Baghdad, nhằm tiến hành một cuộc chiến đẫm máu cuối cùng. Ngày 17 tháng ba, tôi biết chiến tranh đã nổ ra. Đêm cuối cùng ở Kuwait, tôi viết những lá thư gửi những người tôi yêu thương, trong trường hợp tôi không thể trở về, một cho cha tôi và một cho Savannah. Buổi chiều hôm đó, tôi thấy mình gia nhập vào đoàn quân dài hàng trăm dặm đổ vào Iraq.
Chúng tôi lựa chọn chiến lược đánh du kích, ít nhất là trong thời gian đầu. Bởi vì lực lượng không quân của chúng tôi kiểm soát không phận, nên chúng tôi không thấy bị đe dọa bởi những trận không kích khi chúng tôi hành quân trên những đường cao tốc hoang vắng. Chúng tôi hầu như chẳng thấy bóng quân Iraq nào trong suốt chặng đường hành quân, điều đó chỉ làm tăng cảm giác căng thẳng khi tôi cố dự đoán xem chúng tôi sẽ phải đối mặt với điều gì trong chiến dịch. Đây đó, chúng tôi cũng có thể nhìn thấy vài hiệu lệnh từ những tia súng cối của đối phương, và chúng tôi đã phải lê lết trong những bộ quân phục chỉ để học một điều đó là hiệu lệnh giả. Những người lính đang rất căng thẳng. Tôi đã không thể chợp mắt trong ba ngày liền.
Sâu phía trong Iraq, xung đột bắt đầu nổ ra, và đó cũng là lúc tôi học được bài học đầu tiên liên quan đến hiệp ước tự do cho Iraq: Thường dân hay kẻ thù trông cũng hoàn toàn giống nhau. Mục tiêu được chỉ ra, chúng tôi tấn công, và có những lúc chúng tôi cũng không chắc chúng tôi đang bắn ai nữa. Khi chúng tôi đặt chân đến vùng tam giác Sunni, số người hy sinh tăng vọt. Chúng tôi nghe nói về những chiến trận ở Fallujah, Ramadi và Tikrit, tất cả đều đang diễn ra rất ác liệt cùng những đơn vị khác ở những bộ phận khác. Đơn vị tôi hỗ trợ lực lượng không quân thứ tám mươi hai trong một cuộc tấn công Samawah, và đó là nơi chúng tôi lần đầu tiên nếm mùi một cuộc chiến thật sự.
Không lực mở đường. Bom, tên lửa và súng cối nện ầm ầm từ ngày hôm trước, và khi chúng tôi hành quân qua cây cầu tiến vào thành phố, ấn tượng đầu tiên của tôi là sự yên tĩnh đến đáng kinh ngạc. Đơn vị tôi được giao nhiệm vụ là một vùng ngoại ô, nơi chúng tôi sẽ di chuyển từ căn nhà này sang căn nhà khác để quét sạch quân thù.
Khi chúng tôi di chuyển những hình ảnh vụt qua thật nhanh: một chiếc xe tải đang bùng cháy, cơ thể bất động của người tài xế bên cạnh; tòa nhà bị phá hủy một phần; đó đây là tàn tích của những chiếc xe hơi đang bốc cháy. Tiếng súng trường lác đác vang lên giữ cho chúng tôi tập trung. Khi chúng tôi đang tuần tra, thỉnh thoảng vẫn có vài dân thường chạy ra tay hướng thẳng lên trời, và chúng tôi cố hết sức để cứu những người bị thương.
Đầu giờ trưa, chúng tôi đã sẵn sàng quay về, nhưng chúng tôi lại bị tấn công bởi hỏa lực hạng nặng từ một tòa nhà trên phố. Núp sau một bức tường, tôi biết chúng tôi đang ở vào một vị thế hết sức bấp bênh. Hai người bọc phía sau khi tôi dẫn cả đội qua làn đạn bắn tỉa tới một nơi an toàn hơn ở phía đối diện; không ai bị bắn gục, đó gần như đã là cả một phép màu. Từ đây, chúng tôi nhấn chìm đối phương bằng hàng ngàn phát đạn, một cách hoàn toàn lãng phí. Khi tôi nghĩ đã an toàn, chúng tôi bắt đầu tiếp cận mục tiêu phía trên tòa nhà, di chuyển một cách hết sức thận trọng. Tôi dùng một trái lựu đạn để mở đường.
Tôi dẫn đầu toàn đội, thò đầu vào trước. Khói mù mịt, mùi lưu hùynh nồng nặc, không khí đượm vẻ chết chóc. Nội thất đã bị phá hủy hoàn toàn, nhưng ít nhất một binh lính Iraq vẫn còn sống sót, và ngay khi chúng tôi lại gần, anh ta bắt đầu xả súng từ dưới sàn. Tony bị dính một phát đạn ở tay, và tất cả những người còn lại đáp trả bằng hàng trăm viên đạn. Âm thanh đó quá lớn tới mức tôi không thể nghe thấy bản thân mình đang la hét, nhưng tôi dùng ngón tay ép chặt, nhắm mục tiêu khắp nơi từ sàn, lên tường rồi đến trần nhà. Những mảnh vụn của thạch cao, gạch và gỗ bay tứ tán. Cuối cùng chúng tôi cũng ngừng bắn, chắc rằng không ai còn có thể sống sót, nhưng tôi vẫn mở chốt một quả lựu đạn khác để phòng hờ và chúng tôi nhanh chóng rút ra ngoài trước vụ nổ.
Sau hai mươi phút căng thẳng nhất trong cuộc đời, đường phố vẫn thật yên ắng, ngoại trừ tiếng chuông cảnh báo đang vang lên trong tai tôi và âm thanh phát ra từ những đồng đội của tôi, họ đang nôn mửa hay chưởi rủa hoặc kể lại những trải nghiệm của mình. Tôi giữ rịt lấy tay Tony, và khi tôi nghĩ tất cả mọi người đều đã sẵn sàng, chúng tôi bắt đầu quay trở lại con đường chúng tôi vừa đi qua. Và rồi, chúng tôi cũng ra tới ga xe lửa, nơi chúng tôi được bảo đảm an toàn và tất cả chúng tôi đều đổ gục xuống. Đêm hôm ấy, chúng tôi nhận được bao thư đầu tiên sau gần sáu tuần. Trong thùng thư, có sáu là thư từ cha tôi nhưng chỉ có một lá từ Savannah, và trong ánh sáng lờ mờ, tôi bắt đầu đọc.
John thân yêu,
Em viết lá thư này trên chiếc bàn trong bếp, và em đang phải đấu tranh rất nhiều bởi em không biết phải nói những lời này thế nào nữa. Một phần em ước rằng anh đang ở đây với em để em có thể nói trực tiếp những lời này với anh, nhưng cả hai ta đều biết điều đó là không thể. Nên em ở đây, cố lục tìm những từ ngữ thích hợp, nước mắt lăn dài trên má và hy vọng rằng bằng cách nào đó anh sẽ tha thứ cho em bởi những điều em sắp nói.
Em biết thời gian này là một quãng thời gian vô cùng tồi tệ đối với anh. Em cố không nghĩ đến chiến tranh nhưng em không thể thoát ra khỏi những hình ảnh đó, và em thấy thật sợ hãi. Em xem tin tức rồi đọc báo, biết rằng anh đang ở trung tâm của tất cả chuyện này, cố nghĩ xem anh đang ở đâu và anh đang phải trải qua điều gì. Em cầu nguyện mỗi đêm để anh có thể trở về nhà an toàn, và em vẫn sẽ luôn như thế. Anh và em đã cùng trải qua những quãng thời gian tuyệt vời, và em không bao giờ mong anh quên đi điều đó. Em cũng không muốn anh tin rằng đối với em, anh không hề có chút ý nghĩa nào như em đối với anh. Anh là một chàng trai tuyệt vời hiếm có, John à. Em đã yêu anh, nhưng trên tất cả, gặp được anh khiến em nhận ra rằng tình yêu đích thực có ý nghĩa như thế nào. Trong hai năm rưỡi vừa qua, em đã luôn ngắm những mùa trăng tròn và những kỷ niệm chúng ta có với nhau. Em nhớ em đã nói với anh rằng cái đêm đầu tiên khiến em có cảm giác như trở về nhà, và em sẽ luôn ghi nhớ đêm chúng ta ở bên nhau. Em sẽ luôn cảm thấy hạnh phúc bởi chúng ta đã dâng tặng người kia chính bản thân mình. Đối với em, điều đó có nghĩa rằng linh hồn hai ta sẽ gắn kết với nhau mãi mãi.
Còn nhiều hơn thế. Khi em nhắm mắt lại, em sẽ nhìn thấy khuôn mặt của anh, khi em bước đi, em gần như có thể cảm thấy bàn tay anh trong tay em. Những thứ ấy với em vẫn hoàn toàn hiện hữu, nhưng nếu trước đây chúng mang tới cho em cảm giác thoải mái thì giờ đây chúng chỉ khiến em cảm thấy đau đớn. Em hiểu lý do tại sao anh gia hạn thời gian, và em cũng tôn trọng quyết định của anh. Và giờ em vẫn thế, nhưng cả hai ta đều biết mối quan hệ giữa chúng ta đã đổi thay sau đó. Chúng ta đã thay đổi và trong tim anh, em nghĩ anh cũng đã nhận ra điều đó. Có lẽ bởi vì thời gian chia cắt quá dài, cũng có thể bởi vì chúng ta sống trong hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Em không biết. Mỗi lần chúng ta cãi nhau, em lại rất giận bản thân mình vì điều đó. Dù sao thì dẫu chúng ta vẫn còn yêu nhau, chúng ta cũng đã đánh mất mối liên kết kỳ diệu đã từng gắn kết chúng ta lại với nhau.
Em biết điều đó nghe giống như là một cái cớ, nhưng làm ơn hãy tin em khi em nói ra điều này không có nghĩa là em đã có một ai khác. Nếu em không thực sự hiểu điều gì đã xảy ra, liệu anh có thể không? Em không mong anh hiểu nhưng vì tất cả những gì chúng ta đã cùng nhau trải qua, em không thể tiếp tục nói dối anh thêm nữa. Nói dối sẽ chỉ hạ thấp những gì chúng ta đã có mà thôi, và em chẳng muốn thế chút nào, thậm chí kể cả khi em biết rằng anh có cảm giác anh đang bị phản bội. Em sẽ hiểu nếu anh không bao giờ muốn nói chuyện với em nữa, cũng như em sẽ hiểu nếu anh hận em. Một phần trong em cũng đang hận mình vô cùng. Viết lá thư này buộc em phải nhận thức rằng khi em nhìn vào gương, em biết mình đang nhìn vào ai đó không chắc rằng cô ấy có xứng đáng được yêu không nữa. Ý em là vậy đấy.
Dù anh có thể không muốn nghe những lời này, nhưng em vẫn muốn anh biết rằng anh sẽ luôn là một phần của em. Trong thời gian chúng ta ở bên nhau, anh đã chiếm một vị trí đặc biệt trong trái tim em, và sẽ luôn luôn như vậy, không một ai có thể thay thế được. Anh là một anh hùng và cũng là một quý ông chân chính, anh thật tốt bụng và chân thành, nhưng trên tất cả anh là người con trai đầu tiên em thực sự yêu thương. Và dù có bất cứ điều gì xảy ra trong tương lai, anh cũng vẫn sẽ luôn là như vậy, và em biết cuộc đời em đã trở nên tốt đẹp hơn nhờ điều đó.
Em thật sự xin lỗi.
Savannah.
John Yêu Dấu John Yêu Dấu - Nicholas Sparks John Yêu Dấu