Books - the best antidote against the marsh-gas of boredom and vacuity.

George Steiner

 
 
 
 
 
Tác giả: Diana Wynne Jones
Thể loại: Phiêu Lưu
Biên tập: Linh Khánh
Upload bìa: Linh Khánh
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1947 / 48
Cập nhật: 2015-02-03 06:50:55 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 18:con Bù Nhìn Và Tiểu Thư Angorian Tái Xuất Hiện
ọ khai trương tiệm hoa vào ngày hôm sau. Như Howl đã nói, mọi việc không thể nào đơn giản hơn. Buổi sáng sớm, họ chỉ cần mở cánh cửa với nút vặn màu tím chĩa xuống, và ra ngoài đồng cỏ xanh để hái hoa. Dần dần việc ấy trở thành lệ. Sophie lấy cây gậy, kéo, chân vừa bước nhảy loi choi, miệng vừa nói chuyện với cây gậy, và dùng nó để dò tìm các vũng đất lầy và kéo những đóa hồng trên cao xuống. Michael đem theo một sáng chế mà cậu rất tự hào. Một cái thùng thiếc đựng nước, bay lơ lửng trong không khí theo chân Michael bất cứ khi nào cậu đi giữa bụi hoa. Người-chó cũng theo nữa. Y rất vui vẻ chạy giữa những con đường đất sũng ướt, đuổi bắt bướm, và gắng bắt cho được những con chim nhỏ xíu, cánh sặc sỡ đang đậu trên hoa. Trong khi y chạy nhảy khắp nơi, Sophie cắt đầy một vòng tay những cánh hoa diên vĩ dài, loa kèn, hoặc là những cây hoa màu cam có cánh chĩa ra tua tủa, hay cánh hoa dâm bụt xanh dương, và cái thùng thiếc của Michael chất đầy hoa lan, hồng, sao nhái, những bông có màu đỏ rực, hay bất cứ loại nào mà cậu thích. Tất cả đều thích khoảng thời gian này.
Rồi, trước khi ánh nắng trở nên gay gắt, họ mang hoa về tiệm và trưng bày trong mấy chai lọ, xô, bình sặc sỡ màu sắc mà Howl đã đào lên trong sân. Hai cái bình thật ra là đôi hia bảy dặm. Không gì, Sophie nghĩ khi cô đặt một bó hoa bách hợp vào, có thể cho thấy rõ hơn là Howl đã quên hẳn Lettie rồi. Anh không quan tâm nếu Sophie có dùng chúng hay không.
Howl gần như lúc nào cũng vắng mặt khi họ hái hoa. Và nút vặn cửa lúc nào cũng có màu đen chĩa xuống. Anh thường trở về muộn vào buổi sáng, vẻ mơ màng, trong bộ áo màu đen. Anh không bao giờ nói cho Sophie nghe bộ màu đen là bộ nào. “Tôi vẫn còn để tang bà Pentstemmon,” là tất cả mà anh tiết lộ. Và nếu Sophie hay Michael hỏi tại sao Howl lúc nào cũng biến mất vào khoảng đó, Howl lại nói vẻ bi thương, “Nếu muốn trò chuyện với một cô giáo, thì phải tóm được cô trước khi giờ học bắt đầu.” Rồi anh chui vào phòng tắm và ở lì bên trong đến hai giờ tiếp sau đó.
Trong khi Sophie và Michael mặc đồ thật đẹp và ra mở cửa tiệm. Howl nhất quyết bắt họ phải mặc trang phục thật đẹp. Anh nói như thế sẽ thu hút nhiều khách hơn. Sophie bảo rằng chỉ cần bận tạp dề. Và chỉ sau vài ngày đầu, khi mọi người ở Market Chipping chỉ nhìn vào cửa kính mà ngập ngừng không vào tiệm, cửa tiệm đã trở nên rất nổi tiếng. Tiếng đồn lan xa là tiệm Jenkin có hoa đẹp chưa từng thấy ở đâu hết. Những người Sophie đã biết cả đời đến và mua hàng đống hoa. Không ai nhận ra cô, và điều đó làm cô thấy rất kỳ lạ. Họ đều nghĩ cô là mẹ của Howl. Nhưng Sophie đã chán chê việc làm mẹ Howl rồi. “Tôi là cô của cậu ta,” cô nói với bà Cesari. Cô được biết đến dưới tên Bà Cô Jenkins.
Bằng vào thời gian Howl đến tiệm, trong cái tạp dề đen cho hợp với bộ quần áo, anh thường thấy nó đã bận rộn. Anh vẫn làm nó bận rộn hơn. Đây là lúc Sophie bắt đầu chắc chắn rằng bộ áo đen thật ra là bộ xám đỏ bị phù phép. Bất cứ người phụ nữ nào Howl phục vụ đều chắc chắn phải đi ra với ít nhất hai lần lượng hoa mà cô muốn mua. Hầu hết thời gian Howl quyến dụ họ mua gấp mười lần. Không lâu sau, Sophie để ý thấy các cô gái chỉ nhìn vô và quyết định không vào cửa tiệm khi thấy Howl có mặt ở đó. Cô không trách họ. Nếu bạn chỉ cần một hoa hồng cài áo, không ai muốn bị ép phải mua ba chục đóa hoa lan nữa cả. Vì thế, cô không phản đối khi Howl ở lì trong nhà kho ngoài sân nhiều giờ.
“Trước khi bà hỏi, tôi đang lập lớp phòng thủ chống lại bà phù thủy,” anh nói. “Sau khi xong rồi, bà ta sẽ chẳng có cách nào vào đây được.”
Thỉnh thoảng có những bông hoa còn sót lại không ai mua. Sophie không thích nhìn thấy chúng héo tàn qua đêm. Cô phát hiện mình có thể giữ chúng tươi lâu hơn nếu nói chuyện với chúng. Sau đó, cô nói chuyện với hoa rất nhiều. Cô bảo Michael làm cho cô một cái thần chú nuôi dưỡng hoa, và cô làm thí nghiệm với mấy cái chậu trong bồn nước, và trong thùng thiếc ở cái xó xỉnh nơi cô thường cắt nón. Cô nhận ra mình có thể kéo dài tuổi thọ của hoa qua nhiều ngày. Dĩ nhiên cô càng thí nghiệm nhiều thêm nữa. Cô lấy một đống bồ hóng ra ngoài sân và trồng cây cỏ vào đó, miệng chóp chép bận rộn. Cô trồng được một hoa hồng màu xanh nước biển, và điều đó làm cô vui sướng. Nụ hoa đen như than, và đóa hoa nở ra xanh biêng biếc và ngày càng xanh hơn cho đến khi gần bằng màu xanh của Calcifer. Sophie vui đến nỗi cô lấy các rễ cây từ trong tất cả cái bao treo trên xà nhà và thí nghiệm chúng. Cô tự bảo mình chưa bao giờ hạnh phúc thế này trong đời.
Điều này không đúng. Có cái gì đó không ổn, và Sophie không thể hiểu được là gì. Đôi khi cô nghĩ đó là cách mà không ai ở Market Chipping nhận ra cô. Cô không dám đi thăm Martha, e rằng Martha sẽ không nhận ra mình. Cô không dám đổ hoa ra khỏi đôi hia bảy dặm và đi thăm Lettie với cùng lý do đó. Cô chỉ không thể chịu nổi ý nghĩ hai người em sẽ nhìn thấy cô trong bộ dạng một bà già.
Michael lúc nào cũng cầm một bó hoa tươi đi thăm Martha. Đôi khi Sophie nghĩ đó là lý do mà cô buồn bực. Michael lúc nào cũng vui vẻ hạnh phúc, và cô thường bị bỏ rơi một mình trong tiệm. Nhưng dường như cũng không phải thế. Sophie thích được bán hoa một mình.
Đôi khi vấn đề dường như nằm ở Calcifer. Calcifer đang rất buồn chán. Cậu ta không có việc gì làm trừ việc giữ tòa lâu đài lướt đi trên bãi cỏ, tránh bước vào những cái hồ, suối, và bảo đảm họ đến một nơi mới, có nhiều hoa mới, mỗi buổi sáng. Khuôn mặt xanh của cậu ta lúc nào cũng hăng hái tựa ra ngoài lò sưởi mỗi khi Sophie và Michael bước vào với nhiều hoa. “Tôi muốn nhìn thấy cảnh bên ngoài,” cậu ta nói. Sophie mang những cánh lá khô thơm tho đến cho cậu đốt, làm tòa lâu đài thơm như là phòng tắm, nhưng Calcifer nói cái cậu thật sự cần là người trò chuyện. Bọn họ lúc nào cũng trông tiệm và để cậu một mình.
Vì thế Sophie bắt Michael trông tiệm một mình ít nhất một giờ buổi sáng để cô ngồi tiếp chuyện với Calcifer. Cô sáng chế ra các trò chơi đánh đố để giữ Calcifer bận rộn khi cô có việc. Nhưng Calcifer vẫn chưa hài lòng. “Chừng nào bà mới hủy hợp đồng của tôi với Howl?” hỏa yêu càng ngày càng hỏi câu này nhiều hơn.
Và Sophie cắt ngang lời Calcifer, “Tôi đang làm mà,” cô nói. “Không còn lâu nữa đâu.” Điều này không đúng lắm. Sophie đã lâu không nghĩ đến việc này trừ khi bị bắt buộc. Cô ráp lại mọi việc mà bà Pentstemmon đã bảo với mọi chuyện mà Howl và Calcifer kể, và phát hiện ra cô có những ý tưởng khủng khiếp và ghê gớm về hợp đồng. Cô chắc chắn hủy bỏ nó sẽ là kết thúc của cả Howl và Calcifer. Howl có thể xứng đáng thế, nhưng Calcifer thì không. Và vì Howl dường như đang cố gắng hết sức để luồn lách khỏi lời nguyền của bà phù thủy, Sophie không muốn làm gì hết trừ khi có thể giúp được.
Thỉnh thoảng Sophie nghĩ đơn giản là người-chó đã làm cô khó chịu. Y là một con vật hiền lành ngoan ngoãn. Những lần duy nhất y có vẻ thích thú chơi đùa là khi y chạy giữa con đường xanh giữa bụi cây mỗi buổi sáng. Rồi cả ngày cậu ta chỉ ủ rủ lết sau Sophie và thở dài. Vì Sophie không thể làm gì cho y hết, cô thấy vui hơn khi thời tiết gần ngày Hạ Chí càng trở nên nóng hơn và người-chó thích ra ngoài sân nằm dưới bóng cây mát, lưỡi le ra thở hồng hộc.
Trong khi đó những cái gốc rễ khô Sophie đã trồng giờ trở nên thú vị. Củ hành trở thành một cây cọ và đang đâm ra những củ nhỏ có mùi giống mùi hành. Một rễ cây khác đang hóa thành một cây hoa hướng dương màu hồng. Chỉ có một cái rất chậm lớn. Cuối cùng nó cũng trổ ra hai cánh lá xanh tròn, Sophie càng nóng lòng muốn xem nó trở thành cây gì. Ngày kế tiếp trông nó có thể là cây hoa lan. Lá nhọn điểm màu hoa cà và một nhánh dài trổ ra ở chính giữa với cái nụ thật là lớn ở trên. Ngày hôm sau, Sophie bỏ các cành hoa tươi trong thùng thiếc và chạy thật nhanh đến hốc tường để xem cây hoa thế nào.
Nụ hoa đã nở thành cánh hoa màu hồng, nó trông như đóa hoa lan vừa bị xé tơi tả. Cánh dẹp, và túm vào cành bên dưới chỉ dưới cuống tròn. Có bốn cánh hoa bung ra từ phần giữa màu hồng, hai cánh chĩa xuống dưới và hai cánh chĩa lên trên.Trong khi Sophie ngó chằm chằm, mùi hoa xuân mạnh mẽ đến gần báo cho cô biết là Howl đã về và đang đứng cạnh cô.
“Đây là cái gì?” anh nói. “Nếu bà muốn một màu tím thật tím hay là màu cực đỏ, bà đã làm sai rồi, Bà Khoa Học Điên ạ.”
“Em thấy nó giống hoa bí hơn,” Michael nói, đến gần xem.
Đúng như thế. Howl ngó Michael cảnh giác và cầm lấy hoa trong chậu lên. Anh đổ hoa ra khỏi chậu trong lòng bàn tay, và cẩn thận tách ra nhánh cây trắng dài, đất, bồ hóng, và phần còn lại của thần chú phân bón, cho đến khi anh khám phá ra cái rễ màu xám, chĩa đôi mà Sophie đã trồng. “Tôi đoán trúng mà,” anh phán. “Rễ ớt mã. Sophie lại ra tay nữa. Bà đúng là mát tay, phải không, Sophie?” Anh đặt cây trở lại, đưa cho Sophie và đi khỏi, mặt hơi tái.
Vậy là gần hết lời chú đã thành sự thật rồi, Sophie nghĩ khi vừa đặt hoa tươi ở cánh cửa kiếng của tiệm. Rễ cây ớt mã đã sinh hoa kết trái. Vậy là chỉ còn một điều cuối cùng: ngọn gió mang một trái tim thành thật. Nếu đó có nghĩa là Howl phải thành thật, Sophie nghĩ, vậy là có cơ hội lời nguyền sẽ chẳng bao giờ thành sự thật. Cô tự bảo mình Howl đáng đời lắm, vì dám đi theo đuổi cô Angorian mỗi buổi sáng trong bộ quần áo bị phù phép, nhưng cô vẫn thấy hối hận. Cô đặt một đống hoa huệ vào trong đôi hài bảy dặm. Cô phải trèo lên cửa sổ để trưng bày nó, và cô nghe tiếng clump, clump, clump quen thuộc ngoài đường. Đó không phải là tiếng của con ngựa. Mà là tiếng của cây đập lên đá lót đường.
Tim Sophie cảm giác thình thịch kỳ lạ ngay trước khi cô dám nhìn ra ngoài cửa sổ. Ở đó, cô biết ngay, là một con bù nhìn, nhảy chầm chậm và chắc chắn xuống giữa đường. Những mảnh giẻ rách bay phất phới trên cánh tay giang ra càng ít hơn và đen hơn, và khuôn mặt củ cải quắt lại kiên định, như là nó đã nhảy từ khi Howl đuổi nó đi, cho đến khi cuối cùng nó đã tìm được đường về.
Sophie không phải là người duy nhất sợ hãi. Vài người dậy sớm đang chạy thật nhanh khỏi con bù nhìn. Nhưng bù nhìn chẳng chú ý gì đến họ và tiếp tục nhảy.
Sophie giấu mặt đi. “Chúng ta không có ở đây!” cô nói thầm thì dứt khoát. “Ngươi không biết ta ở đây! Ngươi không tìm thấy chúng ta. Nhảy đi chỗ khác nhanh!”
Tiếng clump, clump của thanh gỗ chậm dần khi con bù nhìn tới gần tiệm. Sophie muốn hét lên kêu Howl, nhưng tất cả những gì cô có thể làm là lập đi lập lại, “Chúng ta không có ở đây. Đi mau đi!”
Và tiếng nhảy cồm cộp nhanh lên, như cô đã nói với nó, và con bù nhìn nhảy qua cửa tiệm và tiếp tục lên đường qua Market Chipping. Sophie nghĩ là mình sẽ ngất đi mất. Nhưng cô dường như chỉ nín thở. Cô hít một hơi thật sâu và thấy mình còn run rẩy. Nếu con bù nhìn trở lại, cô có thể đuổi nó lần nữa.
Howl đã đi ra ngoài khi Sophie quay trở vào phòng lâu đài. “Anh ấy có vẻ buồn bã dữ lắm,” Michael nói. Sophie nhìn ra cánh cửa. Nút vặn màu đen chĩa xuống. Không có buồn đến nỗi! cô nghĩ.
Michael cũng ra ngoài, đến Cesari’s, buổi sáng đó, và Sophie ở một mình trong tiệm. Thời tiết rất là nóng. Những đóa hoa héo tàn tuy có các lời nguyền, và chỉ vài người muốn mua hoa. Những chuyện như thế, và cái rễ ớt mã, con bù nhìn, tất cả xúc cảm của Sophie dồn lại thành một đống. Cô hoàn tòan khốn khổ.
“Có lẽ là cái lời nguyền đó cứ lơ lửng muốn bắt được Howl,” cô nói với những đóa hoa, “nhưng tôi nghĩ đó là tại vì là con cả. Nhìn tôi nè! Tôi đi ra ngoài kiếm vận may và cuối cùng cũng trở về nơi mình bắt đầu, và vẫn già cỗi như thế!”
Đến đây thì người-chó đặt cái mũi tròn đỏ của mình lên cánh cửa thông đến sân và rên lên một tiếng. Sophie thở dài. Không có một giờ trôi qua mà con thú đó không kiểm tra cô. “Vâng, tôi vẫn còn ở đây,” cô nói. “Ngươi tưởng ta ở đâu chứ?”
Con chó bước vào trong tiệm. Y ngồi dậy và vươn món ra thẳng cứng trước mặt. Sophie nhận ra y đang cố biến thành hình người. Con vật tội nghiệp. Cô đã cố đối xử tốt với y bởi vì y, nói cho cùng, còn tệ hại hơn là cô nữa.
“Cố hơn nữa đi,” cô nói. “Cố ưỡn cái lưng ra. Cậu có thể làm người nếu cậu muốn.”
Con chó vươn mình, và ưỡn lưng ra, kéo và kéo. Và cũng như Sophie chắc là y sẽ thất bại hay là bị té ra sau, y đã đặt được chân sau lên và nâng lên thành một người đàn ông tóc đỏ hoe, khuôn mặt phiền muộn.
“Tôi ghen tỵ – Howl,” y thở hồng hộc. “Làm chuyện đó – thật dễ dàng. Tôi là – con chó trong bụi cây – bà giúp tôi. Nói với Lettie – tôi biết bà – tôi đã quan sát. Tôi đã – ở đây trước kia khi…” Anh ta bắt đầu uốn người lại thành chó và tru lên bất mãn. “Với bà phù thủy trong tiệm!” tiếng nói trở thành tiếng hú, và ngã người xuống hai tay, thân trổ ra thật nhiều lông xám và trắng.
Sophie nhìn con chó to lớn râu ria đứng trước mặt. “Ngươi đã ở đó với bà phù thủy!” cô nói. Cô nhớ lại rồi. Người đàn ông tóc hung đỏ đã nhìn cô kinh hoảng. “Vậy ngươi biết ta là ai và biết ta đã bị phù phép. Vậy là Lettie biết luôn phải không?”
Con chó to lớn đầy lông gật đầu.
“Bà ta gọi ngươi là Gaston,” Sophie nhớ lại. “Ồ, bạn ơi, bà ta thật đã làm khó ngươi! Cái đám lông lá đó trong thời tiết này! Tốt nhất là nên đi chỗ nào mát đi.”
Con chó gật đầu lần nữa và cúp đuôi đau khổ chạy vào trong vườn.
“Nhưng tại sao Lettie lại bảo ngươi tới?” Sophie thắc mắc. Cô cảm thấy rất khó chịu và bực bội về sự khám phá này. Cô lên lầu và qua nhà kho để nói chuyện với Calcifer.
Calcifer cũng chẳng giúp được gì. “Bao nhiêu người biết cô bị phù phép thì có khác gì đâu,” cậu ta nói. “Cứ coi con chó đó là biết, đúng không?”
“Đúng, nhưng mà…” Sophie bắt đầu, nhưng, khi ấy, cửa lâu đài kẹt và mở ra. Sophie và Calcifer cùng ngoái nhìn. Họ thấy nút vặn cửa vẫn có màu đen xuống, và họ đoán là Howl sẽ bước qua cửa ấy. Thật khó mà nói ai trong họ kinh ngạc hơn khi người bước qua cửa một cách cẩn thận là cô Angorian.
Angorian cũng kinh ngạc không kém. “Ồ, tôi thành thật xin lỗi!” cô nói. “Tôi tưởng anh Jenkins sẽ ở đây.”
“Anh ta đi rồi,” Sophie lạnh lùng đáp, và thắc mắc không biết Howl đi đâu, nếu không phải là đi thăm cô Angorian.
Angorian buông tay khỏi cửa, mà cô đã níu chặt lấy trong cơn kinh ngạc. Cô để nó mở nó toang ra và bước từng bước khẩn cầu đến phía Sophie. Sophie thấy mình đã đứng dậy và bước ngang qua phòng. Dường như là cô đang chặn đường Angorian lại. “Xin làm ơn,” cô Angorian nói, “đừng nói với anh Jenkins tôi đang ở đây. Tôi xin nói thật, tôi chỉ khuyến khích anh ấy để tìm kiếm tin tức về hôn phu của tôi – anh Ben Sullivan. Tôi chắc chắn Ben đã mất tích vào chỗ mà anh Jenkins hay biến mất. Chỉ là Ben đã không trở về.”
“Không có ai là Sullivan ở đây,” Sophie đáp. Cô thầm nghĩ, Đó là tên của Pháp sư Suliman! Ta không tin một lời nào đâu!
“Ồ, tôi biết thế,” Angorian tiếp. “Nhưng có lẽ chỗ này là đúng nơi rồi. Tôi có thể nhìn quanh một chút để biết anh Ben đã làm gì ở đây không?” Cô vén một lọn tóc đen sau tai và bắt đầu tiến sâu vào phòng. Sophie lập tức chặn lại. Điều này ép Angorian nhón chân bước ngang đến bàn làm việc. “Thật là đơn sơ!” cô nói, nhìn vào đống chai lọ. “Một thị trấn đơn sơ!” cô tiếp, nhìn ra ngoài cửa sổ.
“Đó là Market Chipping,” Sophie đáp, và cô cũng chuyển qua ngáng đường và đẩy Angorian lùi lại cửa.
“Và trên lầu kia là cái gì?” cô Angorian hỏi, chỉ cánh cửa mở lên trên lầu.
“Phòng riêng của Howl,” Sophie nói chắc chắn, tiếp tục đẩy Angorian lùi lại.
“Còn cái gì bên cánh cửa kia?” Angorian hỏi.
“Một tiệm hoa,” Sophie đáp. Đồ tò mò! cô nghĩ.
Lúc này thì Angorian bị ép hoặc là phải đụng vào ghế hay phải lùi ra ngoài cửa. Cô nhìn chăm chăm vào Calcifer nhíu mày như thể cô không chắc là mình đang nhìn thấy gì, và Calcifer đơn giản chỉ ngó mà không nói gì cả. Điều này làm Sophie thấy tốt hơn về việc mình không thân thiện lắm. Chỉ có người thật sự hiểu Calcifer mới được mời vào nhà của Howl.
Nhưng bây giờ Angorian đã lượn quanh cái ghế và nhìn thấy cây đàn guitar của Howl đang dựa vào trong góc tường. Cô chộp lấy nó, hơi thở trở nên gấp gáp và quay lại, ôm chặt vào ngực. “Làm sao bà có cây đàn này?” cô hỏi, giọng run run xúc động. “Ben có cây đàn y như thế này! Nó có thể là của Ben!”
“Tôi nghe nói Howl đã mua nó vào mùa đông năm ngoái,” Sophie đáp. Và cô lại tiến đến phía trước, cố dồn Angorian ra khỏi góc tường và qua cánh cửa.
“Có chuyện gì đã xảy ra với Ben rồi!” Angorian đau khổ. “Anh ấy không bao giờ lìa khỏi cây đàn guitar này! Anh ở đâu? Tôi biết anh ấy không thể chết. Trong thâm tâm tôi sẽ biết nếu anh có chuyện!”
Sophie không biết có nên nói với Angorian là mụ phù thuỷ đã bắt Pháp sư Suliman rồi không. Cô nhìn quanh để xem cái sọ người ở đâu. Cô định vẫy nó trước mặt cô Angorian và nói đó là sọ của Pháp sư Suliman. Nhưng cái sọ đang ở trong bồn nước, giấu mình trong đống cây dương xỉ và hoa huệ, và cô biết là nếu mình đi về phía đó, Angorian sẽ lẻn qua vào trong phòng nữa. Ngoài ra, đó cũng thật tàn nhẫn.
“Tôi có thể giữ cây đàn này không?” cô Angorian hỏi giọng khàn khàn, tay ghì chặt lấy nó. “Để giữ kỷ niệm về anh Ben.”
Giọng nghẹn ngào của cô Angorian làm Sophie bực bội. “Không,” cô nói. “Không việc gì phải căng thẳng đến thế. Cô đâu có chứng cớ gì cây đàn này của anh ta.” Cô lạch bạch đến gần Angorian và chộp lấy cổ cây đàn guitar. Angorian mở to cặp mắt đau khổ lên chăm chăm nhìn cô. Sophie kéo tay. Cô Angorian cố giữ. Cây đàn guitar bật lên một âm thanh chói tai. Sophie giật mạnh nó ra khỏi tay của Angorian. “Đừng có ngốc nghếch,” cô nói. “Cô không có quyền bước vào lâu đài và lấy đi đàn của người ta. Tôi đã nói là ông Sullivan gì đó không có ở đây. Bây giờ thì quay trở lại Wales đi. Đi đi.” Cô dùng cây đàn guitar đẩy cô Angorian lùi lại cánh cửa đang mở toang.
Angorian trở lại hư không cho đến khi nửa người đã biến mất. “Bà khó tính quá,” cô quở.
“Đúng đó!” Sophie trả lời và sập cửa lại. Cô quay nút màu cam xuống để ngăn cô Angorian quay trở lại và thẩy cây đàn guitar trở lại góc phòng gây nên tiếng kêu vang. “Và đừng có nói cho Howl biết cô ta ở đây đó!” cô hét lớn với Calcifer. “Tôi cá cô ả đến để thăm Howl. Mấy lời kia chỉ là nói dối. Pháp sư Suliman đã sinh sống ở đây, mấy năm trước rồi. Anh ta có lẽ đến đây để tránh cái giọng thổn thức đáng ghét của ả!”
Calcifer khúc khích. “Tôi chưa từng thấy ai bị đuổi nhanh như thế!” hỏa yêu nói.
Điều này làm Sophie cảm thấy vừa tàn nhẫn vừa hối hận. Nói cho cùng thì cô cũng đã xông vào lâu đài bằng cách như thế, và cô còn nhiều chuyện gấp đôi Angorian. “Gah!” cô nói. Cô bước ào vào trong phòng tắm và ngó chăm chăm khuôn mặt nhăn nheo già nua của mình trong gương. Cô nhặt lên một cái túi đề DA, rồi lại thảy nó xuống. Ngay cả lúc còn trẻ, cô không nghĩ khuôn mặt mình có thể so sánh với mặt của cô Angorian. “Gah!” cô nói. “Doh!” Cô lại ì ạch nhanh chóng trở ra, tay chộp lấy mấy đóa dương xỉ và hoa huệ trong bồn rửa chén. Cô mang chúng, vẫn còn sũng nước, ra ngoài tiệm, và dúi chúng vào cái chậu chứa đầy thần chú nuôi dưỡng. “Biến thành hoa thủy tiên!” giọng cô giận dữ, khàn khàn. “Biến thành hoa thủy tiên vào tháng Sáu, bọn yêu quái!”
Người-chó đặt khuôn mặt lông lá lên cửa. Vừa nhìn thấy tâm trạng của Sophie, y lùi trở ra ngay lập tức. Michael vui vẻ bước vào với một cái bánh nướng thật lớn trên tay, Sophie liếc nhìn cậu một cách khủng khiếp đến nỗi cậu tức khắc nhớ đến câu thần chú Howl đã kêu cậu làm và biến thật nhanh vào nhà kho.
“Gah!” Sophie gầm gừ đằng sau lưng cậu. Cô lại cúi người xuống chậu. “Hoa thủy tiên! Hoa thủy tiên!” cô hét. Cô không cảm thấy thoải mái hơn chút nào dù biết rằng mình đang cư xử cực kỳ ngốc nghếch.
Howl's Moving Castle Howl's Moving Castle - Diana Wynne Jones Howl