Books - the best antidote against the marsh-gas of boredom and vacuity.

George Steiner

 
 
 
 
 
Tác giả: Diana Wynne Jones
Thể loại: Phiêu Lưu
Biên tập: Linh Khánh
Upload bìa: Linh Khánh
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1947 / 48
Cập nhật: 2015-02-03 06:50:55 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 14: Vị Pháp Sư Hoàng Gia Lâm Bệnh
ophie trở về cổng Kingsbury của lâu đài trong cỗ xe ngựa hoàng gia, do bốn con ngựa kéo. Trên đó còn có một người đánh xe, một người giữ ngựa, và một người hầu cận. Một vệ binh và sáu kỵ binh hoàng gia theo sau để bảo vệ. Nguyên nhân là công chúa Valeria. Cô bé trèo vào ngồi trên đùi Sophie. Khi chiếc xe ngựa cồng cộc chạy xuống đồi, váy Sophie vẫn còn phủ đầy vết ướt nhẹp của Valeria. Sophie mỉm cười một chút. Cô nghĩ Martha có thể đã đúng, muốn sinh con đẻ cái, mặc dù có mười Valeria quả là hơi nhiều. Khi Valeria đang bò trong lòng cô, Sophie nhớ về tin đồn bà phù thủy đã đe dọa tiểu công chúa, và cô nói với bé, “Mụ phù thủy sẽ không đụng được tới cháu. Bà sẽ không cho phép!”
Đức Vua chẳng nói gì cả khi nghe những lời này, nhưng ngài truyền cỗ xe hoàng gia cho cô.
Cỗ xe dừng lại ồn ào huyên náo bên ngoài cái chuồng ngựa cải trang, Michael nhảy ra cửa, và chạy sầm vào người hầu cận đang giúp cô bước xuống. “Bà đã đi đâu vậy?” cậu nói. “Cháu lo lắng hết sức! Và anh Howl đang rất buồn bực…”
“Tôi biết ngay mà,” Sophie thấu hiểu.
“Bởi vì Pentstemmon phu nhân đã qua đời,” Michael tiếp.
Howl cũng ra ngoài cửa. Trông anh rất xanh xao và buồn bã. Anh đang cầm một cuộn giấy và dấu ấn xanh đỏ của hoàng gia đang đung đưa, mà Sophie nhìn với vẻ hối lỗi. Howl đưa cho người trưởng đòan một đồng vàng và không nói một lời đến khi nhóm người đi khỏi. Rồi anh nói, “Tôi đồ rằng bốn con ngựa và mười người hộ tống chỉ để tống khứ một bà già đi. Bà đã làm gì Đức Vua vậy?”
Sophie theo sau Howl và Michael vào nhà, tưởng sẽ nhìn thấy căn phòng đầy nhớt xanh. Nhưng không có, Calcifer đang bừng cháy sáng rỡ lên trên ống khói, cái miệng tím nhăn răng cười toe toét. Sophie ngã mình trên cái ghế. “Tôi cho là Nhà Vua đã phát bực với tôi cứ tìm gặp ổng và nói xấu cậu hoài. Tôi đã đi hai lần,” cô nói. “Mọi thứ đều có chuyện trục trặc hết. Và tôi đã gặp bà Phù thủy đang đi khi vừa giết chết Pentstemmon phu nhân. Một ngày dễ sợ!”
Trong Sophie kể lại mọi việc thì Howl dựa vào lò sưởi, tay đu đưa cái cuộn như là muốn quẳng cho Calcifer ăn. “Coi chừng vị Pháp sư Hoàng gia mới,” anh nói. “Tên ta rất là đen.” Và anh phá lên cười, mặc cho Sophie và Michael nhìn nhau ngơ ngác. “Và bà đã làm gì với Công tước Catterack nữa?” anh sặc sụa. “Tôi không nên để bà đến gần Đức Vua!”
“Tôi đã bôi đen tên cậu mà!” Sophie phản đối.
“Tôi biết. Đó là tính toán sai lầm của tôi,” Howl đáp. “Oy, làm sao để đi dự đám tang bà Pentstemmon mà không gây sự chú ý của bà phù thủy đây? Có ý kiến gì không, Calcifer?”
Rõ ràng là Howl buồn bã về cái chết của bà Pentstemmon hơn bất cứ cái gì hết.
Michael là người lo lắng về bà phù thủy. Cậu thú nhận sáng hôm sau là cậu đã có ác mộng cả đêm. Cậu đã mơ bà ta tấn công tòa lâu đài qua tất cả cánh cửa cùng một lúc. “Anh Howl đâu?” cậu băn khoăn hỏi.
Howl đã rời khỏi từ sáng sớm, căn phòng tắm sực nức hương thơm như thường lệ. Anh đã không cầm theo cây guitar, và nút vặn cửa chỉ màu xanh lục xuống. Ngay cả Calcifer còn biết chuyện hơn. “Đừng mở cửa cho bất cứ ai,” Calcifer nói. “Mụ phù thủy biết tất cả cánh cổng trừ cái ở Porthaven.”
Câu nói làm Michael cảnh giác đến mức cậu lượm vài thanh củi ở ngoài sân và gác nó lên cửa. Rồi cậu làm việc với câu thần chú lấy lại từ cô Angorian.
Nửa giờ sau, nút vặn cửa bị quay xuống chỉa thành màu đen. Cánh cửa bắt đầu nảy bật lên. Michael nắm chặt tay Sophie. “Đừng có sợ,” cậu run run thốt. “Cháu sẽ bảo vệ bà.”
Cánh cửa nảy lên mạnh mẽ một hồi lâu. Rồi nó ngừng lại. Michael chỉ vừa thả Sophie ra tưởng xong thì một tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên. Các thanh gỗ văng ra xa trên mặt đất. Calcifer thụp sâu xuống bếp và Michael nhảy bổ vào kho chứa đồ, bỏ lại Sophie đứng chơ vơ ở đó khi cánh cửa bật mở ra và Howl nhảy vào.
“Thật là quá đáng đó, Sophie!” anh kêu lên. “Tôi cũng sống ở đây.” Mình anh ướt mẹp. Bộ áo xám đỏ trở thành đen nâu. Nước nhỏ lộp độp từ mái tóc và tay áo.
Sophie nhìn cánh cửa, vẫn còn quay xuống màu đen. Là cô Angorian, cô nghĩ. Và anh đã đến thăm cô ta trong bộ áo bị phù phép. “Cậu vừa ở đâu đó?” cô nói.
Howl hắt xì. “Đứng trong mưa. Không phải chuyện của bà,” giọng anh khàn khàn. “Mấy thanh gỗ kia để làm gì vậy?”
“Em làm đó,” Michael nói, lách ra khỏi kho chứa đồ. “Mụ phù thủy…”
“Chắc cậu nghĩ tôi không biết tôi đang làm gì sao,” Howl khó chịu đáp. “Tôi đặt nhiều bùa dẫn đường sai đến mức nhiều người hoàn toàn không tìm được chúng ta nữa. Tôi cho bà phù thủy ba ngày. Calcifer, tôi cần trà nóng.”
Calcifer vừa mới trèo lên mấy khúc củi, nhưng khi Howl lại gần lò sưởi, cậu ta lại thụp xuống. “Đừng có đến gần tôi như thế! Người cậu ướt nhẹp!” hỏa yêu hét.
“Sophie,” Howl năn nỉ.
Sophie khoanh tay không khoan nhượng. “Còn Lettie thì sao?” cô nói.
“Tôi bị ướt như chuột lột,” Howl đáp. “Tôi nên có tách trà nóng.”
“Và tôi nói, Còn Lettie Hatter thì sao?” Sophie trả lời.
“Không thèm bà nữa!” Howl kêu. Anh lắc mình. Nước từ người anh rớt xuống sàn xung quanh thành một vòng tròn. Howl bước ra khỏi nó với mái tóc đã khô ráo và bộ quần áo trở lại màu xám đỏ, không một chút ẩm ướt, và đi lấy cái chảo. “Thế giới đầy những phụ nữ nhẫn tâm, Michael,” anh nói. “Anh có thể nêu tên ba người mà không cần phải nghĩ ngợi.”
“Một trong số đó là cô Angorian chứ?” Sophie hỏi.
Howl không trả lời. Anh lờ Sophie hết cả buổi sáng còn lại trong lúc bàn chuyện dời tòa lâu đài với Michael và Calcifer. Howl sẽ thật sự bỏ trốn, y như cô đã cảnh cáo với Đức Vua, Sophie nghĩ lúc ngồi khâu các mảnh vải hình tam giác của bộ áo màu xanh bạc. Cô biết mình phải cởi bỏ bộ xám đỏ khỏi Howl càng sớm càng tốt.
“Tôi không nghĩ ta cần phải chuyển cổng Porthaven đi,” Howl nói. Anh làm phép hiện một cái khăn tay từ không khí và hỉ mũi thật mạnh làm Calcifer phải nhấp nhỏm bất ổn. “Nhưng tôi muốn tòa lâu đài càng xa những nơi khác mà nó từng qua càng tốt, và cổng Kingsbury phải đóng thôi.”
Vừa lúc đó có tiếng gõ cửa. Sophie để ý thấy Howl nhảy dựng lên và nhìn quanh ngại ngùng y như Michael. Không ai trong bọn họ trả lời. Chết nhát! Sophie khinh bỉ nghĩ. Cô không biết tại sao mình lại chịu những việc rắc rối cho Howl ngày hôm qua làm gì. “Mình đã điên thật rồi!” cô thì thầm với bộ áo xanh bạc.
“Còn cánh cổng đen thì sao?” Michael hỏi khi người gõ cửa dường như đã bỏ đi.
“Cái đó giữ,” Howl đáp, và phẫy tay lấy một cái khăn tay khác từ không khí.
Tất nhiên, Sophie nghĩ. Cô Angorian ở ngoài đó mà. Tội nghiệp Lettie!
Đến khoảng giữa buổi sáng, thì Howl phải lấy hai ba cái khăn tay một lượt. Sophie thấy chúng chỉ còn là mấy mảnh giấy vuông vuông. Anh hắt xì liên tục. Giọng khàn đi. Không lâu sau anh phải lấy một lúc cả sáu cái. Khăn xài rồi xếp đầy xung quanh Calcifer thành một đống.
“Ô, tại sao cứ mỗi lần đến Wales là tôi lại bị cảm!” Howl rên rỉ và phẩy tay lấy ra một nhúm khăn giấy.
Sophie khịt mũi.
“Bà nói gì đó?” Howl khò khè.
“Không, tôi đang nghĩ mấy người hay chạy trốn thì đáng bị cảm lạnh lắm,” Sophie đáp. “Mấy người được Đức Vua chỉ định làm việc mà lại đi tán gái ở dưới mưa thì còn than trách ai nữa.”
“Bà không biết mọi chuyện mà tôi làm, bà Đạo Đức ạ,” Howl trả lời. “Muốn tôi viết danh sách mỗi khi tôi ra ngoài hay không? Tôi đã đi tìm Hoàng tử Justin rồi. Tán gái đâu phải là điều duy nhất tôi làm khi đi ra ngoài đâu.”
“Cậu tìm hồi nào?” Sophie hỏi.
“Ồ, xem đôi tai ve vẩy và cái mũi dài xoay kìa!” Howl khò khè tiếp. “Tôi tìm khi ông ta vừa biến mất, dĩ nhiên. Tôi tò mò muốn biết tại sao Justin lại đi đến chỗ này, khi mọi người đều biết Suliman đã đi đến vùng Hoang Phế. Tôi nghĩ có người đã bán thần chú tìm kiếm giả mạo cho ông ta, bởi vì ông ấy đi thẳng đến Folding Valley và mua cái nữa từ bà Fairfax. Điều đó lại dẫn ông trở về hướng này, tất nhiên, nơi ông dừng lại ở lâu đài và Michael lại bán một cái thần chú tìm kiếm, và hóa trang…”
Tay Michael chụp lên miệng. “Vậy cái anh bận quân phục màu xanh đó là Hoàng tử Justin hả?”
“Đúng, nhưng anh đã không nhắc chuyện đó trước kia,” Howl đáp, “bởi vì Đức Vua có thể nói sao cậu không bán cho ông ta một cái bùa giả nữa. Tôi có lương tâm đấy. Lương tâm. Chú ý từ đó, bà Mũi Dài. Tôi có lương tâm.” Howl lại phù phép một nùi khăn giấy nữa và quắc nhìn Sophie với cặp mắt giờ đã đỏ ngầu và sũng nước. Rồi anh đứng dậy. “Tôi muốn bệnh,” anh tuyên bố. “Tôi đi nằm chết đây.” Anh bước đi xiêu vẹo lên cầu thang một cách đáng tội nghiệp. “Hãy chôn tôi cạnh bà Pentstemmon,” anh khò khè nói.
Sophie ép mình phải càng khâu nhanh hơn bao giờ. Đây là cơ hội để cô gỡ bỏ bộ xám đỏ khỏi người Howl trước khi nó làm hủy hoại trái tim của cô Angorian – trừ khi, dĩ nhiên, là Howl nằm ngủ với nguyên bộ quần áo đó, chuyện mà cô cho là Howl dám làm lắm. Vậy là Howl đã đi tìm Justin từ khi ông ta lên Upper Folding và gặp Lettie. Lettie đáng thương! Sophie nghĩ, tay thoăn thoắt thêu từng đường kim mũi chỉ nhỏ nhắn, dứt khoát quanh cái tam giác xanh thứ năm mươi bảy. Chỉ còn khoảng bốn chục cái nữa là xong.
Tiếng Howl la lên yếu ớt, “Giúp tôi với! Tôi đang chết vì bị bỏ rơi ở trên đây đây!”
Sophie khì mũi. Michael bỏ cái bùa chú đang làm để chạy lên chạy xuống cầu thang. Mọi việc đều rối ren. Trong thời gian Sophie khâu hơn mười tam giác xanh, Michael chạy lên cầu thang với chanh và mật ong, với một quyển xách, với nước trị ho, với một cái muỗng để khuấy nước trị ho, rồi với nước nhỏ mũi, kẹo the, kem súc miệng, bút, giấy, ba quyển sách, và một chén nước ép vỏ cây liễu. Người ta cứ đến gõ cửa hòai, làm Sophie giật nảy mình và Calcifer nhấp nháy sợ sệt. Khi không ai mở cửa, một vài người tiếp tục đập thình thình khoảng năm phút hơn, nghĩ rất đúng là mình đang bị lờ đi.
Đến lúc này thì Sophie lo cho bộ áo xanh bạc. Nó càng lúc càng nhỏ dần. Không thể nào khâu hàng đống mảnh tam giác đó mà không tốn vải. “Michael,” cô nói khi Michael chạy vội xuống cầu thang lần nữa bởi vì Howl muốn ăn trưa bằng bánh mì kẹp thịt xông khói. “Michael, có cách nào làm áo nhỏ to hơn không?”
“Dạ, được,” Michael đáp. “Đó là cái thần chú mới của cháu mà – khi cháu có cơ hội nghiên cứu nó. Anh Howl muốn sáu miếng thịt xông khói trong bánh mì. Bà có thể nói với Calcifer được không?”
Sophie và Calcifer liếc mắt nhìn nhau. “Tôi không nghĩ Howl đang chết,” Calcifer nói.
“Tôi sẽ cho cậu ăn vụn bánh nếu cậu chịu cúi đầu,” Sophie đáp, đặt kim chỉ xuống. Dụ dỗ Calcifer thì dễ hơn là ăn hiếp cậu ta.
Bọn họ ăn trưa bằng bánh mì kẹp thịt xông khói, nhưng Michael phải chạy vội lên cầu thang giữa bữa ăn. Howl bảo cậu đi Market Chipping để mua một vài thứ cần thiết cho việc chuyển dời tòa lâu đài.
“Nhưng còn bà phù thủy … có an toàn không?” Sophie hỏi.
Michael liếm mỡ thịt xông khói trên ngón tay và lao vào trong kho chứa đồ. Cậu bước ra với một cái áo choàng nhung đầy bụi vắt trên vai. Cuối cùng, người đi ra ngoài bận áo choàng là một người đàn ông vạm vỡ râu đỏ. Người đó mút ngón tay và nói bằng giọng của Michael, “Anh Howl nói cháu làm vậy là an toàn rồi. Nó có cả thần chú chỉ đường sai và hóa trang nữa. Không biết Lettie có nhận ra cháu không.” Người đàn ông vạm vỡ mở cửa xanh lục xuống và nhảy ra cánh đồi bên ngòai.
Yên tĩnh đã trở lại. Calcifer cũng lắng xuống và kêu tí tách. Howl rõ ràng cũng nhận ra rằng Sophie sẽ không chạy quanh trông chừng anh. Trên lầu hoàn tòan im ắng. Sophie đứng dậy và len lén đi đến kho chứa đồ. Đây là cơ hội để cô đi thăm Lettie. Lettie có lẽ đang rất khốn khổ. Sophie chắc là Howl đã không gặp cô bé từ ngày ấy trong vườn. Nếu Sophie bảo Lettie là tình cảm của cô chỉ vì cái áo bị phù phép thì sẽ an ủi được phần nào. Dù sao, cô cũng nợ Lettie một lời giải thích.
Đôi hài bảy dặm không còn nằm trong tủ. Thoạt đầu Sophie không thể tin được. Cô lôi mọi thứ ra. Và không có gì nữa ngoài mấy cái thùng nước, chổi, và một cái áo choàng nhung khác. “Quỷ sứ mắc dịch!” Sophie kêu. Howl rõ ràng không muốn cô theo dõi anh nữa.
Cô đặt mọi thứ trở lại vào trong tủ khi có tiếng gõ cửa. Sophie, như thường lệ, giật mình và hi vọng họ sẽ đi đi. Nhưng người này có quyết tâm hơn cả. Tiếng gõ cửa vẫn vang lên – hoặc có lẽ là tiếng giộng mình vào cửa, bởi vì âm thanh phát ra là tiếng whump, whump, whump đều đặn hơn. Sau năm phút mà người đó vẫn tiếp tục đập cửa.
Sophie nhìn những tia lửa xanh tí tách, là tất cả Calcifer mà cô có thể nhìn thấy. “Phải bà phù thủy không?”
“Không,” Calcifer lúng búng dưới mấy khúc củi. “Cánh cửa tòa lâu đài. Người nào đó hẳn đang chạy cạnh chúng ta. Chúng ta đang đi rất nhanh.”
“Có phải là con bù nhìn không?” Sophie hỏi, tim cô đập thình thình trước ý nghĩ đó.
“Nó có máu thịt,” Calcifer đáp. Khuông mặt xanh dương trèo lên đỉnh ống khói, băn khoăn. “Tôi không biết là gì nữa, trừ một chuyện là nó muốn vào trong lắm. Tôi không nghĩ nó có thể gây hại.”
Bởi vì tiếng whump whump vẫn còn tiếp tục, làm cho Sophie có cảm giác khó chịu như mình bị hối thúc, cô quyết định mở cửa, và ngừng nó lại. Hơn nữa, cô cũng tò mò muốn biết nó là gì. Cô vẫn còn nắm cái áo choàng nhung thứ hai trong tay sau khi lục tung cả cái kho chứa đồ lên. Vì thế, cô ném nó qua vai khi cô đi ra cửa. Calcifer ngó sững. Và, lần đầu tiên từ khi cô biết hỏa yêu, cậu ta tự động cúi đầu xuống. Tiếng cười khùng khục phát ra từ dưới những ngọn lửa xanh dương xoăn tít. Băn khoăn không biết áo choàng đã biến cô thành gì, Sophie mở cửa.
Một chú chó săn khổng lồ nhảy chồm lên từ ngòai sườn đồi giữa những khối đen của tòa lâu đài và hạ chân vào trong giữa phòng. Sophie thả áo choàng xuống và chạy vội ra sau. Cô luôn sợ chó, và chó săn lại càng không có vẻ gì làm cô yên lòng cả. Con này đặt mình chặn giữa cô và cánh cửa, rồi ngó cô chằm chằm. Sophie liếc những tảng đá đang chạy và đồng cỏ thiên thanh bên ngoài, tự hỏi không biết có nên gọi Howl không.
Con chó cong cái lưng đã cong lại và bằng cách nào đó kéo thân mình nó đứng lên trên hai chân. Nó gần cao bằng Sophie. Hai chân trước giơ ra cứng nhắc và lại rướn thẳng nữa. Vừa lúc Sophie há miệng ra tính kêu Howl, con vật đưa ra một nỗ lực hết sức mạnh mẽ và bật thẳng lên biến thành hình dáng của một người đàn ông bận đồ màu xám nhăn nhúm. Y có mái tóc màu gừng và khuôn mặt xanh xao, buồn bã.
“Từ Upper Folding tới!” người-chó nói hổn hển. “Yêu Lettie… Lettie kêu tôi đến… Lettie khóc và rất buồn… kêu tôi đến với cô… bảo tôi ở lại…” Y bắt đầu gập mình và thu nhỏ lại trước khi nói hết. Y tru lên tuyệt vọng và khó chịu. “Đừng nói với Pháp sư!” y rên rỉ và thu mình trong mái tóc đỏ xoăn thành một một con chó trở lại. Một con chó khác. Lần này y là con lông xù màu đỏ. Con chó lông xù đỏ lúc lắc cái đuôi ngắn và hai mắt khốn khổ của nó nhìn Sophie khẩn khoản, van xin.
“Ồ, trời phật ơi,” Sophie nói khi đóng cửa lại. “Ông bạn thật đúng là gặp rắc rối. Ông là con chó xám đó phải không? Bây giờ tôi hiểu dì Fairfax đã nói gì. Mụ phù thủy đúng là muốn bị giết mà, đúng thật sự! Nhưng tại sao Lettie lại cho ông đến đây? Nếu ông không muốn tôi nói với pháp sư Howl…”
Con chó gầm gừ nho nhỏ khi nghe cái tên đó. Nhưng nó cũng ve vẩy đuôi và nhìn cầu khẩn.
“Được rồi. Tôi sẽ không nói với Howl,” Sophie hứa. Con chó có vẻ yên lòng. Y chạy đến cạnh lò sưới, liếc Calcifer thận trọng và nằm xuống cạnh thanh cời lửa, mình cuộn thành một đống lông đỏ nhỏ nhắn. “Calcifer, cậu nghĩ sao?” Sophie cất tiếng.
“Con chó này là một người bị nguyền,” Calcifer nói điều tất nhiên.
“Tớ biết, nhưng cậu có thể tháo bỏ lời nguyền không?” Sophie hỏi. Cô đoán Lettie đã nghe đồn, như nhiều người khác, là Howl đang có một bà phù thủy làm việc cho anh. Và dường như việc biến con chó thành người đàn ông, để ông ta trở về Upper Folding trước khi Howl thức dậy và nhìn thấy ông ta, trở nên quan trọng.
“Không. Tôi cần liên kết với Howl để làm thế,” Calcifer đáp.
“Được rồi, để tôi thử một mình,” Sophie nói. Lettie đáng thương! Bị Howl bỏ rơi, và người đàn ông khác lại là một con chó hầu hết thời gian! Sophie đặt bàn tay lên cái đầu tròn trịa, mềm mại của con chó. “Trở lại thành người đàn ông đi,” cô nói. Cô lặp lại nhiều lần, nhưng điều đó chỉ làm con chó ngủ say hơn. Nó ngáy và cuộn quanh chân Sophie.
Trong khi đó, trên lầu lại vang lên tiếng nhiều tiếng rên rỉ. Sophie vẫn tiếp tục thì thầm với con chó và lờ đi tiếng rên. Một tràng ho xé ruột thật là to theo sau, lịm vào nhiều tiếng kêu rên. Sophie cũng giả vờ không nghe. Tiếng hỉ mũi ầm ầm theo sau tiếng ho, mỗi cái làm long cả cửa sổ và cửa chính. Sophie thấy khó mà lờ đi được, nhưng cô cũng cố gắng. Pooot-pooooot! tiếng hỉ mũi tiếp tục, như tiếng kèn trong một đường hầm. Và tiếng ho lại cất lên, xen lẫn tiếng rên la. Những cái hắt hơn xen lẫn tiếng rên, và tiếng ho, và âm thanh trở thành một giàn giao hưởng mà Howl tự mình đạo diễn ho, rên, hỉ mũi, hắt hơi, và rên nhẹ nhàng cùng một lúc. Cánh cửa lung lay, xà nhà rung chuyển, và một cây củi của Calcifer lăn xuống sàn.
“Được rồi, được rồi, tôi hiểu ý anh rồi!” Sophie kêu, liệng khúc củi trở lại vào trong lò. “Sẽ có nhớt xanh kế tiếp chứ gì. Calcifer, canh chừng con chó đó nha.” Rồi cô ì ạch leo cầu thang, miệng lầm bầm lớn tiếng, “Thiệt tình, mấy gã pháp sư! Làm như là từ trước đến nay chưa có ai bị cảm vậy đó! Well, cái gì thế?” cô hỏi, tập tễnh xuyên qua cánh cửa phòng và bước lên tấm thảm bẩn thỉu.
“Tôi đến chết vì buồn chán mất,” Howl rên rỉ đáng thương. “Hay là chỉ đang chết thôi.”
Anh đang nằm trong đống gối xám dơ bẩn, trông rất tiều tụy, trên mình phủ một cái có lẽ là tấm khăn trải giường, chỉ có điều là nó cùng một màu với bụi bặm. Bọn nhền nhện mà anh yêu mến thì đang bận rộn giăng tơ ngay trên đầu giường.
Sophie rờ trán anh. “Cậu bị sốt một chút,” cô thú nhận.
“Tôi mê sảng rồi,” Howl đáp. “Những đốm đen đang bò trước mắt tôi.”
“Đó là mấy con nhện,” Sophie nói. “Tại sao cậu không tự chữa mình bằng thần chú đi?”
“Bởi vì không có cách nào chữa cảm,” Howl ai oán nói. “Mọi chuyện cứ quay mòng mòng trong đầu tôi – hay có lẽ đầu tôi đang quay mòng mòng quanh mọi chuyện. Tôi cứ nghĩ về những lời trong câu thần chú của bà phù thủy. Không ngờ bà ta có thể bắt được tôi dễ dàng như thế. Bị bắt rất là xấu mặc dù mọi thứ đến giờ đều là tại tôi làm hết. Tôi chỉ chờ cho các thứ còn lại xảy ra thôi.”
Sophie nhớ lại những câu đố trong bài thơ. “Thứ gì chứ? ‘Kể tôi nghe những năm tháng qua ở đâu’?”
“Oh, tôi biết,” Howl nói. “Của chính tôi, không ai khác. Chúng ở đó, ở nơi mà chúng thường ở. Tôi có thể đi và hóa thành tiên xấu tại lễ rửa tội của tôi nếu muốn. Có lẽ tôi đã làm thế và đó là nguyên nhân của mọi sự rắc rối. Không, có ba thứ tôi đang chờ đợi: mỹ nhân ngư, rễ ớt ma, và cơn gió thúc đẩy tâm trí thật thà. Và xem tôi có tóc trắng hay không, có lẽ, chỉ là tôi không thể xóa bỏ thần chú đó được để xem. Chỉ còn ba tuần nữa là chúng sẽ đến, và bà phù thủy sẽ bắt được tôi. Nhưng mà Cuộc Hội Ngộ của Câu Lạc Bộ Rugby là hôm trước ngày Hạ Chí, nên ít nhất tôi cũng xem được nó. Những cái khác đã xảy ra từ lâu rồi.”
“Ý cậu là ngôi sao sa và không thể nào tìm được người phụ nữ xinh đẹp và thật lòng đó hả?” Sophie đáp. “Tôi không ngạc nhiên, với cách cậu xử sự. Bà Pentstemmon nói với tôi là cậu đang đi về hướng xấu. Bà nói đúng, phải không?”
“Tôi phải đến dự tang lễ của bà ngay cả khi không còn mạng,” Howl buồn bã. “Bà Pentstemmon lúc nào cũng nghĩ tốt về tôi. Sự quyến rũ đã làm bà mù quáng.” Nước trào ra từ mắt anh. Sophie không biết là anh có thật sự khóc hay chỉ là cơn bệnh. Nhưng cô để ý là anh đang trườn đi lần nữa.
“Tôi đang nói tới cái cách cậu cứ bỏ con người ta ngay khi cậu làm người ta thích cậu,” cô phán. “Tại sao lại làm vậy?”
Howl giơ ngón tay run run chỉ lên thành giường. “Đó là nguyên nhân tôi thích nhền nhện,” anh nói. “Nếu không thành công thì cố, cố, cố lần nữa.’ Tôi cứ cố gắng hòai,” giọng anh buồn bã. “Nhưng tôi đã tự mình hại mình khi làm cuộc trao đổi đó mấy năm trước, và tôi biết tôi sẽ không còn yêu ai được nữa.”
Nước chảy ra khỏi mắt Howl bây giờ chắc chắn là nước mắt. Sophie lo lắng. “Nào, cậu không nên khóc…”
Có tiếng kêu lộp độp bên ngoài. Sophie quay lại và nhìn thấy người chó đang thu mình thành một cuộn tròn để cố lách qua cánh cửa. Cô vươn tay, và nắm một nắm lông đỏ, cho rằng y sẽ nhất định cắn Howl. Nhưng con chó chỉ dụi vào chân cô làm cô phải lảo đảo dựa vào tường.
“Cái gì vậy?” Howl hỏi.
“Con chó mới của tôi,” Sophie nói, tay nắm chặt lông nó. Bây giờ cô đang dựa vào tường, cô có thể nhìn qua cửa sổ phòng ngủ. Đáng lẽ nó phải nhìn ra sân sau, nhưng nó lại hiện một khu vườn hình vuông, đẹp đẽ với cái xích đu ở giữa. Sophie nhìn thấy cháu gái của Howl, cô bé Mari, chạy trên thảm cỏ xanh mướt. Chị Howl, Megan, theo sau Mari. Cô đang la Mari không nên ngồi trên xích đu còn ướt, nhưng không có tiếng gì vang lên. “Không phải là xứ Wales đó sao?” Sophie hỏi.
Howl phá ra cười, tay đập đập trên khăn trải giường. Bụi bay mờ mịt như khói. “Con chó mắc dịch!” anh khào khào. “Tôi đã cá với mình là tôi có thể giữ không cho bà ngó ra ngoài cửa sổ lúc bà ở trong phòng này.”
“Có thật không?” Sophie đáp, và cô buông con chó ra, hi vọng nó sẽ cắn Howl thật mạnh. Nhưng con chó chỉ tiếp tục dúi vào cô, đẩy cô ra cửa. “Vậy là tất cả bài hát và nhảy múa hồi nãy chỉ là một trò chơi, phải không?” cô nói. “Tôi phải biết chứ!”
Howl ngả người ra trên cái gối xám, vẻ tổn thương. “Có khi,” anh khiển trách, “bà nói cứ như là Megan.”
“Có khi,” Sophie trả lời, suỵt đuổi con chó ra khỏi phòng, “tôi hiểu tại sao Megan lại trở thành như thế.” Rồi cô sập cửa lên mấy con nhện, bụi bặm, và khu vườn một cái rầm.
Howl's Moving Castle Howl's Moving Castle - Diana Wynne Jones Howl