Người ta không đánh giá tôi bởi số lần tôi vấp ngã mà là những lần tôi thành công. Bởi thành công đó chính là những lần tôi thất bại nhưng không bỏ cuộc.

Tom Hopkins

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 264 / 25
Cập nhật: 2019-11-13 12:07:20 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8 - Giá Lạnh Ở Calcutta
ông viên Maidan, một mảnh đất rộng lớn với những thảm cỏ khô nẻ phía trước Bảo tàng Lưu niệm Victoria, là một trong những địa điểm được ưa chuộng nhất ở Calcutta, Ấn Độ, đặc biệt là vào ban đêm khi hàng ngàn người Ấn tụ hội lại đây để đi dạo, cưỡi xe ngựa, ăn dạo lề đường, hóng gió, hoặc ngắm nhìn những đài phun nước nghệ thuật gần đó. Những con bò được thả rông thong thả gặm cỏ, những đám người hăng say cãi cọ, và những bậc thầy tu khổ hạnh chăm chăm trình diễn sức chịu đựng và thân thể linh hoạt đến phi thường của họ - đó là trái tim đập rộn rã của thành phố Calcutta hiện đại.
Đây cũng là nơi mà cậu Nimrod và ông Rakshasas hiện đang đi quanh quẩn xung quanh hòng tìm kiếm dấu vết của giáo phái thờ rắn hổ mang Aasth Naag, vì Thầy tu Xanh Lục, thay cho lời cảm ơn họ đã giúp người dân vùng Sunderban thoát khỏi sự nguy hiểm từ cặp hổ djinn, đã khuyên họ nên bắt đầu tại đây.
Ông đã căn dặn họ:
– Không cần phải đi xa để tìm thấy tín đồ của giáo phái khủng khiếp đó. Hai vị sẽ tìm thấy chúng ở ngay thành phố Calcutta gần đây. Tại Maidan. Ở đó, hai vị sẽ gặp gỡ sự khai sáng mà hai người đang tìm kiếm, những người bạn của ta. Ngay dưới mũi của mình. Nhưng nếu hai vị đi xa hơn một chút về phía Tây, và nếu có may mắn, nó sẽ tự tìm đến hai người. Nhưng một lời cảnh báo đến cả hai, hỡi những djinn đáng kính. Hãy coi chừng cái lạnh khi trú ngụ tại Calcutta. Quấn người thật ấm, đặc biệt là vào ban đêm. Và ta nghĩ hai người còn phải đóng kín cửa sổ và khóa chặt cửa ra vào nếu không muốn bị một cơn cảm lạnh tệ hại dính vào.
Với nhiệt độ ngoài trời đến 37 độ C, khả năng ban đêm ở Calcutta trời trở lạnh dường như là chuyện xa vời, và cậu Nimrod nói điều đó với ông Rakshasas. Cảm thấy có chút mệt óc với vị Thầy tu Xanh Lục, cậu bảo:
– Đây đúng là rắc rối thường gặp với thiên thần. Đôi lúc gần như không thể hiểu được lời tiên đoán của họ.
Khẽ lắc cái đầu quấn khăn của mình, ông Rakshasas nói:
– Nếu họ nói thẳng cho cậu biết ai là người thắng cuộc trong giải đua ngựa ở Leopardstown[17] thì họ không còn là thiên thần nữa rồi. Thiên thần tinh tế hơn nhiều. Họ chính thực là một câu đố được gói gọn trong một điều huyền bí bên trong một bí ẩn. Nếu tìm kiếm một câu nói thẳng, cậu nên cần một cỗ máy cử tạ, chứ không phải một thiên thần.
[17] Một quận ở hạt Dan Laoghaire-Rathdown, Ai-len. Nổi tiếng với trường đua Leopardstown.
Cậu Nimrod khẽ nhăn mặt nhận xét:
– Có lẽ thế. Nhưng, tất cả những gì tôi muốn nói là, đôi lúc lời họ nói thật khó hiểu, về việc chúng ta có thể phải chuẩn bị cho một đêm giá lạnh. Và về việc chúng ta đang làm ở đây.
Ông Rakshasas vẫn giữ nguyên ý kiến của mình:
– Sự hiển nhiên không phải phong cách của họ. Chúng ta sẽ hiểu Thầy tu Xanh Lục muốn nói gì vào đúng thời điểm của nó chứ không phải trước đó.
Nhưng cậu Nimrod trông có vẻ khó bị thuyết phục bởi lý luận của vị djinn già. Cậu bảo:
– Ai đó nên thắp đèn của tôi lên đi, chứ tôi đang bắt đầu có cảm giác chúng ta đang chơi đuổi hình bắt bóng. Chúng ta đã ở đây cả tiếng đồng hồ mà có phát hiện được gì đâu.
Ông Rakshasas khẽ thở dài:
– Cậu đi giậm chân hơi mạnh rồi đó, Nimrod. Nhưng tôi cũng không thể bắt lỗi cậu về điều đó được. Không phải tôi nghĩ nó không có ở đây, cái mà tôi và cậu đang tìm. Chỉ là chúng ta không thể thấy nó. Ít nhất là trong tối hôm nay. Có thể nếu chúng ta quay lại vào tối mai sẽ may mắn hơn? Dù sao thì từ khi đến đây, tôi luôn cảm thấy ngứa ngáy sau gáy như có người đang theo dõi chúng ta. Và chắc chắn là, chẳng có ích gì để đi đặt bẫy một con cáo khi mà nó ngắm nhìn kẻ đi săn làm việc đó ngay trước mũi nó.
Cậu Nimrod chợt bảo:
– Khoan, chờ chút. Anh nhìn kìa.
Nói rồi cậu chỉ tay về phía một thanh niên ngồi xổm trên mặt đất cách họ chừng vài thước, người đang trình diễn thuật dụ rắn phục vụ cho đám đông xung quanh. Một con hổ mang chúa bự tổ chảng, con to nhất mà cậu Nimrod từng nhìn thấy, đang từ từ ngóc đầu lên khỏi cái cần xé và lắc lư theo tiếng sáo của người thanh niên. Đáng nói hơn là, cứ mấy phút một lần, người dụ rắn lại thò tay ra vuốt đầu con rắn. Và trước sự chứng kiến của họ, con rắn trườn dọc lên cánh tay của chủ nhân rồi quấn mình quanh cổ hắn, tiếp tục rít lên một cách dữ tợn về phía đám đông.
Cậu Nimrod lẩm bẩm:
– Tôi đang tự hỏi, liệu hắn có phải là thứ mà chúng ta đang tìm kiếm hay không? Vì chắc chắn chỉ có một tín đồ thật sự của Aasth Naag mới dám mạo hiểm với vết cắn của một con rắn to như vậy.
Rồi ngừng lại nghĩ ngợi trong một giây, cậu nói thêm:
– Hoặc hắn có thể là một djinn, dĩ nhiên.
Ông Rakshasas bảo cậu:
– Để tìm được lời đáp cho câu hỏi của cậu, chúng ta cần phải kiểm tra con rắn, để xem răng của nó có bị bẻ đi hay chưa. Và một điều chắc chắn là chúng ta sẽ khó có thể làm được điều đó ở trước mặt nhiều người như thế này.
Cậu Nimrod khẽ gật đầu:
– Đúng là rất khó. Vì chúng ta đã thu hút quá nhiều sự chú ý từ khi đến đây rồi.
Cậu Nimrod đang ám chỉ đến việc sư Chatterjee, sư Mukherjee và sư Bannerjee - ba vị sư của ngôi đền Chín mươi lăm Mái vòm - đã đoán được danh tánh thật sự của hai vị khách quý của Thầy tu Xanh Lục, và tin tức về hai djinn đánh bại cặp hổ ma hiện đã tràn ngập khắp vùng Tây Bengal.
Cậu Nimrod nói:
– Từ giờ trở đi, chúng ta cần phải cẩn thận hơn. Không hiểu sao tôi lại quên mất cái chòi canh. Đáng lẽ tôi phải loại bỏ nó trước khi ba vị sư đáng kính của chúng ta quay trở lại.
Ông Rakshasas chỉ gật gù nhận xét:
– Đúng là khó để tạo nên một điều kỳ diệu mà lại hy vọng mọi người không nhìn vào ta với một ánh mắt buồn cười.
Rồi quan sát người dụ rắn thêm vài phút, ông Rakshasas lắc đầu nói:
– Không. Tôi không nghĩ người đàn ông kia thuộc về giáo phái mà chúng ta đang tìm kiếm. Cậu nhìn kỹ xem. Hắn không đeo viên đá Naga - cái mề đay mà chị gái cậu đã gửi cho cậu. Tôi không tin hắn dám mạo hiểm chạm vào con rắn mà không có một viên đá như thế quanh cổ.
– Đúng, tôi có thể thấy anh muốn nói gì.
Rồi bỏ vài đồng rupi[18] vào cái giỏ cần xé của người dụ rắn, cậu giục:
– Chúng ta đi kiếm gì bỏ bụng đi. Tôi đói hoa cả mắt rồi.
[18] Đơn vị tiền tệ của Ấn Độ.
Hai djinn rời khỏi công viên Maidan, hướng về khách sạn của họ. Dọc đường đi, vài người dân địa phương cố gắng bán cho họ đủ thứ khác nhau: một tấm thảm, một cặp voi khắc gỗ, vài đóa hoa, và một túi pani puri[19]. Đi thêm một đoạn nữa, đến lượt một môn đồ của một guru[20] tên Masamjhasara, thuộc dòng Jayaar Sho Ashram ở Lucknow, mời họ mua một đĩa CD mô tả cách thức mà vị guru đó đạt được sự khai sáng tinh thần, trong khi một người đàn ông khác tỏ ý muốn làm hướng dẫn viên du lịch cho họ. Một người đàn ông thứ ba chụp một bức hình của họ. Ấn Độ đích thị là nơi của sự bận rộn và đông đúc, và với vô số người cố gạ bán cho họ quá nhiều thứ, hai djinn không nhận ra bức hình của họ được chụp bằng một máy ảnh nhiệt lượng. Hầu hết mọi người không có vấn đề gì với việc đó, nhưng với djinn, những người được tạo ra từ ngọn lửa và có cơ thể phát ra một dấu hiệu nhiệt năng màu đỏ bầm đặc trưng, nó lại là một vấn đề lớn. Như điều mà cậu Nimrod và ông Rakshasas sắp phát hiện, và với một cái giá khá đắt phải trả. Và theo một cách mà Thầy tu Xanh Lục đã cảnh báo trước. Tuy nhiên, như ông Rakshasas đã nói, đó là vấn đề thường xảy ra với các lời tiên đoán: đôi lúc nó cần phải trở thành hiện thực để có thể hoàn toàn hiểu được.
[19] Món ăn dạo phổ biến ở Ân Độ.
[20] Người có uy tín lớn trong cộng đồng người Hindu.
o O o
Ấn Độ là quê hương của món cà ri, và món cà ri cay nhát được biết đến dưới tên phal. Cà ri cay vì số lượng ớt được dùng trong công thức nấu ăn của nó. Càng nhiều ớt được sử dụng, món cà ri càng cay. Djinn, vốn được làm từ lửa, rất thích những món cà ri cay - đặc biệt là phal - và thường có thể xơi tái nhiều ớt trong phal hơn bất cứ mundane bình thường nào.
Trong nhiều năm nay, ông Rakshasas thường viếng thăm một quán án gia đình gần Bưu điện Trung tâm Calcutta có tên Ngôi nhà Cà ri Siraj-ud-Daula. Chủ quán, ông Hinduja, đã quen mặt ông Rakshasas và, biết được sở thích dùng món phal thật cay của ông, thường phục vụ ông một món phal đặc biệt làm từ 21 trái ớt mà ông gọi là vasuki. Món vasuki đó cay đến nỗi chỉ có một mundane duy nhất, ông Mittal, trưởng phục vụ ở quán, là có thể ăn hơn một muỗng. Đối với một djinn như ông Rakshasas, chi tiết này khá hữu ích, vì như vậy, ông Mittal có thể kiểm tra trước xem món vasuki có đủ cay hay không. Tuy nhiên hôm nay, hai djinn lại nghe tin ông Mittal đang bị bệnh nằm nhà và không thể đến nếm thử cái món vasuki đang được chuẩn bị trong bếp của Siraj-ud-Daula.
Ông Hinduja giải thích:
– Ông Mittal vừa đổ bệnh trưa nay. Khá là đột ngột. Cũng không phải bệnh nặng gì, mà chỉ là không khỏe để làm việc hết ngày, mong quý khách thông cảm cho.
Cậu Nimrod nói:
– Hy vọng không phải là do ông ấy ăn phải cái gì.
Ông Hinduja lập tức lắc đầu lia lịa phân minh:
– Ôi, dĩ nhiên là không rồi, hai vị khách quý của tôi. Chắc chắn không phải ở đây.
Cậu Nimrod quay qua ông Rakshasas hỏi:
– Hay là lần sau chúng ta hãy quay lại? Khi chúng ta có thể trông cậy vào cái lưỡi nhạy bén của ông Mittal? Tôi thật không muốn ăn phải một món cà ri không đủ cay. Tôi sẽ chết vì thất vọng mất.
Tuy nhiên, ngay khi đang nói, cậu Nimrod đã hít hà không khí như thể một con cún đói bụng bên trong một cửa hàng thịt, và có thể thấy rõ cậu ngần ngừ không thật sự muốn rời khỏi quán.
Hiểu ý người bạn djinn trẻ tuổi của mình, ông Rakshasas mỉm cười nói:
– Ừ, có lẽ cậu nói đúng. Tuy nhiên, đôi khi muốn ăn mà không dám mạo hiểm thì chẳng khác nào để bụng đói.
Cậu Nimrod cười thiếu điều rớt cả quai hàm:
– So sánh tuyệt vời đấy, anh Rakshasas.
Đã thống nhất ý kiến, hai djinn liền theo ông Hinduja đến bàn của họ, vốn là chỗ tốt nhất trong quán, ngồi xuống và bắt đầu thưởng thức món vasuki cay nhất trong lịch sử, với không phải 21 trái ớt mà đến 25 trái. Trên thực tế, nó cay đến nỗi cả đầu bếp lẫn toàn bộ nhân viên quán - ngoại trừ ông Hinduja, không ai ở đây biết họ là djinn - đều ra khỏi bếp để ngó xem ai lại có thể ăn một món cà ri cay khủng khiếp như vậy.
Tuy nhiên, món cà ri lại có nhược điểm của nó: mùi vị cay nồng của cà ri có thể dễ dàng giấu đi vị đắng nhẹ của thuốc ngủ. Đó chính là cơ hội mà Aasth Naag, với các tay do thám đã bám đuôi cậu Nimrod và ông Rakshasas ngay từ khi họ rời khỏi vùng đầm lầy Sunderban, luôn trông đợi. Và không mấy khó khăn để một tín đồ của giáo phái này lẻn vào trong bếp thông qua cửa hậu của quán và thêm vào nồi vasuki nóng hổi một loại thuốc ngủ cực mạnh nhưng chậm phát huy tác dụng. Cho nên, khi cậu Nimrod và ông Rakshasas, như thường lệ, kêu thêm một suất ăn nữa, họ đã vô tình nuốt nhiều hơn nữa cái thứ mà họ không mong đợi.
Sau khi đã chén sạch sẽ phần ăn của mình và đáp lại tiếng vỗ tay tán thưởng đầy hâm mộ của đội ngũ nhân viên quán bằng một cái vẫy tay đầy khiêm tốn, cậu Nimrod đặt vài tờ giấy bạc giá trị lớn lên bàn và đứng lên, miệng không quên khen ngợi ông Hinduja:
– Đây đúng là món phal tuyệt nhất mà tôi từng ăn. Phal của các loại phal. Tựa như vụ phun núi lửa Vesuvian tái sinh ấy. Một sự bùng cháy mãnh liệt của mùi vị thực sự.
Ông Hinduja chìa thực đơn ra mời hai djinn:
– Tráng miệng nhé?
Ông Rakshasas lắc đầu bảo:
– Tôi không thể nuốt thêm bất cứ cái gì nữa. Ngay cả khi tính mạng của tôi phụ thuộc vào nó. Vả lại, hôm nay là một ngày dài. Giờ tất cả những gì tôi cần là một cái giường thôi. Tôi nghĩ sáng mai cậu nên kiếm tôi trước lò sưởi, Nimrod, vì tối nay thể nào tôi cũng ngủ say như chết cho mà xem.
Cả hai người bọn họ đều ngáp ngắn ngáp dài trên đường về khách sạn, và họ đã gục ngủ ngay trước khi kịp thay pyjama. Họ thậm chí không còn đủ tỉnh táo để khóa trái cửa ra vào căn phòng khách sạn, hay đóng lại những khung cửa sổ kiến trúc Pháp trên ban công, như Thầy tu Xanh Lục đã dặn. Và điều đó làm cho những tên trộm được Aasth Naag thuê có thể dễ dàng mò vào phòng và giấu hai djinn đang bất tỉnh nhân sự vào giỏ đựng đồ giặt ủi của khách sạn.
Từ căn phòng của mình, cậu Nimrod và ông Rakshasas bị khuân xuống lầu và, dưới sự che giấu của bóng đêm, cả hai bị nhét vào thùng đông lạnh của một chiếc xe tải chuyên chở hàng đông lạnh. Đó là một biện pháp phòng ngừa khá hợp lý, trong trường hợp hai djinn có thể thức dậy giữa chừng trên hành trình dài đằng đẵng trước mặt. Bởi vì djinn đóng băng hoàn toàn vô dụng.
Một khi đã an toàn trên đường, tên đầu sỏ băng trộm lập tức gọi điện thông báo tin tốt cho thủ lĩnh giáo phái. Vậy là sau hơn một trăm năm mươi năm, Aasth Naag sắp sửa có trong tay không chỉ một mà đến hai djinn.
o O o
Sau vụ cặp hổ ma ở Sunderban, không chỉ có giáo phái Aasth Naag bám đuôi cậu Nimrod và ông Rakshasas. Iblis tộc Ifrit cũng có một tay mật thám ở Calcutta. Tên hắn là Upendra Downmidhary và, ngay khi nghe được tin hai djinn đang ở trong địa bàn của mình, hắn lập tức thu thập thông tin về cậu Nimrod và ông Rakshasas tại khách sạn mà họ đang ở. Rồi hắn gọi điện cho Oleaginus, tay này lập tức đón chuyến bay từ Las Vegas đi Calcutta.
Tuy nhiên không ai trong số bọn chúng thực sự giỏi khoản do thám, cho nên, dù đã thay phiên nhau trông chừng khách sạn Grand Hotel 24/24, chúng vẫn không nhận ra đối tượng của chúng đã bị người khác bắt cóc mất tiêu. Ngày hôm sau, khi cả cậu Nimrod và ông Rakshasas đều không xuất hiện trong bữa sáng, bữa trưa rồi bữa tối, Oleaginus bắt đầu nghi ngờ có chuyện gì đó không ổn đã xảy ra.
Hắn nói lớn suy nghĩ của mình:
– Chúng ta thấy bọn họ đi vào khách sạn tối hôm qua. Vậy thì một là họ vẫn ở trong phòng, hai là họ đã hóa thể biến đi đâu đó mà chúng ta không để ý.
Upendra chỉ có thể nhún vai nhận xét:
– Họ là djinn mà. Đó không phải việc djinn thường làm sao? Biến mất, rồi xuất hiện, trong một đám khói?
Oleaginus lên giọng dạy đời:
– Đó không phải lựa chọn hàng đầu của họ. Trên thực tế, họ thường tránh sử dụng sức mạnh djinn trừ khi thực sự cần thiết. Chuyện đó liên quan đến việc bảo quản năng lượng. Nhưng dù là gì đi nữa, tao nghĩ chúng ta có vẻ để lạc mất họ rồi.
Upendra gợi ý:
– Ê, nếu ban ngày họ đi đâu đó, vậy sao chúng ta không thử lục phòng họ xem? Tao có chôm được một cái chìa khóa vạn năng từ một con nhỏ phục vụ phòng đây này.
Oleaginus chẳng ưa gì cái ý kiến làm một hành động phạm tội rành rành như thế. Hoàn toàn chẳng biết gì về Ấn Độ và hệ thống pháp luật của nó, hắn cứ cho rằng mình đang ở tại một quốc gia mà hình phạt dành cho tội trộm cắp là chặt tay. Tuy nhiên, hắn cũng không thể phủ nhận việc lục soát phòng hai djinn là một ý kiến khá hay. Bằng cách đó, hắn có thể thu được vài sợi tóc từ cái lược chải, hay thậm chí là một cái móng tay - đủ để hắn đặt một chú trói buộc lên hai djinn và đóng chai họ lại, theo những gì chủ nhân hắn đã hướng dần. Iblis sẽ rất hài lòng với hắn. Nó dĩ nhiên không tuyệt bằng việc bắt giữ hai đứa nhóc djinn sinh đôi, nhưng chắc chắn nó cũng phải đứng thứ nhì trong số những việc có thể làm chủ nhân hắn vừa ý.
Hắn gọi lên phòng từ điện thoại công cộng ở sảnh lớn khách sạn để kiểm tra lần cuối xem có ai ở đó không. Và trong khi chờ câu trả lời, hắn thả cho đầu óc tham lam của mình bay bổng trên những con đường ở Monte Carlo, nơi hắn dự định sẽ sinh sống bằng ba điều ước đạt được từ Iblis như một Bá Tước Monte Cristo thời hiện đại. Chờ một lúc, hắn gác máy và xoa xoa tay tuyên bố:
– Không có ai bắt máy. Đi thôi. Căn phòng đang chờ chúng ta đến phạm tội đấy.
Sử dụng cái chìa khóa vạn năng chôm được, hai gã đàn ông lẻn vào trong căn phòng khách sạn rộng lớn với hai chiếc giường bốn cọc cỡ lớn, vòi nước bằng vàng và có đến ba cái ban công. Đúng như chúng dự đoán, không có ai trong phòng. Nhưng trong tủ vẫn treo đầy quần áo, hầu hết là của cậu Nimrod, chứng tỏ hai djinn vẫn chưa trả phòng.
Quan sát căn phòng, Upendra nhận xét:
– Mấy djinn này thật biết cách sống nhỉ?
– Mày ngốc vừa thôi. Dĩ nhiên họ phải biết cách sống. Bộ mày từng nghe nói đến một djinn nhà nghèo hả? Không có, đúng không? Dĩ nhiên mày chả bao giờ nghe nói đến một điều vô lý như thế rồi. Chỉ có một gã ngốc mới nghĩ đến việc djinn không sống sung túc.
– Vâng, vâng, mày nói gì cũng đúng.
Ậm ừ cho qua chuyện, rồi Upendra đi vào một trong những cái phòng tắm khổng lồ.
– Ê, mày vào đó làm gì thế?
– Thì để tìm lược hoặc móng tay gãy như mày nói, chứ chi?
– Đồ ngu. Mày đúng là chẳng biết gì về djinn. Một điều mà djinn không bao giờ làm là vứt lược lung tung. Họ luôn bỏ nó trong két sắt. Tương tự với móng tay gãy.
Rồi như thể muốn chứng minh cho luận điểm của mình, Oleaginus hất tay về phía một xấp rupi dày cộm trên một cái bàn nhỏ cạnh giường và nói:
– Còn tiền hả? Đó lại là một chuyện khác. Họ thật sự chẳng có chút tôn trọng nào đối với tiền bạc, và cúng chẳng bao giờ mơ tới chuyện trông giữ chúng đàng hoàng. Tiền chỉ là một thứ họ có thể tạo ra bất cứ khi nào cần. Nhưng một cái lược á? Nó lại là một thứ thật sự có giá trị.
Nói rồi Oleaginus mở tủ quần áo ra và, sử dụng một cái tua vít nặng trịch mà hắn mang theo trong một cái cặp da, phá khóa cứa két sắt chỉ trong vài phút. Bên trong đó, đúng như dự đoán, hắn tìm thấy hai cái lược và một cái khăn tay đã qua sử dụng - không kém hữu ích cho một kẻ như hắn dù với một lý do hơi bị mất vệ sinh - một cái túi nhỏ dựng vài cái móng tay đã cắt, và - cả hai cái bàn chải đánh răng. Tất cả những thứ đó vốn đã đủ hứng thú với gã người hầu của Iblis. Tuy nhiên, có một thứ khác trong cái két sắt mà hắn cầm lên và đắm đuối nhìn như thể đó chính là chiếc chén Thánh của Thượng đế: cái phích nhiệt mà ông Rakshasas mang ra khỏi vùng Sunderban.
Chỉ vào cái nhãn đề trên phích, Oleaginus thiếu điều nói không ra hơi:
– Không thể tin được. Nhìn này! Nó ghi là “SINH ĐÔI”.
Rồi bật cười ha hả, hắn tuyên bố:
– Hơn cả mong đợi của tao. Mày biết không, lần cuối tao nghe về hai đứa nhóc nhà Gaunt, John và Philippa, tụi nó còn đang ở New York. Người của tụi tao ở đó bảo luôn theo dõi chúng 24/24.
Rồi lắc lắc đầu như thể muốn xóa bớt vài suy nghĩ dư thừa ra khỏi cái đầu đã làm việc quá tải của hắn, Oleaginus nói tiếp:
– Nhưng nếu đúng là thế, vậy thì tại sao thằng cha Nimrod này lại phải cất cái phích tuốt trong két sắt? Vì Chúa, hắn biết bao nhiêu cặp sinh đôi chứ? Ê, đưa tao cái máy scan nhiệt mà tao mang theo từ Mỹ coi.
Upendra đưa cho gã đồng nghiệp người Mỹ cái cặp da của hắn. Oleaginus mở cặp, rút ra cái máy scan, bật nó lên, rồi cẩn thận đặt cái phích bên dưới thấu kính của nó. Bên trong cái phích, hai cái đốm tròn màu đỏ bầm đang di chuyển lung tung trong cái lồng kiểng của chúng, như hai chất nguyên sinh nóng nhỏ xíu được quan sát bên dưới một cái kính hiển vi điện tử. Không còn nghi ngờ gì nữa. Cái phích đích thật đang chứa đựng hai djinn.
Oleaginus thì thào:
– Chúng ta hời to rồi.
Upendra, người thông minh hơn tay người Mỹ, nghi ngờ hỏi:
– Nhưng nếu đây là cặp nhóc sinh đôi, John và Philippa, vậy ai đang bị theo dõi 24/24 ở New York chứ? Hoặc là người của mày làm việc không đàng hoàng, hoặc là…
Oleaginus khó chịu hỏi lại:
– Hoặc là cái gì?
Nhún vai một cái, Upendra thú nhận:
– Tao cũng không nghĩ ra “hoặc là” gì nữa.
– Mày không thể, nhưng tao có thể đấy. Chắc chắn là bọn họ đang theo dõi một cặp Nơi Khác ở New York. Mà mày hiểu tao nói về cái gì không? Cái đó giống như một bản sao vô tính, tạo ra với mục đích cung cấp chứng cớ ngoại phạm hoặc để đánh lạc hướng. Dĩ nhiên cần một thiên thần để tạo ra Nơi Khác. Nhưng tao nghe nói lũ nhóc đó cũng giỏi miệng lưỡi thuyết phục lắm.
Gật gật đầu như tán thành giả thuyết của mình, Oleaginus tuyên bố:
– Đúng là thế. Mọi việc giờ đã sáng tỏ hơn nhiều. Nó giải thích rõ ràng được việc làm sao lũ nhóc đó lại có thể cùng một lúc có mặt ở hai nơi. Ở đó, tại New York, và ở đây, trong cái phích này.
Nói rồi Oleaginus gấp cái máy scan nhiệt lại, và cất nó cùng cái phích nhiệt vào lại trong cặp. Đóng cặp lại, hắn giục:
– Đi thôi. Đã đến lúc chúng ta chuồn gấp khỏi đây.
– Nhưng còn mấy cái lược thì sao? Và mấy cái móng tay gãy nữa?
– Quên chúng đi. Mỗi tay nên giữ một con chim thôi. Vả lại, ngài Iblis đã nói rõ cặp sinh đôi chính là thứ ngài muốn bắt giữ mà.
Đến giờ thì nụ cười trên khuôn mặt của Oleaginus đã ngoác đến tận tai. Ba điều ước của hắn đang nằm gọn trong cái cặp da! Phải thế chứ. Lắc lắc đầu như thể vẫn còn bàng hoàng trước những gì hắn đã làm được, Oleaginus lẩm bẩm:
– Ngài Iblis sẽ ngạc nhiên lắm đây khi tao giao lại chúng. Tao nóng lòng nhìn thấy mặt ngài ấy quá đi.
Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 3 - Hổ Mang Chúa Kathmandu Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 3 - Hổ Mang Chúa Kathmandu - Philip Ballantyne Kerr Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 3 - Hổ Mang Chúa Kathmandu