A book must be an ice-axe to break the seas frozen inside our soul.

Franz Kafka

 
 
 
 
 
Tác giả: Knut Hamsun
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Hunger
Dịch giả: Thái Bá Tân
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Liem La
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4258 / 48
Cập nhật: 2015-08-10 14:20:54 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
rời ơi, sao tôi cứ luôn gặp rủi thế này? Tôi tự nguyền rủa mình mấy câu rồi đứng dậy, bắt đầu đi đi lại lại trên các con đường nhỏ trong công viên. Xung quanh rất yên tĩnh. Phía xa xa, cạnh Lầu Hoàng gia, có mấy bà già đang đẩy xe nôi, ngoài ra, tôi chẳng nhìn thấy ai nữa. Tôi không viết được một tác phẩm triết học ba chương chỉ vì trong túi không có một chiếc bút chì hai xu! Hay tới hiệu cầm đồ xin lại bút chì? Làm thế, có thể tôi vẫn kịp viết được khá nhiều trước khi hàng đoàn người kéo về đây đi dạo. Tác phẩm triết học này của tôi rất quan trọng, biết đâu đấy, có thể nó sẽ liên quan tới hạnh phúc của cả nhân loại! ít ra tôi nghĩ rằng nó là cái rất cần cho nhiều người trẻ tuổi. Nếu suy nghĩ một cách chín chắn, tôi thấy nói chung tôi chẳng phải đập lại Kant làm gì, chỉ cần biết né tránh một chút khi nói về thời gian và không gian. Nhưng còn Renan, cái thằng cha linh mục già nua ấy thì tôi quyết không tha... Nghĩa là cách này hay cách nọ, tôi phải viết được một số trang nhất định nào đó: tôi còn nợ tiền nhà. Sáng nào bà chủ cũng chăm chú nhìn tôi khi chúng tôi gặp nhau ở cầu thang, và điều này cứ ám ảnh tôi suốt ngày, cả những lúc đáng lẽ tôi hạnh phúc nhất. Phải chấm dứt mọi chuyện. Rồi tôi nhanh nhẹn rời công viên đi về phía hiệu cầm đồ để xin lại chiếc bút chì.
Khi từ trên đồi đi xuống, tôi vượt qua hai người đàn bà. Vô tình tôi chạm tay áo vào một người. Tôi ngước nhìn và thấy một khuôn mặt đầy đặn nhưng hơi nhợt nhạt. Cô ta bỗng đỏ bừng mặt, trở nên xinh đẹp hơn rất nhiều. Tôi không biết vì cái gì, có thể vì lời nói mà một người đi ngang nói với cô ta, cũng có thể vì những ý nghĩ thầm kín nào đó. Hay vì tôi đã chạm vào người cô ta? Bộ ngực cao của cô ta dâng lên, cô ta bóp chặt chiếc cán dù. Có chuyện gì thế nhỉ?
Tôi dừng lại, để cô ta đi trước. Tôi không thể đi tiếp như thế được vì mọi chuyện có vẻ như rất lạ lùng. Tôi đang khó chịu, bực mình vì chiếc bút chì, vì sau một thời gian dài nhịn đói, bữa ăn no vừa rồi đang làm tôi bị kích động. Các ý nghĩ của tôi quay cuồng, điên loạn. Tôi bỗng có một ý muốn kì cục là làm cho cô gái này hoảng sợ, đuổi theo cô ta và gây ra một vài sự khó chịu nào đó. Nghĩ thế, tôi lại rảo bước đi nhanh, vượt qua cô gái rồi bất ngờ quay lại để hai người mặt đối mặt với nhau. Tôi đứng yên, nhìn thẳng vào mắt cô ta, và liền ngay lúc ấy tự nghĩ cho cô ta một cái tên dễ nghe, lạ lùng mà tôi chưa bao giờ nghe tới - Ilaialy! Khi cô ta đã lại rất gần, tôi hất đầu nói rõ từng tiếng:
- Thưa tiểu thư, tiểu thư đang để mất một cuốn sách.
Khi nói câu này, tôi nghe tiếng tim tôi đập mạnh.
- Sách? - Cô ta hỏi người đàn bà đi cùng, rồi cất bước đi tiếp.
Nhưng sự kiên trì giận dữ vẫn chưa buông tôi ra, và tôi lại đi theo cô ta. Tất nhiên ngay lúc ấy tôi đã ý thức được rằng mình vừa làm một việc điên rồ, nhưng tôi không đủ sức làm chủ mình nữa. Sự hồi hộp cứ đẩy tôi về phía trước. Tôi cố kìm hãm mình, tự trách mình là một thằng ngốc, nhưng tất cả đều vô ích, và tôi vẫn bám lấy người đàn bà trẻ kia với bộ mặt ngốc nghếch. Khi vượt qua cô ta, tôi hắng giọng, ho một tiếng rất to. Bây giờ tôi thong thả đi trước cô ta, cách mấy bước. Tôi cảm thấy cô ta đang nhìn tôi sau lưng; vô tình tôi cúi đầu xấu hổ vì đã xử sự với cô ta một cách tồi tệ như vậy. Dần dần, tôi bị hoàn toàn chi phối bởi cái cảm giác rằng tôi đang ở nơi nào đó rất xa đây, và rằng không phải tôi, mà là ai đó đang cúi đầu đi trên mặt đường lát đá này.
Mấy phút sau, khi cô gái đến gần hiệu sách Pasa, tôi đã đứng ngay bên tủ kính đầu tiên. Tôi bước lại, nói:
- Thưa tiểu thư, tiểu thư đang để mất một cuốn sách.
- Cuốn sách nào? - Cô gái hỏi, vẻ hoảng sợ. - Ông ta nói về sách nào ấy nhỉ?
Rồi cô gái đứng lại. Tôi vui mừng một cách độc ác khi thấy cô ta bối rối; sự lúng túng để lộ qua đôi mắt cô ta làm tôi thích thú. Cô ta không hiểu sự điên rồ nào đang chi phối tôi. Cô ta chẳng có cuốn sách nào cả, thậm chí một tờ giấy cũng không, tuy thế cô ta vẫn sờ túi, nhìn xuống đôi tay, lắc đầu, ngoái lại phía sau và căng bộ óc đáng yêu của mình, cố nghĩ xem cuốn sách tôi đang nói là cuốn sách nào. Má cô ta lúc đỏ bừng, lúc tái nhợt, nét mặt luôn thay đổi. Tôi nghe rõ tiếng cô ta thở gấp; thậm chí những chiếc cúc trên áo cô ta cũng nhìn tôi như những con mắt hoảng sợ.
- Đừng để ý đến anh ta nữa, - bà đi cùng kéo áo cô ta. - Anh ta say rượu đó mà! Lẽ nào cháu không thấy rằng anh ta đang say?
Mặc dù lúc ấy tôi không phải là mình và hình như ai đó đang điều khiển tôi, tôi vẫn nhìn thấy hết mọi chuyện xảy ra xung quanh, không bỏ qua một điều gì. Kia là một con chó màu hung to lớn đang chạy tắt qua phố để tới một vườn hoa nhỏ và từ đó chạy tiếp về phía Tivôli. Nó đeo một chiếc vòng da nhỏ ở cổ. Xa hơn một chút, cũng trên phố này, một cửa sổ ở tầng hai mở toang, một cô hầu gái ló đầu ra, xắn tay áo lau kính. Không gì lọt qua sự chú ý của tôi. Đầu óc tôi đang rất tỉnh táo, trí nhớ làm việc tốt, mọi ấn tượng ăn sâu vào tôi mạnh và rõ ràng như những chớp sáng trong đêm. Cả hai người đàn bà đang đứng trước tôi đều đội mũ cắm lông chim màu xanh và quàng khăn lụa Scốtlen. Tôi có cảm giác như họ là bà con với nhau.
Họ bỏ đi, đến đứng cạnh cửa hàng nhạc và nói chuyện với nhau. Tôi cũng đứng lại. Sau đó họ quay trở lại, đi theo con đường vừa tới đây, ngang qua tôi, rẽ sang phố Đại học rồi đi về phía quảng trường Thánh Ulaf. Trong suốt thời gian ấy, tôi luôn bám sát họ. Một lần họ ngoái lại nhìn tôi với vẻ hoảng sợ pha lẫn tò mò, nhưng họ không chau mày và mặt không có vẻ khó chịu. Họ chịu đựng sự gan lì của tôi một cách rất kiên nhẫn, khiến tôi phải xấu hổ cúi nhìn xuống đất. Sau đó tôi chẳng còn muốn làm phiền họ thêm nữa. Tôi đứng nhìn theo họ với vẻ biết ơn, chờ đến lúc họ rẽ đâu đó và biến mất.
Tới cạnh một ngôi nhà lớn bốn tầng mang biển số hai, họ ngoái lại nhìn lần nữa rồi đi vào nhà. Tôi đứng tựa người vào chiếc đèn đường đốt bằng hơi ga cạnh vòi phun nước và lắng nghe tiếng chân họ bước trên cầu thang. Đến tầng hai, tiếng bước chân tắt hẳn. Tôi rời cột đèn, nhìn lên các ô cửa sổ. Bất chợt một chuyện kì lạ đã xảy ra - ở phía trên có tiếng rèm kéo sột soạt, sau đó cửa sổ mở và một cái đầu nhỏ nhắn nhô ra. Đôi mắt xinh đẹp của cô ta đã dừng lại trên người tôi.
"Ilaialy!" - tôi khẽ thì thầm và tự cảm thấy mình đang đỏ mặt. Tại sao nàng không lên tiếng gọi ai? Sao nàng không ném xuống đầu tôi cái chậu hoa hay cho người xuống đuổi tôi đi? Cả hai chúng tôi đều đứng yên và nhìn thẳng vào mắt nhau trong suốt một phút. Từ cửa sổ, các ý nghĩ được phóng xuống hè phố, nhưng chúng tôi không nói với nhau một lời nào. Rồi nàng quay người. Tôi như bị sốc, đến mức khẽ run lên. Tôi còn kịp nhìn thấy đôi vai nàng, lưng nàng và rồi nàng đi khuất vào phòng. Nàng đi một cách thong thả, đôi vai nhô lên hạ xuống như muốn ra hiệu cho tôi. Và tôi đón nhận dấu hiệu kì diệu ấy bằng toàn bộ cơ thể mình. Tôi bỗng cảm thấy đợt sóng vui sướng chạy khắp người. Đứng thêm chốc nữa, tôi quay lại bước đi giữa phố.
Tôi không dám nhìn và không biết nàng có tới bên cửa sổ lần nữa hay không. Vừa suy nghĩ về việc này, tôi vừa cảm thấy bắt đầu lo lắng, bồn chồn. Có thể đúng lúc ấy nàng đang đứng quan sát từng bước đi của tôi, mà tôi thì không thể chịu đựng nổi khi bị ai đó theo dõi. Tôi cố giữ thật thẳng người, đi một mạch không dừng lại. Đất dưới chân đang rung mạnh, tôi bước không vững vàng lắm, chính vì do cố đi sao cho uyển chuyển và đẹp. Vì muốn tỏ ra bình tĩnh và lãnh đạm, tôi đã vung vẩy tay một cách ngốc nghếch, mũi hếch cao lên trời. Nhưng tất cả đều vô ích. Lúc nào tôi cũng cảm thấy có ai đang nhìn sau lưng. Cuối cùng, tôi lẩn vào một phố nhỏ bên cạnh và từ đó đi thẳng đến Pilestredet để lấy bút chì.
Tôi nhận lại áo không chút khó khăn gì. Người chủ hiệu cầm đồ mang chiếc áo gilê tới và cho tôi lục tìm các túi. Ngoài bút chì, tôi còn tìm thấy mấy chiếc hoá đơn chứng nhận những đồ vật tôi đã cầm đồ trước đó. Tôi nhét chúng vào túi quần rồi cảm ơn ông chủ hiệu nhã nhặn. Mỗi lúc tôi càng thấy thích ông ta hơn và muốn tỏ cho ông ta biết tôi là một người tử tế. Tôi bước mấy bước về phía cửa ra vào nhưng liền quay lại như thể quên cái gì. Tôi nghĩ tôi có trách nhiệm phải giải thích mọi chuyện một cách tỉ mỉ cho ông ta rõ. Rồi tôi lên tiếng hát khe khẽ để làm ông ta chú ý. Sau đó tôi giơ bàn tay đang giữ chiếc bút chì lên.
- Tất nhiên tôi sẽ chẳng bao giờ chịu đi một quãng đường xa để quay lại đây vì chiếc bút chì xấu này, - tôi nói, - nếu nó không phải là một vật đặc biệt, rất đặc biệt. Chính nhờ cái bút chì chuột gặm và ngắn cũn này mà tôi đã trở thành người như hôm nay, nghĩa là đã thành công và tìm được chỗ đứng cho mình trong cuộc sống...
Tôi ngừng nói. Ông chủ hiệu lại gần quầy hàng.
- Thế à? - Ông ta nói và nhìn tôi với vẻ tò mò.
- Chính nhờ cái bút này, tôi đã viết xong một tác phẩm triết học đồ sộ gồm ba tập, - tôi bình thản nói tiếp. - Không lẽ ông chưa nghe nói tới cuốn sách ấy.
Ông chủ hiệu cầm đồ có cảm giác như có nghe tên tôi và tên tác phẩm ấy.
- Vâng, - tôi nói. - Đó chính là cuốn sách tôi viết! Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi tôi muốn tìm lại chiếc bút chì này. Đối với tôi, nó là vô giá, thân thiết như một người bạn nhỏ. Tôi rất biết ơn ông và sẽ không bao giờ quên lòng tốt của ông. Vâng, vâng, đúng thế, không bao giờ quên. Xin hứa danh dự với ông như thế. Tôi là người tử tế. Ông rất đáng được đền ơn một cách hào phóng.
Nói rồi tôi đi về phía cửa, với vẻ như người có quyền sinh quyền sát trong tay. Ông chủ hiệu cầm đồ lịch sự cúi chào tôi, và một lần nữa tôi ngoái lại, nói: "Tạm biệt!".
Trên cầu thang, tôi gặp một người đàn bà đang xách vali đi lên. Thấy tôi có vẻ quan trọng, bà ta rụt rè đứng sang bên nhường đường. Như cái máy, tôi cho tay vào túi định tìm cái gì đấy có thể cho bà ta, nhưng không tìm thấy gì, tôi đành cúi đầu đi ngang. Một chốc sau, tôi nghe tiếng bà ta gõ cửa nhà ông chủ tiệm cầm đồ. Cửa nhà ông ta được chắn thêm bằng một lưới thép, và tôi nhận ra ngay tiếng rung của nó khi có bàn tay người chạm vào.
Mặt trời chiếu sáng từ phía nam; đã gần trưa. Người trên thành phố mỗi lúc một đông. Đây là giờ đi dạo, người đi thành từng đám đông, cúi chào nhau với nụ cười trên môi, như những làn sóng đuổi nhau trên phố Carlơ Juhan. Tôi rụt cổ, cố thu hẹp mình lại rồi nhanh chóng vượt qua một tốp người quen đang đứng cạnh trường Đại học và quan sát dòng người. Sau đó tôi leo lên đồi, tới công viên Hoàng gia, và chìm sâu trong những suy nghĩ bất tận.
Chao, những con người tôi vừa gặp mới nhẹ nhàng và vui vẻ làm sao! ý nghĩ của họ thật trong sáng. Họ đi trên đồi một cách dễ dàng như đi trên sàn nhảy bóng nhoáng của đêm vũ hội. Tôi chưa thấy người nào có vẻ buồn trong mắt, đôi vai họ không bị gánh nặng nào đè, và hình như trong tâm hồn thanh thản của họ không có mối bận tâm nào, không bóng dáng một nỗi đau bí ẩn nào. Và bước đi giữa những con người ấy là tôi, một anh chàng trẻ tuổi mới chỉ bắt đầu sống nhưng đã không còn biết thế nào là hạnh phúc. ý nghĩ này cứ bám chặt lấy tôi và tôi cảm thấy mình là nạn nhân của một sự bất công ghê gớm. Tại sao những tháng gần đây tôi phải sống khó khăn cùng cực như vậy? Tâm hồn vốn trong sáng của tôi như thể bị đem đánh tráo, ở đâu tôi cũng gặp những thất vọng cay đắng. Chỉ cần tôi ngồi lên một chiếc ghế hay định cất bước đi đâu đó là lập tức hàng loạt những chuyện ngu ngốc bần tiện xuất hiện. Chuyện vớ vẩn của một nhà quý tộc nào đó cũng có thể kích thích đầu óc tôi, bắt tôi suy nghĩ hồi lâu. Chuyện gì đã xảy ra với tôi? Nhưng tại sao lại trừng phạt tôi mà không phải ai đó đang sống tận Nam Mỹ? Càng nghĩ, tôi càng thấy khó hiểu, khó hiểu vì sao chính tôi bị Chúa chọn làm người để trừng phạt. Kể cũng lạ, đời này thiếu gì người mà Chúa lại chọn chính tôi, chứ không phải ông chủ hiệu bán sách Pasa hay anh nhân viên tàu thuỷ Henneken chẳng hạn?
Tôi vừa đi vừa suy nghĩ về tất cả những điều này, nhưng không quyết định được gì. Tôi cố tìm các chứng cớ xác đáng để phản bác lại sự bất công của Chúa khi bắt tôi phải trả giá cho tất cả lỗi lầm của những người khác. Khi tôi tìm được một chiếc ghế trống và ngồi xuống, câu hỏi này còn tiếp tục giày vò tôi, không cho suy nghĩ tới điều khác. Từ cái ngày tháng năm ấy, khi các bất hạnh bắt đầu ập đến, tôi cảm thấy sức lực từ từ rời bỏ tôi. Tôi trở nên uể oải, không còn nghị lực và mục đích phấn đấu, như một đàn thú dữ bé nhỏ nào đó chui vào người tôi và đang cắn xé tất cả những gì trong đó. Hay đơn giản là Chúa đã quyết định bắt tôi phải chết? Tôi đứng dậy, đi đi lại lại quanh chiếc ghế.
Vào giây phút ấy, toàn bộ cơ thể tôi nhức nhối một nỗi buồn đau không sao chịu nổi. Cả đôi tay cũng âm ỉ, tê tái, mà tôi thì không biết giấu chúng vào đâu. Thêm vào đó, tôi lại vừa ăn no, ăn quá no, nên trong người khác thường. Tôi bồn chồn không biết làm gì, cứ thơ thẩn quanh chiếc ghế. Nhiều khuôn mặt đi ngang qua tôi, xuất hiện và biến mất như những bóng ma. Cuối cùng có hai người đàn ông ngồi xuống chiếc ghế của tôi. Họ châm xì gà hút và bắt đầu nói chuyện với nhau rất to. Tôi khó chịu, định lên tiếng nhắc họ, nhưng thay vào đó, tôi chỉ quay người bỏ đi về phía đầu kia công viên, nơi tôi tìm được một chiếc ghế trống và ngồi xuống.
Ý nghĩ về Chúa lại xuất hiện lần nữa trong đầu tôi. Tôi cho rằng Chúa thật đáng trách vì luôn cản trở tôi mỗi lần tôi định tìm việc làm, vì Ngài làm hỏng hết mọi chuyện, mặc dù cái tôi cần chỉ là miếng bánh mì mà thôi. Tôi phát hiện thấy một điều là chỉ cần nhịn đói liên tục mấy ngày, lập tức sẽ có dấu hiệu đầu tôi bị vơi dần và trở nên trống rỗng. Nó nhẹ hẳn đi, đến mức tôi chẳng còn cảm thấy sức nặng của nó trên vai, và hình như mỗi lần tôi nhìn ai đó, đôi mắt tôi mở to
quá mức.
Tôi ngồi trên chiếc ghế công viên suy nghĩ về tất cả những điều này, và mỗi lúc một thêm oán trách Chúa đã bắt tôi phải chịu quá nhiều điều bất hạnh liên tục như vậy. Nếu Ngài định thử thách tôi, đặt hết chướng ngại vật này đến chướng ngại vật khác trên đường tôi đi, định bắt tôi phải về bên Ngài, định làm trong sạch tâm hồn tôi, thì tôi có thể mạnh dạn tuyên bố rằng Ngài đã nhầm. Tôi ngước mắt nhìn lên trời, suýt nữa khóc to vì phẫn nộ. Rồi tôi nói hết với Chúa tất cả những gì tôi nghĩ, để tâm hồn tôi được nhẹ nhõm.
Nhớ lại những gì được dạy từ bé, tôi nghe bên tai văng vẳng một giọng nói đều đều, không to, đang đọc Kinh Thánh. Tôi bắt đầu tự nói chuyện với chính mình, thỉnh thoảng lại lắc đầu một cách mỉa mai. Tại sao tôi phải luôn quan tâm tới việc tôi ăn gì, uống gì và khoác cái gì lên cơ thể trần tục của tôi? Lẽ nào Đức Chúa Trời không nuôi tôi, tên nô lệ của Ngài như Ngài đang nuôi con chim, và không ban phước lành cho tôi sao? Ngón tay Chúa đã chạm các dây thần kinh của tôi, rồi lặng lẽ, hầu như không nhận thấy, Ngài ngoéo tay kéo dứt từng sợi một. Sau đó là một lỗ hổng lớn do tay Ngài, tay Đức Chúa Trời, để lại cùng một vết thương sâu trong não tôi. Nhưng chạm ngón tay vào người tôi xong, Ngài bỏ đi, không gây thêm điều ác nào nữa. Ngài thả cho tôi đi, đi với vết thương chưa lành miệng. Và Chúa chẳng làm điều ác nào với tôi cả, vì nghìn đời nay Ngài là Đấng cứu rỗi của chúng ta...
Đói Đói - Knut Hamsun Đói