As a rule reading fiction is as hard to me as trying to hit a target by hurling feathers at it. I need resistance to celebrate!

William James

 
 
 
 
 
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Lê Hữu Mạnh
Upload bìa: Hiroshi Kobayashi
Số chương: 10
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5847 / 325
Cập nhật: 2015-05-15 10:53:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7: Cuộc Kháng Chiến Lần Thứ Ba
ỗng nhiên xuất hiện những đội quân (Giao Chỉ)
từ biển, từ rừng, từ núi,
đánh tan quân Tu Gan (Thoát Hoan) đang cướp bóc...”.
Fazl Allah Rasid ud- Dĩn (1247-1318)
(Nhà sử học Ba Tư)
Trong khi quân dân Đại Việt hân hoan mừng chiến thắng thì tên chúa Nguyên nổi giận. Thoát Hoan, con trai hắn thoát chết trở về với đám tàn quân, nhưng những viên đại tựớng như Lý Hằng, Toa Đô đã bỏ mạng... Thế là công phu bao nhiêu năm chuẩn bị cho hàng chục vạn quân xuất chinh tan ra mây khói. Căm tức vì thất bại nặng nề, nóng lòng vì cần một căn cứ cho cuộc xâm lược phương Nam, Hốt Tất Liệt gấp rút mở một cuộc chiến tranh mới đánh vào Đại Việt để báo thù.
Ngày 9 tháng 7 năm 1285, vua Trần trở về Thăng Long thì ngày 21 tháng 8 năm 1285 (20 -7 âm lịch), khu mật viện nhà Nguyên đã để nghị cử Thoát Hoan và A-ric Kha-y-a làm tiết chế đi đánh Đại Việt ( ). Vì đạo quân Thoát Hoan đã “đánh lâu sức mệt”, Hốt Tất Liệt chuẩn y lời tâu của khu mật viện xin bổ sung quân cho Thoát Hoan. Số quân bổ sung gồm một nghìn quân Mông Cổ lấy của bọn A-gu-ruc-tri (Ayuruyci) ( ), bốn nghìn quân Hán (chỉ quân bắc Trung Quốc) và quân tân phụ (chỉ quân nam Trung Quốc) lấy ở ba hành viện Giang Hoài, Giang Tây, Kinh Hồ, “chọn các tướng giỏi chỉ huy” ( ). Khu mật viện cũng xin tập trung quân ở Đàm Châu (huyện Trường Sa, Hồ Nam) vào tháng 10 âm lịch (29-10 - 27-11-1285), đặt dưới quyền chỉ huy của Thoát Hoan và A-ric Kha-y-a ( ).
Bấy giờ, Tang-gu-tai ( ), viên tướng đi đón Toa Đô ở Chiêm Thành trong cuộc chiến tranh vừa qua, lại được Hốt Tất Liệt cử làm tả thừa hành tỉnh Kinh Hồ. Tang-gu-tai để nghị cho bọn lính đánh Đại Việt trở về được nghỉ ngơi ( ). Ngày Canh Dần, 21 tháng 9 âm lịch (20-10-1285) Hốt Tất Liệt đã ra lệnh cho tất cả quân đánh Đại Việt về nhà nghỉ chỉ trừ 100 quân Mông cổ và 400 quân Hán ở lại làm túc vệ cho Thoát Hoan ( ). Tên vua Nguyên muốn cho bọn lính này phục hồi được tinh thần và sức lực sau cuộc thất trận lớn vừa qua, để có thể “phấn khởi” hơn trong lần xuất chinh tới. Việc cho quân lính nghỉ cùng chứng tỏ rằng Hốt Tất Liệt tuy nôn nóng báo thù nhưng không thể không chuẩn bị chu đáo cho cuộc chiến tranh mới.
Hốt Tất Liệt một mặt chuẩn bị chiến tranh, một mặt vẫn sai sứ sang Đại Việt, hòng dò xét tình hình và mưu toan làm triều đình Trần mất cảnh giác, không chú ý đến âm mưu xâm lược của Nguyên. Ngày Kỷ Hợi, mồng 1 tháng 10 âm lịch (29-10-1285), Kha-xa Kha-y-a (Qasar-Qaya), viên đa-ru-ga-tri ở Đại Việt trước đây lại được cử đi sứ ( ).
Đến năm sau, 1286, mọi việc chuẩn bị xâm lược Đại Việt được xúc tiến mạnh mẽ hơn. Tuy bị thua đau trên các hòn đảo Nhật Bản, Hốt Tất Liệt vẫn ra lệnh đình chỉ cuộc tấn công báo thù vào đất Nhật để dồn lực lượng cho cuộc chiến tranh ở Đại Việt. Hốt Tất Liệt nói: “Nhật Bản chưa từng xâm lấn ta, nay Giao Chỉ (chỉ Đại Việt-TG) xâm phạm biên giới, nên gác việc Nhật Bản, chuyên việc Giao Chỉ” ( ). Đây chỉ là cái lý do giả tạo của tên Hốt Tất Liệt xảo quyệt. Hắn đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược Nhật Bản - cuộc chiến tranh phục thù mà hắn đã chuẩn bị bao nhiêu năm nay - đâu có phải chỉ vì Nhật Bản chưa từng xâm lấn. Hai lần thất bại đau đớn ở Nhật Bản không cho phép hắn suy nghĩ đơn giản như vậy( ). Mặt khác, hắn xúc tiến cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt cũng không phải vì: “Giao Chỉ xâm phạm biên giới”. Đó chỉ là một điều vu khống mà thôi. Phải nói cái đã khiến cho Hốt Tất Liệt đành gác việc trả thù những thất bại nhục nhã ở biển Ghenkai, ở đảo Taka, chính là Chương Dương, Hàm Tử, Thăng Long, Tây Kết..., là những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta năm 1285. Ngày Tân Mão, 24 tháng giêng năm Bính Tuất (18-2-1286) Hốt Tất Liệt ra lệnh cho bọn A-ric Kha-y-a bàn kế hoạch đánh Đại Việt ( ). Ngày Giáp Thìn, 7 tháng 2 âm lịch (3-3-1286), Hốt Tất Liệt duyệt danh sách các tướng tá đánh Đại Việt mà điều động thêm quân.A-ric Kha-y-a vẫn được cử làm An Nam hành trung thư tỉnh tả thừa tướng. A-gu-ruc-tri (Ayuruyci, Áo Lỗ Xích) làm bình chương chính sự, Ô Mã Nhi (‘Omar), Y-gơ-mi-sơ (Yiymiẵ), A-ric Khu-xun (Arixq-Qusun), Phàn Tiếp làm tham trí chính sự ( ). Hốt Tất Liệt còn sai sứ đến Vân Nam, ra lệnh choVân Nam vương E-xen Tê-mua (Ăsăn Tãmũr) ( ) điều một hoặc hai, ba nghìn quân Kha-ra-jang (Qarjang, tức quân người dân tộc Ô Man) cho A-ric Kha-y-a đem đi đánh Đại Việt ( ). Ngày Mậu Ngọ, 21 tháng 2 (17-3-1286), Hốt Tất Liệt lại ra lệnh điều động 6 vạn quân của ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng, Giang Tây ( ). Trong 6 vạn quân đó, quân của hành tỉnh Hồ Quảng là 28.700 người. Tất cả số quân chuẩn bị đánh Đại Việt này được lệnh tập trung ở Tĩnh Giang (Quế Lâm, Quảng Tây) vào tháng 7 âm lịch (23-7 - 20-8-1286).( )
Rút kinh nghiệm cuộc chiến tranh năm 1285, lần này Hốt Tất Liệt chú ý nhiều hơn đến thủy quân. Từ ngày Đinh Tỵ, 20 tháng 2 (16-3-1286), hắn đã ra lệnh cho hành tinh Hồ Quảng đóng 300 thuyền biển để dùng trong việc đánh Đại Việt, hẹn đến tháng 8 âm lịch (21-8 - 19-9-1286) tập trung ở Châu Khâm (Khâm Huyện, Quang Đông) và châu Liêm (Hợp Phố, Quảng Đông ( ).
Hốt Tất Liệt vẫn chú trọng cánh quân Vân Nam. Ngày Canh Tý, 4 tháng 4 âm lịch (28-4-1286), hắn hạ lệnh chờ quân Mông Cổ ở Vân Nam đi đánh Đại Việt được miễn nộp tô đồn điền ( ) và đến ngày Nhâm Tý, 16 tháng 4 (10-5-1286), viên bình chương tỉnh Vân Nam là Na-xi-rut Đin (Nasir ud-Dĩn, Nạp Thốc Lạt Đinh, tên tướng đã đem quân vào Đại Việt trong cuộc chiến tranh năm 1285, lại được lệnh chia 1 nghìn quân Kha-ra-jang và Mông Cổ, chọn tướng giỏi chỉ huy, chuẩn bị tiến vào Đại Việt phôi hợp với Thoát Hoan.
Bấy giờ, tên tướng A-ric Kha-y-a ốm nặng và đến ngày 25 tháng 5 âm lịch (18-6-1286) thì chết ( ). Viên bình chương chính sự A-gu-ruc-tri đã làm nhiệm vụ chỉ huy đạo quân đánh Đại Việt thay A-ric Kha-y-a. Từ ngày 17-3-1286, A-gu-ruc-tri đã xin vào gặp Hốt Tất Liệt để bàn việc đánh Đại Việt ( ). Đến tháng 4 âm lịch (25-4 I 24-5-1286, Hốt Tất Liệt lại gọi A-gu-ruc-tri từ Hồ Quảng về Đại Đô để giao nhiệm vụ phụ tá Thoát Hoan trong cuộc xâm lược Đại Việt sắp tới. Hốt Tất Liệt đã khuyến khích A-gu-ruc-Ii: “Ngày trước bọn Mu-kha-li (Muqali) ( ) tận lực với vương thất, tiếng thơm đến nay vẫn bất hủ. Khanh cố gắng lên, há lại không vẻ vang như người xưa hay sao!”. Để khích lệ A-gu-ruc-tri, Hốt Tất Liệt còn cho con trai hắn là Tô Gan Bu Kha (Toyan Buqa) được tập chức vạn hộ ( ). Với những biện pháp đó tên vua Mông Cổ muốn cho A-gu-ruc-tri có thể thực hiện được một cách tích cực cái nhiệm vụ của A-ric Kha-y-a trước đây, về danh nghĩa là phụ tá hoàng tử Trấn Nam vương Thoát Hoan nhưng thực tế là nắm mọi kế hoạch xâm lược cụ thể.
Song song với việc chuẩn bị ráo riết về quân sự, Hốt Tất Liệt còn sắp đặt một loạt những mưu mô xảo trá. Hắn đã xúc tiến việc thành lập một triều đình bù nhìn gồm những tên Việt gian đầu hàng trong cuộc chiến tranh năm 1285 để đưa vào Đại Việt. Từ tháng 2 âm lịch (15-2 - 25-3-1286), Trần Ích Tắc đã được phong làm An Nam quốc vương, nhận phù ấn, Trần Tú Hoãn được phong làm Phụ nghĩa công ( ). Tất cả bọn Việt gian đã hàng Nguyên đều được phong những chức tước khác nhau ( ), chẳng hạn con trưởng Ích Tắc và Bá Ý được làm an phủ sứ lộ Đà Giang, em họ Tú Hoãn là Lại Ích Khuy được làm an phủ sứ lộ Nam Sách giang, Trần Văn Lộng được làm tuyên phủ sứ lộ Quy Hóa giang ( )… Như vậy là tuy chưa tiến vào Đại Việt, bọn thống trị Nguyên Mông đã sắp đặt quan chức cho cả các phủ lộ! Để chuẩn bị cho việc tiến quân xâm lược và đưa cái triều đình bù nhìn ấy về nước, Hốt Tất Liệt đã gửi một tờ “chiếu” cho nhân dân Đại Việt “kể tội” Trần Thánh Tông đã giết Trần Di Ái, không nhận Đa-ru-ga-tri Buy-y-an Tê-mua (Buyan Tãmũr), vin vào đó đòi lấy ích Tắc thay thể ( ).
Trong lúc đẩy mạnh việc tập trung quân và lập bộ máy ngụy quyền bù nhìn, Hốt Tất Liệt vẫn giữ mối quan hệ ngoại giao với Đại Việt. Những tên sứ Nguyên đến Đại Việt có nhiệm vụ đe dọa uy hiếp vương triều Trần, đồng thời do thám tình hình Đại Việt sau cuộc chiến tranh năm 1285. Tháng 2 năm Bính Tuất (25-2 - 25-3-1286), Kha-xa Kha-y-a đến Đại Việt ( ). Ngày Tân Hợi, 16 tháng 6 âm lịch (8-7-1286), Hốt Tất Liệt lại sai Ra-ma-đan (Ramadan) đi sứ Đại Việt ( ). Trong khi đó, hắn ra lệnh bắt giữ các sứ thần của ta đến triểu đình Nguyên như Nguyễn Nghĩa Toàn, Nguyễn Đức Vinh... ( ).
Tất cả những hành động trên đây của bọn gây chiến Nguyên Mông làm cho người ta tưởng rằng cuộc chiến tranh sắp bùng nổ. Nhưng tình hình Trung Quốc bây giờ đá khiến Hốt Tất Liệt không thực hiện ngay được tham vọng của hắn. Dưới ách áp bức bóc lột của bọn thông trị Mông Cổ, nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là ở miền Nam, đã hoàn toàn kiệt quệ vì phải cung ứng cho những cuộc chiến tranh xâm lược liên miên do bọn thống trị ngoại tộc gây ra. Cảnh nghèo đói xác xơ diễn ra khắp vùng nông thôn phía nam Trường Giang. Hàng trăm cuộc khởi nghĩa đã nổ ra ỏ đồng bằng cũng như miền núi. Tình hình đó trước hết làm cho bọn quan lại Giang Nam lo lắng. Tháng 6 âm lịch (23-6 - 22-7-1286), tuyên úy ty Hồ Nam đã đề nghị hoãn binh:
“Luôn năm đánh Nhật Bản và dùng binh ở Chiêm Thành, trăm họ mệt vì vận chuyển, phú dịch nặng nề. Quân sĩ mắc phải chướng lệ chết rất nhiều. Dân chúng kêu than, tứ dân bỏ nghiệp. Người nghèo phải bỏ con để cầu sống, kẻ giàu phải bán sản nghiệp để ứng dịch. Nỗi khổ như bị treo ngược, mỗi ngày một tăng. Nay lại có việc đánh Giao Chỉ, điều động đến trăm vạn người, tiêu phí đến nghìn vàng, đó chẳng phải là việc để thương quân dân. vả lại trong lúc cử động, lợi hại không phải chỉ là một. Lại thêm nữa Giao Chỉ vẫn thường sai sứ dâng biểu xưng phiên thần, nếu theo lời xin để phục hồi sức dân thì là kế hay nhất. Nếu không được thì nên nới phú thuế cho trăm họ, chứa lương thực, sắm giáp binh, đợi đến năm sau thiên thời lợi hơn một chút rồi hãy cất quân cũng chưa muộn” ( ).
Viên quan ở hành tỉnh Hồ Quảng là Xen-ghê (Tuyến Kha, Sánãg) đồng ý với lời đề nghị đó, đã sai người về kinh đô tâu với Hốt Tất Liệt. Y còn nói thêm: “Tỉnh tôi trấn giữ hơn 70 sở, luôn năm chinh chiến, quân sĩ tinh nhuệ đều mệt nhọc ở ngoài, kẻ còn lại đều già yếu, mỗi thành ấp nhiều không quá hai trăm quân, trộm nghĩ rằng sợ kẻ gian dò xét được tình hình đó. Năm ngoái bình chương A-ric Kha-y-a xuất chinh, thu 3 vạn thạch lương, dân còn kêu khổ, nay lại thu gấp bội số đó, quan không có tích trữ, còn mua ở trong dân, trăm họ sẽ khốn khổ khôn xiết. Nên theo lòi của tuyên úy ty, xin hoãn quân đánh phương Nam” ( ). Điều lo lắng của Xen-ghê là ở chỗ nếu đem quân xuống Đại Việt thì sự phòng thủ địa phương sẽ rất yếu ớt, không chống cự được sức tấn công của nhân dân Trung Quốc khởi nghĩa mà y gọi là “kẻ gian”.
Ngay ở triều đình Nguyên cũng có những ý kiến phản đối việc xuất chinh Đại Việt. Viên Lễ bộ thượng thư Lưu Tuyên cũng lo ngại về điều mà Xen-ghê đã nói và tỏ ra không tin tưởng ở kết quả của cuộc chiến tranh đó. Lưu Tuyên đã tâu với Hốt Tất Liệt:
"Luôn năm đánh Nhật Bản, trăm họ sầu oán, quan phủ nhiễu nhương. Mùa xuân năm nay bãi binh, quân dân Giang Chiết reo mừng như sấm. An Nam là nước nhỏ, thần phục đã bao năm, tuế công chưa từng sai hạn. Vì tướng ở biên sinh sự hưng binh, nên kẻ kia trốn tránh ra hải đảo, khiến cất đại quân đi mà không được công trạng gì, tướng sĩ lại bị thương tổn. Nay lại hạ lệnh đi đánh nữa, ai nghe thấy cũng lo sợ. Từ xưa dấy quân, tất phải theo thiên thời. Ở vùng trung nguyên đất bằng còn phải tránh giữa mùa hạ. Giao Quảng là đất viêm chướng, khí độc hại người còn hơn là binh đao. Nay định tháng 7 họp các đạo quân ở Tĩnh Giang đến An Nam tất nhiều người mắc bệnh chết, lúc cần cấp gặp giặc biết lấy gì ứng phó. Ở Giao Chỉ lại không có lương, đường thủy khó đi, không có xe ngựa, trâu bò chuyên chở thì không thể tránh được vận chuyển đường bộ. Một người phu gánh 5 đấu gạo, đi về ăn hết một nửa, còn quan quân được một nửa. Nếu có 10 vạn thạch lương, dùng 40 vạn người cũng chỉ có thể có lương cho quân 1, 2 tháng. Chuyên chở, đóng thuyền, phục dịch việc quân phải dùng đến 5, 60 vạn người. Quảng Tây, Hồ Nam điều động nhiều lần, dân ly tán nhiều, lệnh cho cung dịch cũng không thể làm được. Huống chi Hồ Quảng rất gần khe động, trộm cướp thường nhiều, vạn nhất kẻ gian dò được, chờ đại quân một khi đi khỏi, thừa lúc bỏ không mà gây biến. Tuy có quân mã lưu lại nhưng là người già yếu mệt nhọc, khó bề ứng biến. Sao không cùng người hiểu biết sự thể trong quan quân bên kia (chỉ Đại Việt - T.G) mà bàn bạc phương lược vạn toàn. Nếu không thì sẽ giẫm vào vết xe cũ” ( ).
Những “trộm cướp” mà Lưu Tuyên nhắc tới chính là những cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam Trung Quốc. Trong tình trạng nhân dân Trung Quốc nghèo đói và nổi dậy như vậy, những lời can ngăn của bọn quan lại cấp dưới đã làm tên vua Mông Cổ Hốt Tất Liệt phải bất đắc đĩ hoãn cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt. Khi nghe khu mật viện đem những lời của hành tỉnh Hồ Quảng tâu lên, hắn ra lệnh ngừng việc tập trung quân và cho quân sĩ trở về các doanh. Bọn Việt gian Trần Ích Tắc lại lủi thủi trở về châu Ngạc (Hồ Bắc) ( ).
Cuộc viễn chinh xâm lược ngừng lại nhưng Hốt Tất Liệt vẫn không từ bỏ âm mưu của mình. Tháng 7-1286, hắn ra lệnh hoãn binh nhưng đến cuốỉ năm thì mưu đồ gây chiến lại sôi sục trong đầu óc hắn. Việc cấp bốn nghìn ngựa cho Thoát Hoan vào tháng 11 năm 1286 có thể coi là sự kiện đánh dấu cho mưu đồ đó ( ). Ngày Kỷ Tỵ tháng 11 âm lịch (23-11-1286), Hốt Tất Liệt lại cử A-ba-tri (Abaci) làm hữu thừa của “Chinh Giao Chỉ hành tỉnh”, tức là cái cơ quan được lập nên để chuẩn bị đánh Đại Việt ( ).
Đến năm sau, năm Đinh Hợi, 1287, Hốt Tất Liệt lại đẩy mạnh hơn nữa hoạt động chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Hắn đâ quên hẳn những lời can ngăn của Xen-ghê và Lưu Tuyên, và chừng như tự cho rằng hắn đã thực hiện cái kế cùa tuyên úy ty Hồ Nam, cố gắng “đợi đến năm sau thiên thời lợi hơn một chút rồi hãy cất quân”.
Tháng giêng năm đó (15-1 - 13-2-1287), Hốt Tất Liệt đã gấp rút điều động quân và tổ chức việc xâm lược. Cơ quan phụ trách việc xâm lược Đại Việt được gọi là “Chinh Giao Chỉ hành thượng thư tỉnh”. A-gu-ruc-tri vẫn được cử làm bỉnh chương chính sự ( ). Ngoài viên hữu thừa A-ba-tri đã cử từ năm trước, Hốt Tất Liệt còn lấy Trình Bằng Phi làm hữu thừa và A-li (‘Ali, A Lý) làm tả thừa ( ), Ô Mã Nhi (Omar) và Phàn Tiếp làm tham tri chính sự ( )... Phần lớn các tướng là những tên đã đi xâm lược Đại Việt năm 1284-1285. Tất cẳ các tướng tá đều đặt dưới quyền tổng chỉ huy của Thoát Hoan.
Trong số quân Hốt Tất Liệt điều động lần này ( ) có 1.000 quân tân phụ (quân miền Nam của Nam Tống cũ) do A-ba-tri chỉ huy, 70.000 quân Mông Cổ và quân Hán (người Trung Quốc miền Bắc) của ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng ( ), 6.000 quân Vân Nam (có lẽ quân Kha-ra-jang, người Ô Man tức người Di) do viên tướng người Tang-gut (Tây Hạ) là A-ruc (Aruq, Ái Lỗ) chỉ huy( ). Ngoài ra, còn có 15.000 quân người Lê ở đảo Hải Nam ( ). Đấy là chưa kể số động binh (quân miền núi, chỉ người Choang) ở Quảng Tây do viên tướng người Kíp Trắc (Kipcak, Trung Á) là Sic-tua (Siktur, Tích Đô Nhi) chỉ huy ( ). Càng mang nhiều quân thì việc tiếp tế lương thực lại càng nặng nề. Không thể huy động mấy chục vạn phu gánh gạo theo quân nên nhà Nguyên lần này phải tải lương bằng đường biển. Trương Văn Hổ, con một tên cướp biển đã đầu hàng Hốt Tâ't Liệt, được giữ chức Giao Chỉ hải thuyền vạn hộ ( ) cùng với Phí Cung Thìn, Đào Đại Minh phụ trách 70 thuyền vận tải chở 17 vạn thạch lương( ). Để hộ tống thuyền lương đồng thời cũng là để mở một mũi tấn công bằng đường thủy vào một phía của quân Việt, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Trương Ngọc, Lưu Khuê... được lệnh đem 500 chiến thuyền từ Khâm Châu tiến vào Đại Việt ( ).
Huy động 500 thuyền đánh Đại Việt là một cố gắng mới đáng chú ý trong kế hoạch xâm lược của Hốt Tất Liệt. Rút kinh nghiệm hai lần chiến tranh trước, hắn thấy được rằng tiến quân vào một xứ sông ngòi chằng chịt mà không có thuyền thì kỵ binh thật khó xoay xở và không thể nào chống nổi đội thủy quân thiện chiến Đại Việt. Năm ngoái, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh cho Hồ Quảng đóng 300 thuyền, nhưng đến nay hắn đã cho tăng thêm 200 thuyền nữa. Nhưng có lẽ Hốt Tất Liệt vẫn chưa bằng lòng với số quân thuyền đã chuẩn bị. Đến tháng 9 âm lịch (9-10 -6-11-1287), an phủ sứ Quỳnh Châu (Hải Nam) Trần Trọng Đạt, tổng quản Nam Ninh Tạ Hữu Khuê, tổng quản Diên Lan Bồ Tý Thành đem số thuyền riêng là 120 chiếc và hơn 1.700 quân người Lê giúp đạo quân đánh Đại Việt thì Hốt Tất Liệt liền ban hổ phù cho Trọng Đạt, kim phù cho Hữu Khuê và Tý Thành ( ).
Tên vua Nguyên đã chuẩn bị khá chu đáo cho cuộc chiến tranh xâm lược nhưng hắn vẫn e ngại trước sức mạnh của Đại Việt.Hắn đã biết Đại Việt là “nước bé nhỏ thế mà sai thân vương đem quân tiến sâu vào, chưa từng thấy báo công. Toa Đô bại bị địch giết, tự lưu lại điều xấu hổ nhục nhã” như lời Lưu Tuyên nói ( ). Chính vì thế mà trước khi đạo quân xâm lược xuất phát, ngày Kỷ Tỵ tháng 8 âm lịch (19-9-1287), Hốt Tất Liệt đã chỉ thị cho Thoát Hoan và bọn A-gu-ruc-tri “không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà khinh thường” ( ).
Trong lúc Hốt Tất Liệt và bọn phong kiến Nguyên Mông ráo riết chuẩn bị gây chiến tranh ăn cướp như vậy, thì nước Việt bé nhỏ mà kẻ thù khiếp sợ cũng đang từng giờ từng phút chuẩn bị chiến đấu. Sau chiến thắng oanh liệt năm 1285 quét sạch bóng thù trên đất nước, nhà Trần vẫn giữ đường lối ngoại giao mềm dẻo như trước. Vua Trần lại cử các sứ bộ mang cống vật sang triều đình Nguyên. Tháng giêng năm Bính Tuất, niên hiệu Trùng Hưng thứ 2 (26-1 -24-2-1286), vua Trần tha bọn tù binh Nguyên vừa bị bắt về nước ( ). Vương triều Trần hết sức nhân nhượng, muốn cho nhà Nguyên đỡ mất thể diện, mong tránh được cuộc chiến tranh báo thù. Nhưng dã tâm của kẻ địch càng ngày càng lộ rõ. Các sứ thần của ta đều bị Hốt Tất Liệt bắt giữ ( ). Trựớc thái độ khiêu khích của thẻ thù, toàn quân toàn dân Đại Việt đã hết sức cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Khi được tin vua Nguyên lại chuẩn bị xâm lược thì việc tập dượt của quân đội ngày càng được đẩy mạnh. Tháng 6 năm Trùng Hưng thứ 2 (13-6 - 22-7-1286), Trần Nhân Tông ra lệnh cho tất cả vương hầu tông thất mộ thêm binh lính, chấn chỉnh lực lượng. Chiến thuyền, khí giới được gấp rút chế tạo, tu sửa; Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn lại được cử làm tướng chỉ huy chung, đôn đốc việc chuẩn bị của triều đình là vương hầu. Đến tháng 10 âm lịch năm đó (19-10 - 16-11-1286), một cuộc diễn tập lớn được tổ chức ( ). Tất cả các nơi hiểm yếu đểu đã có quân đóng giữ. Biết tin kẻ thù chuẩn bị binh thuyền, nhà Trần đã tăng cường việc phòng thủ đường biển. Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư được phong làm phó tướng, đóng quân ở Vân Đồn (Hải Vân, cù lao Lợn lòi), phụ trách việc quân sự miền ven biển. Năm 1286 khi nghe tin vua Nguyên điều động quân sang xâm lược, Trần Nhân Tông đã hỏi Hưng Đạo vương: “Năm nay thế giặc ra sao?”. Hưng Đạo đã trả lời: "Quân kia nếu lại đến thì quân sĩ của ta đã quen đánh trận, quân của chúng thì sợ đi xa, lại còn bị cái thết bại của Hằng, Quán đe dọa, không có chí chiến đấu. Theo như thần thấy, phá được chúng là tất nhiên” ( ). Câu nói đầy tin tưởng đó của vị tướng tổng chỉ huy cũng phản ánh được tình hình chuẩn bị kháng chiến. Với tinh thần “Sát Thát”, quyết tâm tiêu diệt địch, quân sĩ ta đã ra sức rèn luyện để có một kỹ thuật chiên đấu cao. Đầu năm 1287, khi quan chấp chính xin tuyển thêm quân, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã nói: “Quân quý ở chỗ tinh nhuệ, không quý ở chỗ nhiều, như Bồ Kiên có trăm vạn quân cũng chẳng làm được gì! ( ). Chính dựa vào tinh thần chiến đấu, sự rèn luyện của quân dân và kế hoạch chống giặc của mình mà khi kẻ thù xâm phạm Tổ quốc, Trần Quốc Tuấn đã quả quyết nói với nhà vua rằng: “Năm nay đánh giặc dễ” ( ).
Tin chắc ở thắng lợi cuối cùng, nhân dân Đại Việt sẵn sàng chiến đấu trong cuộc chiến tranh mới. Đã đến lúc Hốt Tất Liệt liều lĩnh thực hiện kế hoạch xâm lược của hắn. Lần tấn công này cũng như lần chiến tranh trước, Hốt Tất Liệt đã cho một mũi quân tiến từ Vân Nam xuống và một mũi quân tiến vào biên giới Lạng Sơn, nhưng khác với lần trước, hắn còn cho một mũi thủy quân vượt biển, tiến vào theo đường sông Bạch Đằng.
Ngày 3 tháng 9 năm Đinh Hợi (11-10-1287), quân Nguyên dưới quyền chỉ huy của Thoát Hoan là A-gu-ruc-tri xuất phát từ Ngạc Châu (Hồ Bắc) ( ). Ngày Ất Dậu 28 tháng 10 (4-12-1287) đến huyện Lai Tân (Quảng Tây), Thoát Hoan cho tách quân thủy bộ ( ). Thoát Hoan đi với đoàn bộ binh. Trần Ích Tắc cũng được Thoát Hoan đem về theo ( ). A-ba-tri với một nghìn quân tiếp tục dẫn đường đưa Thoát Hoan đến châu Tư Minh ( ). Ngày Kỷ Hợi 13 tháng 11 (18-12-1287) đến Tư Minh, Thoát Hoan dừng lại chấn chỉnh đội ngũ. Hắn sai viên vạn hộ Hạ Chỉ cùng với 2.500 quân ở lại giữ xe cộ quân nhu ( ). Một số tướng tá và bọn Việt gian Lê Trắc cũng ở lại để vào sau ( ). Ngày Bính Ngọ 20 tháng 11 (25-12-1287), Thoát Hoan tiến quân đến con sông ở biên giới. Quân ta tiến lên đánh rồi rút ngay ( ). Ngày Canh Tuất 24 tháng 11 (29-12-1287), Thoát Hoan đến Lộc Châu (Lộc Bình, Lạng Sơn), chia quân làm hai cánh ( ) tiến xuống theo hai con đường phía tây và phía đông như trong cuộc chiến tranh vừa qua. Trình Bằng Phi và Bôn-kha-đa (Bolqadar) đem một vạn quân Hán tiến theo con đường phía tây từ Vĩnh Bình đên Chi Lăng, tức theo con đường quốc lộ số 1 ngày nay.
Trong cuộc chiến tranh trước, năm 1285, Bôn-kha-đa cũng đã tiến quân theo con đường này ( ). Thoát Hoan chỉ huy số quân còn lại đi theo con đường phía đông tức con đường từ Lộc Bình (Lạng Sơn) đi Sơn Động (Hà Bắc) ngày nay ( ). Năm 1285, chính Thoát Hoan đã tiến theo con đường này cùng với A-ric Kha-y-a. Bây giờ, viên bình chương Ạ-gu-ruc-tri dẫn một vạn quân đi cùng Thoát Hoan. A-ba-tri đem một vạn quân đi tiên phong ( ).
(18) (19) (20)
Cánh quân phía tây của Trình Bằng Phi và Bôn-kha-đa tiến qua các cửa quan Chi Lăng, Hãm Sa, Từ Trúc, đánh nhau với quân ta tất cả 17 trận ( ). Ngày 24 tháng 11 (29-12-1287), quân Nguyên tiến đánh cửa Lãnh Kinh. Hưng Đức hầu Quán chỉ huy cấm quân dùng tên độc bắn. Quân giặc chết rất nhiều, phải lui về đóng ở cửa Vũ Cao ( ). Cánh quân của Thoát Hoan và A-gu-ruc-tri sau khi tiến qua các cửa quan trên con đường phía đông như Nữ Nhi, Khả Lỵ..., ngày Giáp Dần 28 tháng 11 (2-1-1288) đã đến Vạn Kiếp ( ). Đi 4 ngày từ Lộc Châu đến Vạn Kiếp, rõ ràng cánh quân này đã tiến khá nhanh. Có lẽ đã nắm chắc được đây là con đường tiến quân của cánh quân mạnh nhất do Thoát Hoan và A-gu-ruc-tri trực tiếp chỉ huy nên Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn chỉ cho tướng sĩ đánh kìm chân giặc ở một số cửa ải rồi rút lui nhanh để bảo toàn lực lượng tránh va chạm lớn với địch ( ).
Cánh quân Vân Nam do viên hữu thừa A-ruc (Aruq) chỉ huy đâ ra đi trước ngày đạo quân Thoát Hoan đến Tư Minh, từ Trung Khánh (Côn Minh, Vân Nam) qua vùng các dân tộc Lô Lô (tức người Di), Bạch Y (tức người Thái) để vào biên giới Đại Việt ( ). Ngày Nhâm Thìn, 6 tháng 11 (11-.12-1287) A-ruc cùng với chư vương A-tai (Atai) và Mang-khu-đai (Mangquđai) đã tiến đến Bạch Hạc, đánh nhau với 4 vạn quân của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật ở cửa quan Mộc Ngột (Việt Trì). Trong trận này, quân ta bị mất một số thuyền, tướng Trần là Lê Thạch và Hà Anh bị giặc bắt ( ). Quân A-ruc tiếp tục tiến. Ngày 14 tháng 11 (19-12-1287) chúng đánh vào cửa quan Phú Lương ( ).
Trong khi các cánh quân bộ kỵ của Thoát Hoan và A-nic ào ạt tiến vào Đại Việt thi thủy quân của giặc cũng đã lên đường.Sau khi tách khỏi đoàn quân Thoát Hoan ở Lai Tân ngày 28 tháng 10 âm lịch (4-12-1287), ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đi Khâm Châu. Từ đây, đoàn thuyền của chúng xuất phát. Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đem 1 vạn 8 nghìn quân; bọn ô Vỵ, Trương Ngọc, Lưu Khuê đem vài vạn quân. Trương Văn Hổ đi với thuyền lương. Ngày Mậu Tuất, 12 tháng 12 (17-12-1287), chiến thuyền của bọn Ô Mã Nhi tiến trước ( ). Mấy ngày sau, thuyền giặc qua cửa biển Vạn Ninh (Móng Cái) ( ). Đến Ngọc Sơn, chúng gặp tướng Nhân Đức hầu Trần Da phục binh ở trên núi chặn đánh. Chiến thuyền giặc vây núi đánh lại và qua được cửa Ngọc Sơn ( ). Sau dó, thuyền của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp tiến vào cửa An Bang (Quảng Yên), ở đây, thủy quân Đại Việt có giao chiến với binh thuyền của giặc nhưng bị tổn thất, phải rút lui, không ngăn chặn được bước tiến của chúng ( ). Ô Mã Nhi sau khi qua được cửa An Bang, đã theo sông Bạch Đằng tiến vế phía Vạn Kiếp. Hắn tưởng rằng quân ta không thể ngăn trở đoàn thuyền lương đi sau đươc nữa nên cứ tiến thẳng, không chứ ý đến Trương Văn Hổ ( ).
Nghe tin quân ta thất lợi, thượng hoàng Thánh Tông cho người đến đòi Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, tướng phụ trách vùng bờ biển, về triều hỏi tội. Khánh Dư đã xin khất ít lâu để lập công vì ông nghĩ rằng đoàn chiến thuyền của giặc đã đi qua, có thể đánh đoàn thuyền lương một cách dễ dàng, Khánh Dư đã củng cổ lực lượng đón địch ( ).
Quả nhiên mọi việc đã xảy ra đúng như dự đoán của người tướng mưu trí đó. Tháng 12 âm lịch (5-1 - 2-2-1288), đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ không có lực lượng chiến đấu mạnh mẽ yểm hộ, đã chậm chạp tiến vào Hạ Long, lọt vào trận địa của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Thủy quân ta đã tập kích giặc ở Vân Đồn (Vân Hải). Trương Văn Hổ cố gắng tiến về phía đất liền nhưng đến biển Lục Thủy (Cửa Lục, Hòn Gai) thì thuyền quân ta đổ ra đánh càng đông, Trương Văn Hổ đại bại, đổ cả thóc xuống biển, trốn chạy về Quỳnh Châu (Hải Nam). Thuyền lương của Phí Củng Thìn thì tháng 11 âm lịch (6-12-1287 - 4-1-1288) mới đến Huệ Châu (huyện Huệ Dương, Quảng Đông), gặp gió bão, trôi giạt đến Quỳnh Châu. Thuyền lương của Từ Khánh thì trôi giạt đến tận Chiêm Thành rồi cũng về Quỳnh Châu ( ).
Quân ta chiến thắng, “bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất đông”. Theo Nguyên sử, địch chết 220 tên, thuyền mất 11 chiếc, lương mất hơn 14.300 thạch. Con số đó chắc chắn còn xa với thực tế vì Trương Văn Hổ chỉ thạy thoát trên một chiếc thuyền. Chiến thắng Vân Đồn có một ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ cuộc kháng chiến lần thứ ba của quân dân ta. Từ đó, vấn để lương thực trở lên vô cùng khó khăn đối với kẻ thù.
Vào cuối tháng 11 âm lịch (đầu tháng 1-1288), khi Thoát Hoan tiến quân đến Vạn Kiếp thì cánh quân phía tây của Trình Bằng Phi và cánh thủy quân của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp cũng đến hội ở đây ( ).
Nếu trong cuộc kháng chiến trước, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã tập trung một binh lực rất lớn để giữ Vạn Kiếp thì lần này, lực lượng phòng thủ ở đây rất ít và đã rút lui an toàn trước sức tấn công của giặc. Trái lại, tên tướng Mông Cổ Thoát Hoan lại muốn biến vùng Vạn Kiếp thành một căn cứ vững chắc rồi mới tiến quân. Có lẽ đó là vì hắn rút kinh nghiệm lần chiến tranh trước, khi hắn đã tiến vào Thăng Long thì Trần Quốc Tuấn lại đem binh thuyền trở về đóng ở Vạn Kiếp. Lần ấy, bị uy hiếp, hắn đã hoảng sợ, phải xin Hốt Tất Liệt tăng viện. Giờ đây, khi tiến đến Vạn Kiếp, hắn đã sai Lưu Uyên đem hai vạn quân thủy bộ đánh chiếm sông Vạn Kiếp (sông Lục Đầu) và thành Linh Sơn (ở núi Chí Linh ( ). Sic-tua được lệnh của A-ba-tri, đem quân chiếm thành chữ nhất ( ). Ngày Kỷ Vị, 3 tháng chạp (7-1-1288) Thoát Hoan tiến đến Tứ Thập Nguyên( ). Vì chưa thấy thuyền lương của Trương Văn Hổ, Thoát Hoan phải sai Ô Mã Nhi đem quân cướp lương thực của nhân dân. Thoát Hoan lại sai Trình Bằng Phi, A-li (ALi), Lưu Giang chỉ huy hai vạn quân giữ Vạn Kiếp và làm thành trại bằng gỗ ở núi Phả Lại, núi Chí Linh để chứa lương ( ).
Như vậy là Thoát Hoan dựa vào vị trí thuận lợi của sông Lục Đầu, đã xây dựng các cứ điểm trên các ngọn núi dọc hai bên sông, biến vùng này thành một khu căn cứ cho cả quân bộ lẫn quân thủy. Trong khi đó thì quân ta đã rút khỏi hệ thống phòng thủ này, tránh được thế bị kẹp giữa ba gọng kìm xảo quyệt của kẻ thù. Hưng Đạo vương Quốc Tuấn cho lui quân về giữ vùng sông Đuống để ngăn giặc tiến về Thăng Long. Ngày 16 tháng 12 âm lịch (10-1-1288), vua Trần sai minh tự Nguyễn Thức đem quân dũng nghĩa Thánh dực đến giữ cửa Đại Than (cửa sông Đuống thông ỵói sông Lục Đầu) giúp thêm cho Hưng Đạo vương ( ). Ngày 18 tháng 12 (21-1-1288) Thoát Hoan đến cảng Mao La, đánh nhau với Hưng Đạo vương. Sau đó Thoát Hoan lại đánh trại Phù Sơn ( ). Đây là những trận để mỏ rộng và củng cố khu căn cứ Vạn Kiếp của Thoát Hoan.
Đến ngày 23 tháng 12 (27-1-1288), Thoát Hoan mới bắt đẩu chia quân tiến về phía Thăng Long ( ). Ô Mã Nhi chỉ huy thủy quân, A-ba tri chỉ huy lục quân tiến lên trước ( ). Phàn Tiếp đem chiến thuyền hộ vệ Thoát Hoan tiến theo dọc sông Đuống. Ngày 26 tháng 12 (30-1-1288) minh tự Nguyễn Thức lấp cửa sông Đuống, đánh nhau với giặc. Quân giặc bị thua nhưng sau đó chúng lại tiến được về phía Gia Lâm. Ở đây, chúng lại gặp phục binh của ta nhưng rồi quân ta lại rút lui và thuyền giặc tiến ra sông Hồng ( ).
Khi thấy các cánh quân của Thoát Hoan đã tiến về phía Thăng Long, bọn quân Nguyên còn lại ở Tư Minh cùng với bọn Lê Trác cũng tiến vào Lạng Sơn. Đó là 5 nghìn dư binh của các cánh do bọn tĩnh đô sự hầu Sư (hay Đô), vạn hộ Đạt (không rõ tên), thiên hộ Tiêu chỉ huy. Bọn Việt gian thì gồm có Lê Trắc, thiêm sự Nguyễn Lĩnh, phủ phán Lê Án và con trai của Trần Ích Tắc là Dục, mới lên 9 tuổi ( ). Chúng tiến theo con đường mà Thoát Hoan và A-gu-ruc-tri đã đi qua. Có lẽ bọn xâm lược và bán nước này tưởng rằng những đội quân kỵ và chiến thuyền của Thoát Hoan tiến xa về phía Thăng Long kia đã mở đường cho chúng xâm nhập vào biên giới Đại Việt một cách dễ dàng.
Nhưng bọn chúng không hiểu được rằng quân Trần tránh những mũi nhọn của địch không có nghĩa là rút lui toàn bộ, để tất cả đất đai lọt vào tay giặc. Dưới sự chỉ huy tài tình của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, một bộ phận quân ta rút lui để bảo toàn lực lượng chờ cơ hội phản công, trong khi đó, một bộ phận khác chỉ là tạm lánh, để cho đại quân của giặc đi qua rồi trở lại hoạt động ở vùng sau lưng địch. Hoạt động chiến đấu của những cánh quân này phối hợp với nhân dân địa phương đã làm cho kẻ thù hoảng sợ ngay từ cuộc chiến tranh trước. Hẳn một phần vì lý do đó mà lần này bọn Thoát Hoan, A-gu-ruc-tri đã cho xây dựng căn cứ Vạn Kiếp - Phả Lại - Chí Linh, hòng khống chế ở các vùng chúng đã vượt qua. Nhưng kẻ thù đã thất bại trong việc thực hiện âm mưu đó. Khắp mọi nơi, ở những vùng sau lưng địch, quân ta vẫn hoạt động được. Ngay ở phía trên vùng Vạn kiếp, trong lưu vực sông Lục Nam ngày nay, một cánh quân ta vẫn tiếp tục hoạt động. Chính cánh quân này đã chặn đánh 5 nghìn quân Nguyên cùng bọn Lê Trác tiến vàọ sau.
Ngày Giáp Thán 28 thảng 12 (1-2-1288), quân Nguyên và bọn Lê Trắc tiến vào cửa quan Nội Bàng ( ). Bị quân ta chặn đánh, bọn giặc đã đốt phá nhà cửa của nhân dân, bày trận quay lưng ra sông Bình Giang ( ) để chống lại. Quân ta đã anh dũng chiến đấu suốt một ngày một đêm. Đến canh năm, quân ta phá tan trận địch. Bọn tỉnh đô sự hầu Sư (hay Đô) cùng vài nghìn tên quân còn lại không biết đường chạy, bị ta tiêu diệt nốt. Lê Trắc thuộc đường dẫn bọn vạn hộ Đạt, thiên hộ Tiêu cùng với mấy tên Việt gian Nguyễn Lình, Lê Án chạy trốn. Năm nghìn quân này đã bị tiêu diệt hết chỉ còn 60 kỵ binh. Quân ta tiếp tục truy kích. Lê Án ôm đứa bé con Ích Tắc trên lưng một con ngựa yếu, tụt lại sau, suýt bị quân ta bắt. Trắc phải đổi ngựa cho Án rồi ra roi thúc ngựa chạy bán sống bán chết. Giữa đường, bọn chúng lại bị quân ta tập kích. Lần này, có lẽ Lê Trắc còn hoảng sợ hơn lần đi với Mang-lai Xi-ban, bị phục kích trên con đường Chi Lăng trong cuộc chiến tranh trước. Nỗi hoảng sợ đó sau này còn toát ra trong những dòng hồi ký của hắn: “Chật vật hiểm nghèo, muôn phần chắc chết, ngày chạy mấy trăm dặm, từ nửa đêm đến tảng sáng đến châu, vọng bái cửa khuyết, mừng tết năm Mậu Tý (!)”. Mồng một tết (3-2-1288), những tên sống sót ra khỏi biên giới đặt tiệc rượu mừng thoát chết rồi lủi thủi về Tư Minh ( ).
Cùng những ngày cuối năm này, cánh quân Vân Nam của A-ruc cũng tiến về phía Thăng Long để phối hợp với Thoát Hoan đánh kinh đô ( ). Bấy giờ Thoát Hoan đang ở bên bờ sông Hồng. Vua Trần sai người chú đến chỗ Thoát Hoan đóng quân giả cầu hòa để dò xét tình hình địch. Thoát Hoan sai viên lý vấn quan Tra-gan (Cayan) “kể tội” vua Trần ( ). Sau đó, ngày Ất Dậu 29 tháng 12 (2-2-1288), Thoát Hoan cho quân vượt sông Hồng đánh vào Thăng Long ( ).
Cũng như trong hai cuộc chiến tranh trước, quân dân Trần đã rút khỏi kinh thành, chỉ để lại một số ít binh sĩ chiến đấu cầm cự rồi cũng rút lui.
Sau khi ra khỏi Thăng Long, vua Trần đem quân về đóng ở đồn Cảm Nam ( ) và các căn cứ dọc sông Hồng. Tháng giêng năm Mậu Tý (3-2 - 3-3-1288) Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem thủy quân dọc theo sông Hồng đuổi theo. Thoát Hoan tiến theo bờ phía tây, A-ba-tri không qua sông vào Thăng Long mà tiến theo bờ phía đồng ( ).Trong khi đuổi theo, Ô Mã Nhi đã bắn tin đe dọa vua Trần:
“Ngươi chạy lên trời ta theo lên tròi, ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên núi, ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước” ( ).
Quân Thoát Hoan đánh vào đồn Cảm Nam ( ). A-ba-tri đánh vào ải Hàm Tử( ). Vua Trần lại lui xuống cửa Hải Thị ( ). Khi quân Nguyên tiến đến thì vua Trần lại xuống miền hạ lưu sông Hồng.
Trong khi tìm kiếm vua tôi nhà Trần, Ô Mã Nhi đã cho quân mặc sức tàn sát nhân dân, đốt phá nhà cửa, cướp bóc của cải. Hắn còn sục vào phủ Long Hưng (Tiên Hưng, Thái Bình), nơi có lăng mộ của họ Trần, cho khai quật lăng Trần Thái Tông để thỏa dã tâm báo thù lần thất bại trước của hắn ( ). Nhưng tìm khắp miền Thiên Trường (Nam Định), bọn giặc vẫn không thấy vua Trần. Bấy giờ chúng mới được tin là vua Trần đã theo cửa Thiên Trường (cửa Giao Thủy) ra biển. Đên đây thì bọn chúng bị mất hút hẳn ( ).
Không đuổi kịp vua Trần, ngày 4 tháng giêng âm lịch (6-2-1288), Thoát Hoan đem quân trở vể Thăng Long ( ). Việc thiếu lương thực đã trỏ thành một nguy cơ nghiêm trọng đối với địch. Chưa biết thuyền lương đã bị đánh tan, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem thủy quân ra biển đón Trương Văn Hổ. Đồng thời Thoát Hoan sai bọn A-gu-ruc-tri và A-ba-tri chia đường đi cướp bóc để kiếm lương thực ( ). Bấy giờ, quân ta đã hoạt động ở nhiều nơi. Bọn giặc tiến đánh các trại Cá Trầm, Cá Lê, Mã Sơn, Ngụy Trại của ta ( ). Sic-tua, viên tùy tướng của A-ba ri trong tháng giêng âm lịch đã đến sát chỗ đóng quân của Hưng Đạo vương Quốc Tuấn và giao chiến với quân ta ở Tháp Nhi Sơn (Đồ Sơn) ( ). Sau khi cướp bóc được một số thuyền bè và thóc gạo, A-ba-tri trở vể Thăng Long ( ).
Ngày 8 tháng giêng (10-2-1288), binh thuyền Ô Mã Nhi đi đón Trương Văn Hổ đến cửa Đại Bàng (cửa Văn Úc). ở đây, thủy quân của ta đã chặn đánh khiến Ô Mã Nhi bị thiệt hại nặng ( ). Sau khi vượt qua được chỗ hiểm nghèo đó, Ô Mã Nhi phải cố gắng tiến lên nữa vì yêu cầu lương thực của quân Nguyên rất cấp bách. Qua cửa Đại Bàng, binh thuyền Ô Mã Nhi tiến đến vùng biển Tháp Sơn (Đồ Sơn). Bấy giờ Tháp Sơn là căn cứ quân thủy lục của vua Trần và Hưng Đạo vương. Chính ở đây, trên bộ, quân Trần đã đánh nhau với Sic-tua. Trên mặt biển, thủy quân Trần cũng chặn đánh Ô Mã Nhi ( ). Cuối cùng Ô Mã Nhi cũng qua được vùng biển này nhưng khi tiến được đến cửa An Bang thì mọi hy vọng của hắn tiêu tan vì không gặp thuyền lương của Trương Văn Hổ. Hắn làm sao có thể gặp Trương Văn Hổ khi tên này đã bỏ chạy về Hải Nam từ tháng chạp âm lịch năm ngoái và một vạn thạch lương đã nằm trong các đồn trại quân Đại Việt hoặc chìm sâu dưới đáy biển. Ô Mã Nhi đành quay thuyền theo sông Bạch Đằng về Vạn Kiếp( ).
Bấy giờ, ở Thăng Long, Thoát Hoan đang lâm vào tình trạng lúng túng. A-ba-tri bàn: “Giặc bỏ sào huyệt trốn vào núi biển là có ý đợi chúng ta mệt mỏi rồi thừa cơ đánh lại. Tướng sĩ phần nhiều là người phương Bắc, lúc xuân hạ giao nhau, khi chướng lệ hoành hành, chưa bắt được giặc, ta không thể giữ lâu được. Nay chia quân bình định các nơi, chiêu hàng những người quy phụ, ngăn cấm quân lính không được cướp bóc, kíp bắt ngay Nhật Huyên (chỉ Trần Thánh Tông-T.G) đó là kế hay".
Thực ra, Thoát Hoan không thể nào thực hiện được mưu kế của A-ba-tri. Chúng đã hoàn toàn thất bại trong việc đuổi bắt vua Trần và đến nay, khi quân ta đã bắt đầu hoạt động mạnh mẽ ỏ các nơi, chúng làm sạo còn có thể “bình định” được. Càng không thể ngăn cấm quân lính cướp bóc khi đói khát đang uy hiếp chúng và chính bản thân bọn tướng lĩnh như A-ba-tri cũng vừa tiến hành một cuộc cướp bóc trước khi về Thăng Long. Nhưng việc cướp bóc lương thực trong nhân dân cũng không phải là dễ dàng. Nhân dân Đại Việt đã có kinh nghiệm chống giặc, trước khi lánh đi đã cất giấu hết thóc gạo lương thực ( ). Trong khi đó, quân dân ta đang chiến đấu mạnh mẽ khắp nơi. Ngay ở đổng bằng, quân ta đã làm chủ nhiều vùng rộng lớn (trong phạm vi các tỉnh Hải Dương và Hải Phòng hiện nay). Địch đã mất thế chủ động và lâm vào thế bị động. Thăng Long trở thành một hòn đảo cô lập, có nguy cơ bị tuyệt lương. Trước tình hình đó, Thoát Hoan quyết định rút khỏi Thăng Long.Ngày Đinh Tỵ, 2 tháng 2 âm lịch (5-3-1288), Thoát Hoan đem quân về Vạn Kiếp, khu căn cứ mà hắn đã xây dựng lúc tiến vào Đại Việt ( ). Nhưng con đường từ Thăng Long đến Vạn Kiếp bấy giờ đã nằm trong vùng kiểm soát của quân Trần. Thoát Hoan phải sai A-ba-tri đi tiên phong, đem quân đánh mở đường và bắc cầu để tiến về Vạn Kiếp ( ).
Trong khi đó, đoàn chiến thuyền của Ô Mã Nhi không gặp thuyền lương Trương Vãn Hổ cũng quay về Vạn Kiếp. Trên đường về Ô Mã Nhi đã hết sức cướp bóc lương thực để mang về nuôi quân. Ngày 19 tháng 2 (22-3-1288), hắn đã cho quân sục sạo trại Yên Hưng (huyện Yên Hưng, Quảng Ninh) ( ). Khi về đến Vạn Kiếp, hắn đã cướp được bốn vạn thạch gạo ( ). Thoát Hoan ra lệnh cho quân lính vào ở trong các trại gỗ vừa làm xong ở núi Phả Lại và núi Chí Linh( ).
Sau khi đã về đóng ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan lại sai A-ba-tri đem quân đánh vào căn cứ của vua Trần ở Trúc Động (nay là xã Lưu Kiếm, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) và cửa biển An Bang (Quảng Yên) ( ). Nhưng những cố gắng để giành lại thế chủ động của Thoát Hoan hoàn toàn không có kết quả. Nguyên sử thường che giấu sự thực cũng phải vịết những dòng bi đốt: “Tướng sĩ phần nhiều bị bệnh dịch không thể tiến được mà chư man lại phản, những nơi xung yếu đã chiếm được nay đều thất thủ” ( ). Như vậy là quân ta đã khôi phục được các địa điểm quan trọng, bọn giặc phải rút về đóng ở Vạn Kiếp và một số đồn lũy.
Trong tình hình đó, Hưng Ninh vương Trần Tung theo lệnh của vua Trần mấy lần đến thành giặc giả vờ hẹn ngày ra hàng để làm cho địch mất cảnh giác không để phòng và tiêu tan hết tinh thần chiến đấu. Nhưng mặt khác, ta lại đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu hao lực lượng địch, khiến chúng càng hoang mang. Đêm đêm, những đội quân cảm tử lại được lệnh xuất kích, đánh vào trại giặc ( ). Bị tấn công ban đêm, bọn giặc vô cùng hoảng sợ, chỉ biết cố thủ, đợi trời sáng mới dám đánh trống, kéo quân ra khỏi trại. Chúng phải dựng rào gỗ, tăng thêm quân tuần tra ồ các đồn trại để để phòng quân ta tiến đánh ( ).
Bị quân ta tấn công mãnh liệt, lại thiếu lương và đau ốm, quân Nguyên càng ngày càng tiến gần đến nguy cơ bị tiêu diệt. Tinh thần của giặc tan rã hoàn toàn. Căm tức quân Trần mà không làm gì được, Thoát Hoan gần như phát điên, hắn sai tên vạn hộ Giải Chấn đốt thành Vạn Kiếp, bọn tướng tá phải khuyên can mãi mới thôi ( ). Không riêng gì Thoát Hoan hết hy vọng đánh thắng Đại Việt mà tất cả bọn tướng tá đều đã thấy chán nản rã rời, muốn rút quân về. Bọn chúng bàn với Thoát Hoan: “Ở Giao Chỉ không có thành trì để giữ, không có lương thực để ăn mà thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ lại không đến. Cả lại, khí trời đã nóng nực, sợ lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống giữ lâu được, làm hổ thẹn cho triều đình, nên toàn quân mà về thì hơn ( ). Viên thần nỗ tổng quản là Giả Nhược Ngu cũng nói: “Quân nên về, không nên giữ” ( ). Thoát Hoan buồn rầu thừa nhận: “Ở đây nóng nực ẩm thấp, lương hết, quân mệt” và đồng ý rút quân về ( ).
Thống nhất với nhau là về thì dễ nhưng muốn về cho được an toàn, Thoát Hoan và bọn tướng tá của hắn còn phải bàn đi tính lại, lo lắng muôn phần. Những trận phục kích trong lần chiến tranh trước, những trận đánh ác liệt vừa xảy ra ở biến giới, ở các đồn chúng đã chiếm đóng làm cho chúng vô cùng hoảng sợ. Sau mấy lần thất bại trên mặt biển, bọn tướng tá chỉ huy thủy quân của giặc - hẳn là có Ô Mã Nhi Dũng sĩ! - đã xin với Thoát Hoan: “Thuyền lương hai lần vào đểu bị hãm cả, chi bằng hủy thuyền đi đường bộ là thượng sách” ( ). Thoát Hoan lúc này đầu óc rối bời, thấy lời nói đó có vẻ hợp lý, định nghe theo. Nhưng sau khi bọn tướng tá khác can ngăn thì hắn vẫn chia ra quân thủy và quân bộ để rút về ( ). Có lẽ bọn tướng Nguyên một phần thấy rằng việc phá hủy hàng trăm chiếc thuyển một lúc là một tổn thất quá nặng nề và nhục nhã nhưng có lẽ chủ yếu là chúng lo sợ toàn bộ sẽ không trốn thoát nếu chỉ rút về theo một đường. Việc rút về theo nhiều đường sẽ chia sẻ được lực lượng của quân ta và nếu đoàn này không về được thi còn đoàn kia thoát. Tuy vậy, chúng cũng chỉ phân ra được hai đạo thủy và bộ chứ không còn đủ lực lượng để chia ra làm ba cánh như khi tiến vào nữa.
Nhưng bọn cướp nước đang giãy chết dù có chọn mưu sách gì thì cũng không thể ra ngoài những dự tính của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Triệt lương thực, không cho giặc tự do cướp bóc, đánh phá và quấy rối liên tiếp, quân dân Đại Việt đã hãm kẻ thù vào cảnh đói khát, bệnh tật, lo sợ hoang mang đến cùng cực. Triều đình Trần và Quốc Tuấn biết chắc chắn rằng Thoát Hoán không còn cách gì hơn là tháo chạy. Vì thế trên khắp các ngả đường mà quân Nguyên có thể chạy qua, quân đội Đại Việt đã được lệnh bố trí để chờ chặn đánh địch. Một cái bẫy lớn đã giương lên. Quân Nguyên đang sắp bước vào những con đường chết.
Ngày Nhâm Ngọ, 27 tháng 2 (30-3-1288), Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đem thủy quân về trước ( ). Sợ đoàn chiến thuyền của Ô Mã Nhi bị phục kích, Thoát Hoan sai Trình Bằng Phi và Ta-tru (Tacu) đem kỵ binh đi hộ tống ( ). Nhưng cầu đường đã bị quân ta phá hủy nên đội kỵ binh của Trình Bằng Phi tiến rất khó khăn. Khi đến chợ Đông Triều, không sang sông được, bọn chúng đành quay trở lại. Vì cầu đường đã bị phá và biêt tin quân ta đang chờ chặn đánh bọn chúng nên Trình Bằng Phi không dám trỏ về theo con đường cũ, đang đêm cưỡng bức các hương lão đã bị chúng bắt, đưa đường khác trở về Vạn Kiếp ngày Đinh Hợi mùng 3 tháng 3 (4-4-1288) để còn kịp rút lui cùng với Thoát Hoan( ).
Đoàn thuyền của ô Mã Nhi đánh nhau liên tục mấy tháng vừa về Vạn Kiếp nay lại phải ra đi, quả gặp rất nhiều khó khăn. Quân sĩ đã mỏi mệt, còn bọn tướng chỉ huy thì run sợ lo lắng. Chúng miễn cưỡng tiến hành cuộc rút quân đường thủy là việc mà chúng hoàn toàn không muốn.Trong khi đó, quân ta đã đón đợi chúng trên đường đi. Nhiều trận tập kích đã xảy ra. “Giao chiến ngày này sang ngày khác” ( ).
Vì không có quân hộ tống, đoàn thuyền của Ô Mã Nhi tiến vô cùng chậm chạp. Ngày mồng 7 tháng 3 (8-4-1288) thuyền quân Nguyên mới tiến đến Trúc Động( ) trên sông Giá. Trúc Động đã từng chiến đấu với kỵ binh của A-ba-tri và thủy quân của Ô Mã Nhi trong tháng hai âm lịch ( ). Bấy giờ, các chiến sĩ Đại Việt ở Trúc Động lại một lần nữa chặn đánh địch. Theo Lê Trắc thì trong trận Trúc Động này, viên tướng giặc Lưu Khuê đã đánh lui quân ta và cướp được 20 chiếc thuyền ( ). Điều đó khống đúng vì Lưu Khuê, có lẽ là viên tướng chỉ huy bộ phận đi trước dò đường, sau khi bị quân ta chặn đánh ở Trúc Động thì không thể tiến vào sông Giá để ra sông Bạch Đằng được. Toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi phải theo sông Đá Bạch để tiến xuống sông Bạch Đằng.
Như vậy là Trúc Động đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chặn giặc, không cho chúng tiến vào sông Giá, vì sông Giá là nơi thủy quân ta mai phục, chờ tiến đánh vào sườn bên phải của binh thuyền địch trên trận địa Bạch Đằng. Nếu thuyền giặc tiến xuống được đoạn cuối sông Giá thì chẳng những chỗ ẩn của thủy quân ta bị lộ mà những đội quân bộ của ta mai phục trong vùng núi đá Tràng Kênh phải phân tán chiến đấu cả hai mặt. Chiến thắng ở Trúc Động đã bảo vệ cho trận địa phục kích của quân ta ỏ Bạch Đằng ( ).
Bấy giờ, ở sông Bạch Đằng, Hưng Đạo vương Trấn Quốc Tuấn đã bố trí một trận địa phục kích lớn. Hưng Đạo vương đã cho đóng những cọc gỗ xuống lòng sông. Bên trên bãi cọc phủ cỏ để ngụy trang ( ). Việc đẵn gỗ làm cọc và đóng cọc trên sông đã được chuẩn bị từ trước,có lẽ vào lúc quân Trần quay về hoạt động ở vùng Trúc Động, An Bang trong tháng 2 âm lịch (4/3 - 1/4/1288) và sau ngày ô Mã Nhi cướp phá trại Yên Hưng (19 tháng 2 âm lịch, 22/3/1288). Nhân dân hai bên sông đã góp sức với quân sĩ trong việc chuẩn bị bãi cọc ở Bạch Đằng ( ).
Khi được tin binh thuyền của quân Nguyên rút lui, Hưng Đạo vương đã cho quân phục kích ở hai bên bờ sông Bạch Đằng chờ giặc đến. Hẳn Hưng Đạo vương đã cho bộ binh mai phục trong vùng núi đá vôi Tràng Kênh (Thủy Nguyên) và vùng rừng rậm rạp ở tả ngạn sông Bạch Đằng (Yên Hưng), còn thủy quân thì ẩn trong các con sông hai bên dòng Bạch Đằng như sông Giá, sông Thai, sông Điền Công.... ( )
Sáng sớm ngày 8 tháng 3 (9/4/1288) đoàn thuyển của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp tiến đến sông Bạch Đằng ( ). Bấy giờ nước triều còn cao, che lấp những dãy cọc đóng trong sông ( ). Quân Trần đem thuyền ra khiêu chiến rồi giả vờ thua chạy( ). Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp dẫn binh thuyền đuổi theo. Nước triều xuống thấp, đoàn thuyền của Ô Mã Nhi xô phải cọc, dồn cả lại. Nhiểu chiếc bị vỡ và bị đắm. Trong khi đó, phục binh của ta ở hai bên bờ đổ ra, đánh vào sườn và phía sau đoàn thuyền địch. Nguyễn Khoái cũng đem quân dũng nghĩa Thánh dực giao chiến với giặc.Tiếp đó, hai vua Trần và Hưng Đạo vương cũng dẫn đại quân đến ( ). Một trận kịch chiến ác liệt xảy ra trên sông Bạch Đằng.
“...Bấy giờ
Muôn dặm thuyền bè, tinh kỳ phấp phới
Sáu quân oai hùng, gươm đao sáng chói
Sống mái chưa phân, Bắc Nam lũy đối
Trời đất rung rinh chừ sắp tan
- Nhật nguyệt u ám chừ mờ tối.."
Trương Hán Siêu, người môn khách của Hưng Đạo vương, đã viết như vậy trong bài Phú sông Bạch Đằng của mình. Dầu là sáng tác văn học, qua những dòng trên, chúng ta ít nhiều thấy lại cái không khí chiến trận và cái dũng tráng của quân ta trước đây bảy thế kỷ.
Ô Mã Nhi Bạt Đô, tên tướng Mông Cổ mang danh hiệu “Dũng sĩ” ấy, không thể nào chống cự nổi trước sức tấn công mãnh liệt của quân ta.Tuy Phàn Tiếp đã cố gắng “chiếm lấy núi cao làm ứng ( ), tình thế vẫn không thể xoay chuyển khác được. Dưới trận mưa tên của quân ta ( ), thủy binh giặc chết rất nhiều. Máu giặc đỏ ngầu cả khúc sông ( ). Nước triều rút gấp thuyền giặc vướng cọc bị phá hủy càng nhiều. Đến chiều ( ) toàn bộ chu sư của Ô Mã Nhi bị tiêu diệt. Viên vạn hộ thủy quân Trương Ngọc tử trận ( ). Phàn Tiếp bị thương, nhảy xuống sông, quân ta lấy câu liêm móc lên bắt sống ( ). Tên tướng chỉ huy thủy quân giặc là Ô Mã Nhi cũng bị bắt. Ngoài ra, rất nhiều tướng lĩnh khác bị bắt, trong số đó có viên đại quý tộc Mông Cổ Si-rê-ghi (Sirăgi, Tích Lệ Cơ) ( ) và viên quan giữ văn thư đi theo ô Mã Nhi là Lý Thiên Hựu ( ). Thủy quân giặc bị giết, chết đuối và bị bắt vô số. Hơn bốn trăm thuyền giặc lọt vào tay quân ta ( ).
Trong khi toàn bộ đội binh thuyền của giặc tan tác trên sông Bạch Đằng ( ) thì cánh quân bộ của Thoát Hoan cũng đang khốn đốn trên đường chạy trốn khỏi biên giới Đại Việt.
Ngày Tân Mão 7 tháng 3 (8/4/1288), từ Vạn Kiếp, Thoát Hoan nhằm hướng Lạng Sơn rút lui ( ). Aba-tri dẫn quân kỵ bộ đã được lựa chọn đi trước mở đường ( ). Sic-tua được lệnh của Thoát Hoan dẫn một cánh quân rút theo con đường phía tây, còn Thoát Hoan rút theo con đường phía đông. Nhưng trên tất cả các con đường đó quân ta đã phục kích chờ đánh địch. Cánh quân của Sic-tua tiến đến cửa quan Hãm Nê (hay Hãm Sa) thì bị quân ta chặn đánh mãnh liệt. Sic-ta không vượt qua nổi phải quay trở lại con đường phía đông để cùng rút với Thoát Hoan ( ).
Ngày Giáp Ngọ, 10 tháng 3 (11/4/1288), Thoát Hoan dẫn quân chạy đến cửa quan Nội Bàng. Ở đây, bọn giặc lại lọt vào trận địa phục kích của quân ta ( ). Quân Nguyên phải “hết sức đánh” ( ), về sau vạn hộ Đa-ra-tri (Daraci, Đáp Lạt Xích) và Lưu Thế Anh phải liều chết mở một đường máu mới thoát ra được( ). Nhưng quân ta vẫn tiếp tục truy kích, Thoát Hoan phải cho vạn hộ Trương Quân chỉ huy ba nghìn quân tinh nhuệ đi sau hộ vệ ( ). Quân Nguyên vừa ra khỏi cửa Nội Bàng, chưa kịp hoàn hồn thì được tin quân ta đã đóng ở cửa quan Nữ Nhi và núi Khưu Cấp.
Ba mươi vạn quân rải ra suốt hơn một trăm dặm để chặn đường về của chúng( ). Trên đường đi, quân ta đã đào hố để bẫy ngựa của giặc ( ), Thoát Hoan hoảng sợ, vội quay theo đường huyện Đơn Kỷ về Lộc Châu để đi đường tắt ra khỏi biên giới ( ). Nhưng chúng tránh đâu cũng không thoát được vì các con đường quan trọng đều bị quân ta chặn cắt ( ). Quân ta từ trên núi cao bắn tên độc xuống ( ). Tình cảnh quân Nguyên lúc đó thật khốn khổ. Nguyên sử chép: “Lúc đó quân ta (quân Nguyên - T.G) đã thiếu ăn lại mệt vì chiến đấu, tướng tá nhìn nhau thất sắc”. Nhưng khi cái chết đã kề bên cạnh, dù mệt nhọc, hoảng sợ, chúng cũng phải “cố" xông vào mà đánh ( ), “buộc vết thương lại mà đánh” ( ). Bọn giặc bị thương vong rất nhiều, A-ba-tri trúng ba mũi tên độc; đầu, cổ, đùi đểu sưng lên rồi chết ( ). Cuối cùng, quân Nguyên về được đến Tư Minh ngày Nhâm Dần 18 tháng 3 (19/4/1288). Thoát Hoan cho giải tán đám tàn quân. A-rúc đem quân trở về Vân Nam, A-gu-ruc-tri dẫn quân về Bắc ( ). Bọn Việt gian Trần Ích Tắc lại lẽo đẽo theo bọn bại tướng Nguyên trở về Ngạc Châu ( ).
Ngày 17 tháng 3 (18-4-1288), Thượng hoàng và Nhân Tông về phủ Long Hưng, đem bọn tù binh Ô Mã Nhi, Si-rê-ghi, Sầm Đoạn, nguyên soái Điền(?) cùng nhiều tên vạn hộ, thiên hộ khác, làm lễ hiến tiệp ở lăng Thái Tông - ông vua anh hùng trong cuộc kháng chiến 1258.
Trước lăng mộ của tiền nhân, Trần Nhân Tông cảm xúc:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu” ( )
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thưở vững âu vàng).
Mười ngày sau, ngày 27 tháng 3 (28-4-1288) vua Trần và triều đình trở về kinh đô. Giữa những cung điện bị thiêu hủy của Thăng Long, vua Trần ban lệnh đại xá thiên hạ miễn tô dịch toàn phần cho những nơi bị giặc cướp phá./.
Cuộc Kháng Chiến Chống Xâm Lược Mông Nguyên Thế Kỷ Xiii Cuộc Kháng Chiến Chống Xâm Lược Mông Nguyên Thế Kỷ Xiii - Hà Văn Tấn- Phạm Thị Tâm Cuộc Kháng Chiến Chống Xâm Lược Mông Nguyên Thế Kỷ Xiii