Người ta không đánh giá tôi bởi số lần tôi vấp ngã mà là những lần tôi thành công. Bởi thành công đó chính là những lần tôi thất bại nhưng không bỏ cuộc.

Tom Hopkins

 
 
 
 
 
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Lê Hữu Mạnh
Upload bìa: Hiroshi Kobayashi
Số chương: 10
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5847 / 325
Cập nhật: 2015-05-15 10:53:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5: Cuộc Kháng Chiến Của Nhân Dân Chàm
ua Chamba chống cự [vớiSugatu (Toa Đô)]
trong các thi trấn và thành quách vững chắc.
Ở đấy, ông không sợ gì cả...”
Marco Polo
Năm 1278, khi bọn Sài Thung, Kha-ra Tô-in được lệnh của Hốt Tất Liệt đi thẳng từ Giang Lăng đến Ưng Châu để tiến vào biên giới Đại Việt thì những tên sứ Mông Cổ khác cũng vượt biển đến Chiêm Thành.
Cuộc sống hòa bình của nhân dân Chàm qua hơn năm mươi năm bắt đầu bị đe dọa. Từ năm 1220, sau khi thoát khỏi ách thống trị của Chân Lạp ( ), nhân dân Chàm đã cần cù lao động xây dựng đất nước. Người nông dân Chàm lại cày cấy trên những cánh đồng bỏ hoang trong suốt thời kỳ chiến tranh. Đê đập được khôi phục và người ta đào thêm những kênh ngòi mới ( ). Các thành trấn lại đông dân cư, các cung điện được xây dựng lại. Bàn tay và khối óc sáng tạo tuyệt vời của người Chàm được thể hiện trong việc dựng các đền tháp nổi tiếng như Yang Pu Nagara (Nha Trang),Cricanabhadrecvara (Mỹ Sơn) ( ). Nền văn hóa Chàm lại rực rỡ dưới triều đại Jaya Indravarman (VI) (khoảng 1252 -1257), một ông vua “biết tất cả các khoa học và tinh thông triết học của nhiều trường phái khác nhau ( ).
Khi Jaya Simhavarman (tức Indravarman V) lên ngôi, Chiêm Thành vẫn giữ mối quan hệ hữu hảo với Đại Việt ( ). Và đến nay, trước âm mưu xâm lược các miền đất phương Nam của đế quốc Mông Cổ, nhân dân Chàm và nhân dân Việt càng gần nhau hơn trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung.
Vào những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh xâm lược Nam Tống, Hốt Tất Liệt đã chú ý đến các nước phương Nam “ngoài biển”, trong số đó có Chiêm Thành. Bấy giờ, thuyền buôn của các nưóc đó thường đến buôn bán ở vùng bờ biển Đông Nam Trung Quốc. Để thu lấy mối lợi ngoại thương, năm 1277, Hốt Tất Liệt đã lập các thị bạc ty ở Tuyền Châu. Khánh Nguyên, Thượng Hải, Hãm Phố ( ). Tháng 3 năm 1278, Hốt Tất Liệt lại cử bọn quan lại Mông Cổ Mông-gu-đai (Monggu-dai), Toa Đô (Xô-ghê-tu, Sogătu) ( ) và tên kiều thương người Ả Rập là Bồ Thọ Canh coi hành trung thư tỉnh Phúc Châu ( ). Ngoài việc trấn áp nhân dân Trung Quốc miền duyên hải, chúng còn có nhiệm vụ giao dịch với thương thuyền các nước ngoài.
Trước đây, viên tuyên uý sứ Quảng Nam tây đạo là Mã Thành Vượng đã từng xin Hốt Tất Liệt 3 nghìn quân và 3 trăm ngựa để đảnh Chiêm Thành ( ). Bấy giờ, vì đang phải dồn lực lượng vào cuộc chiến tranh xâm lược Nam Tống,
Hốt Tất Liệt chưa thể đồng ý đề nghị đó. Đến nay, khi vương triều Nam Tống rút lui về những căn cứ cuối cùng ở ven biển Quảng Đông, Hốt Tất Liệt đã thực sự muốn với tay đến các nước hải ngoại phương Nam. Ngày Tân Tỵ tháng 8 năm Mậu Dần (18-9-1278), tên vua Mông Cổ ra lệnh cho bọn Toa Đô và Bồ Thọ Canh tuyên bố với thương nhân các nước này rằng nếu thành thực “vào chầu” thì được đối đãi tử tế và được tự do buôn bán ( ). Ngay năm đó, Toa Đô từ chức tham tri chính sự Phúc Châu được thăng làm tả thừa Tuyền Châu, nhận nhiệm vụ “chiêu dụ” các nước phương Nam vì “miền Giang Nam đã bình định, sắp có việc ở hải ngoại” ( ). Toa Đô đã sai sứ đến Chiêm Thành và các nước khác. Sau khi tiêu diệt nhà Nam Tống, Hốt Tất Liệt càng tích cực hơn trong việc thực hiện âm mưu xâm lược các nước phương Nam. Tháng 6 âm lịch năm Kỷ Mão (8-1279), các nước Chiêm Thành và Mã Bát Nhi (Mãbar) sai sứ đến triều đình Nguyên ( ).
Đến tháng chạp năm đó (4-1 - 1-2-1280), Hốt Tất Liệt ra lệnh cho bọn quan khu mật hàn lâm viện bàn với Toa Đô về việc chiêu dụ các nước “ngoài biển” ( ) và ngay sau đó, hắn lại cử Toa Đô cùng với binh bộ thị lang Giáo Hóa Đích ( ), tổng quản Mạnh Khánh Nguyên, vạn hộ Tôn Thắng Phu đến Chiêm Thành, dụ vua Chiêm vào chầu ( ). Bọn Toa Đô còn mang 10 bức thư của Hốt Tất Liệt đến các nước khác ở phương Nam. Cũng tháng chạp năm đó, Hốt Tất Liệt sai Dương Đình Bích đi chiêu dụ nước Câu Lam (Kũlam) ( ). Bấy giờ, trực tiếp quyết định việc sai sứ đến các nước phương Nam, hắn đã cấm Toa Đô không được tự tiện sai sứ nếu không có lệnh của hắn ( ).
Trong số các nước “ngoài biển”, Hốt Tất Liệt đặc biệt chú ý đến Chiêm Thành. Điều đó cũng dễ hiểu vì từ rất sớm, ngay khi còn là đất quận Nhật Nam đời Hán, nơi đây đã là một trạm quan trọng trên con đường thông thương giữa Trung Quốc và các nước Nam Dương, Ấn Độ Dương. Đây là chưa kể xứ sở nhiều voi và trầm hương này đã có một sức hấp dẫn mãnh liệt đối với tên chúa Mông Cổ. Ngoài sứ bộ Toa Đô, Hốt Tất Liệt còn sai nhiều sứ bộ khác đến Chiêm Thành ( ). Cũng như Đại Việt, Chiêm Thành đã dùng một chính sách đối ngoại mềm dẻo. Vua Chiêm đã nhiều lần sai sứ mang phương vật cống cho Hốt Tất Liệt ( ). Hốt Tất Liệt phong vua Chiêm làm Chiêm Thành quận vương, hàm vinh lộc đại phu và cho hổ phù ( ).
Nếu những chức tước đó không mua chuộc được vua Chiêm thì ngược lại việc triều cống của Chiêm Thành không làm thỏa mân dã tâm của Hốt Tất Liệt. Vào cuối năm Tân Tỵ (1281), Hốt Tất Liệt không còn dừng lại ở hoạt động chiêu dụ nữa mà đẩy mạnh việc chuẩn bị xâm lược bằng quân sự.
Ngày Kỷ Dậu tháng 10 năm Tân Tỵ (29-11-1281) Hốt Tất Liệt ra lệnh lập hành trung thư tỉnh (hay hành tỉnh) Chiêm Thành. Toa Đô được cử làm hữu thừa, Lưu Thâm làm tả thừa và viêm binh bộ thị lang người Ui-gua (Uigur) là Y-gơ-mi-sơ (Yigmis) ( ) làm tham tri chính sự ( ). Như vậy là bộ máy trực tiếp chỉ huy việc xâm lược Chiêm Thành đã được thành lập. Ngay ngày hôm sau, ngày Canh Tuất (30-11-1281), Hốt Tất Liệt ra lệnh điều động một trăm thuyền biển, một vạn quân và thủy thủ, chuẩn bị “đánh các nước phiên ở hải ngoại” vào tháng giêng âm lịch năm sau (10-2 -10-3-1283) ( ). Tên vua Mông Cổ lại buộc vua Chiêm Thành phải cấp lương thực cho đoàn quân này( ). Ngày Kỷ Tỵ tháng 11 (19-12-1281), Mạnh Khánh Nguyên, Tôn Thắng Phu, những tên sứ đến Chiêm Thành trước đây, đều được cử làm tuyên úy sứ Quảng Châu kiêm điểu độ việc xuất chinh ( ). Rõ ràng là Hốt Tất Liệt chẳng những muốn chiếm đóng Chiêm Thành mà còn muốn xâm lược tất cả các nước xa hơn ở Đông Nam Á và bán đảo Ấn Độ.
Nhưng kế hoạch đem quân đánh chiếm các nước phương Nam vào năm 1282 của Hốt Tất Liệt chưa thể thực hiện được. Ngay một số quan lại Mông Cổ trong triều đình Nguyên cũng phản đối việc xuất binh này. Nguyên sử chép: “Triều đình bàn việc đem binh đánh các nước Xiêm (vùng trung lưu sông Mẽ Nam - T.G.), La Hộc (Lavo, Lopburi ở hạ lưu sông Mê Nam - T.G.), Mã Bát Nhi (Mãbar, ở bờ biển đông nam Ấn Độ - T.G.), Tô Mộc Đô Lạt (Sumutra, tức Sumatra). Ca-ru-na-đa-xi (Kãrunãsi) tâu: “Các nước đó đểu bé nhỏ, ví có chiếm được cùng chẳng ích gì, hưng binh tàn hại sinh mạng của dân, sao bằng sai sứ lấy điều họa phúc mà chiêu dụ, nếu các nước đó không phục tùng thì ta đánh cũng chưa muộn”. Vua nghe theo lời nói đó” ( ).
Ca-ru-na-đa-xi can việc đánh các nước phương Nam và Hốt Tất Liệt đồng ý ngừng việc xuất chinh hoàn toàn không phải vì chúng sợ “tàn hại sinh mạng của dân”. Chính lực lượng quân sự của Hốt Tất Liệt bấy giờ chưa cho phép hắn tiến hành một cuộc xâm lược ra những vùng biển xa xăm trong cùng một lúc. Tuy thèm muốn gộp các nước này vào bản đồ của đế quốc Mông Cổ, hắn cũng đành phải thực hiện kế hoạch xâm lược dần dần từng bước. Bước đầu tiên trong kế hoạch đó là phải chiếm cho được Chiêm Thành. Chiêm Thành dưới mắt Hốt Tất Liệt là một căn cứ tốt có thể làm bàn đạp để tấn công các nước Nam Á và Đông Nam Á. Không đem quân đánh các nước phương Nam khác, Hốt Tất Liệt đã chú tâm vào việc xâm lược Chiêm Thành.
Thực ra, việc chuẩn bị xâm lược Chiêm Thành bằng quân sự không phải mới bắt đầu bằng việc lập hành tỉnh Chiêm Thành vào ngày Kỷ Dậu tháng 10 năm Tân Tỵ (29-11-1281). Từ ngày Tân Dậu tháng 7 năm đó (13-8-1281), Hốt Tất Liệt đã ban cho Toa Đô “đà bồng” một thứ thuốc ngăn chướng độc để dùng trong khi đi đánh Chiêm Thành ( ). Như vậy là việc chuẩn bị xâm lược Chiêm Thành được tiến hành từ sớm. Nhưng đến năm Nhâm Ngọ (Chí Nguyên 19, 1282), Hốt Tất Liệt ráo riết hơn trong việc thực hiện âm mưu của hắn. Ngày Mậu Tuất tháng 6 năm Nhâm Ngọ (16-7-1282), hắn ra lệnh điều 5 nghìn quân các tỉnh Hoài Triết, Phúc Kiến, Hồ Quảng, 100 hải thuyền và 250 chiến thuyền giao cho Toa Đô chỉ huy chuẩn bị đánh Chiêm Thành ( ). Đến ngày Giáp Tuất tháng 11 (19-12-1282), Hốt Tất Liệt theo lời đề nghị của trung thư tỉnh, ra lệnh sung tất cả những người tử tù (trừ tội “mưu phản” và “đại nghịch”) làm lính đánh Chiêm, Nhật và Miến ( ). Để chuẩn bị chu đáo cho việc xuất chinh Chiêm Thành, Hốt Tất Liệt còn sai Lý Hằng đến đảo Hải Nam tích trữ lương thực, bắt nhân dân người Lê tạo khí giới, đóng thuyền biển ( ), Gánh nặng của chiến tranh đã đè lên vai nhân dân miền Nam Trung Quốc mà các đội quân xâm lược Chiêm Thành lại còn là tai họa đối với họ. Bọn tướng chỉ huy đã thả lỏng cho quân lính tha hồ cướp phá nhân dân. Một bi ký chép: Quân đánh Chiêm Thành, chúng cho là đi sâu vào đất chết, oán giận không phát ra được, tất cả các thành thị đi qua, chúng đểu hoành hành cướp bóc.Cư dân ở ven biển, mười nhà thì đến chín nhà sạch không, lúa giống mất hết” ( ). Tên vua Mông Cổ lại nhiều lần sai sứ đến Đại Việt đòi vua Trần cho mượn đường và cấp lương thực cho đội quân đánh Chiêm Thành. Tất nhiên là vua Trần đã cự tuyệt những yêu sách đó( ). Đánh Chiêm Thành trước khi chiếm được Đại Việt là một điều khó khăn đối với Hốt Tất Liệt nhưng hắn đã quyết định như vậy có lẽ vì hắn thấy được sức mạnh của Đại Việt - từ năm 1258 -và cho rằng quân Nguyên có thể chiến thắng Chiêm Thành dễ dàng hơn. Có điều chắc chắn là việc đánh chiếm Chiêm Thành của Hốt Tất Liệt ngoài mục đích tạo nên một cái cầu để xâm lược các nước phương Nam, còn là để tạo thành một gọng kìm tấn công vào mặt Nam Đại Việt sau này.
Trước sự uy hiếp của đế quốc Nguyên Mông, Chiêm Thành không hề khuất phục. Cũng như Đại Việt, tuy nhiều lần sai sứ mang tê voi đến công Hốt Tất Liệt, vua Chiêm Indravarman V nhất định không chịu vào chầu.Một trong những người kiên quyết chống lại âm mưu xâm lược của Hốt Tất Liệt là thái tử Harjit, con của Indravarman V mà thư tịch Trung Quốc gọi là Bổ đích ( ). Bấy giờ, vua Chiêm đã già, Harijit nắm tất cả trọng trách trong nước. Người thanh niên anh hùng đó đã không chịu lùi bước trước kẻ thù ( ). Sau khi đã chuẩn bị lực lượng, vương triều Chiêm Thành biểu lộ một thái độ cứng rắn hơn. Năm Nhâm Ngọ (1282), đoàn thuyền của sứ bộ Nguyên đi Xiêm gồm có vạn hộ Hà Tử Chí, thiên bộ Hoàng Phủ Kiệt và của sứ bộ Nguyên đi Mã Bát Nhi (Mãbar) gồm có tuyên úy sứ Vưu Vĩnh Hiển và A Lan (Á Lan, Alan) khi đi qua Ghiêm Thành, đểu bị bắt giữ ( ).
Nhân cơ hội đó, Hốt Tất Liệt ra lệnh xuất quân đánh Chiêm Thành. Việc các sứ Nguyên bị bắt giữ ở Chiêm chỉ là cái cớ đê Hốt Tất Liệt gây chiến vì thực ra, hắn đã huy động quân đánh Chiêm Thành trước cả ngày cử sứ đi Xiêm ( ). Nhưng để che đậy dã tâm của mình, trước khi đoàn quân của Toa Đô lên đường Hốt Tất Liệt còn giả giọng nhân đức: “Lão vương không có tội gì, kẻ nghịch mệnh là con của y và một người man mà thôi, nếu bắt được hai người đó thì sẽ theo như việc cũ của Tào Bân ( ), trăm họ không giết một người ( ).
Tháng 11 năm Nhâm Ngọ (2-12 - 31-12-1282), Toa Đô dẫn binh thuyền xuất phát từ Quảng Châu. Ngày 29 tháng 11 (30-12-1282) bọn chúng đến Chiêm Thành cảng ( ) Kinh thế đại điển tự lục chép: “Cửa cảng phía bắc liền với biển, bên cạnh có 5 cảng nhỏ, thông với Đại Châu của nước ấy, phía đông nam có núi ngăn, phía tây có thành gỗ” ( ). Rõ ràng Chiêm Thành cảng là cửa Quy Nhơn ngày nay. Bấy giờ, kinh đô Chiêm là Vijaya (tức thành Chà Bàn, ở Bình Định) mà thư tịch Trung Quốc gọi là Đại Châu. Từ trong vịnh Quy Nhơn, có thể theo cửa nhánh sông, “5 cảng nhỏ”, để tiến về phía Vijaya. Phía tây của vịnh, tức là trong đất liền, quân Chàm đã xây dựng thành gỗ để ngăn chặn quân Nguyên tiến về phía kinh đô. Khi đặt chân lên đất Chiêm Thành, đoàn quân của Toa Đô đóng ở vùng bờ biển Quy Nhơn ( ). Từ ngày 30 tháng 11 (31-12-1282), quân Chàm tăng cường việc phòng thủ ở thành gỗ (11). Bốn mặt thành gỗ đài khoảng hơn 20 dặm, trên dựng những giàn gác (lâu bằng), đặt hơn 100 cỗ pháo Hồi Hồi ba cần( ). Ở phía tây cách thành gỗ 10 dặm là hành cung của vua Chiêm, Indravarman tự đem đại quân đóng ở đây để ứng viện cho đội quân Chàm ở thành gỗ ( ). Tình hình bố phòng như vậy đã nói lên quyết tâm chiến đấu của người Chàm.
Trước khi tấn công và đồn lũy của Chiêm Thành, cũng như trong tất cả mọi cuộc chiến tranh xâm lược khác, bọn tướng Nguyên đã sai sứ dụ hàng. Bọn chúng tưởng rằng binh lực mạnh mẽ của mình có thể làm cho đối phương khiếp sợ. Nhưng đô trấn phủ Lý Thiên Hựu và tổng bả Giả Phủ theo lệnh của Toa Đô bảy lần đến gặp vua Chiêm bảy lần thất bại trở về ( ). Quân dân Chiêm Thành không đời nào chịu hạ vũ khí trước kẻ thù. Sau khi bọn Lý Thiên Hựu và Giả Phủ đi sử không có kết quả, tên sứ Nguyên đi chiêu dụ Chân Lạp và Xu-lay-man (Sulaymãn) xin Toa Đô đi dụ hàng vua Chiêm lần nữa ( ). Ngày 18 tháng 12 (18-1-1283), Xu-lay-man cùng với Lý Thiền Hựu và Giả Phủ lại đến doanh trại vua Chiêm nhưng bọn này chỉ mang được về bức thư của Indravarman trả lờí rằng đã xây dựng thành gỗ, chuẩn bị giáp binh, hẹn ngày quyết chiến ( ).
Trước thái độ bất khuất của Chiêm Thành, Toa Đô chần chừ chưa dám tiến quân. Mãi đến ngày 15 tháng giêng năm Quý Vị (Chí Nguyên 20, 13-2-1283), Toa Đô mới ra lệnh cho binh thuyền xuất phát. Vào nửa đêm, quân Nguyên chia ra làm ba mũi tiến về phía thành gỗ Chiêm Thành. Mũi thứ nhất do an phủ sứ Quỳnh Chầu Trần Trọng Đạt, tổng quản Lưu Kim, tổng bả Lật Toàn chỉ huy, đem 1.600 quân đi đường thủy tiến vào phía bắc thành gỗ. Mũi thứ hai do tổng bả Trương Bân, bách hộ Triệu Phùng ( ) chỉ huy, đêm 300 quân đánh vào doi cát phía đông. Còn mũi chủ yếu do Toa Đô tự chỉ huy, gồm 3.000 quân, chia làm ba đường ( ) tấn công vào mặt nam thành gỗ. Quân Nguyên phải vật lộn với sóng gió cho đến sáng mới vào được tới bờ. Số thuyền bị vỡ mất đến 7, 8 phần 10 ( ).
Giặc vừa tới, quân Chàm liền mở cửa nam thành gỗ ra nghênh chiến. Cờ trương trông thúc, mấy chục voi và hơn vạn người hùng dũng xuất trận ( ). Quân Chàm cũng chia làm ba để đối phó với ba đội quân mặt nam này của Toa Đô. Tên qua đạn lại, trận đánh diễn ra mỗi lúc một ác liệt. Quân Chàm chiến đấu rất dũng cảm. Suốt buổi sáng, thế giằng co vẫn duy trì, nhưng đến trưa, Quân Chàm không giữ vững được trận địa. Cửa nam bị vỡ, cánh quân Toa Đô tràn vào. Từ bên trong cánh quân này đánh ra phối hợp với hai cánh phía bắc và phía đông. Chẳng mấy chốc quân Nguyên hoàn toàn thắng thế. Mấy nghìn người Chàm bị hy sinh. Quân giữ thành và tiếp lương đến mấy vạn người đều rút lui ( ). Thành gỗ lọt vào tay giặc.
Thành gỗ này là cứ điểm đầu tiên của người Chàm đồng thời cũng là nơi tập trung khá nhiều quân sĩ tinh nhuệ và vũ khí. Thành gỗ thất thủ là một tổn thất lớn đối với Chiêm Thành. Do đó, sau lần đọ sức đầu tiên này, vua Chiêm thấy chưa thể ứng chiến ngay với quân Toa Đô. Vì thế, vừa được tin thành gỗ mất, Indravar-man bỏ hành cung, rút tất cả lực lượng vào núi. Trong khi rút lui, lương thực không chuyển vận kịp, vua Chiêm đã cho đốt tất cả các kho để khỏi lọt vào tay giặc. Cũng vào giờ phút đó, Vua Chiêm ra lệnh xử tử Vưu Vĩnh Hiền và A Lan ( ). Hành động đó biểu thị lòng căm thù giặc và ý chí kiên quyết của Indravarman và quân dân Chàm. Vua Chiêm và triều đình rút lui vào núi là để tiếp tục cuộc kháng chiến, nhưng bề ngoài, vua Chiêm tìm mọi cách làm cho Toa Đô tin rằng mình đã mất hết dũng khí không dám chống lại quân Nguyên nữa, có như thế mới đủ thời gian chuẩn bị lực lượng.
Ngày 17 tháng giêng âm lịch (12-2-1283), Toa Đô chấn chỉnh đội ngũ tiến đánh Đại Châu tức kinh đô Vijaya (Chà Bàn) của Chiêm Thành. Ngày 19 tháng giêng (17-2-1283), Vua Chiêm sai sứ đến gặp Toa Đô “xin hàng”.Ngày 20 (18-2-1283), quân Nguyên tiến đến phía đông nam Vijaya, Toa Đô cho sứ Chiêm trở về. Tên tướng Mông Cổ nói rằng nếu vua Chiêm hàng thì sẽ “tha tội" (!). Ngày 21 (19-2-1283), quân Nguyên tiến vào kinh đô Chiêm Thành. Bấy giờ quân đội Chàm đã rút hết vào vùng rừng núi phía tây bắc. Vijaya bỏ trống, vì thế Toa Đô đã dễ dàng chiếm đóng đô thành này. Vua Chiêm lại sai Bác Tư Ngột Lỗ Ban Giả ( ) đến gặp Toa Đô, nói rằng ông ta phụng vương mệnh đến hàng, còn quốc chủ và thái tử sẽ đến sau ( ). Toa Đô sai người đem hịch đi ‘‘triệu” vua Chiêm đến. Trong khi đó, Toa Đô lại kéo quân ra đóng ở ngoài thành Vijaya ( ). Có lẽ hắn lo sợ khi đóng quân trong một tòa thành trống nên vừa kéo vào đã kéo ra đóng ở bên ngoài như thói quen của quân đội Mông Cổ ( ). Ngày 23 (21-2-1283), vua Chiêm sai cậu là Bảo Thoát Thốc Hoa ( ) đi với hơn 30 người, mang 100 tấm vải tạp bố ( ), 3 đĩnh bạc lớn, 57 đĩnh bạc nhỏ, 1 vò bạc vụn và 1 ngọn dáo chín dóng làm bằng vàng lá, đến nói với Toa Đô rằng: “Chúa nước tôi muốn đến nhưng đang ốm chưa đi được nên trước hết sai đem ngọn dáo của mình lại để tỏ lòng thành, còn con trưởng là Bổ Đích (tức Harijit -T.G). hẹn ba ngày nữa xin đến ra mắt” ( ).
Bấy giờ Toa Đô muốn thấy ngay mặt kẻ đầu hàng, không bằng lòng những đều kiện trên. Hắn trả lại - hoặc vờ trả lại - các lễ vật của vua Chiêm. Bảo Thoát Thốc Hoa cố nài, nói rằng nếu không nhận là khinh rẻ nước Chiêm. Trước những lời lẽ đó của Bảo Thoát Thốc Hoa, Toa Đô bảo là hãy tạm nhận để rồi tâu về triều. Thế là bước đầu của kế hoạch trá hàng đã thực hiện được. Nhưng muốn để cho tên tướng Mông Cổ tin hơn, Bảo Thoát Thốc Hoa còn phải dùng nhiều mưu kế khác. Ngày 29 (27-2-1283) ( ), Bảo Thoát Thốc Hoa lại đến chỗ Toa Đô. Lần này, ông dẫn theo người con thứ tư và người con thứ năm của vua Chiêm( ), Ông nói: “Trước kia [vua Chiêm] có 10 vạn quân nên mới dám gây chiến, nay tất cả đều thua tan hết. Nghe những tên lính bại trận trở về nói rằng Bổ Đích (tức Harijit - T.G.) bị thương đã chết. Quốc chủ bị tên bắn trúng vào má nay đã đỡ nhưng còn hổ thẹn và sợ hãi chưa dám đến yết kiến. Vì thế nên sai hai con đến trước để bàn việc vào cửa khuyết bệ kiến (chỉ việc về triều Nguyên - T.G.)” ( ). Bảo Thoát Thốc Hoa tưởng rằng việc đưa hai người con vua Chiêm đến làm con tin sẽ làm cho Toa Đô tin hơn. Nhưng viên tướng Mông Cổ này chẳng phải tay vừa, hắn không tin hai người đó đúng là con vua Chiêm nên không nhận làm con tin. Hắn cho tết cả trở về và đòi vua Chiêm phải đến hàng sớm. Xảo quyệt hơn, Toa Đô lại mượn cớ thăm bệnh vua Chiêm, sai thiên hộ Lâm Tử Toàn, tổng bả Lật Toàn, Lý Đức Kiên cùng đi với Bảo Thoát Thốc Hoa và hai hoàng tử Chiêm (có thể là hai hoàng tử giả. Rõ ràng Toa Đô cho ba tên này đi là để do thám tình hình Chiêm Thành. Bị bắt buộc dẫn kẻ thù vào căn cứ của mình, Bảo Thoát Thốc Hoa ở vào một tình thế khó xử, một mặt phải tìm cách ngăn chúng lại, để chúng không biết đường đi lối lại và tình hình chuẩn bị trong căn cứ địa, một mặt phải làm thế nào kế hoạch trá hàng trước đây không bị lộ. Nhưng con người mưu trí Bảo Thoát Thốc Hoa đã thoát được tình thế đó. Một kế hoạch mới được vạch ra. Ngày 30 (28-2-1283), hai hoàng tử Chàm giữa đường bỏ về trước ( ). Hẳn là hai người đó theo kế hoạch của Bảo Thoát Thốc Hoa về trước để báo cho vua Chiêm tìm cách đối phó. Vì thế, khi bọn Lâm Tử Toàn theo Bảo Thoát Thốc Hoa đi vào núi chừng hai dặm đường thì vua Chiêm sai người ra ngăn lại. Như vậy là bọn sứ Nguyên không thể vào được căn cứ của người Chiêm. Nhưng trong tình hình đó, Toa Đô có thể phát hiện ra rằng những việc giao thiệp của Chiêm Thành với hắn chỉ là mưu kế trá hàng và hắn có thể đem quân tấn công ngay trong khi Chiêm Thành còn cần một thời gian nữa để chuẩn bị lực lượng chiến đấu.
Bảo Thoát Thốc Hoa đã khôn khéo kịp thời thay đổi chiến thuật ngoại giao. Ông đổ tội “lật lọng” cho vua Chiêm và vờ như mình muốn làm tay sai cho Toa Đô. Sau khi bọn sứ Nguyên bị ngăn lại, giữa con đường núi đó, Bảo Thoát Thốc Hoa đã nói với viên thiên hộ Lâm Tử Toàn: “Quốc chủ dùng dằng không chịu ra hàng, nay lại phao lời là muốn giết tôi, ông hãy về thưa với tỉnh quan (chỉ Toa Đô - T.G.) rằng quốc chủ đến thì đến, không đến thì tôi sẽ bắt đem nộp” ( ). Bọn Lâm Tử Toàn quay về doanh trại quân Nguyên, còn Bảo Thoát Thốc Hoa thì về căn cứ của mình, hẳn là để bàn định với vua Chiêm và thái tử Harijit những kế hoạch mới. Ngày hôm đó, vua Chiêm sai giết bọn Hà Tử Chí, Hoàng Phủ Kiệt hơn một trăm người, có lẽ là để đề phòng chúng trốn thoát làm lộ kế hoạch chống giặc của Chiêm Thành.
Ngày 8 tháng 2 (8-3-1283), không quản gian nguy, Bảo Thoát Thốc Hoa lại lặn lội đến doanh trại của Toa Đô. Dám làm như vậy là vì ông tin tưởng vào kế hoạch mới, vào tài biện thuyết của mình và hơn hết cả là vì ông có một tấm lòng yêu nước nồng nàn.Ông đã tìm cách làm cho Toa Đô tin rằng mình thật sự muốn trở thành tay chân của hắn. Ông nói: “Cha ông chú bác tôi ngày trước đều làm quốc chủ, đến anh tôi thì bị Bột Do Bô Lạt Giả Ngô (Pu Yuvaraja, tức Indravarman V, xem chú thích trên - T.G.) giết rồi cướp ngôi. Hắn lại chặt hai ngón cái ở tay trái và tay phải của tôi. Tôi thật rất oán hắn. Xin đi bắt cha con Bột Do Bổ Lạt Giả Ngô, Bổ Đích (tức Harijit - T.G.) và Đại Bạt Tản Cơ Nhi đem dâng”. Ông còn xin được cấp quần áo “Đại Nguyên” để mặc lúc đi chiêu dụ người Chiêm. Câu cha quân Nguyên, Bảo Thoát Thốc Hoa vẫn là người con trung thành của dân tộc Chàm và là người thân tín của Indravarman ( ).
Toa Đô vốn thành thạo trong mưu chước đem danh lợi mua chuộc những tên phản quốc ở các nước bị chinh phục.Hắn đã tin Bảo Thoát Thốc Hoa, đưa áo mũ Nguyên cho ông,"phủ dụ " rồi để ông trở về.
Ngày 15 tháng 2 (15-3-1283),Bảo Thoát Thốc Hoa lại trở lại doanh trại Toa Đô với mục đích thực hiện nốt bước cuối cùng trong kế hoạch của mình.Lần này ông dẫn năm người gồm có tể tướng Báo Tôn Đạt Nhi, đại sư Toát Cập “ra hàng” ( ). Ông tưởng rằng đưa một số đại thần đến như vậy thì có thể dễ đánh lừa Toa Đô. Nhưng ác thay, tình thế lại không diễn ra theo ý muốn của ông. Trong lúc ông trở về gặp Indravarman và Harijit để bàn định kế hoạch thì ngày 13 tháng 2 (13-3-1283) có một số người Trung Quốc trú ngụ ở Chiêm Thành đứng đầu là Tăng Diên đã đến được trại của Toa Đô. Tăng Diên nói rằng vua Chiêm hiện ở núi Nha Hầu phía tây bắc Đại Châu (kinh đô Vijaya), tập hợp quân đội hơn ba nghìn người và đang cho gọi quân ở các quận khác về để sắp sửa phản công, vì sợ kiều dân Trung Quốc tiết lộ bí mật nên đã đem giết hết, bọn Diên biết nên trốn thoát ( ). Toa Đô liền sinh ra nghi hoặc. Vì thế nên đến ngày 15 (15-3-1283) vừa thấy mặt Bảo Thoát Thốc Hoa là Toa Đô cho gọi ngay Tăng Diên ra đối chất. Trong giờ phút nguy hiểm bất ngờ đó, Bảo Thoát Thốc Hoa rất bình tĩnh. Người thuyết khách vô cùng mưu trí đó đã vặn lại Tăng Diên và bảo với Toa Đô rằng bọn Diên là kẻ gian, hãy trói ngay lại, chứ quân đội của vua Chiêm đã tan vỡ hết còn đâu mà dám đánh nữa. Trước thái độ và lý lẽ của Bảo Thoát Thốc Hoa, Toa Đô đã tin theo. Không bỏ lỡ cơ hội, Bảo Thoát Thốc Hoa tiếp tục hoàn thành kế hoạch của mình, ông nói với Toa Đô rằng nay còn 12 châu quận nữa chưa hàng phục, xin mỗi châu sai một người đến chiêu dụ. Ông đề nghị Toa Đô và an phủ sứ Trần Trọng Đạt cùng với ông, mỗi bên cử một người đi thuyền theo đường thủy đến Cựu Châu (Quảng Nam) ( ) để chiêu dụ và đánh chiếm vùng đó. Còn về mặt bộ, ông đề nghị Toa Đô, Trần Trọng Đạt cùng với ông “đi bắt quốc chủ, Bổ Đích và đánh thành” ( ). Đó là một kế hoạch rất khôn khéo của Bảo Thoát Thốc Hoa nhằm phân tán lực lượng của Toa Đô cũng như đưa hắn vào bẫy.
Toa Đô vẫn không hay biết tý gì.Tin lời Bảo Thoát Thốc Hoa, ngay ngày hôm đó, hắn điều một nghìn quân ra đóng ở tháp Bán Sơn ( ). Đồng thời hắn sai Lâm Tử Toàn, Lý Đức Kiên đem một trăm quân theo Bảo Thoát Thốc Hoa tiến về hướng Đại Châu (Vijaya) để đánh vua Chiêm. Hắn còn dặn toán quân này nếu gặp nguy thì báo cho quân ở tháp Bán Sơn đến cứu.
Bảo Thoát Thốc Hoa, dẫn bọn Lâm Tử Toàn đến phía tây thành Vijaya thì bỏ mặc bọn chúng ở đó, đi tắt ra cửa phía bắc, cưỡi voi vào núi. Đến đây giai đoạn trá hàng của Chiêm thành đã chấm dứt. Trong một tháng trời hòa hoãn, Chiêm Thành đã có thì giờ để củng cố lại lực lượng. Indravarman và Harijit đã xây dựng căn cứ ở núi Nha Hầu phía bắc Vijaya. Đó là một thành gỗ nằm giữa khoảng rừng sâu núi hiểm. Số quân tập trung ở đây khá lớn. Theo lời một người Chàm mà bọn Lâm Tử Toàn đã bắt được thì số quân đó đã lên tới hơn hai vạn. Đó là chưa kê số quân ở Tân Đa Long (Panduranga, tức Phan Rang ngày nay) và Cựu Châu (Quảng Nam) mà vua Chiêm đã cho gọi nhưng chưa đến nơi. Indravar-man còn sai sứ đi xin viện binh của Đại Việt,Chân Lạp và Đồ Bà (Java). Có lẽ Đại Việt dã phái quân sang giúp Chiêm Thành. Sau này, năm 1284, nhà Nguyên có trách Đại Việt đã giúp Chiêm Thành 2 vạn quân và 500 chiến thuyền( ).
Với lực lượng khá hùng hậu như vậy, Chiêm Thành đã sẵn sàng ứng phó vối bất cứ một cuộc tấn công mới nào của Toa Đô. Khi biết là bị mắc lừa, Toa Đô vô cùng tức tối. Hắn lập tức tổ chức một cuộc tấn công trả thù vào căn cứ địa của Chiêm Thành. Ngay ngày 16 tháng 2 (16-3-1283) hắn sai bọn vạn hộ Trương Ngung dẫn quân tiến vào chỗ vua Chiêm ở. Nhưng vì đường sá gập ghềnh hiểm trở nên mãi ba ngày sau, ngày 19 (19-3-1283), cánh quân Trương Ngung mới tiến đến cách thành gỗ 20 dặm ( ). Đến đây quân Nguyên đã vấp phải một sức kháng cự rất mạnh. Ngoài những hào sâu, quân Chiêm còn dùng nhiều gỗ lớn để ngăn giặc. Hơn hai nghìn binh sĩ đã cầm cự rất anh dũng. Cuối cùng quân Nguyên cũng vượt qua được những chướng ngại vật, tiến sát dưới thành gỗ. Nhưng càng vào sâu, bọn chúng càng đến gần chỗ chết. Núi rừng hiểm trở đã chặn chúng lại, trong khi đó quân Chiêm từ hai bên đổ ra, đánh vào phía sau lưng giặc, không cho chúng rút lui. Bị hăm vào tình thế tiến không được, thoái cũng không được, lại trỏ tay không kip vì tài chiến đấu của những ngưòi lính Chàm gan dạ, cánh quân của Trương Ngung vô cùng hoảng hốt. Bọn chúng phải “liều chết cố đánh” mới sống sót “thoát được về doanh trại" ( ).
Sau lần thất bại nặng nề này, Toa Đô đã thấy rõ được sức chiến đấu của người Chiêm. Hắn không còn dám nghĩ đến một cuộc tấn công mới vào căn cứ của Indravarman trong vùng núi hiểm trở kia. Nhưng không phải vì thế mà Toa Đô đã chịu bỏ dã tâm chiếm đóng Chiêm Thành. Hắn bắt đầu mưu toan một kế hoạch mới lâu dài và thâm độc hơn.
Toa Đô rút quân từ doanh trại ở phía ngoài thành Vijaya ra vùng bờ biển Quy Nhơn ngày nay. Hắn chấn chỉnh tàn quân, dựng thành gỗ, tích trữ lương thực, giao cho tổng quản Lưu Kim, thiên hộ Lưu Quyên, Nhạc Vinh trông coi việc phòng thủ ( ).
Toa Đô cho đóng quân ở đây là có ý chờ đợi viện binh để tổ chức những cuộc tấn công mới vào lực lượng Chiêm Thành. Bấy giờ Hốt Tất Liệt cũng đang chú ý đến việc tăng viện cho đạo quân Toa Đô. Ngày Ất Tỵ, 20 tháng 2 (20-3-1283), Hốt Tất Liệt đã sai hành tỉnh Long Hưng (Nam Xương, Giang Tây) cho quân đi hộ tống thuyền lương đến Chiêm Thành ( ). Ngày Bính Dần, 13 tháng 5 (9-6-1283), Hốt Tất Liệt lại ra lệnh cho viên bình chương hành tỉnh Kinh Hồ là A-ric Kha-y-a (Arĩq- Qaya) ( ) điều động 7 nghìn quân Hán (người bắc Trung Quốc) và 8 nghìn quân tân phụ (người nam Trung Quốc) chuẩn bị tăng viện cho Toa Đô ( ). Hốt Tất Liệt còn cho những tù phạm tội nặng định đi đánh Nhật Bản bổ sung vào đạo quân đi Chiêm Thành ( ). Đến ngày Kỷ Mão, 26 tháng 5 (22-6-1283), khi viên tuyên úy sứ bôn châu Hải Nam là Chu Quốc Bảo tâu xin thêm quân đánh Chiêm Thành thì Hốt Tất Liệt cho lấy một vạn rưỡi quân mà A-ric Kha-y-a đã điểu động ( ). Hai ngày sau, Hốt Tất Liệt lại ra lệnh cấp cung tên, giáp trượng cho Toa Đô ( ).
Để tăng cường việc xâm lược Chiêm Thành và các nước phương Nam khác, ngày Bính Dần, 16 tháng 9 (7-10-1283), Hốt Tất Liệt đã sáp nhập hành tỉnh Kinh Hồ với hành tỉnh Chiêm Thành là một ( ). Điều đó có nghĩa là làm cho hành tỉnh Chiêm Thành, cơ quan xâm lược các nước phương Nam, có một cơ sở ở trong nước. Hành tỉnh Kinh Hồ -Chiêm Thành được thiết lập sẽ tiến hành dễ dàng hơn việc huy động và tổ chức lực lượng ở các tỉnh phía nam sông Dương Tử dốc cho cuộc chiến tranh xâm lược các nước phương Nam ( ) A-ric Kha-y-a được cử làm bình chương chính sự của hành tỉnh này. Theo lệnh của Hốt Tất Liệt, A-ric Kha-y-a đòi Đại Việt phải giúp quân lương và cho mượn đường đánh Chiêm Thành nhưng Đại Việt đã cự tuyệt ( ). Thái độ kiên quyết đó của vua Trần đã gây khó khăn lớn cho bọn xâm lược Nguyên Mông trong việc tiếp viện cho Toa Đô ở Chiêm Thành. Chúng đành phải dùng đường thủy là con đưòng đầy nguy hiểm đối với chúng. Ngày Đinh Dậu, 17 tháng 10 (7-11-1283), Hốt Tất Liệt sai Khu-tu-khu (Qutuqu) ( ) thống lĩnh số quân của hành tỉnh Dương Châu mới tăng thêm cho Toa Đô ( ). Nhưng việc chuẩn bị tiếp viện cho Toa Đô tuy kéo dài gần suốt năm Quý Vị (Chí Nguyên 20, 1283) vẫn chưa có một đội binh thuyền nào đến được Chiêm Thành. Các cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân Trung Quốc ở Quảng Đông đã chặn mất con đường tiếp viện. Nguyên sử chép: “Năm [Chí Nguyên] 20 (1283), ở Quảng Đông, trộm cướp nổi lên, cắt đứt đường vận chuyển lương thực đi Chiêm Thành” ( ).
Trong khi đó, ở Chiêm Thành, Toa Đô lâm vào một tình trạng khá bi đát. Hắn đóng quân ở bờ biển Quy Nhơn đợi tăng viện nhưng mỏi mắt trông chờ suốt một năm trời vẫn không thấy tăm hơi. Quân lính của hắn lại bỏ trốn về nước khá nhiều, có lẽ vì thiếu lương, đói khát và vì hoảng sợ trước những cuộc tập kích của quân kháng chiến Chiêm Thành ( ).
Toa Đô không con hy vọng gì vào việc chiếm đóng vùng quốc đô Chiêm Thành, vì ở đây, lực lương chiến đấu của người Chiêm càng ngày càng phát triển. Nếu kéo dài việc đóng quân chờ thời ở đây, cánh quân của Toa Đô có thể gặp nguy cơ bị tiêu diệt. Đã đến lúc tên tướng Mông Cổ thấy cần phải rút khỏi vùng Quy Nhơn, nơi hắn đã tốn công chinh phục, xây dựng trong hơn một năm trời. Tuy vậy, hắn vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm chiếm Chiêm Thành. Không phải chỉ có ngà voi và trầm hương ở xứ sở này quyến rũ bọn kẻ cướp Nguyên Mông. Chúng cố sống cố chết bám lấy đất Chiêm là vì từ đây chúng có thể đánh toả xuống phương Nam và nhất là có thể đánh thọc vào lưng Đại Việt, kẹp Đại Việt vào hai mũi kìm phía nam và phía bắc. Toa Đô là một trong những tên xâm lược nhận thức được rõ ràng điều đó ( ). Vì thế, sau khi rời khỏi vùng Quy Nhơn, cửa Crĩ Vinaya ( ) của người Chiêm, ngày 6 tháng 3 năm Giáp Thân (Chí Nguyên 21, 24-3-1284) Toa Đô tiến quân ra phía bắc Chiêm Thành, vùng gần biên giới phía nam của Đại Việt ( ).
Mãi đến đầu năm Giáp Thân (Chí Nguyên 21, 1284) Hốt Tất Liệt mới thực hiện được việc tăng viện cho Toa Đô. Ngày 10 tháng 2 (27-2-1284) viên tham nghị ở trung thư tỉnh là Mang Lai Bu-kha (Manglai Buqa) tâu với Hốt Tất Liệt về việc hành tỉnh Kinh Hồ - Chiêm Thành đóng thuyền để chở lương tiếp viện cho quân ở Chiêm Thành ( ). Ngày định vị, 28 tháng 2 (16-3-1284), Hốt Tất Liệt ra lệnh cho A-ta-khai (Ataqai) ( ) phát 1 vạn 5 nghìn quân và 200 thuyền đi giúp việc đánh Chiêm Thành. Thuyền không đủ, hắn lại ra lệnh cho tỉnh Giang Tây phải cấp thêm ( ). Tướng được cử đi tăng viện cho bọn vạn hộ Khu-tu-khu (Qutuqu), ỏ Mã Nhi (Ô-ma, ’Omar) ( ), Lưu Quân Khánh ( ).
Không biết Toa Đô đã dẫn quân ra phía bắc, bọn Khu-tu-khu cứ nhắm phía nam Chiêm Thành, vùng quốc đô mà tiến. Ngày 15 tháng 3 (2-4-1284), chúng đến cảng Thư Mi Liên (tức cửa Quy Nhơn) thì thấy doanh trại nhà cửa của Toa Đô đã cháy hết ( ). Vạn hộ Lưu Quân Khánh tiến quân vào Tân Châu (Bình Định) ( ), gặp được người Chiêm Thành mới biết Toa Đô đà rút. Lưu Quân Khánh bắt người này dẫn đường đến gần chỗ vua Chiêm đóng ( ). Ngày 20 tháng 3 (7-4-1284), Khu-tu-khu sai bách hộ Trần Khuê đi dụ vua Chiêm hàng. Ngày 27 tháng 3 (14-4-1284), Indravarman sai người đến gặp Khu-tu-khu, nói rằng sang năm sẽ cho con đem cống vật sang Nguyên, còn hiện nay thì đất nước đã bị quân Toa Đô cướp phá, không còn gì để cống nạp ( ). Trước sự từ chối của vua Chiêm, bọn Khu-tu-khu thấy không thể đóng lại được ở đây. Hơn nữa, nhiệm vụ của chúng là tăng viện cho cánh quân đánh Chiêm Thành, vì thế chúng cần tìm gặp Toa Đô ngay. Nhưng cánh quân này chưa gặp được Toa Đô thì binh thuyền của chúng đã gặp bão bị tan nát hết ( ).
Bây giờ, Toa Đô đã đem quân ra phía bắc, đánh vào vùng hồ Đại Lãng ( ), ở đây Toa Đô lại sai đẵn gỗ làm thành, vỡ ruộng cày cấy để tự cấp. Từ đó, Toa Đô đem quân đánh tỏa ra vùng đất Ô Lý và Việt Lý (tức vùng Quảng Trị và Thừa Thiên ngày nay) ( ). Toa Đô tăng cường cướp bóc, tích trữ lương thực ( ). Hắn muốn áp dụng trên đất Chiêm chính sách đồn điền của bọn thông trị Mông Cổ ở Trung Quốc. Điều đó biểu lộ âm mưu đóng chốt lâu dài ở vùng này của Toa Đô. Nhưng quân số của hắn đã hao hụt khá nhiều, việc chiếm đóng vùng này cũng không phải là dễ dàng. Vì thế, ngày Canh Ngọ, 22 tháng 5 (7-6-1284), Toa Đô phải xin Hốt Tất Liệt cho thêm quân ( ). Nhưng viện binh còn đâu nữa, bao nhiêu binh thuyền chuẩn bị trong hơn một năm trời đã tan tác hết. Toa Đô phải đóng quân trong tình trạng khốn quẫn thiếu lương.
Như vậy là âm mưu xâm lược Chiêm Thành của Hốt Tất Liệt đã thất bại. Cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Chàm đã làm cho hắn không thực hiện được việc chiếm đóng Chiêm Thành và biến đất này thành một căn cứ để tấn công các nước khác ở Đông Nam Á. Máu của nhân dân Chàm đã đổ là để bảo vệ những cánh đồng phì nhiêu cày bằng hai trâu, bảo vệ trầm hương và rượu dừa, bảo vệ những ngày hội bơi thuyền xem cá trong tháng tư hay lễ cưỡi voi vào ngày nguyên đán, có nghĩa là bảo vệ cuộc sống lao động thanh bình của họ ( ). Nhưng chính cuộc chiến đấu rất anh dũng và mưu trí của nhân dân Chàm đã làm cho Hốt Tất Liệt không bắc được chiếc cầu xuống phương Nam và cũng do cuộc chiến đấu đó, tên vua Mông Cổ không có một căn cứ mạnh mẽ và vững chắc ở phía nam để tấn công vào Đại Việt. Nhờ đó, nhân dân Việt ít đổ máu hơn trong cuộc chiến tranh mới.
Nhưng Hốt Tất Liệt vẫn không từ bỏ dã tâm xâm lược Chiêm Thành. Hắn lại bắt đầu chuẩn bị một kế hoạch mối. Tháng 5 năm 1284, Khu mật viện đã sai Lý Hằng đi thu thập những quân đào ngũ của Toa Đô và cho người chiêu dụ đám tàn quân Giang Hoài, Giang Tây đi tiếp viện tan tác trở về. Những tên lính tìm đến đều được cấp lương thực. Thuyền chèo hư hỏng được sửa chữa lại. Số quân mới chiêu tập được đó giao cho A-ric Kha-ya điều động, dùng cho cuộc “Nam chinh” mới ( ). Nhưng cùng có nhiều tên trong đám tàn quân không chịu trở lại con đường chết ấy nữa, cái đói khát khổ sở trên đất Chiêm đã biến chúng thành những đám thổ phỉ. cướp bóc quấy nhiễu nhân dân miền Nam Trung Quốc ( ).
Ngày Đinh Sửu 29 tháng 5 (14-6-1284), Hốt Tất Liệt đã ra lệnh tước hổ phù( ) của bọn Ô Mã Nhi (’Omar), những bộ tướng đã đi tăng viện cho Toa Đô, lấy bọn Bôn-Kha-đa (Bolqadar) ( ) ở Hà Tây thay thế bọn Ô Mã Nhi, đặt dưới quyền chí huy của A-ric Kha-y-a ( ). Đến ngày Mậu Tỷ 12 tháng 7 (24-8-1284), Hốt Tất Liệt hạ chiếu cho con trai hắn là Thoát Hoan (Toyan) đánh Chiêm Thành ( ). Nhưng tiến đến Chiêm Thành bằng con đường nào? Hốt Tất Liệt đã hoảng sợ trước sóng gió của biển cả phương Nam. Hắn quyết định đánh chiếm Đại Việt, rồi sau đó sẽ đánh chiếm Chiêm Thành.
Trong khi đó, vương triều Chiêm Thành vẫn tiếp tục đấu tranh ngoại giao để đòi quân Toa Đô phải rút khỏi đất nước ( ). Đến đầu năm 1285, Toa Đô tiến từ Ô Lý, Việt Lý ra phía bắc, tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt, nhưng viên tham chính là Y-gơ-mi-sơ (YígmiLs) vẫn đóng quân lại ở vùng hồ Đại Lãng. Cho đến khi cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt hoàn toàn thất bại thì tên tướng đó mới rút hết quân khỏi đất nước Chiêm Thành ( ). Như vậy là đến lượt cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt lại chặn đứng được cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mông Cổ xuống Chiêm Thành và góp phần vào việc giải phóng hoàn toàn đất nước này./.
Cuộc Kháng Chiến Chống Xâm Lược Mông Nguyên Thế Kỷ Xiii Cuộc Kháng Chiến Chống Xâm Lược Mông Nguyên Thế Kỷ Xiii - Hà Văn Tấn- Phạm Thị Tâm Cuộc Kháng Chiến Chống Xâm Lược Mông Nguyên Thế Kỷ Xiii