No person who can read is ever successful at cleaning out an attic.

Ann Landers

 
 
 
 
 
Tác giả: Michael Crichton
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Trương Văn Khanh
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Lý Mai An
Số chương: 59
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2667 / 47
Cập nhật: 2016-03-03 14:01:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 10: Stegosaur
hi chiếc Land Cruiser dừng lại, Ellie Sattler nhìn con stegosaur qua những đám hơi nóng bốc lên từ mặt đất. Con vật đứng yên lặng, không nhúc nhích. Một chiếc Jeep có sọc chéo đỏ đỗ gần một bên.
Malcolm:
- Phải thừa nhận rằng đây là một con vật trông buồn cười.
Con stegosaur dài sáu mét với một thân hình to lớn cục mịch và những vi thẳng đứng nằm dọc theo sống lưng. Chiếc đuôi trông rất nguy hiểm với những đầu nhọn dài gần một mét. Chiếc cổ thon dần lên đến chiếc đầu nhỏ rắn chắc với đôi mắt nhìn ngờ nghệch, trông như một con ngựa câm. Khi họ đang nhìn, một người từ sau con vật đi quanh ra trước. Regis nói qua radio:
- Đấy là bác sĩ thú y của chúng tôi, bác sĩ Harding. Ông ta đã đánh thuốc mê con stegos, đấy là lý do tại sao nó không cử động. Nó đang ốm.
Grant đã rời khỏi xe, đi vội tới bên con vật đang đứng bất động. Ellie cũng ra khỏi xe và nhìn lui khi chiếc Land Cruiser thứ hai đỗ lại và hai đứa bé nhảy ra. Tim hỏi:
- Con vật bệnh gì vậy?
Ellie:
- Họ chưa rõ
Những cái vi to như những cái quạt bằng da dọc theo sống lưng con stegos rủ nhẹ xuống. Con vật thở khó khăn, chậm chạp, hơi thở phì phò. Lex hỏi:
- Nó có làm lây bệnh không?
Họ đến bên chiếc đầu nhỏ của con vật, nơi Grant và Harding đang quỳ giữa đất, nhìn vào miệng con vật. Lex nhăn mũi:
- Con này đúng là to thật. Và khó ngửi quá.
Ellie đồng ý:
- Đúng là có mùi khó ngửi.
Cô đã chú ý là con stegosaur có một mùi kỳ lạ, như cá ươn để thối. Mùi hôi nhắc cô đến điều gì đó cô đã biết, nhưng không nhớ ở đâu. Dù sao cô cũng chưa bao giờ ngửi được mùi của một con stegos trước đây. Có lẽ đây là mùi đặc trưng của con thú. Nhưng cô cũng nghi ngờ. Phần lớn các con thú ăn cỏ chẳng có mùi khó ngửi. Phân của chúng cũng thế. Chỉ những con vật ăn thịt sống mới có thể có mùi khó chịu. Lex hỏi:
- Có phải vì ốm mà nó hôi không?
- Có thể. Và đừng quên là bác sĩ thú y đã đánh thuốc mê nó.
Grant gọi:
- Ellie này. Hãy nhìn lưỡi con vật xem.
Chiếc lưỡi tím đen từ miệng con thú thè ra buông thõng xuống. Bác sĩ thú y rọt đèn vào lưỡi và Ellie thấy những nốt mụn trắng rất nhỏ.
- Những mụn nước li ti. Thú vị thật.
Bác sĩ thú y nói:
- Chúng tôi đang gặp lúc khó khăn với lũ stegos này. Chúng luôn luôn bị bệnh.
- Triệu chứng ra sao? - Ellie đưa móng tay gẩy vào một mụn ở lưỡi con vật. Một chất nước trong ứa ra.
- Eo ơi! - Lex lè lưỡi.
Harding:
- Đứng không vững, mất định hướng, thở khó, đi tiêu nhiều. Dường như cứ sáu tuần thì xẩy ra một vụ nhiễm bệnh.
- Họ tiếp tục cho nó ăn? - Ellie hỏi.
- Ồ, vâng. Một con thú cỡ này cần một lượng tối thiểu từ hai trăm rưỡi hoặc ba trăm kilô rau cỏ hàng ngày. Chúng là những chiếc máy cắt cỏ liên tục.
- Vậy thì chúng không phải bị bệnh do ăn phải cỏ độc.
- Đúng vậy.
- Cho tôi mượn cây đèn một tí. - Ellie lấy cây đèn chiếu rọi vào mắt con thú - Chất gây mê của ông gây kết quả thế nào đối với mắt con thú?
- Các đồng tử hẹp lại.
Ellie nhận xét:
- Nhưng đồng tử con vật lại mở rộng ra.
Harding nhìn theo Ellie. Quả đúng như thế: con ngươi của con thú mở to ra và không đóng hẹp lại khi ánh sáng chiếu vào. Ông nói:
- Tôi thật đáng chê. Đây là hiệu quả dược lý.
Ellie đứng dậy:
- Đúng vậy. - Cô nhìn quanh - Phạm vi hoạt động của con vật rộng chừng nào?
- Chừng năm dặm vuông.
- Trong vùng này?
Họ đang đứng trong một đồng cỏ khoảng khoát, mặt đất có những hỏn đá trồi lên cao rải rác đó đây và những đám hơi nước bốc lên. Lúc này đã quá nửa chiều, và bầu trời hồng lên dưới những đám mây xám thấp. Harding nói:
- Phạm vi hoạt động của chúng phần lớn ở khu phía bắc và phía đông cánh đồng này. Những khi ốm, chúng chỉ quanh quẩn ở vùng đặc biệt này.
- Thật là một sự đau đầu thú vị, cô nghĩ làm thế nào giải thích được những lần bị độc định kỳ của con thú?
Cô chỉ tay qua cánh đồng:
- Ông thấy những bụi cây thấp xanh tươi kia không?
Harding gật:
- Cây tử đinh lương Tây Ấn. Chúng tôi biết cây này độc. Nhưng con vật không ăn cây ấy.
- Ông có chắc không?
- Chắc chứ. Chúng tôi theo dõi qua vidéo, và kiểm tra phân chúng để biết chắc. Các con stegos không bao giờ ăn loại cây này.
Cây dâu tàu, hay cây tử đinh lương Tây Ấn, tên khoa học là melia agedarach có chứa một lượng độc chất akaloid. Người Trung Hoa dùng cây này để đánh độc cá. Harding nhắc lại:
- Chúng không ăn cây ấy.
Ellie:
- Thế thì lạ thật. Bởi vì con vật này cho thấy mọi dấu hiệu cổ điển của sự trúng độc cây melia: đờ đẫn, mụn nhỏ màng nhầy, đồng tử mở rộng. - Cô đi tới gần mấy bụi cây để xem kỹ hơn – ông nói đúng. Các bụi cây nguyên vẹn, không có dấu hiệu bị rứt bẻ. Không có.
Harding nhắc:
- Và còn chuyện là cứ cách khoảng sáu tuần.
- Con stegos có tới đây thường xuyên không?
- Khoảng một tuần một lần. Lũ stegos quanh quẩn ở đây, xem như phạm vi cư trú của chúng, rồi bắt đầu đi ăn xa dần ra. Rồi chúng lại trở về đây. Mỗi lần như thế chừng một tuần. Nhưng chỉ sáu tuần chúng mới ốm một lần.
- Đúng.
Lex bảo Tim:
- Mấy chuyện này chán quá.
- Suỵt. Tiến sĩ Ellie Sattler đang tập trung suy nghĩ.
Ellie:
- Tôi không nghĩ ra được. - Cô đi xa thêm, nhìn quanh. Sau lưng, cô nghe Lex hỏi: "Có ai muốn chơi ném cầu không?"
Ellie nhìn mặt đất. Cánh đồng có khá nhiều đá. Cô có thể nghe thấy tiếng sóng triều vỗ vào ghềnh đá, đâu đó về phía trái. Có những quả dâu chín rụng nằm xen giữa đám đá. Có lẽ mấy con thú chỉ ăn quả dâu. Nhưng cũng vô lý, vì quả dâu Tây Ấn này đắng kinh khủng.
Grant đến bên cô:
- Cô đang tìm gì à?
Ellie thở dài:
- Chỉ toàn đá. Chắc chúng ta ở gần biển, vì những hòn đá này đều nhẵn. Và chúng chồng lên nhau thành từng đống một cách kỳ lạ
- Những đống đá kỳ lạ?
- Có nhiều khắp nơi đấy. Có một đống gần ngay đây. - Ellie chỉ.
Ngay khi chỉ, Ellie bỗng nhận ra là mình đang nhìn vào thư gì. Đá bị mòn nhẵn nhưng không có liên quan gì đến biển. Những hòn đá dồn lại thành từng đống nhỏ, dường như chúng được ném vào một chỗ.
Đấy là những đống đá ựa ra từ mề chim. Nhiều loài chim và cá sấu nuốt những viên đá nhỏ, tập trung vào một túi thịt trong mề. Do sự co bóp của mề, những viên đá giúp nghiền nát các cây cỏ cứng trước khi đến bao tử và nhờ vậy tiêu hóa dễ hơn. Một số các nhà khoa học cho rằng khủng long cũng có mề. Vì răng khủng long tương đối nhỏ và ít mòn, chứng tỏ chúng ít nhai hoặc khó mà nhai thức ăn. Người ta đã giả thiết rằng khủng long nuốt chửng thức ăn và sau đó là mề làm nhiệm vụ nghiền nát các sợi xơ của thực vật. Và một số các bộ xương khai quật được thấy có những đống sạn nhỏ ở vùng bụng. Nhưng điều đó chưa được chứng thực, và…
Grant thốt lên:
- Sạn trợ tiêu.
Ellie:
- Tôi chắc vậy. Stegos nuốt những sạn này, và sau vài tuần, sạn bị mòn nhẵn, chúng ựa ra rồi nuốt sạn mới. Khi nuốt sạn, chúng nuốt luôn những quả chín. Và chúng bị bệnh.
Grant:
- Tôi thật ngốc. Chắc chắn là cô đúng rồi. - Ông nhìn đống sạn, dùng tay hất ra vài viên theo bản năng của một nhà cổ sinh vật. Và ông dừng lại:
- Ellie này, hãy nhìn thứ này xem.
o O o
- Nào, ném đi, chú.- Lex la lớn và Gennaro ném quả bóng về phía cô bé.
Cô bé ném lại rất mạnh làm ông ta thấy đau tay khi bắt, ông nói lớn:
- Này, ném vừa thôi. Chú không mang găng tay đấy.
Lex nói, giọng tỏ vẻ ta đây:
- Chú xoàng quá.
Hơi bị chọc tức, ông ta ném mạnh quả bóng về phía cô bé, và nghe kêu bốp một tiếng trong lòng bàn tay da. Lex ta lên:
- Đấy, tốt hơn rồi đấy.
Đứng bên con khủng long, Gennaro tiếp tục chơi ném bóng với Lex và nói chuyện với Malcolm:
- Con thú bị bệnh này khớp với lý thuyết của ông theo cách nào?
- Việc này tôi đã tiên đoán rồi.
- Có điều nào không được đoán trước bằng lý thuyết của ông?
- Ô kìa. Chuyện chẳng dính dáng gì đến tôi cả. Đấy là lý thuyết bất ổn. Nhưng tôi thấy chẳng ai muốn nghe sự liên hệ nhân quả của toán học. Vì sự liên hệ đó qúa rộng lớn so với một đời người. Lớn hơn rất nhiều so với nguyên lý của Heisenberg hay lý thuyết của Godel, mà ai cũng có đọc qua. Đấy đúng là những suy tư trừu tượng. Suy tư triết học. Còn lý thuyết bất ổn liên quan tới cuộc sống hằng ngày. Ông có biết thoạt tiên tại sao người ta chế tạo ra các computer không?
- Không.
- Ném vào đây này, chú. - Lex gọi Gennaro.
- Máy tính điện tử được tạo nên vào cuối thập niên bốn mươi vì các nhà toán học như John Von Neuman cho rằng nếu chúng ta có máy điện toán - một bộ máy đồng thời xử lý được nhiều vấn đề khác nhau - ta có thể đoán được thời tiết. Thời tiết cuối cùng sẽ nằm trong sự hiểu biết của con người. Mọi người tin tưởng vào giấc mơ ấy suốt bốn mươi năm kế đó. Họ tin rằng sự tiên đoán sẽ là một chức năng để theo dõi mọi chuyện. Nếu anh biết đủ, anh sẽ tiên đoán bất cứ thứ gì. Đấy là niềm tin vào khoa học được ấp ủ từ thời Newton.
- Và…?
- Lý thuyết bất ổn ném niềm tin ấy qua cửa sổ. Lý thuyết này nói người ta không bao giờ có thể tiên đoán được chắc chắn một hiện tương nào cả. Anh không bao giờ đoán được thời tiết trước quá vài ngày. Tất cả tiền bạc tiêu tốn vào việc đoán thời tiết dài ngày - vào khoảng nửa tỷ đô la trong mấy thập niên cuối cùng, là số tiền tiêu hoang phí. Đấy là sự lạc đường của người điên. Đấy là một hy vọng vô lý như cố biến chì thành vàng. Chúng ta nhìn lại các nhà hóa học giả kim và cười những gì họ cố làm, nhưng các thế hệ tương lai cũng sẽ cưới chúng ta như thế. Chúng ta đã cố làm một điều bất khả, và đã tiêu phí nhiều để làm. Vì thật ra có những hiện tượng mà cố hữu là không thể dự đoán được.
- Lý thuyết bất ổn bảo thế?
- Vâng. Và thật là ngạc nhiên khi ít có người chịu nghe đến nó. Tôi đã cho ông Hammond biết tất cả các thông tin này rất lâu trước khi ông ấy bắt đầu xây dựng chỗ này. Quý vị sắp dùng kỹ thuật di truyền tạo nên một đám thú tiền sử ở một hòn đảo à? Tốt. Một ước mơ đẹp. Hấp dẫn. Nhưng nó sẽ không thành công như kế hoạch dự định đâu. Kế hoạch cũng cố hữu là không thể dự đoán được cũng như thời tiết vậy.
- Ông nói với ông ta thế?
- Vâng. Và tôi cũng đã nói cho ông ta hay ở nơi nào sự trệch hướng sẽ xẩy ra. Rõ ràng lũ thú có thích hợp với môi trường hay không là một vấn đề. Con stegosaur này có đã từ một trăm triệu năm. Nó không thích nghi được với thế giới chúng ta. Không khí khác, sự bức xạ mặt trời khác, thổ nghi khác, côn trùng khác, âm thanh khác, cây cỏ khác. Mọi thứ đều khác. Độ ôxy trong không khí giảm. Con vật khốn khổ này giống như một người sống trên độ cao ba ngàn mét. Hãy nghe nó phì phò kia.
- Còn các vấn đề khác?
- Nói rộng ra, là khả năng của công viên trong việc có kiểm soát được sự lan tràn của các dạng đời sống hay không. Bởi vì lịch sử tiến hóa là cuộc sống vượt khỏi được các rào chắn. Cuộc sống vươn đến tự do. Cuộc sống trải rộng đến những vùng đất mới. Một cách đau đớn, và có lẽ cả một cách nguy hiểm, tôi không có ý định nói chuyện triết lý, nhưng cuộc sống nó là như thế.
Gennaro nhìn về phía xa. Grant và Eliie đang đứng đàng ấy, vẫy tay và la lớn.
o O o
Khi Muldoon bước vào phòng điều khiển, Nedry hỏi:
- Ông có đem cho tôi chai coca không?
Muldoon không buồn trả lời. Ông đi tới bên bộ phận điều khiển và nhìn xem những gì đang xẩy ra. Qua radio, ông nghe tiếng Harding: "Con stegos - cuối cùng - xử trí tiếp - bây giờ". Ông hỏi:
- Họ nói gì vậy?
Arnold:
- Họ đang ở vùng phía nam, chỗ của lũ stegos. Và đấy là lý do tại sao họ dừng lâu một chút. Hình như họ tìm ra chuyện gì đã làm cho mấy con stegos mắc bịnh. Chúng ăn một thứ dâu gì đó.
Hammond gật đầu:
- Tôi đã nói là sớm muộn gì rồi chúng ta cũng giải quyết được việc ấy.
o O o
Gennaro để một miếng trăng trắng, không lớn hơn một con tem thư, trên đầu ngón tay, trong ánh sáng tàn phai của buổi chiều, nói vời Grant:
- Ông biết chắc thứ này à?
- Hoàn toàn chắc chắn. Điều chắc chắn là ở chỗ bề mặt bên trong, mặt cong bên trong. Lật lại, ông sẽ thấy những đường nổi lên mờ mờ, tạo thành những hình gần như hình tam giác.
- Vâng, tôi có thấy.
- Tôi đã đào được hai quả trứng với nhưng đặc điểm y như thế ở địa điểm khai quật Montana.
Gennaro hỏi lần nữa:
- Ông nói đây là một mảnh vỏ trứng khủng long?
Grant gật đầu quả quyết:
- Hoàn toàn chắc chắn.
Harding lắc đầu:
- Nhưng khủng long ở đây không đẻ trứng.
Gennaro:
- Rõ ràng là chúng có thể đẻ.
- Đấy hẳn là một mảnh vỏ trứng chim lớn. Thật sự có đến hàng tá loài chim trên đảo.
Grant lắc đầu:
- Hãy nhìn độ cong của mảnh vỏ. Gần như phẳng. Là vì quả trứng quả to. Và hãy chú ý đến độ dày của nó nữa. Trừ phi ông nuôi đà điểu trên đảo, không thì đấy là vỏ trứng khủng long.
Harding vẫn lắc đầu:
- Nhưng chúng không thể sinh sản được. Tất cả các con khủng long đều là con cái.
Grant:
- Theo tất cả những gì tôi biết thì đây là trứng khủng long.
Malcolm hỏi:
- Anh có thể cho biết chủng loại?
- Được chứ. Đấy là trứng con velociraptor.
Công Viên Khủng Long Kỷ Jura Công Viên Khủng Long Kỷ Jura - Michael Crichton Công Viên Khủng Long Kỷ Jura