Books serve to show a man that those original thoughts of his aren't very new after all.

Abraham Lincoln

 
 
 
 
 
Tác giả: Michael Crichton
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Trương Văn Khanh
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Lý Mai An
Số chương: 59
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2667 / 47
Cập nhật: 2016-03-03 14:01:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5: Phiên Bản 4-4
ammond hỏi:
- Họ có đặt vấn đề gì không?
Henry Wu:
- Không. Rốt lại chẳng có vấn đề gì cả.
- Họ chấp nhận sự giải thích của anh à?
- Tại sao không? Tất cả là sự thật, ngay trước mắt mọi người. Chỉ các chi tiết là rắc rối. Hôm nay tôi muốn trình bày với ông về vấn đề những chi tiết. Ông có thể xem chuyện này như là vấn đề thẩm mỹ.
John Hammond nhăn mũi, dường như lão ngửi thấy mùi gì đó không ưa, lão lặp lại:
- Thẩm mỹ?
Hai người đang ngồi chờ trong gian phòng khách lịch sự của căn nhà nghỉ một tầng của Hammond, xây giữa đám cọ dừa ở khu phía bắc công viên. Căn phòng thật thoáng và đủ tiện nghi, có gắn sáu màn hình điều khiển cho thấy tất cả thú vật trong công viên. Hồ sơ Wu vẫn mang dấn, có đóng dấu SỰ PHÁT TRIỂN THÚ - PHIÊN BẢN 4 - 4, nằm trên bàn cà phê.
Hammond đang nghe Wu nói với thái độ như cha con, và với vẻ nôn nóng. Henry Wu, ba mươi ba tuổi, biết rất rõ rằng anh đã dốc hết cả sự nghiệp của mình để làm việc cho Hammond. Hammond đã thuê anh làm ngay sau khi tốt nghiệp.
- Dĩ nhiên, còn có những hậu quả thực tế nữa. Tôi thực sự cho rằng ông phải xét đến đề nghị của tôi cho giai đoạn thứ hai. Chúng ta phải đi đến phiên bản 4 - 4.
Hammond hỏi:
- Anh muốn thay hết cả đám thú hiện có?
- Vâng, tôi muốn thế.
- Tại sao? Có chuyện gì với lũ đó?
- Không có gì. Ngoài việc chúng là những con khủng long thật sự.
Hammond mỉm cười.
- Đấy là điều tôi yêu cầu anh Wu. Và đấy là điều anh đã làm cho tôi.
- Tôi biết. Nhưng ông thấy… - Anh ta dừng lại. Làm thế nào anh có thể giải thích điều này cho Hammond? Hammond hiếm khi đến thăm đảo. Và đây là một tình huống kì lạ m à Wu đang cố truyền đạt - Ngay lúc này, trong lúc chúng ta đang đứng đây, hầu như không một ai trên thế giới từng thấy một con khủng long thực sự. Không một ai biết chúng như thế nào.
- Ừ.
- Nhưng khủng long chúng ta có hiện nay là thật, - Wu chỉ vào các màn hình khắp phòng - nhưng chúng chưa hoàn thiện, theo một cách nhìn nào đấy. Không có sức thuyết phục. Tôi có thể làm cho chúng tốt hơn.
- Tốt hơn theo cách nào?
- Một mặt, chúng di chuyển qua nhanh. Người ta không quen với việc thấy những con thú to lớn cử động nhanh như thế. Tôi sợ rằng du khách đến xem sẽ cho rằng lũ thú dường như bị tăng tốc độ cử động, như phim ảnh chụp quá nhanh.
- Nhưng anh Wu, đây là những con khủng long thật. Chính anh đã nói như thế.
- Tôi biết. Nhưng chúng tôi có thể tạo ra những con thú chậm hơn, có tính cách thuần hóa hơn.
- Những con khủng long thuần hóa? - Hammond sịt mũi - Chẳng ai muốn xem khủng long thuần hóa đâu, Wu. Họ muốn những con vật thật.
- Nhưng đấy là quan điểm của tôi. Tôi không nghĩ là họ muốn thế. Họ muốn thấy những gì họ chờ thấy, vốn rất khác với điều chúng ta có.
Hammond cau mày. Wu tiếp:
- Chính ông đã nói, công viên này là nơi giải trí. Và việc giải trí chẳng dính líu gì đến tính thật. Sự giải trí về mặt lý thuyết chống lại tính thật.
Hammond thở dài:
- Anh Wu, đây có phải là lúc chúng ta tiến hành cuộc thảo luận trừu tượng ấy không? Anh biết là tôi muốn mọi thứ đơn giản. Mấy con khủng long ta đang có hiện giờ là thật, và…
- Ấy nhưng, không phải đúng vậy. - Wu bước quanh phòng, chỉ vào các màn hình - Tôi không nghĩ rằng chúng ta đang tự lừa phỉnh. Chúng ta không tái tạo lại quá khứ ở đây. Quá khứ đã trôi qua rồi. Quá khứ không bao giờ có thể tái tạo lại được. Những gì chúng ta đang làm là xây dựng nên một quá khứ hay ít ra là một phiên bản của quá khứ. Và tôi đang nói rằng tôi có thể tạo nên một bản sao quá khứ tốt hơn.
- Tốt hơn sự thật?
- Tại sao không? Rốt lại thì những con thú này đã được sửa đổi. Chúng ta đã thêm gen vào để lấy bằng sáng chế, chúng ta làm chúng phụ thuộc vào lysine. Và chúng ta đã làm mọi thứ có thể làm để gia tốc cho chúng mau trưởng thành.
Hammond nhún vai:
- Đó là chuyện không thể tránh được. Chúng ta không muốn chờ đợi. Chúng ta còn có những nhà đầu tư.
- Dĩ nhiên. Nhưng tôi chỉ nói là tại sao chúng ta dừng lại đây? Tại sao không đẩy mạnh lên nữa để tạo ra một loại khủng long đúng như ta muốn. Vì một điều là chúng dễ chấp nhận hơn đối với khách đến xem, điều khác là chúng ta dễ nuôi giữ hơn? Một phiên bản chậm chạp hơn, dễ bảo hơn cho công viên?
Hammond nhíu mày:
- Nhưng lúc ấy mấy con khủng long sẽ không đúng thật.
- Hiện giờ chúng cũng không đúng thật. Đấy là điều tôi đang cố nói với ông. Chẳng có tính chất thật nào ở đây. - Anh ta nhún vai có vẻ tuyệt vọng. Anh ta có thể nhận thấy rõ là vấn đề sẽ không thông qua được. Hammond chưa bao giở quan tâm đến vấn đề kỹ thuật, mà bản chất cuộc bàn cãi này là kỹ thuật. Làm sao anh có thể giải thích cho Hammond về những xoắn DNA bị thiếu, những đoạn chắp nối, những chỗ hở trong một chuỗi DNA mà Wu bắt buộc phải thêm vào cho đầy đủ, cố có những suy đoán tốt nhất để thực hiện, nhưng, vẫn là những suy đoán. DNA của khủng long cũng giống như những bức hình quá cũ đem ra tô vẽ thêm thắt vào những chỗ bị bong bị mờ, tuy cơ bản dựa trên bức hình gốc nhưng nhiều nơi cần sửa chữa làm cho rõ nét, và do đấy…
Hammond quàng tay quanh vai Wu:
- Wu này, anh đang phật ý, tôi nghĩ rằng anh đang trở nên e ngại rồi đấy. Anh đã làm việc hết sức khó nhọc trong một thời gian dài và anh đã làm được những việc thật ghê gớm, cuối cùng là lúc anh vén màn cho mọi người thấy những gì anh làm. Điều tự nhiên là có hơi căng thần kinh một chút. Còn tý nghi ngờ nào đó. Nhưng tôi hết sức tin tưởng, anh Wu, là mọi người sẽ thỏa mãn. Hoàn toàn thỏa mãn.
- Nhưng ông Hammond. Hãy nhớ lại vào năm 1987, khi chúng ta bắt đầu. Chúng ta không có được một con nào trưởng thành đủ kích thước cả, vì thế chúng ta phải đoán những gì chúng ta cần. Chúng ta đã đặt làm những dụng cụ gây choáng to lớn, những xe với chuồng nhốt có cọc nhọn, những súng bắn ra lưới điện. Chúng ta có rất nhiều thứ dụng cụ mà giờ đây, hóa ra quá chậm chạp khi sử dụng. Chúng ta phải điều chỉnh lại một số. Ông có biết là Muldoon cần các trang bị quân sự: súng phóng hỏa tiễn TOW và những vũ khí điều khiển bằng laser?
- Hãy cứ mặc cho Muldoon với những ý muốn đó. Tôi chẳng bận tâm. Đây chỉ là sở thú thôi, Wu.
Điện thoại réo, và Hammond bước đến trả lời. Wu cố nghĩ ra cách khác để thúc hối thực hiện những yêu cầu của mình. Nhưng sự thật là, sau năm năm dài chuẩn bị, công viên sắp hoàn thành, và Hammond sẽ không nghe anh nữa.
Cũng đã có lúc Hammond chăm chú lắng nghe Henry Wu nói. Đặc biệt là vào những ngày đầu tiên khi lão tuyển dụng anh, lúc ấy Wu là một sinh viên hai mươi tám tuổi vừa mới đạt được học vị tiến sĩ sau thời gian làm luận án tại phòng thí nghiệm của Norman Atherton.
Cái chết của Atherton đã để lại cho cơ sở thí nghiệm nỗi buồn tiếc và lâm vào tình trạng bối rối; không một ai biết những gì đã xảy ra trong khu vực cung cấp ngân khoản cho các chương trình đào tạo tiến sĩ. Có nhiều điều bất ổn, mọi người đều lo lắng cho nghề nghiệp của mình.
Hai tuần lễ sau đám tang, John Hammond đến gặp Wu. Mọi người trong phòng thí nghiệm biết rằng Hammond vốn vẫn có mối liên hệ với Atherton, dầu mối manh thế nào thì không ai biết rõ được.
Nhưng Hammond đã tiếp xúc với Wu bằng một sự thẳng thắn mà Wu không bao giờ quên.
- Norman Atherton luôn bảo rằng anh là nhà di truyền học giỏi nhất trong phòng thí nghiệm của ông ấy. - ông ta hỏi thẳng - Dự định của anh bây giờ thế nào?
- Tôi chưa biết. Có lẽ là nghiên cứu.
- Anh muốn được bổ dụng vào đại học?
- Vâng.
Hammond nói, khô khan:
- Đấy là một sự nhầm lẫn. Nếu anh kính trọng tài năng của mình.
Wu nhấp nháy mắt:
- Tại sao?
- Vì, chúng ta hãy cứ nhìn vào sự việc. Các trường đại học không còn là trung tâm trí thức của đất nước nữa. Nói thật chính xác thì các nơi đó thật lố bịch. Và là những nơi tù túng. Đúng có tỏ ra ngạc nhiên như thế. Tôi đâu cả nói những gì mà anh không biết. Kể tử sau thế chiến II, tất cả những khám phá thật sự quan trọng đã xuất phát từ các phòng thí nghiệm tư nhân. Tia laser, transistor, thuốc chủng bệnh bại liệt, mạch tổ hợp IC, phương pháp sang ảnh ba chiều, máy tính điện tử cá nhân, máy phân tích CAT… danh sách còn lại dài dài. Chỉ vì các trường đại học không còn là nơi cho các việc đó xẩy ra nữa. Và chúng không thể như thế đã bốn mươi năm nay. Nếu anh muốn thực hiện một việc gì quan trọng ở lĩnh vực computer hay di truyền, thì đừng có vào trường đại học. Nghe tôi đi, đừng.
Wu thấy mình không nói được lời nào. Hammond tiếp:
- Anh phải đi qua những cửa ải nào để thực hiện dự định của anh? Anh phải viết bao nhiêu lá đơn xin xỏ, điền bao nhiêu mẫu, chạy chọt bao nhiêu nơi? Ủy ban điều hành? Chủ nhiệm khoa? Phòng tổ chức? Làm sao anh có thêm những khâu thực hiện công việc nếu anh cần? Có thêm phụ tá nếu anh muốn? Tất cả những thứ đó cần bao nhiêu thời quan? Một người thông minh không thể tiêu phí thời gian vào những biểu mẫu và những cửa ải ấy. Cuộc đời thì quá ngắn, mà DNA thì quá dài. Anh muốn ghi lại dấu ấn của mình. Nếu anh muốn thực hiện một điều gì đó, hãy tránh xa các trường đại học.
Trong những ngày đó, Wu quả có cảm thấy thất vọng khi muốn theo đuổi dự định của mình, Hammond đã chiếm được nhiều chú ý của anh.
- Tôi đang nói về công việc của anh. - Hammond tiếp - Về một kết quả thực sự. Một nhà khoa học cần gì? Anh ta cần thì gờ, và tiền bạc. Tôi đang bàn với anh về một thời gian làm việc năm năm với mỗi năm số tiền tài trợ mười triệu đô. Năm mươi triệu đô. Và không một ai chỉ cho anh phải tiêu như thế nào. Tự anh quyết định. Mọi người khác chỉ việc theo ý anh.
Đề nghị quá ngon lành tưởng không thể là sự thật. Wu yên lặng một lúc thật lâu. Cuối cùng, anh hỏi:
- Để đổi lại
- Để thử làm một việc mà có thể là không làm được.
- Việc liên quan đến lĩnh vực nào?
- Tôi không thể nói với anh về các chi tiết, những đại để công việc dính líu đến việc tái sinh các loài bò sát.
- Tôi nghĩ là công việc đó có thế thực hiện được. Loài bò sát dễ hơn loài thú có vú. Việc tái sinh có thể chỉ trong mươi mười lăm năm.
Hammond nói gọn:
- Tôi có năm năm, và nhiều tiền, cho ai muốn lao vào việc ấy ngay bây giờ.
- Công việc tôi có thể công bố khônt,ơ?
- Cuối cùng.
- Không ngay lập tức?
- Không.
- Nhưng cuối cùng có thể công bố chứ? - Wu cứ bám vào điểm này.
Hammond mỉm cười:
- Đừng lo. Nếu anh thành công, cả thế giới sẽ biết về những gì anh làm, tôi hứa với anh vậy.
Và bây giờ, quả vậy, hình như toàn thể thể giới sẽ biết, Wu nghĩ. Sau năm năm cố gắng hết sức, giờ chỉ còn thêm một năm nữa là đến ngày mở cửa công viên cho công chúng. Dĩ nhiên những năm ấy trôi qua không thật đúng như những gì Hammond đã hứa. Đã có một số người đến bảo Wu phải làm điều này điều nọ và nhiều lần những áp lực đáng sợ đã đè nặng lên anh. Bản thân công việc cũng đã thay đổi, - thậm chí không phải là tái tạo lại một số bò sát, khi họ bắt đầu hiểu rằng khủng long rất giống loài chim. Đấy là việc tái sinh một số loài chim, một công việc được xem là rất khó khăn. Khó hơn nhiều. Và trong hai năm qua, anh kiêm nhiệm nhiều chức: quản lý phân phối tài chính, giám thị các tổ nhóm nghiên cứu, các tổ computer giải mã gen. Quản lý phân phối không phải là loại công việc anh thích. Cũng không phải là loại công việc anh đòi hỏi.
Tuy vậy, anh đã thành công. Anh đã làm được những việc mà không ai tin là có thể làm được. Nhưng Hammond không nghe và không cần anh nữa.
Lão mỉm cười, mở cửa cho anh bước ra.
ĐIỀU KHIỂN
Grant nhìn tất cả các màn hình computer điều khiển từ xa trong các phòng tối lờ mờ. Grant vốn không ưa các máy điện toán. Ông biết điều này khiến mình thành một nhà khảo cứu lỗi thời, kiểu cũ, nhưng ông bất cần. Một số sinh viên trẻ làm việc với ông lại có cảm tình thật sự với các máy tính, một trực giác. Grant không bao giờ cảm thấy thế. Ông cho computer là những cỗ máy phức tạp.
John Arnold bắt đầu:
- Quý vị muốn biết về cơ chế phòng điều khiển? - ông ta xoay chiếc ghế đang ngồi về phía khách tham quan. Người kỹ sư trưởng này bốn mươi lăm tuổi, gầy, dáng luôn căng thẳng, hút thuốc liên tục. Ông liếc nhìn mấy người khác trong phòng - Chúng tôi có những cơ chế điều khiển quý vị khó có thể tin được. - ông đốt một điếu thuốc khác.
Gennaro:
- Ví dụ?
- Ví dụ theo dõi đường đi của thú. - Arnold ấn một nút ở bảng điều khiển và một bản đồ bằng kính sáng lên với những đường vẽ màu xanh thành hình một con thú. - Đấy là một con T-rex vị thành niên của chúng tôi. Một con T-rex nhỏ. Tất cả những di chuyển của nó trong công viên trong hai mươi bốn tiếng vừa qua. - Arnold lại bấm nút - Hai mươi bốn tiếng trước. - và bấm nữa - Hai mươi bốn tiếng trước đó nữa.
Những đường vẽ trên bản đồ chụm lại dày đặc, theo một lối nguệch ngoạc như trẻ con vẽ. Nhưng những nét nguệch ngoạc tập trung vào một chỗ, gần phía tây nam của hồ nước. Arnold nói:
- Quý vị sẽ có được một nhận xét về phạm vi sinh hoạt của nó ở từng thời điểm. Con này còn nhỏ nên nó ở gần hồ nước và nó luôn luôn ở cách xa con trưởng thành. Nếu cho xuất hiện đường đi của hai con, quý vị sẽ thấy là đường đi của chúng không bao giờ giao nhau.
Gennaro hỏi:
- Vào lúc này con rex lớn ở đâu?
Arnold bấm một nút khác. Bản đồ sáng trắng lên và một điểm duy nhất sáng chói với một mã số xuất hiện ở những cánh đồng phía tây bắc của hồ nước. Arnold nói:
- Nó đấy.
- Con rex nhỏ đâu rồi?
- Tôi sẽ chỉ cho quý vị thấy mọi con thú trong công viên. - Arnold nói và bấm nút - Đây là toàn bộ hai trăm ba mươi tám con thú vào phút này.
Tấm bản đồ bắt đầu sáng lên như một cây Noel, có hàng tá chấm sáng, mỗi chấm kèm một mã số. Gennaro hỏi:
- Chính xác đến mức nào?
- Trong phạm vi một mét rưỡi. - Arnold giụi tắt điếu thuốc - Hãy nhìn vấn đề theo cách này: quý vị lái một chiếc xe ra đấy và sẽ thấy các con thú đúng vào các chỗ ấy, chính xác như chúng đang xuất hiện trên bản đồ
- Bao lâu thì sự ghi nhận này thay đổi?
- Ba mươi giây.
- Khá hấp dẫn đấy chứ. Làm thế nào có được các hình ảnh
- Chúng tôi có những bộ cảm ứng với sự chuyển động đặt khắp công viên. Phần lớn các bộ cảm ứng này chuyển hình ảnh bằng dây, một số bằng sóng điện tử. Dĩ nhiên, những bộ cảm ứng với sự chuyển động này thường không cho quý vị biết về chủng loại, nhưng chúng tôi nhận biết trực tiếp qua các màn hình video. Ngay cả khi chúng tôi không theo dõi màn hình điều khiển, hệ thống computer cũng theo dõi. Và kiểm tra chặt chẽ mọi con thú.
- Có khi nào computer nhầm lẫn không?
- Chi có với những con non thôi. Computer thỉnh thoảng nhầm với loại này, vì chúng quá bé. Nhưng đấy không thành vấn đề. Mấy con non luôn ở gần bầy các con trưởng thành. Và chúng tôi còn có bản kiểm kê về các chủng loại.
- Ấy là cái gì?
- Cứ cách mười lăm phút, computer kiểm kê toàn bộ các loại thú. - Arnold bấm một nút - Như bảng này.
Màn hình hiện lên một bảng kiểm kê. Arnold giải thích:
- Những gì quý vị thấy là một quá trình tổng hợp các bộ cảm ứng đặt khắp công viên. Việc đếm dựa trên các số liệu theo dõi lũ thú. Toàn bộ công việc cho thấy computer không thể nhầm lẫn được vì nó so sánh hai cách thu thập dữ hệu khác nhau. Nếu thiếu một con thú chúng tôi biết ngay trong vòng năm phút.
Malcolm:
- Tôi hiểu. Nhưng đã khi nào có sự cố xảy ra để thử nghiệm chưa?
Arnold:
- Có, bằng một cách khác tương tự. Chúng tôi có vài con thú chết. Một con othnielian bị vướng vào các cành cây và bị chết nghẹt. Một con stegos chết vì bệnh đường ruột. Một trong số hypsilophodontids rơi gãy cổ. Và trong mọi trường hợp, mỗi khi có con thú ngừng hoạt động thì các con số kiểm kê không hình thành và computer báo động.
- Trong vòng năm phút?
- Vâng.
- Còn các con số ở cột cuối?
- Đấy là mã số các phiên bản. Quý vị nhớ là các con thú này được con người tạo nên. Thỉnh thoảng có sự nhầm lẫn. Vì thế, khi nào chúng tôi phát hiện có sự sai lầm, phòng thí nghiệm của tiến sĩ Wu phải thực hiện phiên bản mới, và chúng tôi phải theo dõi các phiên bản chúng tôi có ngoài kia.
Malcolm:
- Vâng, tôi hiểu. Nhưng, trở lại chuyện đếm số thú. Tôi hiểu là việc đếm dựa vào các bộ cảm ứng.
- Vâng.
- Và các bộ cảm ứng có đặt khắp công viên?
- Các bộ cảm ứng bao quát chín mươi hai phần trăm diện tích đảo. Chỉ có vài nơi chúng tôi không thể dùng được. Ví dụ, chúng tôi không thể đặt dọc theo dòng sông, vì sự chuyển động của dòng nước và sự đối lưu từ mặt nước làm nhiễu loạn hoạt động của các bộ cảm ứng. Nhưng chúng tôi đặt hầu như khắp nơi. Và nếu như computer theo dấu một con thú vào vùng không có bộ cảm ứng, nó sẽ ghi vào bộ nhớ, và sẽ theo dõi cho đến khi con vật lại ra khỏi vùng ấy. Và nếu không thấy con vật ra, computer sẽ báo động.
- Bây giờ, anh đã cho chúng tôi thấy có bốn mươi chín con procompsognathus. Giả sử chúng tôi nghi rằng một vài con trong số này thật sự không phải cùng chủng loại. Làm sao anh chỉ cho thấy là chúng tôi sai.
- Có hai cách. Trước hết, tôi có thể theo dấu các chuyển động cá thể của các con compys giả sử là có. Compys là loài sống quần thể, chúng di chuyển theo nhóm. Chúng tôi có hai nhóm compys trong công viên. Vì thế các con thú này phải nằm trong nhóm A hoặc nhóm B.
- Vâng, nhưng…
- Cách thứ hai là quan sát trực tiếp. - Arnnld nói và bấm một nút. Một trong mấy màn hình điều khiển bắt đầu chớp hiện nhanh hình ảnh của các compys, đánh số từ 1 đến 49.
- Những bức hình này là…
- Những hình nhận dạng. Của các compys trong năm phút vừa qua.
- Vậy thì anh có thể nhìn thấy tất cả các con thú, nếu anh muốn?
- Vâng. Tôi có thể đếm duyệt các con thú bằng cách nhìn từng con một bất cứ lúc nào tôi muốn.
Gennaro:
- Còn về nuôi giữ thì sao? Các con thú có thể vượt ra khỏi chỗ nhốt không?
- Tuyệt đối không. Đây là những con thú quá đắt, ông Gennaro à. Chúng tôi chăm sóc chúng thật kỹ càng. Chúng tôi có những rào chắn nhiều lớp. Trước hết là lớp hào. - Amold bấm nút và bản đồ sáng lên với một mạng lưới các đường kẻ màu da cam - Các hào này, không có hào nào sâu dưới ba mét rưỡi, và luôn đầy nước. Với thú lớn hơn, hào có thể sâu đến chín mét. Kế đến, là hàng rào điện. - Các đường màu đỏ sáng lên trên bản đồ. - Chúng tôi có năm mươi dặm hàng rào cao ba mét rưỡi, kể cả hai mươi hai dặm bao quanh đảo. Tất cả các hàng rào của công viên tải điện mười ngàn volt. Các con thú đều nhanh nhóng hiểu rằng chúng không nên đến gần hàng rào.
Gennaro:
- Nhưng nếu có một con thoát khỏi rào?
Arnold khịt mũi và dập tắt điếu thuốc. Gennaro tiếp:
- Chỉ giả thiết thôi. Giả sử việc ấy xảy ra?
Muldoon đằng hắng, lên tiếng:
- Chúng tôi sẽ đi theo bắt lại. Có nhiều cách để làm việc đó. Súng gây choáng, lưới điện, thuốc gây mê. Các thứ này không gây tử vong vì, như ông Arnold nói, chúng là những thú vận đắt giá.
Gennaro gật:
- Và nếu một con thoát khỏi đảo?
- Nó sẽ chết trong vòng chưa tới hai bốn tiếng. - Arnold trả lời. - Đây là những con thú có được do kỹ thuật di truyền. Chúng không có khả năng sống được trong thế giới thật sự.
Gennnaro:
- Còn về các bộ phận điều khiển thì sao? Có thể có ai xen vào gây rối được không?
Arnold lắc đầu:
- Hệ thống điều khiển được thiết kế tạo nên rất nhiều khâu ngăn không cho ai có thể xen vào được. Computer độc lập trong mọi hoạt động. Năng lượng độc lập. Năng lượng dự trữ cũng độc lập. Hệ thông không có liên lạc với ngoài đảo, vì thế nó không thể bị gây ảnh hưởng bởi các bộ phá điều khiển từ xa. Hệ thống các computer đều có khâu bảo mật.
Một lúc yên lặng. Arnold giụi tắt điếu thuốc:
- Một hệ thống tuyệt diệu. Một hệ thống tuyệt hảo.
Malcolm:
- Vậy tôi đoán là, vì hệ thống của quý vị hoạt động quá tốt như vậy, hầu như quý vị không gặp vấn đề gì.
Arnold nhướng mày:
- Chúng tôi có cả triệu vấn đề. Nhưng không có vấn đề nào giống như các vấn đề mà quý vị đang bận tâm. Chúng tôi thấy quý vị đang lo lắng là lũ thú có thể thoát khỏi đảo đến đất liền và gây nên những chuyện quỷ quái. Chúng tôi chẳng thấy có gì phải lo lắng cả. Những con thú này rất mong manh và dễ đau yếu. Chúng được mang đến từ một thời điểm cách nay sáu mươi lăm triệu năm, đến một thế giới rất khác với thế giới chúng đã sống, đã quen thuộc. Chúng tôi đã phải tốn nhiều công sức để săn sóc chúng.
- Quý vị phải thấy được rằng - Arnold nói tiếp - con người đã nuôi được loài thú có vú và loài bò sát trong sở thú hằng trăm năm rồi. Vì thế chúng ta biết rất nhiều cách chăm sóc cho một con voi hay một con trăn. Nhưng chưa có ai từng chăm sóc cho một con khủng long. Chúng là những thú vật mới. Và chúng tôi cũng chưa nắm vững. Bệnh tật của lũ thú này cũng là vấn đề lớn đối với chúng tôi.
- Bệnh tật à? - Gennaro hỏi, đột nhiên cảnh giác - Liệu khách viếng có thể bị nhiễm bệnh không?
Arnold lại khịt mũi:
- Người ta chưa từng bao giờ bị lây bệnh cảm từ một con cá sấu nuôi ở sở thú. Các sở thú không bận tâm vấn đề ấy. Chúng tôi cũng thế. Điều chúng tôi lo lắng là lũ thú đang chết chính vì bệnh của chúng, hay là lây lan qua các con khác. Nhưng chúng tôi cũng đã có những chương trình kiểm soát. Quý vị muốn xem hồ sơ sức khỏe của con rex lớn? Các lần tiêm chủng? Các lần chữa răng? Đấy là các điểm nên quan tâm… Quý vị cũng nên xem các thú y sĩ khoan các lỗ sâu ở mấy chiếc răng nanh con thú để trám rồi lại cọ rửa sạch để nó khỏi nuốt phải thuốc.
- Bây giờ thì chưa xem được. Thế còn về các hệ thống chuyên chở thì sao?
- Ông muốn nối đến các hệ thống chuyển du khách?
Gennaro ngước lên nhanh: "Hệ thống chuyên chở?" Arnold vẫn đang nói:
- Chưa có hệ thống chở du khách nào hoạt động cả. Chúng tôi có thiết kế hệ thống "Du hành trên sông" với các thuyền trôi dọc theo sông, và "Bay trong lồng khủng long", nhưng chưa có hệ thống nào sử dụng trong năm tới. Công viên sẽ khai trương bằng những chuyến đi tham quan khủng long theo cách mà quý vị sẽ đi trong vài phút tới. Những chuyến đi kiểu khác sẽ được tiến hành sau đó mười hai tháng nữa.
Grant:
- Ông nói là sẽ có những chuyến chở khách? Như trong các công viên giải trí?
Arnold:
- Đây là công viên thú vật. Chúng tôi có những chuyến đi vào các khu vực khác nhau, và chúng tôi gọi đó là các chuyến xe chở du khách. Thế thôi.
Grant cau mày. Một lần nữa, ông lại cảm thấy khó chịu. Ông không thích cái ý tưởng là khủng long được dùng trong một công viên giải trí. Malcolm tiếp tục những câu hỏi của mình:
- Quý vị bảo là toàn bộ khu công viên được điều khiển từ phòng này?
Arnold:
- Vâng. Và chúng tôi có thể điều khiển chỉ với một người thôi, nếu cần. Chúng tôi đã tự động hóa nhiều. Computer có thể tự mình theo dấu các con thú, cho ăn, cho đầy nước vào các máng uống nước trong vòng bốn mươi tám tiếng mà không cần người giám thị.
Malcolm:
- Đây là hệ thống do Nedry thiết kế?
Dennis Nedry ngồi ở một góc cuối phòng, đang ăn một thỏi chocolate và đang đánh máy. Anh ta trả lời, không nhìn lên:
- Đúng thế.
Arnold hãnh diện nhắc lại:
- Thật là một hệ thống tuyệt hảo.
Nedry hờ hững:
- Vâng, đúng vậy. Chỉ có một hoặc hai trục trặc cần điều chỉnh.
Arnold nói:
- Bây giờ, tôi thấy là chuyến đi tham quan sắp bắt đầu. Vậy trừ khi quý vị còn câu hỏi nào…
Malcolm:
- Chỉ một câu nữa thôi. Đây là câu hỏi về việc khảo cứu. Ông đã cho chúng tôi thấy ông có thể theo dấu lũ compys và cho thấy rõ từng con riêng biệt. Có thể nào thực hiện việc khảo sát chúng trong cả nhóm không cần đo chúng, hay bất cứ gì khác. Nếu tôi muốn biết chiều cao, trọng lượng, hoặc…
Arnold bấm một nút: màn hình hiện một biểu đồ về tình hình sức nặng và chiều cao của nhóm compys.
- Chúng tôi có thể làm được việc đó - Arnold nói - và làm rất nhanh. Máy điện toán nhận những số liệu cân đo khi đọc từ màn hình video, vì thế có thể phiên dịch ra ngay. Quý vị thấy biểu đồ này biểu diễn một sự phân bố bình thường mật độ loài thú này. Nó cho thấy phần lớn các con thú có số cân đo trung bình tập trung ở các điểm giữa. Đầu và cuối đường cong, các con thú lớn hơn hoặc nhỏ hơn.
- Đây là biểu đồ mà quý vị cần!
- Vâng. Và bây giờ, - Arnold châm một điếu thuốc khác - còn câu hỏi nào không?
Malcolm:
- Không. Tôi đã biết hết những gì tôi cần biết.
Khi cả mấy người cùng đi ra ngoài, Gennaro nói:
- Đối với tôi thì đây dường như là một hệ thống khá tốt. Tôi thấy đám thú không thể nào thoát ra được.
- Ông thấy thế sao? Tôi thì hoàn toàn thấy việc thú trốn thoát là hiển nhiên.
Gennaro:
- Chờ một chút nữa. Anh cho là đã có con trốn thoát?
- Tôi biết là chúng đã trốn thoát.
- Nhưng bằng cách nào? Anh cũng thấy rồi đó. Họ có thể đếm tất cả. Có thể nhìn đến tận từng con. Họ biết chúng đang ở đâu vào bất cứ lúc nào. Làm thế nào mà chúng có thể thoát khỏi đảo được?
Công Viên Khủng Long Kỷ Jura Công Viên Khủng Long Kỷ Jura - Michael Crichton Công Viên Khủng Long Kỷ Jura