There's nothing to match curling up with a good book when there's a repair job to be done around the house.

Joe Ryan

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Cat Among The Pigeons (1959)
Dịch giả: Võ Hồng Long
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 365 / 57
Cập nhật: 2020-04-04 23:39:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 23 - Hạ Màn
rong một phòng học nhỏ, bà Bulstrude nhìn nhóm người đã tập hợp về đây. Tất cả nhân viên của bà đều có mặt: bà Chadwick, bà Johnson, cô Rich, và hai cô giáo trẻ. Ann Shapland ngồi cùng tập giấy và chiếc bút chì, phòng khi bà Bulstrode muốn cô ghi chép. Ngồi cạnh bà Bulstrode là Thanh tra Kelsey, và bên anh là Hercule Poirot. Adam Goodman ngồi đúng vị trí chân trong chân ngoài của anh, giữa nhóm nhân viên và nhóm mà anh tự đặt tên là ban điều hành. Bà Bulstrode đứng lên nói, giọng bà lưu loát và quyết đoán.
“Tôi cảm thấy tất cả mọi người đều có quyền,” bà nói, “vì là nhân viên của tôi, và chuyện liên quan đến vận mệnh của ngôi trường, mọi người phải được biết chính xác cuộc điều tra này tiến triển đến đâu. Tôi được Thanh tra Kelsey cho biết vài sự việc. Ông Hercule Poirot đây có nhiều mối quan hệ quốc tế, đã được trợ giúp quý giá từ Thụy Sĩ và sẽ đứng ra tường thuật vấn đề cụ thể đó. Chúng ta vẫn chưa đi đến hồi kết cuộc điều tra, tôi rất tiếc phải nói vậy, nhưng một số chi tiết nhỏ đã được làm sáng tỏ và tôi nghĩ mọi người sẽ trút được gánh nặng khi biết tình trạng các vấn đề lúc này.” Bà Bulstrode nhìn Thanh tra Kelsey, và anh đứng lên.
“Về mặt chính thức,” anh nói, “tôi không phải là người ở địa vị tiết lộ những điều tôi biết. Tôi chỉ có thể bảo đảm với các vị rằng trong phạm vi tiến triển chúng tôi đạt được, chúng tôi đại khái đã hình dung được đối tượng nào phải chịu trách nhiệm cho ba tội ác đã xảy ra trong trường. Ngoài ra, tôi sẽ không nói gì nữa. Bạn tôi đây, ông Hercule Poirot, người không chịu ràng buộc về bí mật công tác, và hoàn toàn có quyền trình bày suy nghĩ của ông, sẽ tiết lộ cho quý vị những thông tin mà chính ông đã dùng ảnh hưởng của mình để có được. Tôi dám chắc các vị đều trung thành với Meadowbank và với bà Bulstrode, nên sẽ giữ kín nhiều chuyện mà ông Poirot nhắc đến, chúng không ích gì cho cộng đồng bên ngoài. Càng ít lời đồn hay phỏng đoán về chúng thì càng tốt, nên tôi sẽ đề nghị các vị giữ kín những điều các vị biết được ở đây, hôm nay. Mọi người có hiểu không?”
“Dĩ nhiên,” bà Chadwick nói đầu tiên, giọng nhấn mạnh. “Dĩ nhiên chúng tôi đều trung thành với Meadowbank, tôi hi vọng thế.”
“Hiển nhiên rồi,” cô Johnson nói.
“Ô vâng,” hai cô giáo trẻ nói.
“Tôi đồng ý,” Eileen Rich nói.
“Vậy thì có lẽ, mời ông Poirot?”
Hercule Poirot đứng lên, mỉm cười với thính giả của mình và thận trọng vân vê râu mép. Hai cô giáo trẻ suýt bật cười, bèn mím môi quay đi.
“Thật là một quãng thời gian khó khăn và đầy lo lắng đối với tất cả các vị ở đây,’’ ông nói. “Trước tiên, tôi muốn các vị biết rằng tôi hiểu rất rõ điều đó. Hiển nhiên, chuyện này ảnh hưởng đến bà Bulstrode hơn ai hết, nhưng tất cả các vị đều chịu tác động. Các vị chịu trước hết là việc mất đi ba đồng nghiệp, một người đã làm ở đây khá lâu. Tôi đang nói đến cô Vansittart. Cô Springer và cô Blanche, dĩ nhiên, là những người mới, nhưng tôi dám tin rằng cái chết của họ là cú sốc lớn đối với các vị và là một biến cố đau buồn. Bản thân các vị hẳn cũng phải chịu đựng nỗi sợ hãi không nhỏ, vì dường như thể có ai đó nhắm vào các cô giáo ở Meadowbank. Tôi có thể đảm bảo với các vị, và Thanh tra Kelsey cũng sẽ đảm bảo với các vị, chuyện không phải vậy. Meadowbank, do một chuỗi sự kiện bất ngờ, đã trở thành trung tâm chú ý của nhiều mối quan tâm không mong muốn. Như thể có một con mèo giữa đám bồ câu. Đã có ba vụ giết người ở đây, và một vụ bắt cóc. Trước tiên tôi sẽ đề cập vụ bắt cóc, trong toàn bộ chuyện này phần khó khăn là dọn sạch những vấn đề không liên quan, dù bản thân vấn đề đó là tội phạm, đã làm lu mờ đi sợi chỉ quan trọng nhất - đó là manh mối về một kẻ giết người tàn bạo và quyết liệt đang ở giữa các vị đây.”
Ông lấy trong túi ra một tấm ảnh.
“Trước hết, tôi mời các vị xem tấm ảnh này một lượt.” Kelsey nhìn ảnh, rồi chuyển cho bà Bulstrode và đến lượt mình bà chuyển cho các nhân viên. Nó được trả lại cho Poirot. Ông nhìn vào mặt họ, đều có vẻ khá bối rối.
“Tôi xin hỏi các vị, tất cả các vị, có ai nhận ra cô bé trong ảnh không?”
Một người, rồi tất cả đều lắc đầu.
“Hẳn là không rồi,” Poirot nói. “Vì đó là ảnh chụp Công nương Shaista tôi nhận được từ Geneva.”
“Nhưng đây không phải Shaista,” bà Chadwich thốt lên. “Chính xác,” Poirot nói. “Mọi chuyện bắt đầu ở Ramat, như các vị biết, là nơi một cuộc cách mạng lật đổ chính quyền diễn ra cách đây ba tháng. Người trị vì ở đó, Quốc vương Ali Yusuf, đã toan chạy trốn, được phi công riêng lái máy bay chở đi. Tuy nhiên, máy bay của họ đã đâm vào núi ở bắc Ramat, và mãi đến cuối năm mới được tìm thấy. Một món đồ giá trị lớn, mà Quốc vương Ali luôn mang bên mình, đã bị mất. Người ta không tìm thấy vật đó chỗ máy bay rơi, và có tin đồn vật đó đã được mang đến đất nước này.
“Nhiều nhóm người nóng lòng muốn chiếm đoạt món đồ giá trị ấy. Một trong những đầu mối tiếp cận món vật đó là người thân duy nhất còn lại của Quốc vương Ali Yusuf, họ hàng gần gũi nhất, là cô bé lúc ấy còn ở một trường học tại Thụy Sĩ. Có vẻ như món đồ quý giá kia đã được mang ra khỏi Ramat an toàn, và sẽ được đưa cho Công nương Shaista hay người thân hoặc người giám hộ của cô bé.
“Một số điệp viên được lệnh phải để mắt đến ông bác cô bé là Hoàng thân Ibrahim, và những người khác thì để mắt đến chính Công nương. Người ta biết rằng, cô bé sẽ đến học trường Meadowbank vào kì học này. Do đó, hiển nhiên là có người được lệnh phải tìm công việc ở đây, và theo dõi sát sao bất cứ ai tiếp cận với Công nương, thư từ của cô bé, và bất kỳ tin nhắn nào qua điện thoại. Nhưng thậm chí người ta đã nảy ra một ý tưởng đơn giản hơn và hiệu quả hơn, ấy là bắt cóc Shaista và đưa người của mình đóng giả Shaista vào học ở trường. Điều này có khả năng thành công, vì Hoàng thân Ibrahim đang ở Ai Cập, và không định đến thăm nước Anh cho tới cuối mùa hè. Bản thân bà Bulstrode chưa từng gặp cô bé, và bà tiếp nhận cô bé thông qua Đại sứ quán ở London.
“Ở mức độ cực đoan nào đó thì kế hoạch này lại đơn giản. Shaista thật đã rời Thụy Sĩ, được một người đại diện của Sứ quán ở London tháp tùng. Hoặc đáng ra là vậy. Thực tế, Sứ quán ở London được thông báo là một đại diện từ trường học Thụy Sĩ sẽ tháp tùng cô bé đến London. Shaista thực đã bị bắt cóc đến một biệt thự rất dễ chịu ở Thụy Sĩ và ở đó từ bấy đến giờ, và một cô gái hoàn toàn khác đã đến London, và được đại diện của sứ quán tiếp đón, rồi sau đó mang đến trường này. Người thay thế, dĩ nhiên, chắc chắn phải già hơn Shaista thực. Nhưng điều đó khó gây chú ý, bởi các cô gái phương Đông bề ngoài trông già dặn hơn so với độ tuổi. Điệp viên được chọn cho việc này là một nữ diễn viên trẻ người Pháp chuyên vào vai các nữ sinh.
“Tôi đã hỏi,” Hercule Poirot nói, giọng trầm ngâm, “liệu có ai để ý đến đầu gối Shaista không. Đầu gối là một chỉ dấu rất rõ về tuổi tác. Đầu gối của phụ nữ ngoài hai mươi ba hoặc hai tư tuổi không bao giờ có thể nhầm với đầu gối của một cô bé tuổi mười bốn mười lăm được. Than ôi, không ai để đến đầu gối cô bé cả.
“Kế hoạch này không được thành công như mong đợi. Không ai định liên hệ với Shaista, không thư từ, không cuộc điện thoại đáng chú ý nào cho cô bé, và khi thời gian trôi đi, nỗi lo lắng càng tăng thêm. Hoàng thân Ibrahim có thể đến Anh trước lịch trình. Ông ta không phải típ người thông báo trước kế hoạch của mình. Như tôi hiểu, ông ta có thói quen vào một tối nói rằng, ‘Ngày mai ta sẽ đi London’ và thế là sẽ đi.
“Shaista giả, lúc ấy, hiểu rõ rằng bất cứ lúc nào cũng có khả năng ai đó biết Shaista thật đến trường, nhất là sau mấy vụ giết người. Vì vậy, cô ta bắt đầu chuẩn bị cho một vụ bắt cóc bằng cách nói điều đó với Thanh tra Kelsey. Dĩ nhiên, vụ bắt cóc thực sự hoàn toàn chẳng như thế. Ngay khi biết được rằng bác của cô bé sẽ đến đón vào sáng hôm sau, cô ta gửi tin nhắn qua điện thoại, và nửa tiếng trước khi chiếc xe thực đến, một chiếc xe lộng lẫy với biển sô C.D giả đã đến và Shaista chính thức ‘bị bắt cóc’. Thực ra, dĩ nhiên, cô ta được chiếc xe kia thả xuống ở thành phố lớn đầu tiên, tại đó cô ta ngay lập tức quay lại con người thực của mình. Một bức thư đòi tiền chuộc nghiệp dư được gửi đi để củng cố cho câu chuyện hư cấu này.”
Hercule Poirot ngừng lại, rồi nói, “Như các vị có thể thấy, đó chỉ là một thủ đoạn của người làm ảo thuật. Đánh lạc hướng. Các vị chú ý vào vụ bắt cóc ở đây, và không hề ai nghĩ rằng vụ bắt cóc thực thì đã xảy ra ba tuần trước đó ở Thụy Sĩ.”
Ý Poirot thực sự muốn nói, nhưng lịch sự không nói ra, rằng không ai nghĩ đến điều ấy ngoài ông.
“Giờ chúng ta sẽ sang,” ông nói, “việc nghiêm trọng hơn vụ bắt cóc - chuyện giết người.
“Dĩ nhiên, Shaista giả có thể đã giết cô Springer nhưng cô ta không thể giết cô Vansittart hay cô Blanche được, và không có động cơ để giết ai cả, cũng không ai yêu cầu cô ta phải làm thế. Vai trò của cô ta chỉ đơn giản là nhận món đồ giá trị, nếu vật đó được mang đến cho cô ta; hoặc là, trong trường hợp khác, nhận thông tin về nó.
“Chúng ta hãy quay lại Ramat, nơi mọi chuyện bắt đầu. Tin đồn lan rộng ở Ramat ấy là Quốc vương Ali Yusuf đã đưa món đồ giá trị này cho Bob Rawlinsons, phi công riêng của ông, và rằng Bob Rawlinson đã thu xếp để nó được chuyển đến nước Anh. Vào ngày xảy ra các mạng, Rawlinson đến khách sạn lớn nhất của Ramat, nơi chị gái của anh ta, bà Sutcliffe, và con gái Jennifer của bà đang ở. Bà Sutcliffe và Jennifer đã đi chơi, nhưng Bob vẫn lên phòng họ, ở đó ít nhất hai chục phút. Trong hoàn cảnh đó, thì chừng ấy thời gian quả là hơi lâu. Dĩ nhiên, anh ta có thể đã viết một bức thư dài cho chị gái mình. Nhưng không phải vậy. Anh ta chỉ để một bức thư ngắn, đúng ra viết đôi ba phút là xong.
“Có một ý kiến hoàn toàn mang tính suy luận, từ nhiều bên khác nhau, rằng khi ở trong phòng khách sạn, anh ta đã giấu món vật đó trong tài sản của bà chị gái, và rằng bà ấy đã mang về nước Anh. Giờ chúng ta đến phần mà tôi có thể gọi là chia tách câu chuyện thành hai hướng. Một nhóm lợi ích - (hoặc có thể nhiều hơn một nhóm lợi ích) - giả định rằng bà Sutcliffe đã mang món đồ này về Anh và do vậy nhà của bà ở nước Anh đã bị lục soát toàn diện. Điều này cho thấy, rằng ai đó đang tìm kiếm không biết chính xác món đồ được giấu ở đâu. Chỉ biết nó ở đâu đó trong đồ đạc của bà Sutcliffe.
“Nhưng một người khác lại biết rất chính xác nơi giấu món đồ, và tôi nghĩ rằng, đến lúc này sẽ chẳng gây tổn hại gì nếu tôi cho quý vị biết nơi thực sự Bob Rawlinson đã giấu nó. Anh ta đã giấu nó trong cán vợt tennis, tháo rỗng cán vợt, sau đó thì lắp lại khéo léo đến mức khó mà nhận ra điều đã làm.
“Chiếc vợt tennis này không phải của bà chị gái, mà của con gái Jennifer của bà. Ai đó biết chính xác nơi giấu, đã ra Cung Thể thao vào ban đêm, người này trước đó đã đánh một chiếc chìa khóa. Vào thời điểm đó trong đêm, lẽ ra mọi người đã lên giường đi ngủ. Nhưng không phải thế. Từ tòa học xá, cô Springer thấy ánh đèn pin trong Cung Thể thao, và cô đi ra xem xét. Cô là phụ nữ trẻ, khỏe mạnh và cứng cỏi và hoàn toàn tin bản thân có khả năng đối phó với bất cứ điều gì cô phát hiện ra. Người kia có lẽ đang chọn trong số vợt tennis để tìm đúng chiếc vợt mong muốn. Bị cô Spinger phát hiện và nhận ra, kẻ kia không do dự… Người tìm kiếm kia là một sát thủ, và đã bắn chết cô Springer. Tuy nhiên, sau đó kẻ giết người phải hành động cho nhanh. Tiếng súng đã bị nghe thấy, có người đang đến. Bằng mọi giá, kẻ giết người phải ra khỏi Cung Thể thao mà không bị phát hiện. Chiếc vợt chắc sẽ nằm đó một thời gian nữa…
“Vài ngày sau, người ta thử cách khác. Một phụ nữ xa lạ, với chất giọng Mỹ giả tạo đã chặn đường Jennifer Sutcliffe khi cô bé vừa từ sân tennis trở về, và kể cho cô bé nghe một câu chuyện khá bùi tai, rằng một người thân của cô bé gửi đến chiếc vợt mới. Jennifer chấp nhận câu chuyện mà không ngờ vực, và vui sướng đổi chiếc vợt đang cầm lấy chiếc vợt người lạ mang đến. Nhưng một tình huống đã xảy ra mà người phụ nữ nói giọng Mỹ ấy không hề biết. Chỉ vài ngày trước đó, Jennifer Sutcliffe và Julia Upjohn đã tráo vợt cho nhau, nên vợt mà người phụ nữ lạ kia cầm đi thực ra là vợt cũ của Julia Upjohn, dù miếng dán tên lại là của Jennifer.
“Giờ chúng ta sang thảm kịch thứ hai. Cô Vansittart vì lí do nào đó còn chưa rõ, nhưng có lẽ liên quan đến việc Shaista bị bắt cóc chiều hôm ấy, đã cầm đèn ra Cung Thể thao sau khi mọi người đã lên giường. Ai đó theo dõi cô ấy ra đó, đánh cô ấy vào đầu, dùng dùi cui hoặc túi cát, khi cô đang khom người bên tủ của Shaista. Bà Chadwick thấy ánh đèn trong Cung Thể thao bèn vội vã đi ra.
“Một lần nữa cảnh sát đến khám xét Cung Thể thao, và một lần nữa kẻ giết người lại bị cản trở việc tìm kiếm những chiếc vợt tennis ở đó. Nhưng lúc này, Julia Upjohn, một đứa trẻ thông minh, đã ngẫm nghĩ nhiều sự việc và đi đến kết luận logic rằng chiếc vợt mà cô bé giữ, vốn ban đầu thuộc về Jennifer, là chiếc vợt quan trọng ở khía cạnh nào đó. Cô bé tự mình kiểm tra, và thấy rằng phỏng đoán của mình là chính xác, và mang thứ đựng trong vợt đến chỗ tôi.
“Hiện tại, chúng,” Hercule Poirot nói, “được cất giữ an toàn, và chúng ta không cần phải lo lắng nữa.” Ông ngừng lại, rồi tiếp tục, “Còn lại thảm kịch thứ ba cần xem xét.
“Cô Blanche biết hoặc nghi ngờ điều gì, chúng ta sẽ không bao giờ biết. Cô ấy hẳn đã thấy có người rời tòa học xá vào đêm cô Springer bị giết. Dù điều cô ấy biết hay nghi ngờ có là gì đi nữa, thì cô ấy rõ ràng biết danh tính của kẻ giết người. Và cô ấy giữ kín điều ấy. Cô lên kế hoạch kiếm tiền đổi lấy sự yên lặng.
“Không có gì,” Hercule Poirot nói, đầy xúc động, “nguy hiểm bằng việc đòi tống tiền một kẻ trước đó có lẽ đã giết hai mạng người. Cô Blanche hẳn đã có biện pháp phòng ngừa, nhưng dù là biện pháp gì thì cũng không đủ. Cô ta đã hẹn gặp kẻ giết người và cô bị giết.”
Ông lại ngừng.
“Vậy đấy,” ông nói, nhìn quanh một lượt, “các vị đã nghe toàn bộ chuyện này.”
Tất cả họ đều nhìn chằm ông. Khuôn mặt họ, lúc đầu phản ánh sự hứng thú, ngạc nhiên, phấn khích, thì lúc này dường như đóng băng nhất loạt. Như thể họ kinh sợ nếu phô bày bất cứ cảm xúc nào. Hercule Poirot gật đầu với họ.
“Đúng,” ông nói, “Tôi biết các vị cảm thấy thế nào. Chuyện này rất liên quan phải không nào? Đó là lí do, các vị biết đấy, tôi và Thanh tra Kelsey và anh Adam Goodman đây đã tiến hành các cuộc thẩm vấn. Chúng tôi phải biết, liệu có còn con mèo giữa đám bồ câu không! Các vị hiểu tôi nói gì không? Để xem có ai ở đây còn giữ lớp hóa trang không?”
Có một làn sóng rì rầm giữa những người đang nghe ông nói, những cái liếc ngang vụng trộm, như thể họ muốn nhìn nhau, nhưng không dám làm vậy.
“Tôi lấy làm vui sướng đảm bảo với các vị,” Poirot nói. “Tất cả các vị ngồi đây, trong lúc này đều chính xác như con người các vị tự nhận. Bà Chadwick chẳng hạn, là bà Chadwick - nghĩa là chắc chắn không có chỗ để nghi ngờ, bà ấy đã ở đây ngay từ khi Meadowbank thành lập! Cô Johnson nữa, là cô Johnson không lẫn đi đâu được. Cô Rich là cô Rich. Cô Shapland là cô Shapland. Cô Rowan là cô Rowan và cô Blake là cô Blake. Xa hơn nữa,” Poirot nói, ông quay đầu, “Adam Goodman, người làm việc trong vườn, nếu không chính xác là Adam Goodman, thì dù sao cái tên ấy cũng khớp với hồ sơ của anh ta. Vậy là, chúng ta đang ở đâu? Không phải chúng ta tìm một người hóa trang thành người khác, mà người, trong danh tính thực của anh ta hoặc cô ta, là một sát thủ.”
Căn phòng lúc này rất tĩnh lặng. Hiểm họa lơ lửng không khí.
Poirot nói tiếp.
“Chúng tôi muốn, trước hết, ai đó đã ở Ramat cách đây ba tháng. Ai đó hẳn đã nhìn thấy món đồ được Bob Rawlinson để vào đó thì mới biết được chỗ giấu. Đơn giản vậy thôi. Vậy là ai, trong số các vị ngồi đây, đã ở Ramat ba tháng trước? Bà Chadwick đã ở đây, cô Johnson đã ở đây.” Mắt ông nhìn sang hai cô giáo trẻ. “Cô Rowan và cô Blake đã ở đây.”
Ông đưa ngón tay ra chỉ.
“Nhưng cô Rich - cô Rich không ở đây vào kì học trước, đúng không?”
“Tôi… không. Tôi bị ốm.” Cô vội nói. “Tôi nghỉ một học kì.”
“Đó là điều chúng tôi không biết,” Hercule Poirot nói, “cho đến vài ngày trước có người ngẫu nhiên nhắc đến. Ban đầu, khi được cảnh sát thẩm vấn, cô chỉ nói là cô đã ở Meadowbank một năm rưỡi. Bản thân điều đó khá đúng. Nhưng học kì vừa qua, cô lại vắng mặt. Cô có thể đã ở Ramat - Tôi nghĩ cô đã ở Ramat. Cẩn thận đấy. Có thể xác minh điều này, cô biết đấy, từ hộ chiếu của cô.”
Một thoáng yên lặng, rồi Eileen Rich ngước lên. “Đúng,” cô nói khẽ. “Tôi đã ở Ramat. Tại sao không?”
“Tại sao cô đến Ramat, cô Rich?”
“Ông đã biết rồi. Tôi bị ốm. Tôi được khuyên nên nghỉ ngơi - đi ra nước ngoài. Tôi đã viết thư giải thích với bà Bulstrode rằng tôi phải nghỉ một kì. Bà ấy rất hiểu.”
“Đúng vậy,” bà Bulstrode nói. “Có giấy chứng nhận của bác sĩ kèm theo, khuyên rằng sẽ là thiếu thận trọng nếu để cô Rich cố làm việc tiếp.”
“Vậy… sao cô đến Ramat?” Hercule Poirot nói.
“Sao tôi không được đi Ramat?” Eileen Rich nói. Giọng cô run khẽ. “Có vé rẻ dành cho giáo viên. Tôi muốn nghỉ ngơi. Tôi muốn ánh mặt trời. Tôi đã đi Ramat. Tôi ở đó hai tháng. Tại sao không? Tại sao không, tôi xin hỏi?”
“Cô chưa bao giờ nhắc đến chuyện cô đã ở Ramat vào thời gian xảy ra Cách mạng.”
“Sao tôi phải thế? Điều đó có liên quan gì đến ai ở đây? Tôi không giết ai cả, tôi bảo ông rồi. Tôi không giết ai cả.”
“Có người nhận ra cô, cô biết đấy,” Hercule Poirot. “Dù không chắc chắn, chỉ là mơ hồ thôi. Cô bé Jennifer rất đãng trí. Cô bé bảo đã thấy cô ở Ramat nhưng kết luận rằng không thể nào là cô được, vì người mà con bé trông thấy là người béo, không gầy.” Ông rướn ra trước, mắt ông như xuyên vào khuôn mặt Eileen Rich.
“Cô có gì để nói không, cô Rich?”
Cô nhìn quanh. “Tôi biết ông định ám chỉ gì!” cô hét lên. “Ông đang định ám chỉ rằng kẻ gây ra mấy vụ giết người này chẳng phải mật vụ hay gì cả. Đó là người tình cờ ở đó, người tình cờ trông thấy kho báu được giấu trong chiếc vợt tennis. Người đã biết được đứa trẻ sẽ đến học ở trường Meadowbank và rằng cô ta có cơ hội lấy vật bị giấu cho mình. Nhưng tôi nói với ông rằng không có thật.”
“Tôi nghĩ chuyện xảy ra như thế. Đúng,” Poirot nói. “Ai đó thấy châu báu được giấu và trong khi quyết tâm muốn chiếm đoạt chúng đã quên đi mọi mọi bổn phận và lợi ích khác!”
“Không đúng, tôi cho ông biết. Tôi chẳng thấy gì cả…”
“Thanh tra Kelsey.” Poirot quay đầu.
Thanh tra Kelsey gật đầu - đến cửa, mở cửa ra, và bà Upjohn bước vào phòng.
“Chào bà Bulstrode,” bà Upjohn nói, xem ra hơi xấu hổ. “Tôi xin lỗi, trông tôi hơi luộm thuộm, nhưng mới hôm qua tôi còn ở đâu đó gần Ankara, và vừa bay về đây. Người tôi hôi hám bẩn thỉu kinh khủng, và thực sự không có thì giờ để tắm gội soạn sửa hay làm gì hết.”
“Không vấn đề gì đâu,” Hercule Poirot nói. “Chúng tôi muốn hỏi bà đôi điều.”
“Bà Upjohn,” Kelsey nói, “khi bà đưa con gái đến trường này, bà đã ở trong phòng bà Bulstrode, bà nhìn ra cửa sổ -phía cửa sổ hướng về lối đi đằng trước - và bà thốt lên một tiếng kêu như thể nhận ra ai đó."
Bà Upjohn nhìn anh chằm chằm. “Khi ở trong phòng khách của bà Bulstrode ư? Tôi đã nhìn thấy - ồ, đúng rồi, dĩ nhiên. Đúng, tôi đã nhìn thấy một người.”
“Một người khiến bà ngạc nhiên khi trông thấy?”
“À, tôi khá là… Anh biết đấy, cũng nhiều năm rồi.”
“Ý bà là từ hồi bà còn làm tình báo cho đến kết thúc chiến tranh?”
“Đúng. Khoảng mười lăm năm trước. Dĩ nhiên, cô ta trông già hơn nhiều, nhưng tôi nhận ra ngay. Và tôi đã thắc mắc cô ta ở đây mà làm gì.”
“Bà Upjohn, bà nhìn một lượt trong phòng và cho tôi biết người đó có ở đây không?”
“Có, dĩ nhiên,” bà Upjohn nói. “Tôi thấy cô ta ngay khi tôi bước vào. Là cô ta.”
Bà đưa ngón tay ra chỉ. Thanh tra Kelsey mau lẹ, cả Adam cũng vậy, nhưng họ không đủ nhanh. Ann Shapland đã đứng bật dậy. Trong tay cô ta là một khẩu súng nhỏ trông xấu xí, và nó nhằm thẳng bà Upjohn. Bà Bulstrode, nhanh hơn hai người kia, đã tiến đến, nhưng người nhanh nhất ấy là bà Chadwick. Bà không định che chắn cho bà Upjohn, mà là người phụ nữ đứng giữa Ann Shapland và bà Upjohn.
“Không, cô không được,” Chaddy hét lên, và lao người lên bà Bulstrode ngay khi khẩu súng nhả đạn.
Bà Chadwick lảo đảo, rồi chầm chậm gục xuống. Cô Johnson chạy lại. Adam và Kelsey lúc này đã giữ được Ann Shapland. Cô ta vùng vẫy như con mèo hoang, nhưng họ đã giật được khẩu súng khỏi tay cô ta.
Bà Upjohn nói không kịp thở:
“Hồi ấy họ bảo cô ta là một sát thủ. Dù cô ta còn quá trẻ. Một trong những điệp viên nguy hiểm nhất mà họ có. Bí danh của cô ta là Angelica.”
“Đồ chó cái dối trá!” Ann Shapland phun ra.
Hercule Poirot nói:
“Bà ấy không nói dối đâu. Cô là người nguy hiểm. Cô luôn sống cuộc sống nguy hiểm. Đến lúc này, cô chưa bao giờ bị nghi ngờ về danh tính thực của cô. Tất cả những việc mà cô đã sử dụng tên thật của mình đều là hoàn toàn là công việc thực sự, làm việc hiệu quả - nhưng đó đều là công việc có mục đích, và mục đích là thu thập thông tin. Cô đã làm việc cho một Công ty Dầu mỏ, làm cho một nhà khảo cổ mà công việc đưa ông ta đến nhiều nơi trên địa cầu, làm cho một nữ diễn viên mà người bảo trợ cho cô ta là một chính trị gia xuất chúng. Ngay từ năm mười bảy tuổi, cô đã làm điệp viên - dù làm cho nhiều chủ khác nhau. Việc làm của cô được người ta thuê và trả lương cao. Cô đã chơi hai mang. Trong hầu hết công việc của cô đều tên thực, nhưng có những việc mà cô dùng danh tính khác. Đó là khi cô lấy danh nghĩa về nhà với mẹ.
“Nhưng tôi cực kỳ nghi ngờ, cô Shapland ạ, rằng bà cụ mà tôi đã đến thăm, người sống ở một ngôi làng nhỏ được người hộ lý ở cùng chăm sóc, một bà cụ là bệnh nhân thần kinh thật sự, đầu óc lẩn thẩn, lại không phải mẹ cô gì cả. Bà ấy là cái cớ để cô nghỉ việc, để lánh xa bạn bè. Ba tháng mùa đông mà cô ở cùng ‘mẹ’, người đã có ‘diễn biến xấu’, trùng khớp với thời gian cô đi Ramat. Không phải dùng tên Ann Shapland mà là Angelica de Toredo, một vũ công Tây Ban Nha. Cô đã ở phòng khách sạn cạnh phòng bà Sutcliffe, và bằng cách nào đó cô trông thấy Bob Rowlinson giấu châu báu vào vợt. Lúc bấy giờ, cô không có cơ hội lấy chiếc vợt đi, vì người ta sơ tán khẩn cấp công dân Anh, nhưng cô đã đọc được nhãn trên hành lý và dễ dàng tìm ra thông tin về họ. Để chiếm được vị trí thư ký ở đây không khó. Tôi đã điều tra vài việc. Cô đã trả một số tiền kha khá cho thư ký trước của bà Bulstrode để cô ta nghỉ việc với lí do ‘bị suy nhược’. Và cô có một câu chuyện hợp lí, rằng cô đã được thuê viết một loạt những bài báo về một trường nữ sinh nổi tiếng từ góc độ ‘người trong cuộc’.
“Mọi chuyện có vẻ dễ dàng, phải không? Nếu chiếc vợt của đứa trẻ bị mất, thì có sao? Đơn giản hơn, ban đêm cô sẽ ra Cung Thể thao, và lấy số châu báu. Nhưng cô không tính đến cô Springer. Có lẽ cô ta đã trông thấy cô lục lọi những chiếc vợt. Có lẽ cô ta chỉ tình cờ thức dậy giữa đêm. Cô ta theo cô ra đó, và cô bắn cô ta. Sau này, cô Blanche định tống tiền cô, và cô giết cô ta nốt. Với cô, giết người là chuyện hiển nhiên đúng không?”
Ông ngừng lại. Thanh tra Kelsey đọc quyền lợi theo luật định cho tù nhân của mình.
Cô ta không nghe. Quay sang Hercule Poirot, cô ta cố nhổ vào ông, khiến mọi người trong phòng sững sờ.
“Èo!” Adam nói, khi Kelsey giải cô ta đi. “Còn tôi đã nghĩ cô ta là người tốt!”
Cô Johnson đang quỳ bên cạnh bà Chadwick.
“Tôi e là bà ấy bị thương nặng,” cô nói. “Tốt hơn để bà ấy nằm yên, chờ bác sĩ đến.”
Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu - Agatha Christie Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu