A good book has no ending.

R.D. Cumming

 
 
 
 
 
Tác giả: James G. Zumwalt
Thể loại: Hồi Ký
Dịch giả: Đỗ Hùng
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 18916 / 281
Cập nhật: 2014-12-28 22:25:56 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần 3 Bi Kịch Thường Dân
ã qua lâu rồi cái thời mà quân đội đánh nhau trên những chiến trường cách xa nơi dân thường sinh sống. Ranh giới chiến trường trong thế kỷ 20 và 21 là không có giới hạn; vạch xác định khu vực chiến trường ngày càng mờ đi và “tổn thất bên lề” ngày càng lớn hơn.
Trong cuộc xung đột này, chiến tranh bao trùm toàn nước Việt Nam – từ nơi chiến trận ở miền Nam cho đến các cuộc dội bom ở miền Bắc. Khi mà ranh giới của chiến trường là vô hạn thì có một kết cục không thể tránh khỏi – không thể giới hạn ảnh hưởng chỉ trong phạm vi người lính chiến. Chừng nào chưa có loại vũ khí “thông minh” có thể phân biệt được người tham chiến và kẻ ngoài cuộc, chừng ấy dân thường vẫn còn chịu thương vong. Chiến tranh Việt Nam – một cuộc chiến mà thương vong dân thường lên tới hai triệu người – không là ngoại lệ, và có lẽ là một ví dụ rõ nhất.
Sau đây là những câu chuyện riêng tư của thường dân Việt Nam – họ là bậc phụ huynh, là người anh chị em, là con cái – phải chịu mất mát và đổ vỡ từ cuộc chiến tranh vốn đã nhấn chìm đất nước của họ trong một thời gian quá dài.
KHÔNG NGÀY ĐOÀN TỤ
Là một phụ nữ rất đẹp dù đã ngoài bảy mươi, những đường nét và khuôn mặt phúc hậu của bà Bùi Thị Mè dường như tương phản với cái bi kịch vẫn còn trĩu nặng trong trái tim bà. Chỉ có tấm huy chương mà bà đeo trên ngực chiếc áo dài, được đất nước trao tặng thể hiện sự biết ơn với sự hy sinh lớn lao của bà là gợi cho người ta biết rằng bà có một câu chuyện khổ đau để kể.
Bà Mè và chồng, ông Nguyễn Văn Nhơn, là giáo viên. Giai đoạn 1942-1957, họ là một đôi vợ chồng hạnh phúc với bốn người con trai lớn – Sanh, Tài, Đại, Đạo – cùng hai con gái út. Trong nhiều năm, họ quản lý một trường học ở Chợ Lớn, ngoại ô Sài Gòn. Nhưng ngay sau khi đứa con út chào đời, Nguyễn Thị Bình, chính quyền Sài Gòn buộc họ đóng cửa trường.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, giữa lúc người Pháp tỏ rõ ý định tái thuộc địa hóa Việt Nam, bà Mè và ông Nhơn gia nhập phong trào cách mạng đánh đuổi Pháp. Họ rất thất vọng khi chiến thắng Điện Biên Phủ trước người Pháp vào năm 1954 đã không dẫn tới thống nhất cho Việt Nam. Tiếp tục mở trường dạy học, họ quyết tâm làm hết sức mình vì mục tiêu thống nhất đất nước. Hướng đi ấy khiến họ càng trở nên khó chịu đối với chính quyền Sài Gòn.
Đóng cửa trường học, gia đình chuyển vào Sài Gòn sống với người thân. Tại đây, họ bị từ chối giấy phép mở trường nên phải dạy trẻ ngay tại nhà. Năm 1960, khi biết rằng chính quyền Sài Gòn đang chuẩn bị bắt họ vì các hoạt động chống chính quyền, hai ông bà lên kế hoạch rời thành phố. Họ sợ rằng nếu để các con trai – từ mười hai đến mười tám tuổi - ở lại thì cảnh sát Sài Gòn sau này có thể bắt các con để buộc cha mẹ phải đầu hàng. Vì thế, họ quyết định mang theo các con trai, chỉ để lại hai con gái – mới ba và chín tuổi – cho người cô nuôi. Họ xuôi xuống đồng bằng sông Mê Kông.
Chọn được chỗ ở miệt đồng bằng, bà Mè và chồng lại mở trường học tại tỉnh Trà Vinh, dùng làm cơ sở để triển khai hoạt động chống chính quyền Sài Gòn. Là nhà giáo, họ luôn nỗ lực để đảm bảo rằng con cái được thụ hưởng nền giáo dục tốt nhất có thể. Thế nên các con trai của họ được giáo dục tốt hơn nhiều so với bạn bè cùng trang lứa. Điều này đã dẫn tới một kết quả ngoài mong đợi cho gia đình; đó là những người con trai lớn đều nhanh chóng trở thành giáo viên. Cuối cùng, cả bốn người con trai đều đi dạy học, góp phần cải thiện thu nhập gia đình. Sự trợ giúp về tài chính của các con trai đã tạo điều kiện cho bà Mè và ông Nhơn dành nhiều thời gian hơn để thúc đẩy các mục tiêu cho phong trào Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thông qua “ngôi trường” mới của mình.
Năm 1964, khi nhịp độ chiến tranh tại miền Nam dâng lên, bà Mè và chồng quyết định rời đồng bằng để chuyển đến vùng căn cứ của Mặt trận. Tổng hành dinh nằm trong rừng sâu bên ngoài Sài Gòn, cách xa các khu vực thường xuyên có quân chính phủ tuần tra. Nơi này nằm tại tỉnh Tây Ninh, được biết đến với tên gọi “Chiến khu R”.
Họ đưa người con trai lớn nhất, cậu Sanh, đi cùng; những người con còn lại tiếp tục nghề dạy học.
Trong khi cha mẹ tham gia các hoạt động của Mặt trận ở Chiến khu R cũng như nỗ lực tuyển thêm nhiều người vào lực lượng của mình thì Sanh chuyển nghề. Với tài hát hay và múa giỏi, cậu bắt đầu biểu diễn cho các khán giả ở Chiến khu R, và cậu trở nên rất nổi tiếng. Nhưng rồi vào năm 1967, cậu đã xung phong nhập ngũ để tham gia cuộc tấn công Tết Mậu Thân.
Chẳng bao lâu sau khi Sanh bước vào con đường binh nghiệp thì bà Mè và ông Nhơn lại nhận được thông tin về một quyết định khác. Là những nhà hoạt động cách mạng chống chính quyền Sài Gòn, họ không thể nói rằng quyết định đấy khiến họ ngạc nhiên. Tài gửi cho họ một lá thư. Cậu nhẹ nhàng giải thích cho cha mẹ biết rằng, điều mà họ cảm nhận được từ thẳm sâu trái tim là không thể tránh khỏi. Được chứng kiến sự dấn thân của cha mẹ đối với sự nghiệp của Mặt trận, cả ba người con trai còn lại đều tuyên bố đã quyết định gia nhập cuộc chiến chống lại chính quyền Sài Gòn.
Tài, có lẽ là người nhạy cảm và ăn nói lưu loát nhất trong số các anh em trai, cảm thấy cần phải giải thích cặn kẽ cho cha mẹ lý do tại sao mình theo chân các anh em tham gia cuộc chiến chống Mỹ. Toàn bộ bức thư như sau:
“Ngày 25-5-1967,
Ba Má kính yêu!
Viết thư này con xin báo tin cho Ba Má rõ là đầu tháng tư năm 1967, con đã làm đơn tình nguyện xin ra bộ đội chiến đấu và đã được chấp thuận. Đáng lý ra con phải viết thư trước cho Ba Má để nói rõ ý định của con, nhưng vì đường sá xa xôi cách trở và thời gian đi qua vùn vụt không thể chờ đợi, nên con định đến đơn vị con sẽ báo tin cho Ba Má rõ luôn thể. Mong Ba Má hiểu và tha lỗi cho con.
Con biết, được tin Bé Năm, rồi đến con ra bộ đội, Ba Má sẽ rất lo, nhứt là Má. Vì có bà mẹ nào, nhứt là một bà mẹ Việt Nam, lại không lo lắng khi con mình xông pha và con cũng tin rằng Ba Má rất tự hào và vừa lòng với việc làm của tụi con.
Xa Ba Má mấy năm nay, lúc nào con cũng nghĩ đến Ba Má, và càng nghĩ đến Ba Má con càng thấy cần phải nỗ lực phục vụ nhiều hơn cho cách mạng để Ba Má được vừa lòng và tự hào, vì có những đứa con đã không ngần ngại cống hiến tất cả tuổi thanh xuân cho sự nghiệp cách mạng cao cả. Con đã chọn lấy con đường cầm súng giết giặc vì chính con đường này là gay go nhứt nhưng cũng vinh quang nhứt. Và cũng chỉ con đường duy nhứt này là hợp lý và mới phát huy hết được khả năng sẵn có của con. Xin ra đơn vị chiến đấu, con không chỉ nghĩ đến giai đoạn đánh Mỹ trước mắt thôi đâu Ba Má ạ. Đường cách mạng còn rất dài, con còn phải đeo đuổi và cống hiến nhiều hơn nữa, không phải chỉ tuổi thanh xuân mà là cả cuộc đời con. Vì vậy mà ngay từ bây giờ, con nghĩ rằng cần phải tích cực cải tạo rèn luyện bản thân để phục vụ cho giai đoạn hiện tại rất vinh quang và cho cả tương lai đầy hứa hẹn. Mà nơi thử thách, rèn luyện tốt nhứt cho tuổi trẻ chúng con hiện nay chính là chiến trường.
Và trên đường chiến đấu, nếu một trường hợp không may nào đó đến với con, con sẽ sẵn sàng nhận lấy vì con nghĩ rằng thà để cho những người thân thương tiếc nhưng tự hào vì con chớ quyết không để cho Ba Má có một đứa con hèn hạ, anh Hai và các em con có một đứa em, một người anh nhục nhã.
Chưa lúc nào con ra đi đầy tự tin và nhiệt tâm như hiện nay. Ba Má hãy tin tưởng nơi con. Con xin hứa với Ba Má là trong những thư sau, con sẽ báo với Ba Má không những chỉ sức khỏe, ý nghĩ và tình cảm thôi, mà con sẽ báo cho Ba Má rõ thành tích và chiến công của con, của đồng đội và tập thể đơn vị con.
Riêng về con, thể lực của con hiện nay rất dồi dào, đủ sức để đánh giặc nhiều năm nữa. Con đã được bổ sung vào một D bộ binh của T3.
Bé Năm thì hiện đang ở một tiểu đoàn pháo binh của T3, em có viết thư cho con, tiến bộ và phấn khởi lắm.
Bé Tư vẫn còn công tác ở Vĩnh Long. Em có hơi băn khoăn về công việc của mình. Con đã có viết thư động viên Bé Tư.
Ba Má kính yêu! Viết thư này cho Ba Má đang lúc ta lắm thế chủ động tấn công địch dồn dập và có lẽ không bao lâu nữa con sẽ được đánh trận đầu tiên, con nguyện sẽ làm vừa lòng Ba Má, nguyện xứng đáng với sự chăm sóc dạy dỗ của Đảng và tập thể, xứng đáng là một chiến sĩ Giải phóng quân kiên cường.
Con xin gởi đến Ba Má tất cả tấm lòng thương nhớ của một đứa con xa cách. Ba Má chuyển lời con thăm tất cả các cô, các bác, các chú ở chung được đầy đủ sức khỏe và đạt được nhiều thành tích trong công tác.
Con của Ba Má!
Nguyễn Huỳnh Tài 1.
________________________________
1. Thư này được chép theo bản in trong cuốn hồi ký Kể chuyện đời mình của Mẹ Việt Nam Anh hùng Bùi Thị Mè. Thư còn có đoạn tái bút không được dẫn lại trong Chân trần, chí thép của tác giả Zumwalt: “P.C: Vừa rồi con có chụp hình. Con gởi kèm theo đây Ba Má xem và gởi cho Bé Bảy, vì em có bảo con chụp hình gởi cho em. Con rất mong thư và tin tức ở trên ấy vì đã lâu con không được tin gì”.
Bà Mè nhận lá thư với xúc cảm lẫn lộn. Một mặt bà tự hào khi các con trai đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh chiến đấu cho lý tưởng, cũng như bà chấp nhận quyết định nhập ngũ của các con, mặt khác bà không khỏi phiền muộn. Bà biết các con đều chưa được huấn luyện chiến đấu là bao trên con đường chông gai trước mặt.
Cuối năm 1967, cảm giác chung lúc đó là miền Nam có thể được giải phóng. Trong khi chuẩn bị cho cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, bà Mè biết rằng các con sẽ tham gia vào chiến dịch này.
Bà cảm thấy đỡ lo hơn khi bốn đứa con không phục vụ cùng đơn vị. Điều đó có nghĩa là không nhất thiết tất cả những đứa con của bà sẽ cùng tham gia một trận đánh khốc liệt.
Như đã hứa, Tài tiếp tục trao đổi thư từ với mẹ để bà có thể biết được tình hình của cậu và những người anh em kia. Đôi khi anh em lại gặp nhau trên chiến trường – và những người kia thường nhắc Tài viết thư cho mẹ. Bà Mè luôn mong mỏi những lá thư vốn thường mất cả tháng trời mới tới tay người nhận.
Biết rằng các con đang lăn lộn chiến đấu hằng ngày, bà luôn cố gắng tập trung vào công việc.
Cuối tháng 2 năm 1968, bà Mè đang làm việc tại một khu khá hẻo lánh của Chiến khu R cùng với một nhóm đồng sự. Bà nhớ đó là một ngày đẹp trời và bà ngồi bên bàn làm việc trong căn lều mái lá. Một thượng cấp bước vào và, hơi do dự một chút, tiến tới chỗ bà.
“Có tin xấu”, ông nói. “Tôi vừa được thông báo rằng Tài và Sanh đã ngã xuống trên chiến trường!”. Tài, mới 24 tuổi, mất vào tháng 12 tại tỉnh Cần Thơ, nhưng phải hai tháng sau thì tin tức mới tới được với bà Mè. Thật là họa vô đơn chí khi tin tức về cái chết của Tài đến đúng lúc với cái chết của đứa con lớn tuổi nhất, cậu Sanh, 26 tuổi. Sanh bị trúng đạn chết tại An Lạc, quận Bình Chánh nhiều ngày trước đó, trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân.
Bà Mè run rẩy toàn thân. “Khi nghe tin, điều đầu tiên tôi nghĩ là chắc có gì đó nhầm lẫn. Làm sao tôi có thể mất hai đứa con trai cùng lúc? Nhưng khi nhận ra đó là sự thật, tôi thấy cơ thể mình nhẹ hẫng. Tôi chạy vào hầm trú ẩn và khóc. Nước mắt xối xả như mưa. Tôi cảm thấy như có ai đó đang cắt đi từng phần cơ thể của mình. Chồng tôi làm việc ở gần đấy đã tới an ủi tôi”.
Bà Mè đã có sự chuẩn bị tinh thần cho việc có thể mất đi một người con, nhưng chưa hề chuẩn bị cho việc mất hai người con cùng lúc. Bà cũng chưa chuẩn bị cho những điều sẽ xẩy ra sau đó.
Tuần kế tiếp, bà Mè trở lại làm việc, cố nén nỗi đau mất mát. Nhưng bà vẫn linh cảm có điều gì chẳng lành. Các đồng sự đôi khi nhìn bà rồi vội vã lảng đi. Bà liền tới chỗ người chỉ huy và khẩn nài: “Xin hãy nói cho tôi biết liệu còn tin gì xấu nữa không. Đừng có giấu. Tôi cần biết!”. Người chỉ huy ấn bà ngồi xuống, rồi nói rằng ngay sau khi nhận được tin hai người con của bà Mè mất, ông còn nhận được thêm tin báo rằng đứa con thứ ba của bà, tên là Đại, 22 tuổi, bị giết ở Vĩnh Long, trong khi đứa con thứ tư là Đạo, 20 tuổi, bị thương nặng. Nhiều đồng sự chạy tới an ủi bà Mè nhưng rồi cũng khóc lên trước những tin xấu mà bà mới nhận được. Trong khi đó, bà không thể nhỏ được giọt nước mắt nào – bà cảm thấy cả người tê dại.
Người con trai tên Đạo rốt cuộc đã qua khỏi. Không muốn để bà Mè cùng ông Nhơn mất thêm người con thứ tư nếu cậu đi vào nơi hiểm nguy, viên chỉ huy của Đạo đã ra lệnh cho cậu về công tác cùng cha mẹ tại Chiến khu R. Người chỉ huy biết rằng mệnh lệnh của mình không đảm bảo rằng Đạo sẽ có một cuộc trở về an toàn – vì Chiến khu R thường xuyên là mục tiêu tấn công của máy bay. Nhưng ông biết rằng cha mẹ của Đạo sẽ cảm thấy yên tâm phần nào khi con trai ở cùng với họ. Thế là Đạo đi một mình, trực chỉ tỉnh Tây Ninh và Chiến khu R.
Chuyến đi tới Chiến khu R kéo dài trong nhiều tuần. Suýt chút nữa thì chuyến đi đã kết thúc với việc bà Mè mất đi người con trai thứ tư, khi Đạo may mắn thoát chết trong một cuộc pháo kích trên đường tới căn cứ.
Một tháng sau khi nhận được tin người con thứ ba tử trận, bà Mè bước ra khỏi phòng làm việc ở Chiến khu R với một nỗi kinh ngạc khi Đạo chạy tới chào mẹ. Dòng nước mắt dồn nén hôm nào giờ được dịp tuôn xối xả. Dòng nước mắt ấy, cũng như tình thương của người mẹ dành cho con trai, đã khiến bà Mè không nhận thấy sự thay đổi ngoại hình của Đạo khi bà ôm cậu trong vòng tay, không thấy rằng khuôn mặt con đã bị thương tích làm biến dạng. Một quả đạn M-79 phát nổ đã găm nhiều mảnh vào mặt và một mắt của Đạo.
Ôm đứa con (trai) duy nhất còn lại trong tay, bà Mè nhớ lại ước nguyện đoàn tụ sau chiến tranh mà bốn anh em đã bày tỏ trước khi vào quân đội. Giờ thì bà Mè biết rằng ngày đoàn tụ đó chẳng bao giờ đến nữa.
Sau những đau thương ấy, bà Mè được phong tặng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, một sự tôn vinh dành cho những người mẹ chịu nhiều mất mát về người thân – có thể là mất hết tất cả con cái hoặc từ bà người trở lên.
“Là một người mẹ”, bà Mè nói, “tôi thấu hiểu tâm tư của những người có con đối mặt với hiểm nguy của chiến tranh, có con ngã xuống trên chiến trường và chẳng thể đưa con tới nơi an nghỉ cuối cùng. Tới hôm nay”, mắt bà Mè ngấn lệ, “tôi vẫn chưa thể tìm được hài cốt của một người con trai, và tôi biết mình sẽ không bao giờ tìm được”.
Đáng ngạc nhiên là nỗi đau mất ba người con trai và một phần cơ thể của người con thứ tư không khiến bà Mè nung nấu lòng hận thù đối với người Mỹ vốn chịu trách nhiệm về bi kịch của gia đình bà. Trong khi hầu hết các bà mẹ có thể nổi giận, bà Mè lại khác. Bà cảm thông với những bà mẹ Mỹ không tìm thấy hài cốt đứa con đã ngã xuống trên chiến trường ở một vùng đất xa xôi.
Có lẽ bà là người thấu hiểu nỗi đau ấy của những bà mẹ Mỹ hơn bất cứ người mẹ nào khác.
o O o
Chuyện của bà Mè chỉ là một trong rất nhiều câu chuyện. Một góc trưng bày ở Bảo tàng Quân đội tại Hà Nội có danh sách những bà mẹ Việt Nam chịu nhiều mất mát về gia đình. Chưa phải toàn bộ, danh sách này liệt kê hàng chục bà mẹ, kết lại với nhau tạo nên một cảm giác mất mát khôn cùng về những người mẹ chịu cảnh người đầu bạc khó kẻ tóc xanh, về những người con đã mất vốn lẽ ra phải sống lâu hơn mẹ mình. Có rất nhiều người mẹ Việt Nam phải chịu nỗi đau mất mát như thế. Bà Nguyễn Thị Điểm1 mất chồng và hai con trai; bà Trần Thị Tràng – mất chồng và năm người con, còn đứa con thứ sáu bị thương; bà Huỳnh Thị Tân – mất năm người con. Một báo cáo hậu chiến cho biết chỉ riêng tại Sài Gòn đã có hơn 1.400 bà mẹ mất ba con trở lên.
Mất đi một người con là nỗi đau lớn cho bất cứ bà mẹ nào; và rõ ràng những bà mẹ chịu khổ đau nhất là những người phải chứng kiến toàn bộ thế hệ con cái của mình ngã xuống trên chiến trường Việt Nam. Mất đi người con trai duy nhất hay tất cả con trai thì nỗi đau vẫn vô cùng vô tận. Nếu bi kịch đơn thuần chỉ là con số thống kê thì có hai người mẹ đứng đầu về sự mất mát: mẹ Nguyễn Thị Thứ đã chứng kiến chiến tranh cướp đi chín người con, một người con rể và một người cháu; và mẹ Nguyễn Thị Rành, mất tám người con và hai đứa cháu. Nỗi đau mất mát lớn lao ấy vẫn không làm giảm quyết tâm hướng về chiến thắng của các mẹ. Thông điệp này đã được nêu rõ trong bức thư của một bà mẹ, bà Nguyễn Thị Loan, vào tháng 1 năm 1968. Sau khi mất đi người con trai nhỏ, Lê Viết Dũng, bà đã xin chính quyền cho phép người con trai còn lại của mình, Lê Viết Hùng, nhập ngũ để trả thù cho em.
Nỗi chịu đựng âm thầm của những bà mẹ Việt Nam mấ con trong chiến tranh là vô cùng lớn lao. Nó nhắc tôi nhớ lại câu chuyện của một bà mẹ Pháp chờ đợi đứa con trai chở về từ chiến trường trong một cuộc chiến khác vào thế kỷ trước2. Người con trai duy nhất của bà – là tất cả những gì bà có trên cõi đời này – tham gia một trận đánh lớn trong Chiến tranh Pháp-Phổ. Bại trận, những người lính Pháp đào ngũ mất hết nhuệ khí kéo nhau đi qua làng. Người mẹ ấy đã đứng hàng giờ liền trên đường làng, xem từng gương mặt binh sĩ. Sau cùng, khi bóng tối đổ xuống con đường làng vắng vẻ và người lính đào ngũ cuối cùng đã đi qua, bà thốt lên: “Tạ ơn Chúa! Nó không phải là kẻ trốn chạy”.
o O o
Nỗi đau mà một gia đình gánh chịu khi có nhiều anh em ruột cùng phục vụ trong một đơn vị và hy sinh là câu chuyện mà người Mỹ từng trải qua thời Thế chiến thứ hai. Ở Trân Châu Cảng, có tới hai mươi nhóm anh em ruột chết trong cuộc tấn công bất ngờ của người Nhật Bản. Sau đó chưa đầy một năm, bi kịch đã giáng xuống gia đình Sullivan với năm anh em ruột cùng tử trận khi con tàu chở họ bị trúng ngư lôi từ tàu ngầm Nhật Bản và chìm với gần như toàn bộ thủy thủ đoàn.
Sau bi kịch Sullivan, Chính phủ Mỹ đã áp dụng quy định không bắt buộc đối với việc cho xuất ngũ đứa con duy nhất còn lại của một gia đình sau khi người anh em của anh ta tử trận. Đây là một quy định phổ biến thời chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, một chính sách như vậy là khó có tính thực tiễn – nếu như không muốn nói là bất khả - đối với phía Hà Nội, do họ thiếu nhân lực trầm trọng trong cuộc chiến. Kết quả là nhiều gia đình ủng hộ chính quyền Hà Nội – chẳng hạn như gia đình bà Mè – đã phải trả giá rất đắt.
(Tình cảm mẹ con thì ở nền văn hóa nào cũng vậy. Khi ngồi nghe bà Mè kể về nỗi đau mất con, trong đầu tôi văng vẳng lời than khóc của một người mẹ mất con trai trong Nội chiến Mỹ. Louisa Meigs, vợ của một vị tướng Lục quân Mỹ, sau khi mất đi đứa con trai vào năm 1864, đã viết: “Khi thấy cỏ mọc xanh trên đầu con trai mình, trái tim tôi tràn ngập nỗi đau; tôi giống như một bà Rachael khóc con và khước từ mọi lời an ủi…”).
________________________________
1. Tức Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thanh Tùng, sinh 1941.
2. “Thế kỷ trước” ở đây là thế kỷ 19.
ĐỨA CON CỦA RỪNG
Nguyễn Thị Bình là con gái út của bà Bùi Thị Mè và Nguyễn Văn Nhơn (thân sinh của ba người con trai chết trận trong chương “Không ngày đoàn tụ”). Ba năm sau khi Bình chào đời vào năm 1957, cha mẹ và các anh trai để cô cùng một người chị lại cho bà cô nuôi.
Năm 1964, người cô sợ rằng chính quyền Sài Gòn có thể tìm bắt hai cô bé, lúc này đã mười ba và bảy tuổi, để làm con tin buộc cha mẹ chúng phải trở về. Thông qua một hệ thống liên lạc sử dụng những người truyền tin tình nguyện, người cô bày tỏ nỗi lo lắng tới cha mẹ hai cô bé đang công tác tại Chiến khu R. Họ đi đến quyết định để hai bé tới ở cùng cha mẹ tại căn cứ càng sớm càng tốt.
Vào ngày trù định, một người giao liên tình nguyện tới nhà bà cô để đưa hai cô bé tới bến xe đò. Họ lên một chiếc xe đò thẳng tới Tây Ninh, nơi ông Nhơn đang nóng lòng chờ đợi. Khi tới nơi, mọi người chẳng có đủ thời gian để chào hỏi. Ông Nhơn hối hả dẫn ba người đi bộ vào rừng sâu, vào một thế giới khuất bóng mặt trời – và cũng khuất khỏi tầm mắt của kẻ thù trên cao – nhờ cây cối rậm rạp.
Phải mất chọn một ngày mới tới được Chiến khu R. Hành trình gian khó nhưng Bình rất vui khi gặp cha và nóng lòng được gặp mẹ. Ông Nhơn dẫn mọi người đi qua những con đường nhỏ nhớp nháp, do người dân địa phương tạo ra để cho xe bò đi. Rất ít người ngoài cuộc biết đến sự tồn tại của phần lớn những con đường kiểu này. Lúc chập tối thì ông Nhơn và hai cô con gái đã đến doanh trại.
Chiến khu R được thiết kế và tổ chức với đủ các điều kiện cần thiết phục vụ hoạt động hoạch định và triển khai chiến lược tổng thể của Mặt trận cho toàn cuộc chiến. Nó không chỉ có trung tâm chỉ huy và điều hành mà còn có cơ sở hỗ trợ để thực hiện các chức năng này. Nhằm tránh nguy cơ toàn bộ sở chỉ huy bị triệt phá, căn cứ được xây dựng dàn trải trên một khu vực rộng. Có một trường học cho trẻ em ở đây. Cùng với khoảng năm, sáu mươi đứa trẻ khác, Bình coi ngôi trường là nhà trong phần nửa quãng đời tuổi thơ của mình. Niềm mong mỏi được ở cạnh cha mẹ đã sớm bị dập tắt khi cô được dẫn tới ngôi trường mới – cũng là nhà mới.
Trường có các lớp từ 1 tới 6. Lúc tới nơi, Bình mới bảy tuổi và được xếp vào lớp 1; người chị gái mười ba tuổi, đã quá tuổi đi học, được bố trí làm nữ hộ lý ở đâu đó tại Chiến khu R. Bình bị tách khỏi cả cha mẹ lẫn chị gái.
Học sinh sống cùng nhau ở trường như một gia đình. Do phụ huynh luôn bận rộng tại Chiến khu R; và nơi họ sống, làm việc cách xa trường học nên hiếm khi họ thăm con cái – kể cả những cuộc viếng thăm chớp nhoáng.
Khoảng ba tháng thì Bình mới được gặp cha mẹ một lần – thường là gặp bất ngờ chứ không hẹn trước. Việc quân địch tăng cường không kích và pháo kích cũng như mở các chiến dịch mặt đất trong khu vực đã khiến trường nhiều lần phải đóng cửa. Trong những dịp đó, trẻ con được trả về cho phụ huynh hoặc được tổ chức thành từng nhóm ba người và bố trí ở khắp nơi tại Chiến khu R dưới sự giám sát của người lớn để bảo đảm an toàn. Sự phân tán trẻ con như vậy là nhằm giảm nguy cơ tổn thất sinh mạng lớn trong trường hợp trường bị tán công. Trước khi rời Chiến khu R, Bình cảm thấy hàm ơn kế hoạch thông minh này – mà nếu không tuân thủ thì chắc cô đã lâm vào thảm họa. Cô thấy việc cha mẹ tới thăm con mà không báo trước là điều cực kỳ quan trọng.
Những tháng đầu ở Chiến khu R là giai đoạn cực kỳ khó khăn.
“Lúc mới đến”, cô hồi tưởng, “tôi sợ tất cả mọi thứ - kể cả những thứ có thật lẫn điều tưởng tượng: tôi sợ ma, thú rừng, côn trùng, rắn – và bom. Lần đầu tiên nghe tiếng bom, tôi đã lấy mền trùm kín đầu và run cầm cập. Sau vài tháng, tôi quen dần và cuối cùng chẳng sợ gì nữa”.
Lúc mới tới Chiến khu R, Bình là một cô bé bảy tuổi nhút nhát; cô rời nơi này bảy năm sau, khi đã trở thành một thiếu nữ không biết sợ là gì, khi đã có đủ sự tự tin rằng mình có thể vượt qua mọi tai ương.
Nhưng cuộc sống trong rừng chẳng bao giờ dễ dàng.
Có năm giáo viên được bố trí làm việc ở trường. Thêm vào đó, có mười hai người khác hỗ trợ chăm sóc trẻ, chỉ dẫn trẻ cách vào rừng trú bom.
“Chúng tôi luôn là mục tiêu của các trận không kích tại Chiến khu”, Bình giải thích. “Vì thế, điều đầu tiên người lớn dạy chúng tôi đó là đào giao thông hào và hầm trú ẩn. Ban đầu người lớn đào cho chúng tôi, về sau thì chúng tôi tự đào. Chúng tôi phải đào hầm thường xuyên do trường phải dời chỗ liên tục”.
Tìm kiếm thức ăn cũng là một nhiệm vụ thường trực của trẻ. Bình kể:
“Chúng tôi tự tìm kiếm thức ăn. Chỉ có gạo là được cấp. Nhưng lắm lúc gạo cũng thiếu nên chúng tôi phải tự tìm kiếm đồ ăn. Mọi người chỉ ăn hai bữa mỗi ngày, thường là không có bữa sáng. Mỗi khi đói, tất cả cùng vào rừng kiếm trái cây. Chúng tôi được dạy cách nhận biết những thứ ăn được và không ăn được. Chúng tôi có thể ăn nhiều loại lá cây. Đôi khi chúng tôi nhặt được sách viết cho lính Mỹ, trong đó miêu tả cặn kẽ các loại nấm ăn được, không ăn được. Lũ trẻ chúng tôi cũng được chỉ cách làm bãy bắt thú nhỏ. Chúng tôi ăn rắn và bọ cạp. Có hai loại bọ cạp trong rừng. Một loại rất độc. Đó là loài thân nhỏ, màu nâu. Loài kia khá lớn, dài khoảng một tấc, màu đen. Đây là những thứ ăn được, và thật may là chúng bò rất chậm. Bọ cạp núi rất dễ bắt. Chúng bò đầy nhóc quanh hầm trú ẩn. Có một ít thịt trong càng của nó, khoảng nửa thìa; thịt có vị giống tôm. Càng là bộ phận duy nhất có thể ăn được. Lần đầu thấy bọ cạp tôi rất sợ, nhưng rồi tôi nhanh chóng học cách xua đi sợ hãi. Mấy cậu nhóc trong lớp hay bắt bọ cạp dọa con gái. Nhưng chúng tôi luôn được dạy phải can đảm bởi hầu hết đều phải tự lo cho bản thân. Cũng có nhiều lúc lũ con trai bày cho chúng tôi cách kiếm thức ăn”.
Do giáo viên không có được sự hỗ trợ cần thiết về giảng dạy nên số lượng môn học trong trường khá hạn chế. “Chúng tôi chỉ học văn và toán”, Bình kể tiếp. “Không có đủ giáo viên để dạy thêm cái gì nữa, và cũng chẳng có cuốn sách nào”.
Khi máy bay ném bom, số học sinh mới đến thường rất lo lắng cho cha mẹ. Phần lớn trẻ em đều may mắn khi cha mẹ không hề gì. Nhưng một vài em thì không có được may mắn ấy. Bình kể: “Thông thường, tất cả học sinh trong trường đều biết tin cha mẹ của một bạn học chết trước khi bạn đó biết; nhưng chúng tôi giữ im lặng. Người lớn thường an ủi và chăm sóc đứa trẻ đó trước khi thông báo về cái chết. Sau khi đứa trẻ biết tin, chúng tôi cố gắng không nhắc lại chuyện buồn. Tất cả mọi người thường quá bận rộn với những việc phải làm hằng ngày để sống sót đến mức không có thời gian để nghĩ tới chuyện khác – kể cả bi kịch gia đình. Nhưng chúng tôi luôn cố gắng chăm nom đứa trẻ bất hạnh ấy và giúp nó nguôi ngoai. Mọi người sống gần gũi và cư xử với nhau như một đại gia đình. Chúng tôi làm bất cứ việc gì mà chúng tôi thấy cần thiết”.
Không mất cha mẹ ở Chiến khu R nhưng Bình cũng không thoát khỏi bi kịch cá nhân. Tháng 2 năm 1968, cô bé được giáo viên và bạn bè chăm sóc đặc biệt, một sự quan tâm chỉ dành cho những ai mất đi người thân. Cô bé biết có điều gì đó bất ổn nhưng chẳng biết đó là gì. Lúc đầu cứ tưởng rằng cha hoặc mẹ đã chết hoặc bị thương, rồi cô cảm thấy nhẹ nhõm khi được thông báo đi gặp phụ huynh.
“Tôi linh cảm có điều gì đó bất ổn nhưng chẳng ai nói cho tôi biết về cái chết của ba người anh. Tôi được đưa tới ở với cha mẹ một thời gian. Một đêm nọ, khi tôi sắp ngủ thì có mấy người bạn của cha mẹ tới. Lúc ấy ông bà tưởng tôi đã ngủ rồi. Tôi giữ im lặng tuyệt đối để nghe họ trò chuyện. Tôi nghe những người kia chia buồn và bắt đầu nói về cái chết của các anh. Lúc bấy giờ tôi mới biết điều gì đã xẩy ra. Tôi khóc lặng lẽ nhưng chẳng bao giờ nói với cha mẹ về nỗi mất mát đó. Tôi ở với họ chừng một tuần hoặc mười ngày thì đi”.
Chiến khu R bị ném bom thường xuyên, nhưng trước giờ ngôi trường lại chưa bao giờ trúng bom cả. Tuy nhiên, vào đầu năm 1971, điều mà phụ huynh lo sợ nhất đã ập đến. Bình vẫn còn lưu giữ ký ức kinh hoàng; nhưng rất nhiều bạn học của cô thì không thể.
“Tôi bị sốt rét và được đưa tới bệnh viện”, cô kể. “Cha mẹ tôi cũng bị sốt rét, vì thế chúng tôi ở bên nhau. Lúc ấy cả nhà đang ở trong căn hầm dành cho bệnh nhân. Đột nhiên máy bay ập tới ném bom mà không hề có báo động trước. Lúc ấy việc dạy học đang diễn ra dưới các căn hầm có mái chữ A được làm bằng gỗ và che lớp đất dày chừng hai tấc – trường không có hầm trú bom. Chúng tôi phải chuyển chỗ liên tục nên không có thời gian đào hầm trú ẩn lớn. Hôm đó trường trúng bom. Đó là lần đầu tiên bom rơi trúng trường học. Mười ba trẻ và hai người lớn chết. Tôi quen tất cả các nạn nhân… Khi máy bay gia tăng ném bom Chiến khu R, người ta đã quyết định gửi trẻ em ra miền Bắc”.
Trong hành trình ra Bắc dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh, trẻ em được chia thành từng nhóm từ mười sáu tới mười tám người, với ba người lớn đi theo. Những trẻ nhỏ tuổi nhất và sức khỏe kém nhất được phân bố đều cho các nhóm. Mỗi nhóm được đánh số và một lịch trình được phổ biến với ngày khởi hành được định sẵn. Ngày khởi hành của các nhóm được sắp xếp chênh nhau chừng 10-15 ngày. Cái chết của mười ba đứa trẻ trước đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân tán nguy cơ thương vong ra các nhóm khác nhau. Một bi kịch như thế không được phép lặp lại đối với hành trình ra Bắc; đó là mệnh lệnh.
“Chúng tôi biết thời điểm xuất phát trước một tháng”, Bình kể. “Trước lúc khởi hành, trẻ con được ở với cha mẹ hai tuần. Chia tay cha mẹ cũng không có gì nặng nề lắm bởi tới lúc ấy, bọn trẻ đã quen với việc sống xa cha mẹ. Tuy nhiên, với phụ huynh thì lại khác. Cha tôi không muốn để tôi ra Bắc vì tôi thường xuyên lên cơn sốt rét và ông sợ tôi sẽ chết dọc đường. Đó là thời khắc vô cùng khó khăn cho ông”.
Nỗi lo lắng của người cha đối với chuyến đi sắp tới của Bình là dễ hiểu. Không ít người lính khỏe mạnh hơn con ông nhiều đã chết khi đi dọc Đường mòn. Với cái chết của một nửa số con cái cùng với một người con không còn lành lặn, bi kịch mà chiến tranh gieo lên gia đình ông đã quá khủng khiếp rồi.
Trước khi đi, trẻ em được hướng dẫn nên mang theo thứ gì và gói ghém ra làm sao.
“Chúng tôi phải đem theo một cái võng, mùng chống muỗi, một chiếc mền mỏng và vài thứ khác. Mọi thứ đều được nhét vào ba lô làm bằng cách gấp một mảnh vải lại và khâu xung quanh. Để tạo thành hình ba lô, người ta thường lấy viên sỏi đặt vào hai góc đáy và lấy dây thép siết lại. Dây đeo được đính vào góc ba lô. Người ta cũng thường lồng vào trong một túi nhựa để giữ đồ vật khỏi bị ướt. Chúng tôi mang theo nhiều túi nhựa”.
Sau thời gian ở cùng cha mẹ, Bình trở lại với các bạn trong nhóm. Họ tập hợp vào lúc 5 giờ sáng ngày 19 tháng 5 năm 1971 để bắt đầu hành trình tới ngôi nhà mới.
“Chúng tôi không hề lo lắng hoặc hồi hộp vào lúc xuất phát”, Bình kể tiếp. “Tất cả đều đã quen với thay đổi. Nhưng tôi nhớ là hồi đó mình cũng nhớ nhà – không hẳn là nhớ cha mẹ mà là nhớ ‘ngôi nhà’ ở trong rừng… Sau một thời gian dài, chúng tôi đã quen với cuộc sống ở đó… Tất cả đều có cảm giác sẽ nhớ miền Nam”.
Ngay sau khi xuất phát, Bình nhanh chóng được ngầm nhìn vẻ đẹp của núi rừng. Hoa nở rực rỡ, điểm sắc cho những vạt rừng tươi đẹp.
“Mỗi ngày chúng tôi lại đến một binh trạm mới”, cô kể. “Đôi lúc nhóm chỉ mất nửa ngày để đi hết một chặng; lúc khác thì mất nhiều thời gian hơn. Nhanh chậm là tùy vào sức khỏe. Điều kỳ lạ là trong suốt chuyến đi tôi không bao giờ lên cơn sốt rét, trong khi hồi ở Chiến khu R thì tuần nào cũng bị. Có lẽ do tôi đã trưởng thành hơn và sung sức hơn. Những người khác vốn chưa hề bị sốt rét lại hay ốm đau dọc đường. Đối với họ, lẽ ra hành trình chỉ mất ba tháng, thì đằng này phải mất tới bốn, năm tháng. Khi xẩy ra ốm đau, người bệnh sẽ được để lại các binh trạm”.
Người ốm ở lại binh trạm cho tới khi đủ khỏe mới đi tiếp bằng cách nhập vào các nhóm Bắc tiến kế tiếp. Rất nhiều nhóm bị hao hụt do có thành viên bị bệnh.
“Có một nhóm khi tới nơi chỉ còn bốn người”, Bình kể. “Tôi có một người bạn bị rớt lại, phải theo một nhóm khác ra Bắc”.
Khi đến binh trạm, các thành viên nghỉ ngơi, ăn uống và ngủ sớm để sáng hôm sau khởi hành sớm. Một người dẫn đường của binh trạm, được gọi là “giao liên”, sẽ dẫn nhóm tới nửa đường. Tại đây, giao liên của binh trạm kế tiếp sẽ đón họ.
Buổi sáng ở các binh trạm có một thủ tục quen thuộc trước khi xuất phát.
“Mọi người được cấp cơm”, Bình kể tiếp. “Cơm gói trong những tấm vải cắt từ dù của quân Mỹ. Cơm đại hội lăn tròn và nén lại thật chặt. Làm như vậy cơm sẽ lâu thiu”.
Cha Bình có chuẩn bị một ít cá kho cho cô để ăn với cơm. Các binh trạm chỉ tiếp cơm nên mọi người phải hái măng rừng để ăn kèm. Tuy nhiên, do bộ đội đi lại trên Đường mòn quá nhiều nên măng tre cũng bị hái sạch. Một quãng dài rừng núi chẳng còn gì ăn được. “Lá sắn ăn được nhưng ăn nhiều thì bị ngộ độc”, Bình giải thích. “Do không tìm được thức ăn, chúng tôi lấy lá sắn nấu canh với muối. Một vài lần hiếm hoi ở binh trạm có dưa muối. Họ cho vào chảo lớn nấu cho chúng tôi ăn”.
Thú rừng cũng không có để săn bắn. “Suốt chuyến đi chúng tôi chẳng thấy một con thú nào”, Bình nhớ lại. “Có vẻ như chúng đã bị bom đạn giết sạch rồi”.
Bình có ấn tượng tốt về những người giao liên, họ luôn nghe ngóng xem có máy bay do thám hay không. Nếu nghe tiếng máy bay (nhiều lúc không thể nhìn thấy do rừng rậm), người giao liên liền dự đoán khu vực do thám rồi dẫn mọi người tránh đi. Đó là một cách làm thông minh bởi những khu vực do thám thường bị ném bom ngay sau đó. Người giao liên có thể cho mọi người dừng lại để chờ nguy hiểm qua đi hoặc đi nhanh hơn để vượt qua một khu vực đầy bất trắc.
“Ở những nơi chúng tôi đi qua trên Đường mòn không có hầm trú ẩn”, Bình cho biết, “vì thế mọi người thường ẩn nấp dưới gốc cây hoặc tảng đá lớn. Hầu như ngày nào cũng có thả bom. Người Mỹ thả bom vì họ biết có Đường mòn ở đấy, chứ không hẳn là nhằm vào đoàn chúng tôi. Một vài trẻ em ở các nhóm khác thiệt mạng – nhưng không nhiều. Các giao liên rất hiểu hoạt động của không quân Mỹ nên thường hướng dẫn chúng tôi rất cặn kẽ… Họ luôn chọn những lộ trình tốt nhất có thể - đôi khi chúng tôi phải băng qua nơi không có lối mòn”.
Hiếm khi các giao liên cho đoàn nghỉ ngơi – họ luôn giục mọi người tiến về phía trước. “Chúng tôi đi liên tục…họ không bao giờ chờ. Nhiều đứa trẻ phải chạy mới bắt kịp. Đôi khi người lớn không theo kịp trẻ con. Có lúc, một số người trong nhóm tới binh trạm trước cả tiếng đồng hồ so với số còn lại, nhưng không ai lạc đường… Chúng tôi luôn ngủ ở binh trạm, không bao giờ ngủ dọc Đường mòn. Chỉ khi nào bị lạc đường thì người ta mới phải ngủ dọc Đường mòn”.
Bình nhớ lại lần chạm mặt với một người lính phía bên kia hai tuần sau ngày khởi hành:
“Một lính biệt kích miền Nam bị bắt. Anh ta bị áp giải theo đoàn chúng tôi để ra Bắc; tay bị trói quặt ra sau. Tôi rất tò mò, suốt ngày cứ đi sát sau anh ta… Không ai nói chuyện với anh ta, kể cả người giao liên… Tôi chưa bao giờ gặp một binh sĩ kẻ thù nên rất chi tò mò”.
Đây không phải là lần duy nhất Bình chạm mặt với lính biệt kích Việt Nam Cộng hòa. Cô nhớ lại một lần trực thăng thả biệt kích xuống rừng:
“Biệt kích địch thường được trực thăng thả xuống để cài cắm vào khu vực Đường mòn. Tôi nhớ có lần trông thấy hai tay biệt kích vừa được thả xuống đã lập tức vẽ một ký hiệu lớn bày tỏ mong muốn đầu hàng. Sau đó, họ ẩn nấp và chờ bộ đội từ binh trạm ra. Các chiến sĩ của binh trạm đã tóm được họ. Hai người ấy có rất nhiều đồ ăn; bộ đội lấy hết và đưa cho chúng tôi”.
(Năm 1961, Cục Tình báo Trung ương Mỹ triển khai chương trình bí mật, đưa biệt kích Việt Nam Cộng hòa đột nhập vào lãnh thổ Bắc Việt. Chiến dịch này, được Lầu Năm Góc tiếp quản năm 1964, đến năm 1968 đã thất bại nặng nề khi gần 500 lính biệt kích bị giết, bị bắt hoặc trở thành điệp viên hai mang. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara và cựu Tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Việt Nam, tướng William C. Westmoreland, đã bị chỉ trích nặng nề về chiến dịch trên. Chương trình đã được đặc tả trong cuốn sách của Sedgwick Tourison nhan đề: QUÂN ĐỘI BÍ MẬT, CUỘC CHIẾN BÍ MẬT: CHIẾN DỊCH BI THẢM CỦA WASHINGTON Ở BẮC VIỆT. Lời kể của Bình giải thích tại sao một số lính biệt kích Việt Nam Cộng hòa không trở về).
Trong phần lớn hành trình, giao liên men theo dọc bờ suối; không khí ở những nơi này rất mát mẻ. Trẻ con đôi khi có thể dừng lại để tắm tắp.
Nhưng đi dọc bờ suối cũng rất nguy hiểm.
“Khó khăn nhất là lúc mưa ập tới”, Bình giải thích. “Lũ quét cuồn cuộn dọc suối. Không có thời gian để chuẩn bị đối phó với lũ. Khi nghe tiếng ầm ầm thì cũng là lúc nước ập đến rồi. Những lúc đó chúng tôi thường trèo lên các tảng đá cao. Đang mùa khô nhưng đôi lúc có mưa lớn. Nhóm đã gặp lũ quét hai hay ba lần gì đó. Phần lớn chúng tôi không biết bơi nên thật là nguy hiểm. Sau khi lũ đi qua, dòng suối trở nên rộng hơn và khó vượt qua. Thế là người lớn phải buộc dây vào cây rồi cầm đầu dây còn lại băng qua sông, sau đó buộc vào thân cây ở bờ phía bên kia. Trẻ em một tay giữ ba lô, tay kia nắm dây để qua suối. Ba lô được cho vào một bọc nhựa để khi cần có thể làm phao cứu sinh. Chúng tôi được huấn luyện kỹ càng để có thể thích nghi với bất kỳ hoàn cảnh nào, vì thế tất cả trẻ con vượt sông suối mà không gặp vấn đề gì lớn. Nếu sợ thì sẽ gặp rắc rối. Còn nếu không sợ thì sẽ vượt qua bất cứ thách thức nào”.
Ba tháng và một tuần kể từ ngày rời Chiến khu R, nhóm của Bình hoàn tất cuộc trường chinh. Họ tới Binh trạm 5 ở địa đầu tỉnh Quảng Bình, giáp với Lào vào ngày 27 tháng 8 năm 1971. Chặng đi tới Binh trạm 5 là chặng cuối cùng họ đi bộ. Nhóm hoàn tất phần còn lại của hành trình bằng xe tải.
Khi đi bộ, lũ trẻ chỉ đi vào ban ngày; nhưng khi di chuyển bằng xe tải, nhóm chỉ đi vào ban đêm. Họ được đưa đến tỉnh Quảng Bình. Tới bờ sông Gianh, cả đoàn lên thuyền qua sông, rồi sau đó tới Vinh, từ đấy đi tàu ra Thường Tín, Hà Tây.
Khi đến Thường Tín, trẻ em trong đoàn của Bình được đưa tới một khu trại đặc biệt trong vòng ba tháng. Tại đây, họ được gặp lại các bạn học thời Chiến khu R và chờ những người còn chưa đến. Đêm đầu tiên ở trại, họ được chiêu đãi một bữa tối đặc biệt – có thịt. Dù không có nhiều nhưng món ăn này làm tất cả thích thú. Mọi người cũng được khám sức khỏe và kiểm tra sốt rét.
Khi tất cả trẻ con đã đến nơi, một trường học đặc biệt dành cho người miền Nam được mở. Do việc học ở miền Nam bị giới hạn và thường hay gián đoạn, người ta cho rằng trẻ em miền Nam không thể theo kịp trẻ ở miền Bắc, vốn được đi học đều đặn.
Bình và các bạn học ở chung ký túc xá. Tại đây, trẻ được dạy các môn rất mới – địa lý, sinh học, lịch sử, v.v. Chính quyền cung cấp cho lũ trẻ áo quần và thực phẩm. Thêm vào đó, học sinh còn nhận được tiền tiêu vặt. Bình đã ở nơi đây trong suốt phần còn lại của cuộc chiến tranh. Khi trẻ em đến Hà Nội an toàn, chính quyền bắt đầu thông báo với phụ huynh ở miền Nam. Do đường bưu vận không ổn định, Bình phải đợi tới chín tháng mới nhận được tin từ cha mẹ nói rằng họ đã biết cô bé tới nơi bình an.
Được chính quyền chăm sóc rất chu đáo nhưng lũ trẻ vẫn không nguôi nhớ nhà. Chúng mong mỏi được trở về miền Nam quê hương. Tình hình vào thời điểm lũ trẻ tới miền Bắc cũng làm dấy lên câu hỏi liệu sống ở Hà Nội có an toàn hơn Chiến khu R hay không. Bấy giờ tất cả mọi người đối mặt hai mối đe dọa lớn: máy bay B-52 và lũ. Do máy bay B-52 gia tăng ném bom miền Bắc, lũ trẻ lại được tách ra thành từng nhóm nhỏ sống với các gia đình địa phương.
Năm 1974, Bình sung sướng khi được đón những vị khách bất ngờ - cha mẹ cô. Sau khi người Mỹ rút khỏi cuộc xung đột thì việc đi lại dọc Đường mòn trở nên nhanh chóng và dễ dàng. Không còn máy bay địch đe dọa, cha mẹ Bình đà thực hiện hành trình ra Bắc rất dễ so với chuyến đi khổ ải mà Bình từng trải qua.
Hai người ra Hà Nội bởi cha Bình bị bệnh mắt nặng. Tới Hà Nội được một thời gian, ông tiếp tục sang Liên Xô để phẫu thuật và dự kiến sẽ dưỡng bệnh trong sáu tháng. Khi ông lên đường sang Moskva; mẹ Bình – bà Mè - ở với con gái. Thế rồi, cha của cô đã trở lại Hà Nội chỉ hai tuần sau khi phẫu thuật. Ông nóng lòng được trở về Chiến khu R khi nhận thấy chiến thắng ở miền Nam đang cận kề. Bình rất vui trong thời gian được ở với cha mẹ trước khi chia tay.
Với sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975, Bình và các bạn học rất háo hức trở lại miền Nam. Nhưng tất cả đều thất vọng khi biết rằng phải học xong thì mới về được. Lũ con trai trở nên nóng nảy trong việc thuyết phục các giáo viên cho chúng trở về nhà, thậm chí chúng còn dọa đốt ký túc xá.
Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1975, trường học giải tán và các học sinh được đưa xuống Hải Phòng để từ đó lên tàu thủy vào Sài Gòn. Bình gặp lại chị gái, người cũng ra Bắc vào năm 1974. Bốn năm trước, cô bé phải mất ba tháng để đi bộ dọc Đường mòn mà không bị bệnh tật gì; giờ đây cô chỉ mất vài ngày hành trình trên biển nhưng lại bị say sóng khủng khiếp.
Tàu cập cảng Vũng Tàu, thành phố nằm phía Nam Sài Gòn, và hôm sau thì đến nhà máy đóng tàu Ba Son ở Sài Gòn. Cha mẹ tới đón Bình và người chị gái. Gia đình ngụ tại một khách sạn giữa Sài Gòn trong đêm đoàn tụ đầu tiên.
Ngày hôm sau, có một gia đình chịu nhiều mất mát trong cuộc đấu tranh trường kỳ để thống nhất đất nước đã trở về ngôi nhà mà mười lăm năm trước đó họ buộc phải ra đi. Đó là một thời khắc đầy cảm xúc đối với Bình. Được trở về nhà là niềm hạnh phúc, nhưng đó cũng là một trải nghiệm đau đớn; cô biết rằng ba người anh trai của mình sẽ không bao giờ xuất hiện nơi ngưỡng cửa ngôi nhà nữa.
ĐÀO SÂU ĐỂ HỌC CAO
Nước Mỹ có một lịch sử đầy may mắn. Từ khi độc lập, thường dân nước này, trong thời chiến, luôn được ngăn cách khỏi khói lửa chiến trường gây ra bởi một lực lượng chiếm đóng nước ngoài, ngoại trừ một lần duy nhất tính đến cuối thế kỷ 20. Ngoại lệ duy nhất đó là trong chiến tranh năm 1812, khi quân Anh đổ bộ vào đất Mỹ, bắn phá Nhà Trắng và nhiều dinh thự khác.
Sự hôi tụ của yếu tố địa lý, quá trình phát triển khá chậm của công nghệ vũ khí tầm xa trong phần lớn lịch sử nhân loại, cùng việc phát triển khả năng tự vệ từ xa – hàng ngàn dặm bên ngoài biên giới quốc gia – đã giúp nước Mỹ che chắn cho dân thường khỏi phải chịu đựng sự khắc nghiệt của chiến tranh mà các nước khác phải hứng chịu. Có lẽ vận may ấy đã khiến chúng ta quên rằng chiến tranh thật là khốc liệt đối với dân thường một khi người dân ở ngay trong vùng chiến trận.
Trong khi dân Mỹ theo dõi chiến tranh Việt Nam qua báo chí thì người Việt Nam phải sống chung với cuộc chiến đó mỗi ngày. Trong khi trẻ em Mỹ ngồi trên xe buýt tới lớp học có điện thắp sáng, máy điều hòa thì trẻ em Việt Nam phải đi bộ tới trường, khoác đồ ngụy trang và học ở dưới lòng đất. Trong khi trẻ em Mỹ được dạy học cách trang trí nhà cửa, trẻ em Việt Nam được dayh cách trị thương. Trong khi trẻ em Mỹ được ở bên cha mẹ lúc rảnh rỗi, trẻ em miền Nam Việt Nam buộc phải chia tay cha mẹ ruột để sống với cha mẹ nuôi ở miền Bắc – và rất nhiều người trong số họ không bao giờ có ngày đoàn tụ gia đình. Trong khi trẻ em Mỹ choàng tỉnh trong cơn ác mộng và chợt thấy đó không phải là sự thực thì trẻ em Việt Nam phải thường xuyên trải qua những cơn ác mộng có thật.
Với việc không hề bị xâm chiếm kể từ năm 1812, người dân Mỹ đã dần trở nên vô cảm trước các tai họa mà một nước xâm lược có thể gây ra. Và không nghi ngờ gì, ít người Mỹ hiểu thấu đáo về nỗi đau mà cuộc chiến tranh này trút xuống đầu người dân Việt Nam. Đây là cuộc chiến mà trong đó, một thế hệ trẻ em được giáo dục trong những điều kiện không thể hình dung nổi đối với người Mỹ.
Là một cô giáo, Nguyễn Thị Phúc Hòa hiểu rất rõ những gian khó này. Sinh năm 1945, bà từng dạy cấp hai và cấp ba ở tỉnh Quảng Bình trong phần lớn thời gian chiến tranh – từ 1964 đến 1972; đây là tỉnh thường xuyên bị máy bay Mỹ ném bom. Bà đã chứng kiến nhiều lớp học sinh sau ngày tốt nghiệp đã bước thẳng ra chiến trường và có rất nhiều người không bao giờ trở lại.
Phòng học là những hầm chống đạn được đào sâu hai mét, đủ rộng để chứa 30-35 học sinh mà cô giáo Hòa thường dạy mỗi năm. Từ mặt đất, người ta chỉ có thể nhìn thấy mái lợp của lớp học. Phía bên dưới là trần làm bằng đất sét trộn rơm. Sau khi đắp vào khung trần, hỗn hợp này sẽ khô tại chỗ, tạo ra một lớp chắn lửa ngăn cách giữa mái lá và học sinh bên dưới.
Ở phía đầu kia của công trình là lối đi vào một địa đạo ngoằn ngoèo kéo dài hàng trăm mét. Học sinh luôn được hướng dẫn cách sơ tán dọc các địa đạo để tới nơi an toàn khi có máy bay ném bom. Một hầm trú bom, nhỏ hơn nhiều so với lớp học, được đào gần đấy, thường là do phụ huynh và giáo viên đào.
Học sinh cấp hai bắt đầu buổi học vào 6 giờ sáng mỗi ngày; buổi học kéo dài trong ba tiếng trước khi trở về với cha mẹ. Trẻ con thường đeo ngụy trang sau lưng khi đi bộ tới trường. Đồ ngụy trang được thiết kế với một dụng cụ đặc biệt để cắm lá cây vào.
Học sinh được hướng dẫn đeo tấm ngụy trang và mỗi khi có máy bay thì nằm úp mặt xuống đất. Khi làm như vậy, các nhành cây phía sau sẽ xòe ra che cho học sinh, nhìn từ máy bay sẽ dễ lầm tưởng đấy là một bụi cây tự nhiên. (Bà Hòa tâm sự, rằng dù bà tin lính Mỹ không cố ý nhằm bắn vào học sinh nhưng bà có cảm giác là “họ sẵn sàng bắn vào bất cứ vật gì di động vì cho rằng đó có thể là kẻ thù”).
Học sinh cấp ba học từ 6 giờ đến 10 giờ sáng. Lứa học sinh này ở lại trường với giáo viên theo hình thức nhà chung chứ không về nhà với cha mẹ. Sau buổi học, học sinh tham gia các hoạt động cần thiết để tự chu cấp cho tập thể của mình, chẳng hạn làm nông. Sau ba năm cấp ba, học sinh tốt nghiệp. Những cậu bé, giờ đã trở thành thanh niên, nhập ngũ để phụng sự đất nước.
Do thiếu cơ sở y tế trong làng, bà Hòa còn dạy cho trẻ cách sơ cứu. Bà lồng vào chương trình rất nhiều bài giảng, nhiều ví dụ về các vấn đề thường gặp hằng ngày, chẳng hạn lấy bát úp vào vết thủng ở bụng để không cho ruột chảy ra ngoài. Để cầm máu, trẻ được dạy cách đắp lá cây; để cấp cứu khi gãy chân, trẻ dùng một thanh tre nẹp lại.
Bà Hòa kể lại: “Đôi khi máy bay Mỹ thả thùng hàng đồ chơi và nhiều thứ khác, như bút chẳng hạn. Chúng tôi lượm hết. Nhưng rồi có một ngày người ta nói (sai) rằng quân Mỹ đã tẩm hóa chất chết người vào các vật này. Thế là chúng tôi đốt hết”.
Khi mối lo ngại về an toàn cho trẻ con trong các đợt ném bom gia tăng, người ta bắt đầu thực hiện kế hoạch sơ tán. Chương trình này đã được khởi động ở Vĩnh Linh vào năm 1968. Chính quyền làm việc với dân ở các làng phía Bắc để chọn ra những phụ huynh sẵn sàng làm cha mẹ nuôi cho trẻ em Vĩnh Linh.
Bên cạnh nỗi buồn phải gửi con đi xa, các bậc cha mẹ Vĩnh Linh không bao giờ được biết nhân thân các gia đình cha mẹ nuôi – họ chỉ được xác nhận rằng con của họ sẽ tới ở tại làng nào mà thôi. Cha mẹ ruột thường nhận được thông báo về tình hình con cái dựa trên những thông tin cha mẹ nuôi cung cấp.
Phải mất nhiều năm thì các gia đình này mới được đoàn tụ. Trong nhiều trường hợp, họ không bao giờ đoàn tụ được do trẻ em chết hoặc thông tin về nơi ở của trẻ bị thất lạc. Dù trường nơi bà Hòa dạy chưa bao giờ bị máy bay Mỹ bắn trúng nhưng bà ước tính rằng có từ bảy tới mười học sinh của bà đã thiệt mạng trong giai đoạn 1966-1970.
GIÁNG SINH ÁC MỘNG Ở HÀ NỘI
Với những ai sống ở Hà Nội thời chiến tranh, “Khâm Thiên” có một ý nghĩa rất đặc biệt. Đó là biểu tượng của những khổ đau và mất mát lớn lao mà dân thường phải hứng chịu trong các đợt ném bom dịp Giáng sinh 1972.
Ngày 13 tháng 12 năm 1972, hòa đàm Paris bế tắc. Washington cho rằng Hà Nội chỉ lợi dụng thời gian ngưng ném bom, vốn được coi là một kết quả của nghị trình, để tiếp tục đưa quan vào miền Nam. Tổng thống Nixon muốn chuyển tới Hà Nội một thông điệp cứng rắn để đưa người Việt Nam trở lại bàn đàm phán. Ngày 18 tháng 12 năm 1972, ông Nixon ra lệnh mở chiến dịch Linebacker II1, mà sau đó được biết tới với tên gọi “Trận oanh tạc Giáng sinh” nhằm và Hà Nội và Hải Phòng. Chiến dịch được Không lực Mỹ tiến hành cho tới ngày 29 tháng 12.
Linebacker II là một cuộc huy động máy bay lớn nhất trong lịch sử tính đến thời điểm ấy. Áp dụng chiến lược luân phiên phi công lái cùng một chiếc máy bay, Không lực Mỹ đã oanh kích cả ngày lẫn đêm. Ban ngày là máy bay cường kích chiến thuật; ban đêm là B-52 và F-111. Suốt mười một ngày của chiến dịch, một loạt mục tiêu quân sự như sân bay, trận địa pháo cao xạ và tên lửa phòng không, đường sắt, kho bãi liên tục bị không kích.
Tổn thất mà đợt ném bom này gieo lên Hà Nội và Hải Phòng không chỉ dừng lại ở các mục tiêu quân sự. Một hệ quả không may của chiến tranh đó là tổn thương bên lề - tức những tổn hại rơi vào các mục tiêu không nằm trong chủ ý tấn công – luôn xuất hiện. Buổi tối 26 tháng 12, máy bay Mỹ đã gây ra tổn thương bên lề vô cùng nghiêm trọng đối với cư dân Hà Nội khi ba mươi chín quả bom rơi xuống phố Khâm Thiên.
o O o
Dù đã có lệnh sơ tán khỏi thành phố nhưng Phùng Thị Tiệm, 50 tuổi, vẫn ở lại vì bà đảm trách việc bảo vệ trị an dọc phố Khâm Thiên.
“Tất cả mọi người sơ tán khỏi thành phố theo lệnh chính quyền. Đó là ngày hôm sau lễ Giáng sinh và ai cũng nghĩ người Mỹ sẽ không ném bom vào dịp này. Nhiều người đã trở về Hà Nội để lấy thực phẩm và các vật dụng khác trước khi tới nơi sơ tán. Thế nên lúc xẩy ra vụ ném bom, phố Khâm Thiên rất đông người.
Lúc 5 giờ chiều, chính quyền thông báo máy bay Mỹ sắp ném bom. Một số người làm việc trong nhà máy ở Hà Nội đã không thể sơ tán do tính chất quan trọng của công việc.
Khi nghe còi báo động, chúng tôi lập tức chui xuống hầm trú ẩn. Còi rúc lên vào tầm 10 giờ 15 tối, lúc tôi đang ở nhà. Tôi liền chạy ra ngoài kêu gào mọi người tìm chỗ ẩn nấp. Tôi lao đi cùng chồng và đứa con trai (bảy tuổi). Tôi và nhà tôi chui xuống một hầm trú ẩn dành cho hai người còn con tôi chui vào một hầm khác. Nhiều người đào hầm trong nhà; một số người khác sử dụng hầm do chính quyền đào dọc phố”.
(Thời chiến, có ba loại hầm tại Hà Nội:
[1] Phần lớn là hầm nhỏ, hình tròn dành cho hai người được xây dựng đơn giản bằng cách đặt một ống thoát nước bằng bê tông vào lòng đất theo chiều thẳng đứng. Miệng ống ngang bằng với mặt đất. Sau khi chui vào hầm, người ở trong sẽ kéo tấm bê tông dày chừng năm tới sáu phân để đậy lại. Nắp đậy có hai lỗ để người ta có thể nắm và kéo trượt qua đầu. Những lỗ này còn có chức năng thông khí. Hầm trú ẩn thường nằm cách nhau chừng mười mét dọc đường phố Hà Nội.
[2] Loại thứ hai là hầm trú ẩn hình tam giác có độ sâu chừng một mét. Phần lớn hầm hào ở những địa phương khác đều sâu hơn nhưng đất tại Hà Nội đào sâu dễ gặp nước. Đào càng sâu thì nguy cơ tường sập do ẩm ướt càng cao. Đầu tiên người ta đào một cái hầm hở cạn, sau đó dùng một dàn mái hình chữ A làm bằng tre và bùn khô chụp lên trên. Mỗi đường phố có một ít hầm kiểu này, chứa chừng mười người mỗi hầm. Loại hầm này rõ ràng không có tác dụng bảo vệ người trú ẩn trong trường hợp bom rơi trúng hoặc ngay bên cạnh, mà chỉ có thể chắn mảnh bom từ xa lia tới.
[3] Loại thứ ba là đường hào dích dắc có độ sâu tương đương hầm tam giác. Kiểu hầm này cũng có mái làm bằng tre và bùn khô. Đây là kiểu hầm chứa nhiều người nhất, có thể lên tới ba mươi người).
Không có chuyện định trước ai sẽ trú ở hầm nào. Mọi người chỉ việc nhảy ào vào căn hầm gần nhất khi có máy bay.
Bom bắt đầu rơi từ khoảng 10 giờ 45 đêm hôm đó… Khi máy bay ném bom, tôi cố gắng định vị xem bom rơi chỗ nào… Tiếng nổ mỗi lúc một gần. Một trong những quả cuối cùng rơi cách hầm tôi chừng hai – ba chục mét, thổi bay mái hầm. Ngay lúc đó, tôi đứng dậy. Thấy bụi mù trời (do nhà sập)… Sau khi bom ngớt, chúng tôi chạy tới các ngôi nhà sập hoặc những nơi có tiếng kêu… Tôi hối hả giúp chuyển người bị thương lên xe cấp cứu. Chúng tôi nghe tiếng kêu của một đôi vợ chồng già nhưng chẳng làm gì được vì một tòa nhà bốn tầng đã đổ sập lên phía trên họ. Chúng tôi cố sức tìm cách đưa họ ra nhưng đống đổ nát quá lớn. Tiếng kêu sau đó ngừng bặt. Ngày hôm sau chúng tôi thấy xác họ sau khi một chiếc máy cẩu dọn hết đống đổ nát phía trên. Rất nhiều trường hợp người bị vùi trong đống đổ nát và phải dùng tới cần cẩu mới đưa họ ra được.
“Phải ba tiếng đồng hồ sau tôi mới gặp con trai và biết nó không hề gì”. Về cảnh tàn phá ngày hôm ấy, bà Tiềm nhớ lại, “Chúng tôi không khóc được. Nước mắt khô hết rồi. Hôm đó nếu gặp một phi công Mỹ thì tôi hẳn đã giết hắn ta”.
________________________________
1. Theo tư liệu của phía Mỹ, tổng cộng 207 chiếc B-52 và 2.000 máy bay chiến thuật đã tham gia chiến dịch Linebacker II, từ ngày 18 đến 29-12-1972.
Đại tá Lê Kim, một cựu chiến binh thời đánh Pháp và là nhà báo, đã ở Hà Nội vào cái ngày phố Khâm Thiên bị ném bom. “Tôi làm việc ở tòa soạn”, ông kể. “Nhà tôi nằm cách đấy hai cây số, phía bên kia phố Khâm Thiên. Ngày nay thì đường phố đã hoàn toàn khác thời đó. Hồi chiến tranh, đó là một khu vực đông đúc và nghèo nàn với chỉ dăm ba tòa nhà cao tầng.
Vào buổi sáng và chiều đã có lệnh sơ tán. Buổi chiều, chính quyền cử nhân viên xuống xem dân chúng có chấp hành lệnh sơ tán trước đó hay không. Lúc bấy giờ tôi cứ băn khoăn không hiểu tại sao lại có lệnh sơ tán đặc biệt như vậy. Phải tới sau chiến tranh tôi mới biết Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dự đoán sẽ có các cuộc oanh kích Hà Nội bằng máy bay B-52 trong nỗ lực cuối cùng để kết thúc chiến tranh. Hồ Chủ tịch thậm chí còn đề nghị Đại tướng Giáp đưa tất cả pháo cao xạ và tên lửa phòng không từ khu phi quân sự (về bố trí tại Hà Nội) để bắn B-52 – nhưng ông Giáp không muốn để các đơn vị bộ đội không có gì bảo vệ.
Nhà tôi là giáo viên. Bà ấy và hai con sơ tán trong khi tôi ở lại làm việc … rồi trở về nhà. Chỉ có tôi và đứa cháu trai ở nhà. Vào buổi tối, máy bay B-52 ném bom Hà Nội và Đông Anh cách đấy mười ba cây số, nơi vợ con tôi vừa sơ tán tới, dù không có mục tiêu quân sự nào ở đó.
Đợt ném bom kéo dài nhiều ngày. Trong đêm đầu tiên, một máy bay B-52 bị bắn rơi và viên phi công bị bắt. Ngày hôm sau, tôi tới gặp phi công. Tôi hỏi tên, anh ta trả lời là Richard Johnson. Chúng tôi dẫn anh ta đi dọc các con phố bị B-52 tàn phá. Anh ta nói rằng mình chỉ làm theo mệnh lệnh. Tôi cười và nói với anh ta rằng đừng băn khoăn về điều đó bởi những người gây ra tội ác này là Richard Nixon và Lyndon Johnson. Tôi nói với anh ta rằng thật là trớ trêu khi tên anh ta lại là sự kết hợp giữa tên của hai vị tổng thống kia.
Mấy ngày sau tình hình trở nên xấu đi. Là một nhà báo, thật ức khi không thể đánh trận bằng ngòi bút. Cây bút không thể nhằm bắn vào máy bay B-52, nhưng khẩu súng thì có thể. Tôi làm việc tại tòa soạn tới nửa đêm vì chúng tôi quy định hạn chót cho bài vở là 3 giờ sáng. Khi tôi đang đạp xe về nhà thì B-52 lại ập đến. Hầm trú ẩn được đào cách nhau vài mét dọc đường phố Hà Nội nên mỗi khi có máy bay là mọi người lập tức chạy tìm những căn hầm trống.
Trong những ngày đầu, nhiều nhà cửa đã bị tàn phá và có một ít thương vong. Tổn thất lớn nhất là vào ngày 26 tháng 12 năm 1972. Người ta kháo nhau rằng phi công Mỹ thờ Chúa Jesus nên sẽ không ném bom Hà Nội vào dịp Giáng sinh. Tin vào điều đó, nhiều người đã trở lại phố Khâm Thiên. Khi loa phóng thanh khuyến cáo sơ tán thì hầu hết lại cứ tiếp tục công việc của mình.
Đêm hôm đó, Hà Nội bị cúp điện; còi báo động nổi lên và đài phát thanh thông báo máy bay Mỹ ở cách Hà Nội 80 cây số, ngay sau đó là 50 cây số. Mọi người chạy đi trú. Bản tin phát thanh sau đó thông báo máy bay cách 30 cây số, không ai được ở bên ngoài và dân quân sẵn sàng chiến đấu.
(Dân quân được lệnh mang theo vũ khí và nấp trong các hầm hở để bắn máy bay tầm thấp).
Sau bản tin phát thanh cuối cùng, chúng tôi bắt đầu nghe tiếng pháo cao xạ từ xa – vài phút sau, loạt bom đầu tiên được thả xuống. Nhiều quả bom rơi cách xa cả ba chục cây số, chúng tôi vẫn nghe chấn động tại Hà Nội…
Một chốc sau, tiếng pháo cao xạ át cả tiếng bom rơi… Một chiếc B-52 bị bắn trúng và cháy rực trên bầu trời Hà Nội. Nghe tin này, nhiều đứa trẻ chui ra khỏi hầm vỗ tay. Chúng quá phấn khích đến mức vọt ra khỏi hầm giữa lúc pháo cao xạ đang bắn.
Sau đó, tôi nghe tiếng bom nhưng không nghĩ rằng phố Khâm Thiên bị đánh. Tôi nhảy lên xe đạp cùng một người bạn tới tận nơi chứng kiến. Đường phố bị bom xới tung nên chúng tôi không thể vào trong. Một phía khu phố bị phá hủy nghiêm trọng, phía còn lại bị ít hơn. Khói bao phủ khắp nơi. Ngày hôm sau, không khí trở nên hôi hám vô cùng và tiếp tục như vậy trong bốn ngày, do thi thể đang phân hủy.
Chiến thuật ném bom rải thảm diễn ra dồn dập, từ Bệnh viện Bạch Mai tới phố Khâm Thiên. Đợt ném bom thật kinh khủng… Kham Thiên là phố đông đúc nhất Hà Nội. Nó nằm cách xa các cơ sở quân sự nên dân chúng tin rằng ở đấy an toàn… nhưng rồi chúng tôi tổn thất nặng nề nhất lại là ở nơi đây…
Nhiều máy bay bị bắn rơi và phi công bị bắt. Viên phi công cuối cùng mà tôi gặp là Harry Ewell, người đã bị Phạm Tuân bắn rơi. (Đại tá Kim không chắc lắm về tên họ của phi công. Tôi cũng không tìm thấy tên họ “Ewell” nào trong cơ sở dữ liệu tù binh). Tôi đã chứng kiến cuộc đối thoại giữa Harry Ewell và Phạm Tuân sau khi Ewell bị bắt. Hai người khá đối lập nhau – Phạm Tuân là một chàng trai trẻ độc thân; Harry Ewell lớn tuổi hơn, đã có vợ và bảy đứa con. Bất chấp hoàn cảnh lúc bấy giờ, cuộc gặp giữa hai người đàn ông không hề hằn học… Tên của Harry Ewell làm tôi nhớ tới một vị tổng thống, ông Harry Truman, người đã ra lệnh ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản. Nhờ sự trùng hợp với tên của các vị tổng thống mà đến nay tôi vẫn còn nhớ tên những viên phi công ấy”.
Ông Nguyễn Văn Tùng, 46 tuổi, có sáu con trai và hai con gái. Con trai lớn nhất của ông là Nguyễn Văn Giang, 26 tuổi, đã có bốn năm quân ngũ, chiến đấu tại Khe Sanh và lái xe tải tiếp vận dọc Đường mòn Hồ Chí Minh. Giang giải ngũ năm 1971 sau khi bị bệnh khiến cơ thể sưng tấy. Anh được chuyển về Hà Nội sống với cha mẹ để điều trị. Sau khi về Hà Nội, Giang lập gia đình với Cao Thị Đức, 23 tuổi.
Khi sức khỏe hồi phục, Giang trở lại lái xe tải dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, trong vai trò là thanh niên xung phong chứ không phải quân nhân. Hôm Giáng sinh năm 1972 và một phần của ngày hôm sau, Giang chất hàng lên xe để chuẩn bị cho hành trình vào buổi tối. Nhưng rồi số phận đã dẫn tới một kết cục đau đớn, chiếc xe tải sau đó đã chạy dọc Đường mòn Hồ Chí Minh – còn Giang thì không thể.
Đôi mắt ngấn lệ, ông Tùng kể về những giờ phút cuối cùng của đứa con trai.
“Con trai tôi trở về nhà ngủ (để lấy sức cho chuyến đi)”, ông giải thích. “Nhà tôi, hai đứa con gái và hai đứa con trai thì đã đi sơ tán”.
Ông Tùng, vợ của Giang và ba con trai còn lại của ông ở lại cùng nhau trong ngôi nhà giữa lúc Giang nằm ngủ. Khi còi báo động nổi lên, Giang cùng mọi người chạy đi trú bom. Tới lúc quan sát thấy Giang và con dâu, cũng như ba người con trai kia đã an toàn, ông Tùng mới chui vào hầm. Ông thấy ba người con trai chui vào một hầm trú nhỏ, còn Giang cùng với vợ nhảy vào đường hầm dích dắc; bản thân ông cũng chui được vào một căn hầm.
“Tôi ở một mình trong căn hầm dành cho hai người”, ông hồi tưởng. “Máy bay thả bom cấp tập chung quanh, khiến căn hầm sập một phần. Bùn đất và mảnh vỡ rơi đầy người tôi. Khi bom ngớt, tôi không thể đẩy nắp hầm để ra ngoài. Nhưng tôi biết có các đội chuyên trách đi khắp thành phố sau mỗi trận bom để cứu người. Lúc khoảng 3 giờ sáng ngày hôm sau, có một người chọc gậy qua cái lỗ ở hầm tôi để xem còn ai bên trong không. Tôi nắm lấy đầu gậy để anh ta biết có người. Họ liền tìm cách đẩy nắp và phải xoay vần cơ thể tôi để lôi ra. Mất khoảng mười lăm phút họ mới kéo tôi ra được”.
Khi ông Tùng vừa được kéo ra, đã có mặt ba người con trai ở đấy. Họ bảo rằng không thấy vợ chồng Giang ở đâu. Ông Tùng nhìn về phía căn hầm nơi Giang cùng vợ đã chui vào. Ông kinh hãi khi thấy nó đã bị phá hủy hoàn toàn.
“Có tới hai hố bom, một hố ngay trên nóc hầm. Tôi cùng ba người con tìm kiếm dấu vết của những người trú ẩn trong hầm đó. Nhưng chả tìm được gì”.
Ông Tùng và các con tiếp tục tìm kiếm xung quanh và phát hiện ra một điều khủng khiếp. “Tôi bắt gặp một thi thể nằm cách căn hầm mà Giang đã nấp chừng một trăm thước”, ông Tùng kể. “Dù khuôn mặt người chết đã bị phá nát nhưng qua vóc dáng và chiếc đồng hồ trên tay tôi có thể nhận ra con mình”.
“Chúng tôi mang thi thể nó về nhà, liệm vào trong quan tài do chính quyền cấp và sau đó đưa đi an táng”.
Thi thể người con dâu của ông – cũng như phần lớn những người trú ẩn trong căn hầm đó – đến nay vẫn chưa được tìm thấy; sức nổ của hai quả bom đã nghiền nát và thổi bay xương thịt họ. Người ta nói rằng có tới hai mươi bảy người trong căn hầm vào thời điểm nó bị trúng bom.
Điều đau đớn hơn nữa đối với ông Tùng là người con dâu đã có thai sáu tháng, sắp sinh đứa cháu đầu tiên cho ông.
o O o
Một ngày cuối tháng 12 năm 1972, Đặng Ngọc Long, 26 tuổi, đứng bên bậu cửa trên phố Hàng Ngang, quận Hoàn Kiếm ở Hà Nội, lặng lẽ ngắm nhìn khung cảnh đường phố.
“Tôi thấy mọi người hối hả sơ tán. Nơi đây trở thành thành phố ma khi có tới 80% dân rời đi. Lần sơ tán này lớn hơn các lần trước, vốn nhiều nhất thì chỉ có 30% người lánh nạn. Hôm đó trời rất lạnh. Thật là buồn khi thấy mọi người ra đi. Người Việt vốn luôn gắn mình với cội rễ, thường muốn gắn bó lâu dài với nơi mình chôn nhau cắt rốn. Giờ thì mọi người phải khăn gói ra đi. Tôi buồn – nhưng cũng rất tự hào. Tôi biết rằng họ ra đi để tìm sự sống – để duy trì giống nòi. Các gia đình khi rời thành phố thường được tách ra để giảm nguy cơ tổn thất; ai cũng buồn và lo lắng trước cảnh chia ly này”.
Khu vực nơi Long sinh sống không bị đánh bom, nhưng cô thường xuyên lo lắng cho người bà con và bạn bè sống trong nơi bị oanh tạc. “Anh chị em và cha mẹ tôi sống ở nhiều nơi trong thành phố và cả những vùng xung quanh”, Long giải thích. “Nếu biết có vụ ném bom trong phạm vi cách xa 30 cây số, tôi luôn hướng mắt nhìn về phía người thân đang sống và rất lo cho sự an nguy của họ”.
Chính phủ khuyến cáo tất cả dân cư nếu không có việc cần kíp phải ở lại thì hãy rời khỏi thành phố. Chỉ những người tham gia vào công tác bảo vệ Thủ đô hoặc các dịch vụ duy trì sự hoạt động của thành phố thì được chỉ đạo ở lại.
Những cuộc sơ tán diễn ra liên tục. Khi Long nhìn xuống đường phố, cô thấy từng đoàn dân di tản, với xe đạp chất đầy đồ đạc, hối hả rời thành phố.
Long cùng chồng, dù không thuộc diện cần thiết phải ở lại, vẫn quyết định không di tản. Họ đã cũng nhau hứng chịu những đợt bom khủng khiếp kể từ khi các đợt không kích thành phố bắt đầu.
“Lần đầu thấy máy bay ném bom, chúng tôi rất hãi”, Long nhớ lại. “Nhưng dần dà rồi cũng quen. Nhiều người quen với tiếng bom tới mức lúc máy bay xuất hiện họ cũng không thèm xuống hầm trú. Hồi đó ngày nào cũng nghe còi báo động. Lượng bom ném xuống mỗi ngày mỗi khác nhau. Ngày thì rất nhiều, ngày thì rất ít; đôi khi có báo động giả mà không có cuộc ném bom nào.
Giai đoạn 1970-1971, người ta đào hầm tròn dành cho hai tới ba người dọc đường phố Hà Nội”, Long kể. “Hình ảnh những chiếc hầm đã truyền cảm hứng tới việc nấu nướng của chúng tôi. Hồi đó học sinh không có đủ gạo ăn nên chúng tôi tận dụng bột mì ẩm để làm bánh cho các em. Loại bánh này có hình dáng giống hệt chiếc (nắp) hầm hình tròn”.
Những cư dân ở lại Hà Nội phải chấp hành lệnh trú ẩn mỗi khi có báo động. Có lẽ đây là cách duy nhất để họ biểu thị sự bất khuất trước người Mỹ, nhưng trong suốt cuộc chiến, Long và chồng chưa bao giờ trú ẩn dưới hầm. Họ luôn ở trong nhà, phó mặc mọi chuyện cho số phận.
Long và chồng luôn gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn – một truyền thống mà họ muốn con cái sẽ tiếp nối. Cặp vợ chồng trẻ vừa mới kết hôn vào Giáng sinh năm 1971. Vào lúc diễn ra chiến dịch không kích, Long đã mang thai đứa con đầu lòng được chín tháng. Tuy nhiên, điều đó cũng không khiến cô phải tìm hầm trú ẩn mỗi khi bị máy bay ném bom.
Ngày Giáng sinh 1972, có một khoảng thời gian tạm ngưng ném bom khiến nhiều người dân lầm tưởng, dẫn đến mất cảnh giác. Nhiều cư dân đã di tản trước đây kéo nhau trở lại thành phố sau khi Tổng thống Nixon tuyên bố có thể ngưng ném bom trong ngày Giáng sinh. Dân Hà Nội cho rằng thời gian ngưng ném bom có thể kéo dài tới hôm sau. Suy đoán này đã dẫn tới tổn thất lớn về sinh mạng.
Phần lớn những người trở về vào ngày 26 tháng 12 là dân di tản trẻ tuổi. Hành trình quay lại thành phố quá khó khăn đối với người quá già hoặc quá trẻ. Vì thế, những ai sung sức phải lãnh trách nhiệm trở về Hà Nội để lấy thêm thực phẩm và các vật dụng khác cũng như kiểm tra lại nhà cửa.
“Tôi không thể diễn tả hết được tất cả những chịu đựng, hy sinh ấy”, Long nói. “Làm sao có thể sống trong cảnh nguy nan như thế được? Bởi vì chúng tôi đầy lòng tự trọng nên phải tự bươn chải để sinh tồn. Thiếu đủ thứ, thiếu thực phẩm, điện và rất nhiều nhu yếu phẩm khác. Đối với dân nông thôn thì tình hình còn tệ hơn vì họ không có được những tiện nghi như người Hà Nội. Chúng tôi sống với nỗi lo sợ, mong ngóng người thân yêu được an toàn. Chúng tôi không chỉ thiếu vật chất mà còn chịu tổn thương tinh thần. Số thanh niên di tản phải đi bộ cả trăm cây số để trở về thành phố. Khi họ tới nơi, đường phố đã bị tàn phá; rất khó để đi lại nơi này nơi kia. Nhưng mọi người vẫn sát cánh bên nhau để sinh tồn”.
Đầu ngày 26 tháng 12, Long bắt đầu cảm thấy đau bụng. Tới 5 giờ chiều, cô nhận thấy rằng mình sắp sinh. Người chồng giúp vợ ngồi lên yên sau xe đạp. Trong khi chồng hối hả đạp xe thì Long tìm cách giữ thăng bằng, bụng quặn đau.
Người chồng đưa Long tới Bệnh xá Ngô Quyền. Đây không phải là bệnh viện chính mà chỉ là một cơ sở tạm thời dành cho sản khoa. Vào giai đoạn máy bay gia tăng ném bom, người ta đã quyết định phân tán các bộ phận y tế từ bệnh viện trung tâm ra nhiều nơi khác nhau để tránh nguy cơ bị mất toàn bộ bệnh viện một khi bom dội trúng. Các cơ sở này được đặt khắp thành phố.
Bệnh xá Ngô Quyền bao gồm một ngôi nhà trệt với một phòng sinh và phòng bệnh nhân. Khu vực chăm sóc sản phụ được thiết kế đặc biệt dưới lòng đất – nơi mà Long sẽ phải làm quen trước khi lâm bồn.
Không được phép ở lại với vợ, người chồng phải trở về nhà hồi hộp ngóng tin đứa con sắp chào đời, để lại Long cho bác sĩ và hai y tá ở bệnh xá chăm sóc. Ban đầu Long được đưa vào một căn phòng cùng với năm phụ nữ khác – và một số trẻ sơ sinh tương ứng. Số sản phụ và trẻ sơ sinh ở đây gợi cho Long hiểu rằng tất cả những người này đã mẹ tròn con vuông, đang hồi sức và chờ ngày xuất viện cùng với đứa con mới chào đời.
Nằm ở khu vực nổi, Long cảm thấy bụng quặn lên. Trong cơn đau đớn, cô cũng thấy may mắn khi mấy đứa bé sơ sinh xung quanh không quấy khóc. Sau một cơn đau kế tiếp, cô liếc nhìn đồng hồ treo tường. Đã 8 giờ tối.
Giữa lúc Long chuẩn bị đối mặt với cơn đau kế tiếp, không khí yên tĩnh bị phá vỡ. Tiếng cói báo động rúc lên. Điện ở Bệnh xá Ngô Quyền – và trên toàn thành phố - liền bị cúp. Khi các y tá châm đèn dầu lên, cũng là lúc Long cảm thấy sinh linh bé nhỏ trong cơ thể cô đang tìm cách chui ra. Lúc 8 giờ 15 tối, cô sinh một bé trai khỏe mạnh nặng 3,1 ký.
Ca sinh nở này là một trải nghiệm đầy đau đớn cho cả mẹ lẫn con. Cửa âm đạo của Long bị rách, xuất huyết rất nặng.
Một y tá bảo rằng cần phải khâu vết rách cửa mình, nhưng không có thuốc tê. Thêm vào đó, chỉ khâu tự tiêu và kim khâu y tế cũng thiếu, thế nên người ta buộc phải lấy kim và chỉ thường để khâu.
Khi hai y tá đang thao tác, Long quan sát thấy sự đối lập rõ rệt nơi họ. Một người thì rất trẻ, có vẻ không được đào tạo bài bản; người kia, khoảng ngoài 50, đeo kính dày, tỏ ra rất kinh nghiệm.
Khi cuộc phẫu thuật đang tiến triển, Long thấy khó chịu do người y tá lớn tuổi mắt kém, đặc biệt là trong điều kiện chỉ có một ngọn đèn dầu soi sáng căn phòng. Long cảm thấy thảm họa sắp sửa xảy đến. Thật không may, nỗi lo sợ của cô là hoàn toàn có căn cứ.
Người y tá già phải căng mắt để đặt mũi khâu đúng chỗ. Tuy nhiên, chỉ sau một hoặc hai mũi khâu, bà nhận ra rằng nơi đây thiếu ánh sáng nên bà gọi cô y tá trẻ kia tới giúp sức.
“Dù không hề khóc trong suốt ca sinh nở”, Long nhớ lại, “nhưng lúc bấy giờ, mỗi khi cảm thấy mũi kim xuyên qua cơ thể, tôi lại kêu gào lên trong đau đớn. Cả phòng đều nghe tiếng gào của tôi. Những phụ nữ khác tỏ ra rất lo lắng và hồi hộp. Tôi cảm thấy mũi kim xuyên qua thịt da, sau đó là sợi chỉ, cứ thế, lặp đi lặp lại. Sau chừng hai chục phút, với mười mũi kim xuyên qua, các y tá bảo tôi rằng cần phải khâu lại vì các mũi khâu kia đã sai”.
Ca phẫu thuật này là nhằm khâu lại vết rách ở môi bé và môi lớn nằm về cả hai phía âm đạo. Nhưng do thiếu ánh sáng, các y tá đã khâu môi lớn bên trái với môi bé bên phải âm đạo lại với nhau. Do đó, cần phải rút chỉ ra, điều này khiến vết thương ra máu nhiều hơn. Sau khi rút hết chỉ khâu, hai y tá bắt đầu lại công việc.
Điều kiện ở đó hoàn toàn bất lợi cho phẫu thuật. Thiếu thốc tê, ánh sáng, thời tiết giá lạnh, còi báo động rúc lên từng chặp và tiếng loa phóng thanh liên hồi thông báo về cự ly máy bay ném bom đang tiến về thành phố - tất cả những thứ này khiến cho một ca tiểu phẫu đơn giản trở nên cực kỳ phức tạp.
Khi tiến trình tái phẫu bắt đầu, Long lại liên hồi thét lên trong đau đớn. Sau hơn hai mươi mũi kim nữa, các y tá cuối cùng thông báo ca phẫu thuật đã kết thúc thành công. Tuy nhiên, sau đó các biến chứng đã phát sinh nhanh chóng. Quanh các vết rách đã xuất hiện sưng tấy. Để ngăn ngừa nhiễm trùng, một y tá đã dùng khăn nhúng nước sôi, vắt khô rồi áp vào. Nước quá nóng nên người ta phải dùng kẹp để gắp khăn ra. Nữ y tá tiếp tục dùng khăn nhúng nước nóng áp lên khu vực sưng tấy nơi âm hộ. Mỗi lần như thế là bệnh nhân lại gào lên vì đau đớn.
“Cách làm này thậm chí còn gây đau đớn hơn cả việc phẫu thuật khâu vết rách”, Long cho biết.
Phẫu thuật xong, cô được chuyển tới nằm nghỉ trên bàn.
“Lúc bấy giờ tôi mệt lả, nghĩ rằng có thể nằm nghỉ ở đây một lúc. Nhưng ngay sau đó thì còi báo động lại nổi lên và tôi được chuyển xuống hầm. Bình thường, tôi có thể được nằm dưỡng sức ở trên mặt đất – nhưng cuộc tấn công sắp xảy ra đã khước từ của tôi tiện nghi giản dị đó”.
Người ta đã đào một hệ thống hầm ngầm ngay dưới bệnh xá phụ sản để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Một cái lỗ được khoét ngay trên sàn nhà làm cửa ra vào, vị trí lỗ nằm góc phòng. Người ta khoét vào lòng đất để làm bậc tam cấp. Cửa chỉ cho phép một người chui qua mỗi lần. Nhờ ánh đèn lờ mờ từ căn phòng phía trên hắt xuống, Long cố sức tự đi xuống hầm. Mỗi bước đi là một trải nghiệm đau đớn, dư âm của ca phẫu thuật ban nãy.
“Để tránh hai đùi cọ xát vào nhau, tôi dạng hai chân bước đi như con gấu”, Long nhớ lại.
Các bậc tam cấp dẫn xuống độ sâu chừng 1,5 mét. Khi xuống tới bên dưới, Long thấy mình đang đứng trong một “hầm cóc” hở. Từ giữa hầm, cô thấy bốn hầm chui tỏa ra theo bốn hướng – đủ dài cho một người chui vào. Miệng mỗi hầm cao chừng tám tấc, nằm cách sàn hầm chính một khoảng cách ngang đầu gối. Kiểu hầm này rõ ràng đóng chức năng như một phòng sinh trong trường hợp có máy bay ném bom. Các hầm được bố trí cho phép y tá ở ngay giữa tâm hầm cóc có thể xoay quanh 360 độ để chăm sóc cho bất cứ ai trong bốn thai phụ đang lâm bồn xung quanh.
Loại hầm này được thiết kế để mang những sinh linh bé bỏng vào đời trong điều kiện cực kỳ khắc nghiệt, nhưng Long lại có cái nhìn khác.
“Ở đó rất lạnh”, cô nói. “Trong hầm rất thiếu ôxy. Bốn hầm khoét xung quanh gợi cho tôi liên tưởng tới cái chết nhiều hơn là sự sống. Mỗi hầm giống như một quan tài chứ không phải phòng sinh”.
Trước khi chui vào hốc của mình, Long thấy hai trong số ba hốc xung quanh đều đã có người. Một sản phụ, cũng vừa sinh xong trong ngày, đang nằm dưỡng sức ở một hốc; hốc còn lại là bốn trẻ sơ sinh quấn chăn nằm ngủ chung trong một cái hộp, trong đó có con trai của cô. Lúc 9 giờ 45 tối, Long đã nằm gọn trong hốc của mình, mắt nhìn lên trần bằng đất chỉ cách mặt cô vài phân.
“Tôi nằm xuống và lắng im nghe ngóng”, cô kể. “Tôi nghe tiếng bom rơi và đất rung lên. Bụi và đá sỏi rơi đầy mặt. Tôi sợ rằng đất sẽ sụp xuống, vùi lấp tôi và con. Ngột ngạt và cực kỳ khó chịu. Lưng đau, âm hộ đau, chân tê cóng đi vì giá rét, tôi nằm trên tấm chiếu mỏng trải lên nền đất cứng. Ở đó rất ẩm ướt. Tôi chẳng thể ngủ được. Tôi gần như mê man. Thỉnh thoảng y tá lại đến để kiểm tra tình hình. Con trai tôi bắt đầu gào khóc như còi báo động. Trận ném bom đêm ấy là khủng khiếp nhất tại Hà Nội từ trước tới nay. Đó cũng là đêm kinh hoàng nhất trong cuộc đời tôi”.
Dù bom ngưng vào lúc chừng 11 giờ 30 tối, Long vẫn chưa được rời hầm. Cô phải ở đấy tới 7 giờ sáng hôm sau, giấc ngủ cứ chập chờn. Buổi sáng, cô được đưa lên mặt đất và đặt trên giường. Do vẫn còn đau đớn nên cô phải ở lại bệnh viện hai ngày hai đêm nữa.
Trong thời gian nằm viện còn lại, Long tiếp tục nghe còi báo động thường xuyên. Mỗi khi còi rúc lên, cô lập tức bồng con và đi kiểu chân gấu một cách thuần thục xuống hầm trú ẩn. Quy định của bệnh viện là những sản phụ như Long phải lưu lại ít nhất bốn ngày. Nhưng không thể chịu được điều kiện tại đây, chỉ sau hai ngày, cô đã ký giấy cam đoan xuất viện. Sau đó cô nhắn chồng tới đưa về.
Người chồng từng dùng xe đạp để chở bà vợ mang thai tới bệnh viện, nhưng sau khi gia đình có thêm một thành viên nữa thì cần phải có một phương tiện chuyên chở khác. Anh kiếm một chiếc xích lô đạp tới bệnh viện. (Xích lô là loại xe chở thuê phổ biến ở Việt Nam. Đó là loại phương tiện lai giữa xe đạp và xe ba gác, có một ghế ngồi kiểu xe ba gác, với hai bánh trước và phía sau là một nửa chiếc xe đạp. Người lái ngồi trên yên xe, ngay đằng sau ghế ba gác, để đạp và điều khiển xe).
Những sự kiện đêm đó đã hằn nhiều vết sẹo lên cơ thể và tâm hồn của Long cùng đứa con trai. Phải mất sáu năm sau Long mới nguôi ngoai cảm giác đau đớn, tâm lý lo sợ mà cô đã trải qua trong cái đêm tháng 12 năm đó, cũng như cô mới đủ can đảm để có đứa con thứ hai.
Đối với cậu con trai, Quân, vấn đề còn trầm trọng hơn. Thực tế khắc nghiệt của một đất nước chịu chiến tranh đã giáng lên đầu cậu ngay lúc vừa chào đời. Tiếng hét của cậu đêm ấy và những đêm sau nữa trong chuỗi sự kiện ném bom dịp Giáng sinh cùng với tiếng còi báo động rúc liên hồi đã khiến người ta đặt cho cậu biệt danh Quân “còi”. Mãi tới tuổi thanh niên, Quân vẫn còn bị hội chứng mộng du, mất ngủ và lo âu. Những âm thanh bất ngờ và lớn dễ dàng khiến cậu hồi hộp. Tới hôm nay, cậu vẫn còn sợ những nơi lạnh và tối.
Có lẽ trẻ em chính là những người hứng chịu nhiều hậu quả nhất trong chiến tranh.
Trần Công Tấn, một nhà báo làm việc cho Hà Nội, đã chứng kiến rất nhiều thảm kịch trong cuộc xung đột Việt Nam.
Với Tấn, khía cạnh kinh khiếp nhất của cuộc chiến đó chính là việc phải chứng kiến tác động của nó giáng lên đầu trẻ em. “Nó buộc trẻ em phải lớn thật nhanh”, ông đúc kết. “Nó khiến một đứa trẻ từ lúc còn rất nhỏ phải học bài học thực tiễn về sự sống và cái chết”.
“Tháng 12 năm 1972, Hà Nội – đặc biệt là phố Khâm Thiên ở trung tâm thành phố - đã hứng chịu mười hai ngày dội bom. Trẻ con phải nấp dưới hầm bên cạnh người giám hộ. Có lần, khi bom tạm lắng và một nhóm người trông trẻ sợ rằng đợt bom kế tiếp sẽ rơi gần nơi mình ẩn nấp nên đã quyết định chuyển trẻ con tới một địa điểm an toàn hơn.
Có cô giữ trẻ đã đặt một bé gái một tuổi xuống đất để chạy tới giúp đỡ nạn nhân bị thương. Cách đó vài thước, xác chết nằm la liệt – đó là tất cả những nạn nhân của đợt bom vừa qua sắp được chuyển tới nơi quy tập.
Đứa bé bò qua các thi thể. Có lẽ nghĩ đó là những người đang ngủ, nó dùng tay lay lay một xác chết. Không thể đánh thức người kia, đứa bé rụt tay lại – và lúc này hai tay bé đầy máu. Trông thấy đứa trẻ đã bò đi xa, cô phụ trách chạy tới bế nó lên. Khi đó, đứa bé giơ hai bàn tay của mình về phía cô giữ trẻ. Đó là một đứa trẻ còn quá nhỏ, và nhìn khuôn mặt bé có thể thấy được tất cả. ‘Liệu nó có hiểu được những điều đang xảy ra xung quanh, làm sao có thể giải thích cho bé?’ ” – Tấn trầm ngâm.
o O o
Theo hồ sơ của chính quyền Hà Nội, đợt dội bom ở phố Khâm Thiên đã giết chết 283 thường dân, 55 trong số đó là trẻ em. Bên cạnh đó là 266 dân thường bị thương, bao gồm 31 trẻ nhỏ. Tổng cộng có 178 trẻ mồ côi. Cái chết của rất nhiều sinh linh bé nhỏ đã được ghi lại bằng phim ảnh trong hệ thống lưu trữ của Hà Nội. Một trong những bằng chứng đau lòng nhất là đoạn phim được thực hiện ngay sau trận ném bom phố Khâm Thiên.
Đoạn phim đặc tả sự tàn phá khủng khiếp của đợt không kích. Phố Khâm Thiên chỉ còn sót lại vài ngôi nhà. Dinh thự bị nghiền nát. Khi máy quay đang tố cáo sự tàn phá, mắt người xem chợt dừng lại trước một cảnh tượng thảm khốc.
Nhô ra dưới đống gạch đổ là phần thân trên của một em bé. Một cậu trai chừng chín tuổi bị đống đổ nát đè bẹp cả cơ thể bất động.
Đôi tay cậu mở rộng ra, có vẻ như đang ôm vật gì đó vào thời điểm trước khi chết. Khi máy quay tiếp tục lướt qua, người ta đã biết được cậu bé đang cố làm gì vào thời khắc cuối cùng trong cuộc đời ngắn ngủi ấy. Trên mặt đất, cách đôi tay cậu bé chừng nửa mét là một chiếc lồng chim bị dập nát. Trong khi các khối bê tông đổ xuống đã giết chết cậu bé, thì hai con chim yến nhỏ vẫn còn sống trong khoảng lồng còn lại.
Nỗ lực cuối cùng của cậu bé là một hành động của yêu thương – cố sức cứu sống hai chú chim yến nhỏ.
Bên cạnh thương vong, tổn thất về tài sản cũng rất lớn. Các hồ sơ ghi nhận 533 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn và 1.200 ngôi nhà hư hại nặng.
Cư dân phố Khâm Thiên khẳng định không có một mục tiêu quân sự đáng kể nào tại khu vực này trong thời điểm ném bom – mục tiêu khả dĩ gần nhất đó là nhà ga xe lửa cách đấy hơn 200 mét. Nhưng ngày cả nhà ga ấy cũng đã bị bom phá hủy năm ngày trước đó rồi.
Sau bao mất mát ấy, rất nhiều người dân Khâm Thiên sống sót đã tha thứ cho những phi công Mỹ thực hiện cuộc ném bom. Họ không tin rằng bi kịch của họ là kết quả của một hành động chủ ý từ những kẻ tấn công mà là, như một nạn nhân đã diễn tả giản dị, “đó là một tai nạn không may trong một cuộc chiến không may”.
Chân Trần, Chí Thép Chân Trần, Chí Thép - James G. Zumwalt Chân Trần, Chí Thép