Để leo dốc cao, cần chầm chậm trước tiên.

Shakespeare

 
 
 
 
 
Tác giả: David Gilmour
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 17
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2469 / 49
Cập nhật: 2015-08-24 18:21:20 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
esse có một cô bạn gái, Claire Brinkman. Đó là một cô bé rất đáng yêu có khuôn mặt tàn nhang, luôn lạc quan, vui vẻ, yêu cha mẹ mình, thích đi học, là chủ tịch câu lạc bộ nhạc cổ điển, biểu diễn tại nhà hát không chuyên, chơi khúc côn cầu, lượn quanh thành phố trên đôi giầy pa-tanh. Tôi lo con bé có thể đã tự loại mình khỏi tâm trí của Jesse. Bởi khó mà đối chọi lại một con người ma quái như Rebecca Ng, chuyên phá phách nhà người khác vào buổi đêm như một con yêu tinh.
Tháng Sáu năm ấy chúng tôi đi Cuba, ba người, gồm Maggie, Jesse và tôi. Một cặp vợ chồng đã ly dị cùng tham gia kỳ nghỉ với đứa con trai yêu quý của mình. Tina, người duy nhất trong gia đình phải làm việc thường xuyên, đã ở lại nhà của Maggie. Người ngoài hoặc những người bạn không có lòng vị tha cảm thấy kỳ nghỉ gia đình này chắc chắn nghe rất kỳ cục, nhưng Tina hiểu điều đó, hiểu rằng cái thời tôi và Maggie lẻn lên giường của nhau đã qua lâu rồi. Mặc dù vậy, việc cô ấy ở nhà vợ cũ của tôi khi chúng tôi thoải mái đi Caribê cũng thật là kỳ lạ.
Đó là một quyết định được đưa ra vào phút cuối. Ngay khi tôi đã từ bỏ chuyện con người ma quái kia, khi tôi dành vài phút mỗi sáng để đạp bàn, đạp ghế một cách bất lực và thỏ thẻ với Tina về nỗi khổ thất nghiệp của mình (công việc ở kênh phim tài liệu đã hoàn toàn đi tong), tôi nhận được một tin nhắn từ máy trả lời tự động. Đó là tin nhắn của một người Nam Phi tên Derek H., bụng phệ, mặt tròn, thái độ rất thất thường. Anh ta đang sản xuất một bộ phim tài liệu dài tập về Viagra và muốn hỏi xem liệu tôi có hứng thú tham gia vào “mặt trận” này không. 15 nghìn đô-la, ngao du tới Philadelphia và New York với một vài tuần ở Bangkok, nơi mà theo Derek, những gã ở tuổi xế chiều thường “tự sướng cho tới lúc chết”, theo đúng nghĩa đen.
Chúng tôi đã “có một buổi họp mặt,” tôi đi gặp các thành viên trong nhóm, chọn một khách sạn bên bờ sông ở Bangkok, và thảo luận về thời gian biểu. Lúc đó là đầu tháng Bảy. Tối hôm đó, tôi đi uống rượu và say bí tỉ, lê lết, và mơ tưởng đến chuyện Jesse, mẹ nó và tôi đi nghỉ ở Cuba.
Vào ngày chúng tôi khởi hành, con bé Claire Brinkman đã đến bằng đôi giày trượt pa-tanh để nói lời chào tạm biệt chúng tôi. Đôi mắt đỏ hoe của con bé khiến tôi lo lắng.
Chúng tôi đặt hai phòng hạng sang tại khách sạn Parque Central ở thành phố Old Havana. Nơi đấy có bể bơi trên tầng thượng, áo choàng tắm rộng rãi trong tủ, và tiệc kiểu La Mã cổ vào mỗi buổi sáng. Khoản chi này khiến Maggie lo lắng - cô ấy là một phụ nữ thôn quê, luôn thấp thỏm mỗi khi cuộc gọi đường dài lên tới quá một phút - nhưng tôi đã cố nài nỉ. Hơn nữa, vợ chồng tôi liệu có còn được mấy chuyến du lịch bên đứa con trai của mình? Còn bao lâu nữa nó muốn đi du lịch cùng cha mẹ?
Chuyện xảy ra vào đêm thứ ba chúng tôi ở đấy. Chiều hôm đó tôi đưa Jesse đến Bảo tàng Cách mạng, xem con thuyền mà Castro và 80 nhà cách mạng đã dùng để bí mật trở lại Cuba, xem ảnh của Che Guevara quá cố, ăn bữa tối túy lúy trên một ban công nhà riêng nhìn xuống khu phố Prado; ba người chúng tôi lảo đảo bước xuống Calle Obispo để uống cocktail mojito trước khi đi ngủ, một ban nhạc đang đàn hát trong căn phòng vuông vức tồi tàn; sau đó chúng tôi quay lại khách sạn, mắt tôi dần khép lại vì hơi nóng và rượu. Lúc đó đã gần ba giờ sáng, Maggie về phòng của cô ấy. Jesse và tôi ngồi xem tivi một lát. Và sau đó đã đến giờ đi ngủ.
Nó cất tiếng hỏi: “Con có thể vẫn xem tivi và bật tiếng nhỏ đi được không ạ?”
Tôi nói: “Thế sao con không đọc một cuốn sách nào đó đi?"
Chúng tôi tắt đèn; tôi có thể cảm nhận được nó nằm đó, thao thức, không ngủ được. Cuối cùng, tôi bật đèn lên. “Jesse!”
Nó không sao ngủ được. Nó quá háo hức. Liệu tôi có thể cho nó ra ngoài hút một điếu thuốc không? Ở ngay gần đây, chỉ ở phía bên kia đường thôi, ở băng ghế cạnh công viên ấy? Bố có thể nhìn thấy chỗ đó từ đây mà. Cuối cùng tôi cũng đồng ý.
Nó nhanh chóng mặc quần áo và vội vàng đi ra ngoài. Tôi nằm đó thêm vài phút nữa, cứ bật đèn lên rồi lại tắt đi. Rồi bật dậy, đi ra phía cửa sổ và mở toang cửa ra. Chiếc điều hòa trong phòng ngừng chạy. Căn phòng trở nên yên tĩnh. Đột nhiên, tôi có thể nghe rõ ràng mọi thứ, tiếng những con ve sầu, một vài giọng nói Tây Ban Nha, một chiếc xe ô tô đang đi rề rề bên đường. Một chiếc xe đẩy quần áo dọn phòng đi qua hành lang ngay phía ngoài cửa phòng tôi, tiếng cốc va vào nhau leng keng.
Tôi đứng bên cửa sổ, nhìn ra khu công viên tối tăm. Có những hình bóng di chuyển trong đêm tối. Những cô gái làng chơi đi bộ chầm chậm dưới những tán cây và hút thuốc cạnh bức tượng. Xa xa sau đó là mái vòm của Bảo tàng Cách mạng.
Jesse bước vào tầm mắt của tôi trên vỉa hè phía dưới, quần thùng thình, mũ lưỡi trai xoay ngược lại. Nó châm một điếu thuốc, nhìn xung quanh (tôi bắt gặp bộ mặt trong gương của nó), và bắt đầu băng qua đường đến chiếc ghế băng công viên. Khi tôi sắp gọi bảo nó phải cẩn thận thì một người đàn ông da ngăm ngăm mặc áo vàng bước ra từ bóng tối. Hắn ta đi thẳng tới chỗ Jesse, tay giơ ra. Tôi đợi xem Jesse có bắt tay hắn không, và nó đã làm thế. Sai lầm. Hai người Cuba nữa xuất hiện, mỉm cười và gật gù, đứng quá gần với nó, và chỉ lên đầu phố. Thật đáng ngạc nhiên (tôi không thể tin nổi mắt mình), là bọn họ đã đi khỏi, ngang qua mặt Jesse.
Toi mặc quần áo vào và bấm thang máy xuống dưới đại sảnh khách sạn. Một căn phòng rộng rãi, trần cao, sàn nhà lát đá cẩm thạch, lạnh lẽo như một chiếc sân trượt băng, đĩa nhạc đang được bật, một vài anh chàng bảo vệ diện những bộ đồng phục màu xám, tay cầm bộ đàm đứng trước cửa ra vào. Họ cất lời chào và tranh nhau mở cửa cho tôi. Không khí nóng nực bên ngoài phả vào người tôi.
Tôi băng qua đường và bước vào công viên. Một cô gái làng chơi để ý đến tôi. Cô ta loạng choạng đứng dậy và lượn lờ đến chỗ tôi. Tôi nói không, cảm ơn, và đi qua công viên, mắt liếc xung quanh tìm Jesse. Chắc nó đã rẽ sang ngõ hẻm nào đó với những ông bạn mới. Nhưng ngõ nào cơ chứ?
Tôi đi sang phía đông của công viên, gần những chiếc xe taxi và những chiếc xe ba bánh coco khi tôi để ý thấy qua lùm cây cối một con phố đi dọc qua nhà hát lớn của thành phố. Có ánh đèn rất sáng ở cuối đường. Tôi đi xuống khu phố đó cho đến khi tới trước một quán bar ngoài trời. Cả quán vắng tanh, ngoại trừ Jesse đang uống bia, với ba kẻ làm tiền ngồi cùng bàn với nó. Vẻ mặt nó hơi lo lắng như thể phát hiện ra có gì đó không ổn. Tôi bước qua bên đó. “Bố nói chuyện vói con một lúc được không?”
Tên áo vàng nói: “Ông là bố nó?”
“Đúng thế.”
Tôi nói với Jesse: “Bố phải nói chuyện với con.”
“Vâng, được rồi ạ,” nó nói và đứng dậy. Tên áo vàng đi theo nó ra ngoài phố, lượn lờ xung quanh, cố nghe lỏm. Tôi nói: “Mấy gã này không phải bạn của con.”
“Con chỉ đang uống bia thôi mà.”
Tôi nói: “Rồi con sẽ phải trả giá đắt hơn là một cốc bia đấy. Con đã mua gì của chúng chưa?”
“Chưa ạ.”
Tên chủ quán bước ra từ quầy bar, một gã béo và lùn, khá điềm đạm. Hắn không hề tỏ vẻ ngạc nhiên về chuyện này. Hắn bước qua chỗ Jesse và nắm tay áo nó.
Tôi nói: “Ông làm cái gì đấy?”
Hắn không trả lời. Hắn tiếp tục quay lại quầy bar, vẫn nắm chặt áo Jesse. Tôi bắt đầu cảm thấy tim mình đập loạn nhịp. Chuẩn bị có chuyện rồi. Chết tiệt, chuẩn bị có chuyện thật rồi.
Tôi bảo hắn bằng tiếng Tây Ban Nha: “Nó phải trả ông bao nhiêu tiền?”
Lúc đó, hắn đã kéo Jesse vào đến quầy bar. Hắn nói: “10 đô-la.”
Tôi nói: “Một chai bia mà đắt thế.”
“Giá nó như thế.”
“Đây” tôi nói và đặt một tờ năm đô-la Mỹ xuống bàn. “Đi thôi.”
Nhưng tên chủ quán nói: “Nó đã gọi một cốc rượu rum. Tôi đã pha rồi.”
Tôi nói: “Ý ông là ông đã rót rồi à?”
“Đại loại thế.”
Tôi nói với Jesse: “Con đã chạm vào cốc rượu chưa?” Jesse lắc đầu, tỏ vẻ sợ sệt.
Tôi nói: “Đi theo bố,” và chúng tôi bắt đầu đi ngược lên phố. Mấy gã côn đồ bắt đầu bám theo chúng tôi. Một trong số chúng vòng lên và đứng trước mặt tôi. Hắn nói: “Nó đã gọi đồ uống rồi. Bây giờ nó phải trả tiền.”
Tôi cố bước vòng qua nhưng hắn chặn ngay trước mặt tôi.
Tôi nói: “Tôi sẽ gọi cảnh sát.”
Tên côn đồ nói: “Được thôi.” Nhưng hắn bước lùi lại.
Chúng tôi tiếp tục đi, tên côn đồ vẫn lượn lờ xung quanh, kéo tay áo tôi, lũ bạn hắn theo sau, tôi nói với Jesse: “Bất kể chuyện gi xảy ra thì cứ đi tiếp đấy.” Chúng tôi đi qua công viên, gần như đang chạy, Jesse theo sát tôi và khi chúng tôi thấy cửa khách sạn, tôi nói: “Chạy đi.”
Chúng tôi chạy qua phố, qua mặt tiền và vào lối cửa đi buổi tối. Nhưng chúng vẫn bám theo chúng tôi vào đến sảnh. Vẫn tiếp tục di chuyển, tôi nói với tên áo vàng: “Tốt nhất là mày nên cút khỏi đây đi.” Nhưng hắn vẫn không sợ. Cửa thang máy mở ra; hắn cố chui vào với tôi và Jesse, lũ bạn hắn đợi dưới sảnh.
Bảo vệ xông ra bất thình lình. Dưới sảnh bắt đầu xảy ra một vụ cãi lộn bằng tiếng Tây Ban Nha và cánh cửa thang máy đóng lại. Chúng tôi lên tầng bốn, Jesse không nói năng gì cả, nhìn tôi đầy lo lắng. Nó nghĩ là tôi rất giận, tôi cũng hơi hơi giận, nhưng chính lúc đó tôi lại đang cảm thấy rất hãnh diện. Nghe có vẻ rất ủy mị, nhưng giống như tôi đã cưỡi ngựa đến cứu nó. Phục vụ nó tận tình, bảo vệ nó, hoàn thành nghĩa vụ của tôi. Thực ra tôi cảm thấy một niềm hạnh phúc thầm kín vì mọi việc đã kết thúc ổn thỏa. Ở tuổi này người ta thường không thể làm nhiều như thế cho con cái mình; bạn chỉ có từng ấy năng lực thôi và không có mấy cơ hội để sử dụng nó.
Chúng tôi quá phấn khích đến nỗi không thể ngủ hay xem tivi được. Thật ra tôi đang rất đang thèm đồ uống. “Có lẽ chúng ta nên đi uống bia,” tôi nói.
Chúng tôi chờ đợi khoảng 10 hay 15 phút gì đó và liếc nhìn trộm ra phía cửa khách sạn; không hề có bóng dáng của tên áo vàng đâu cả. Chúng tôi vội vàng đi dọc công viên, qua khu thương mại rồi tới Calle Obispo và đi thẳng con đường nhỏ hẹp hướng ra biển.
Thành phố cũ kỹ lơ lửng trên một quả bóng nóng nực, tĩnh mịch. Tôi nói với nó khi hai cha con bước qua quán bar El Floridita tói tăm: “Đây là nơi Ernest Hemingway đã từng ngồi uống. Bây giờ thì nơi này là cái bẫy du lịch, giá một cốc bia những 10 đô-la, nhưng vào những năm 1950, đây được xem là một trong những quán bar được nhất trong thành phố này.”
Chúng tôi đi qua một vài hàng cà phê đã khóa cửa, những chỗ mà mới cách đây vài giờ vẫn còn ồn ào tiếng nói chuyện, tiếng ghi ta và khói xì gà. Sau đó là một cửa hàng thuốc cũ kĩ, gỗ đen, những chiếc bình gốm xếp thành hàng chồng lên nhau dọc theo bức tường phía sau.
Sau đó chúng tôi đứng trước khách sạn cũ của Hemingway, khách sạn Ambos Mundos, ở cuối phố. “Ông ấy đã viết một vài tác phẩm dở nhất của mình trên tầng năm đấy,” tôi nói.
“Truyện của ông ấy có đáng đọc không bố?”, Jesse hỏi.
“Con nghĩ cái quái gì lúc nãy thế, Jesse?” tôi hỏi. “Tự nhiên lại đi với một lũ du côn như thế hả?”
Nó không trả lời. Tôi có thể thấy nó đang luống cuống đối phó với câu hỏi của tôi.
“Nói cho bố nghe xem nào,” tôi nói nhẹ nhàng.
“Con nghĩ con đang có một cuộc phiêu lưu. Hút thuốc và uống rượu mạnh ở một thành phố nước ngoài. Bố hiểu không?”
“Con không cảm thấy có điều gì đó kỳ lạ à, lũ đó thân thiện đến mức vào ba giờ sáng sao?”
“Con không muốn làm tổn thương họ,” nó nói. (Tôi nghĩ nó còn quá trẻ. Người cao ráo, ăn nói rảo hoạt. Những điều ấy có thể khiến bạn nhầm tưởng là nó đã trưởng thành.)
“Chúng nó quen với việc làm người khác thấy tội lỗi rồi. Chúng làm thế cả ngày. Việc của chúng mà.”
Chúng tôi đi dọc phố thêm một lúc nữa. Những chiếc đèn vàng trên đầu, lan can nhìn xuống dưới, quần áo treo trên dây tĩnh lặng, như có người đang chờ đợi. “Nếu con định đọc Hemingway,” tôi nói: “đọc truyện The Sun Also Rises (Mặt trời cũng mọc) ấy. Một vài truyện ngắn của ông ấy nữa. Số còn lại hơi có vấn đề.” Tôi nhìn quanh. Bạn có thể ngửi thấy mùi của những căn nhà đang mục rữa, nghe tiếng biển vỗ bờ ở phía bên kia bến tàu Avenida del Puerto. Nhưng không có quán bar nào cả. “Người ta nói bạn có thể kiếm được bất cứ cái gì vào bất cứ giờ nào ở Havana,” tôi nói: “nhưng hiển nhiên là không phải thế.”
Bên trong khách sạn Ambos Mundos, người ta có thể thấy người phục vụ ca đêm đang nói chuyện với một cô gái xinh đẹp.
Chúng tôi đi theo con đường chật hẹp rải sỏi ở phía đông, những tòa nhà đổ nát mọc lên ở hai bên đường, những cây nho leo dọc từ trên xuống, ánh trăng sáng vằng vặc ở trên đầu; bầu trời không có sao, chỉ có một chấm sáng lẻ loi giữa màn đêm mù mịt. Lúc này trời đã nửa đêm về sáng. Chúng tôi đi vào quảng trường, một đầu là nhà thờ cổ kính, đầu phía bên kia là một quán cà phê sáng đèn, có ba hay bốn chiếc bàn được đặt giữa quảng trường. Chúng tôi ngồi xuống đó. Một anh chàng phục vụ diện áo trắng thảnh thơi bước ra từ chỗ ánh đèn và tiến lại gần chỗ chúng tôi.
“Chào bai quý ông”, (bằng tiếng Tây Ban Nha)
“Cho chúng tôi hai chai bia.”
Và sau đó là hai chai bia mát lạnh vào bốn giờ sáng.
“Con xin lỗi về chuyện ở khách sạn,” Jesse nói.
“Có một số quy luật của vạn vật không được xâm phạm,” tôi nói: đột nhiên trở nên thích tán gẫu (tôi rất vui mừng vì được như thế này với Jesse). “Một là con không bao giờ nên mua bất cứ thứ gi đáng mua từ một tên khốn. Hai là khi một người lạ mặc đến trước mặt con và đưa tay ra để bắt tay, hắn không muốn làm bạn của con. Con có hiểu bố nói không?”
Cứ như một vị thần đèn khát nước đến ngồi cùng chúng tôi, bia đã biến mất khỏi chai. “Có khi mình nên uống thêm nhỉ?”, tôi nói. Tôi giơ hai ngón tay lên với người phục vụ và xoay quanh không khí. Anh ta bước đến.
“Làm thế nào anh giữ bia được lạnh thế?” tôi hỏi. Tôi đang rất vui vẻ.
“Sao cơ thưa ông?”
“Không sao, không có gì quan trọng đâu.”
Một chú chim hót líu lo trên ngọn cây bên cạnh.
“Con đầu tiên của ngày hôm nay,” tôi nói. Tôi nhìn Jesse. “Mọi chuyện với Claire Brinkman vẫn ổn chứ?” Nó ngồi nghiêng về phía trước, mặt sạm lại. “Không phải việc của bố,” tôi nói nhẹ. “Bố chỉ buôn chuyện thôi.”
“Sao ạ?”
“Cô bé trông hơi đãng trí lúc mình bắt đầu rời đi, thế thôi.”
Nó uống một ngụm bia lớn. Trong một giây tôi thấy trong cử chỉ đó của nó là cách nó uống với bạn bè. “Con nói thẳng với bố được không?”
“Trong khuôn khổ thôi. Không nói chuyện ghê gớm.”
“Claire hơi lạ bố ạ.” Một cái gì đó lạnh lùng, một cái gì đó không tốt đẹp lắm thoáng hiện trên nét mặt nó.
“Con nên nhẹ nhàng với Claire hơn. Những gì con bé trải qua không dễ dàng lắm đâu.” Bố cô bé, một nghệ sĩ nặn tượng tôi biết từ những năm cấp ba, đã treo cổ tự vẫn bằng dây phơi quần áo từ mấy năm trước. Hơn nữa, ông ta là một tên nát rượu, một tên hay nói nhảm, một tên khốn. Loại người này luôn tự kết liễu đời mình mà không đoái hoài đến con cái họ, xem chúng sẽ đón nhận chuyện đó ra sao.
Jesse nói: “Con biết chuyện đó.”
“Vậy thì hãy đối xử dịu dàng với con bé.”
Lại một con chim khác bắt đầu hót, nó đậu ở ngay phía sau nhà thờ.
“Chỉ là con không thích cô ấy đến mức ấy. Đáng ra con nên thích cô ấy, nhưng thực tế thì không.”
“Có phải con đã làm điều gì sai trái không, Jesse? Nhìn con như vừa mới lấy trộm chiếc vòng cổ của bà ấy.”
“Không phải bố ạ.”
“Thật không công bằng khi con nóng giận với Claire chỉ bởi vì con không thích con bé đó đủ nhiều. Mặc dù bố hiểu rõ về sự lôi cuốn.”
“Đã bao giờ bố cảm thấy bị một người khác lôi cuốn chưa?”
“Đó là một điều đáng thất vọng.”
Tôi nghĩ đến đây là hết chuyện, nhưng dường như có một sợi dây mỏng cho phép kéo tất cả những thứ còn lại - bất kể là thứ gì - có thể tuột ra được. Lúc đó sự im lặng đã đến đúng lúc.
Tôi gọi với người phục vụ: “Anh còn xì gà không?”
“Có, thưa ngài.” Giọng nói của anh ta vang vọng giữa quảng trường vắng lặng. Anh ta lấy hai điếu xì gà ở trong chiếc lọ trên quầy hàng rồi mang qua chỗ chúng tôi. 10 đô-la một điếu. Nhưng bạn còn biết mua xì gà ở nơi nào nữa, vào giờ này buổi sáng?
Jesse nói: “Con đã từng gọi điện cho một cô gái khác.”
“Ừ.” Tôi cắn đầu một điếu xì gà và đưa cho nó. “Ai thế?”
Nó nói một cái tên mà tôi không nhận ra. Tôi nghĩ nó trông rất vụng trộm, không thật thà.
Một lát sau, chúng tôi nghe thấy tiếng đàn ghi ta nhẹ nhàng. Một người thanh niên trẻ ngồi trên những bậc thang của nhà thờ bên cạnh chiếc đàn ghi ta, nhẹ nhàng lướt những ngón tay trên các dây đàn. Trong ánh sáng xanh của buổi sớm, anh ta làm tôi nhớ đến bức họa của Picasso.
“Bố có tin được không?” Jesse nói. “Bố đã nhìn thấy thứ gì” - nó tìm kiếm câu chữ để nói - “thật hoàn hảo như thế chưa?”
Chúng tôi lặng lẽ hút xì gà một lúc, tiếng đàn vút cao trong không khí mùa hè êm đềm.
“Bố?”, nó bỗng nói.
“Ừ?”
“Người mà con từng gọi điện thoại là Rebecca.”
“Bố biết.” Im lặng. Tiếng hút thuốc bập bập. Chim hót. “Không phải cái người lúc nãy con nhắc đến đâu.”
“Con không muốn bố nghĩ con là một kẻ thua cuộc. Con không muốn bố nghĩ là con bị ám ảnh bởi Rebecca Ng.”
Bầu trời dần chuyển sang một màu xanh nhẹ nhàng hơn; trăng đang mờ đi; trong tiếng đàn, nó hỏi: “Con có bị Rebecca ám ảnh không nhỉ?”
“Chẳng có gì là sai khi bị ám ảnh vì một đứa con gái, Jesse ạ.”
“Bỗ đã từng bao giờ như thế chưa?”
‘'Xin con đừng bắt bố phải bắt đầu câu chuyện,” tôi nói.
“Con chưa nói với mẹ đâu. Mẹ sẽ bắt đầu khóc và nói về cảm xúc của Claire. Bố có bất ngờ không?”
“Bố có nghĩ thế không? Như thế có đúng không?” Ý tưởng đó khiến nó phấn khích và bỗng nhiên tôi cảm thấy sợ hãi, như thể tôi đang nhìn nó từ từ tăng tốc chiếc ô tô và đâm thẳng vào một bức tường xây bằng xi măng.
“Liệu bố có thể nói với con một điều không?”
“Tất nhiên rồi ạ.”
“Trong chuyện tình yêu, cái gì đến nhanh cũng sẽ đi nhanh thôi.”
Người phục vụ đi qua và thu lại vài chiếc ghế ở chiếc bàn cạnh chúng tôi và mang vào quán.
“Chúa ơi,” Jesse nói.
Cha, Con Và Những Thước Phim Cha, Con Và Những Thước Phim - David Gilmour Cha, Con Và Những Thước Phim