In reading, a lonely quiet concert is given to our minds; all our mental faculties will be present in this symphonic exaltation.

Stéphane Mallarmé

 
 
 
 
 
Tác giả: Hữu Mai
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3481 / 55
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:47 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
ờ Cát ngồi trầm ngâm trước chiếc bàn bọn lính đã lấy từ một nhà dân đem về căn hầm của hắn trong khi triệt hạ các làng bản ở đây.
Sớm hôm nay, bọn sĩ quan tại sở chỉ huy thấy hắn đến chỗ làm việc sớm hơn một chút. Vẫn với chiếc mũ chào mào đỏ như máu trên đầu, bộ quần áo nhà binh dã chiến sạch sẽ, đôi giày ngắn cổ kiểu thường dân nâu bóng, hắn rào bước khi đi ngang các cửa buồng. Tới bàn làm việc, hắn mở ngay tấm bản đồ Điện Biên Phù, rải rộng ra trước mặt, và dùng chiếc địa bàn để chỉnh lại đúng hướng rồi chăm chú xem xét.
Gần đây, người ta thấy hắn ít chú ý xem bản đồ. Tấm bản đồ này trước kia lúc nào cũng mở rộng để trên bàn hắn, đã được gấp lại đặt sang bên. Đúng ra là hắn ngại nhìn vào đó thì phải hơn. Sau hơn một tháng chiến đấu, khu vực đồn trú của "binh đoàn tác chiến tại Tây Bắc" của hắn, nằm rải ra trên suốt chiều dài của cánh đồng Mường Thanh, đã bị dồn hẹp lại đến mức làm hắn ngại phải nhìn vào bản đồ. Đây là sự co lại của "miếng da lừa". Vả lại, hắn đã thuộc lòng mấy chục cái vị trí mang tên những cô gái, của tập đoàn cứ điểm; con số vị trí hắn cần phải nhớ mỗi ngày một ít đi. Hắn có thể tự xóa tên lên những vị trí mới mất trên tấm bản đồ nằm ngay trong đầu hắn. Còn nếu để tìm hiểu trận địa của đối phương, thì tấm bản đồ này mặc dù mới được chụp từ trên máy bay, chẳng giúp ích được gì cho hắn. Hơn thế nữa, gần đây, hắn đã tìm được cách để tự giải phóng cho mình trong mọi chuyện rắc rối hàng ngày của cuộc đánh nhau ở đây...
Cuộc chiến đấu đã diễn ra khác hẳn với sự chờ đợi của hắn. Cho đến đầu tháng 3 năm 1954, hắn vẫn chưa tin là Việt Minh dám đánh vào tập đoàn cứ điểm. Đối phương đã có dịp được thử thách ở Nà Sản năm trước. Điện Biên Phủ mạnh gấp mấy lần Nữ Sản. Người Mỹ và người Pháp đã dặt ở đây một cái bẫy để chờ đón Việt Minh. Việt Minh tinh khôn chẳng dại gì lại dấn thân vào. Nếu đối phương cứ mù quáng mở cuộc tấn công, thì như mọi người đã nói, đó chỉ là một dịp may lớn cho quân đội Pháp mà thôi. Tám, chín năm nay, trên chiến trường Đông Dương, họ đã tốn công đi tìm một trận đánh dàn trận như thế này để quyết định số phận quân chủ lực của Việt Minh. Nhưng đối phương chỉ toàn lẩn tránh, và chỉ dám đánh vào những nơi quân đội Pháp sơ hở hoặc trong những lúc bất ngờ. Đối phương chưa bao giờ chịu đánh vào những nơi quân đội Pháp sẵn sàng chờ đón họ với những lực lượng lớn. Và riêng với hắn, nếu Việt Minh đánh vào Điện Biên Phủ, thì cũng là một dịp may cho hắn.
Đó là dịp tốt cho hắn lập công. Một tuần trước khi cuộc chiến đấu xảy ra, đại tướng tổng chỉ huy Na-va lại lên thăm Điện Biên Phủ. Đại tướng ngỏ ý muốn tăng cường thêm cho quân đội đồn trú ở đây ba tiểu đoàn để đặt trên khoảng cách năm cây số giữa Mường Thanh và Hồng Cúm. Hắn đã khước từ và khảng khái nói rằng: “Chúng tôi sẽ gặp gay go, nhưng chúng tôi sẽ giữ vững". Hắn thấy binh lực ở đây nhiều quá rồi, tập đoàn cứ điểm đã chật chội, chen chúc quá rồi, và nếu tăng thêm quân. Việt Minh đáng lẽ có thể đánh vào, sẽ vì đó mà từ bỏ cuộc tấn công thì sao?...
Chiều ngày mười ba tháng ba, những khẩu lựu pháo của Việt Minh như từ trên trời hiện ra, gieo rắc nỗi kinh hoàng khắp nơi. Cuộc chiến đấu đã đến một cách thực sự. Hắn điên đầu vì những hoạt động luôn luôn biến hóa của đối phương. Sau khi bị mất Bê-a-tơ-ri-xơ, Đờ Cát nhận thấy Việt Minh xung phong vào cứ điểm sau một đợt chuẩn bị bằng hỏa pháo thật dữ dội. Đêm hôm sau, khi trọng pháo của đối phương bắn vào Ga-bờ-ri-en, Đờ Cát bảo tên chỉ pháo binh cụt tay Pi-rốt cứ im lặng. Đến lúc đối phương ngừng bắn, hắn lập tức ra lệnh ngay cho pháo rập vào đầu những đường hào ta đào đến gần đồn để cản phá các đợt xung phong. Nhưng sau đó chúng nhận thấy chúng đã bắn vào chỗ không người. Chẳng có ma nào xung phong cả. Rồi lại đến loạt pháo thứ hai của đối phương nã vào đồn. Chúng yên trí lần này đối phương sẽ xung phong, chờ im tiếng pháo, lại bắn cản. Nhưng lần này vẫn chẳng thấy bóng Việt Minh nào xuất hiện. Rồi suốt đêm, pháo của đối phương cử thủng thỉnh bắn vào đồn phá những lô cốt, những hàng rào. Đến khi hắn yên trí đêm nay Việt Minh không đánh, thì bất thần những ống bộc phá liên tiếp nổ tung hàng rào, và những chiến sĩ xung kích cầm lưỡi lê, tiểu liên nhảy vào đồn... Tất cả những cuộc phản kích của hắn nhằm chiếm lại các cứ điểm bị mất đều thất bại... rồi những đường hào xuất hiện khắp nơi, như những sợi xích sắt đầy ngạnh xiết chặt dần quanh người hắn, mà hắn không biết tìm cách nào để gỡ ra.
Bốn ngày sau khi đối phương nổ súng, viên đại tá cụt tay chỉ huy pháo binh đã ập một quả lựu đạn vào mang tai để kết liễu đời hắn, vì hắn biết không thể thực hiện được lời hứa là sẽ "khóa mõm ngay những khẩu pháo của Việt Minh khi chúng xuất hiện". Thế là một người bạn rất nhiều tự tin, đã cùng hàn cam kết nhiều điều với cấp trên về cuộc chiến đấu ở đây, đã bỏ cuộc... Hắn rất đau đầu khi suy nghĩ phán đoán những quy luật đánh của đối phương và tìm cách nào để đối phó. Sự lo nghĩ, và những công việc quá độ đã khiến cho bệnh kiết lỵ kinh niên có dịp quay lại giày vò hắn.
Nhưng rồi Đờ Cát đã tìm được lối thoát ra khỏi tình hình đó. Hắn chia tất cả những vị trí còn lại của tập đoàn cứ điểm thành hai khu, và giao mỗi nơi cho một người chỉ huy. Khu Hồng Cúm vẫn do tên đại tá chỉ huy cũ ở đây phụ trách. Riêng khu trung tâm, thì phải chỉ định một người mới. Hắn đã tìm được tên trung tá chỉ huy các đơn vị nhảy dù Lăng-gơ-le. Hắn giao cho mỗi tên này, những quyền hạn khá rộng rãi, nếu không có lệnh của hắn thì cứ tự ý đối phó khi bị tấn công. Còn hắn, hắn là người chỉ huy cao nhất của binh đoàn đồn trú, hắn làm công việc chỉ huy chung, hắn sẽ ra lệnh khi cần có sự chiến đấu phối hợp giữa hai khu. Ngoài ra, hắn còn phải giữ liên hệ với Hà Nội. Sự phân công này chỉ làm cho các cấp dưới của hắn thêm nức lòng, nhất là tên trung tá Lăng-gơ-le chỉ huy mấy tiểu đoàn dù, bỗng trở thành người chỉ huy cả khu trung tâm gồm một vạn mấy ngàn quân. Muốn tỏ ra mình xửng đáng với cương vị mới, hễ một vị trí nào bị đánh, là tên trung tá lên xe jeep, bỏ mũ sắt để đầu trần, phóng tới nơi khích lệ binh sĩ.
Sự phân công mới này thoạt nhìn cũng hợp lý. Nhưng trong thực tế, Điện Biên Phủ lúc này bị ép lại thành hai khu lớn. Hai khu này từ sau ngày nổ súng đã hoàn toàn bị cắt rời khỏi nhau. Từ lâu, Đờ Cát không còn biết mặt mũi cái hòn đảo của hắn ở Hồng Cúm ra sao. Cũng trong khi đó, tám mươi phần trăm quân số của tập đoàn cứ điểm nằm tại trung tâm. Số phận của cả tập đoàn cứ điểm sẽ quyết định tại đây. Không trực tiếp nắm việc chỉ huy khu trung tâm, chỉ nhận phần chỉ huy khi có sự phối hợp tác chiến giữa hai khu đã hoàn toàn bị ngăn cách bởi quân ta, có nghĩa là Đờ Cát đã trút khéo mọi công việc vào vai cấp dưới, và không phải làm gì cả. Trong những ngày chiến đấu quyết hệt nhất của Điện Biên Phủ, hắn rất nhàn...
Hắn thường ngồi trầm tư trước bàn làm việc như thế này, không để ý đến những việc đang diễn ra chung quanh, khi thì gõ khe khẽ chiếc thước kẻ bằng nhựa trong suốt xuống mặt bàn, khi thì xoa đầu con chó con màu xám lốm đốm trắng. Có lúc hắn nghĩ đến trận đánh nhau với du kích Tiên Yên trên dường số 4, khi hắn còn chỉ huy đơn vị cơ giới, và nhận thấy riêng với hắn, trận đánh nho nhỏ đó còn đe dọa sinh mệnh hắn nhiều hơn là ở tại Điện Biên Phủ này. Có lúc hắn nhớ tới ngày đầu xuống đây thay tướng Gin, một ông cố đạo râu bạc trắng làm lễ ban phước lành cho hắn, và nhớ rõ cả cái cảm giác khó chịu khi nhìn thấy trong đám dân chúng quân lính Pháp dồn ra đón hắn, có những đứa bé cởi truồng. Có lúc hắn nhớ tới một ngày xa xưa hơn, năm 1934, hắn đã giật được giải quán quân thế giới về môn cưỡi ngựa nhảy cao tại nước Ý. Trò chơi này đã làm hắn bị gãy xương bảy lần nhưng cũng giúp hắn chinh phục được vô khối các cô nàng...
Đờ Cát cũng biết cách củng cố uy tín và địa vị của hắn trong lúc gần như chẳng làm gì tại đây. Hắn vốn không có nhiều hiểu biết gì khác ngoài chuyện chỉ huy về quân sự, và chuyện chơi ngựa. Hắn lại không phải là người nói năng hoạt bát... Nhưng hắn đã biết biến tất cả những cái đó, cái vốn tri thức nghèo nàn, cái đầu lưỡi kém dẻo, và cả bản thân sự trốn tránh công việc... thành cái trầm lặng, bình thản của một người chỉ huy. Với vẻ mặt trầm lặng gần như lạnh lùng, bộ quân phục dã chiến lúc nào cũng tề chỉnh, đôi giày thường dân luôn luôn bóng lộn, hắn tự phân biệt mình rất rõ với những tên chỉ huy khác đã bị chiến tranh vùi dập trở nên bẩn thỉu hôi hám, hay hốt hoảng ở chung quanh hắn. Hắn ít khi tỏ ra cáu giận trong lúc bọn chỉ huy bên dưới hễ bị động chạm tới là phát khùng lên, chực chửi nhau, đánh nhau. Đôi lúc hắn chơi một ván bài. Cách chơi bài của hắn cũng góp phần làm cho hắn trở nên một người anh hùng trước mặt binh lính. Một tên lính được ném từ trên trời xuống cái địa ngục Điện Biên Phủ. Trong đêm đen, hắn thấy những viên đạn lửa bay khắp nơi, tiếng súng máy gào bên tai, và tay hắn chạm vào một xác chết. Hắn tháo dù, bò lần đến trước một căn hầm. Khi bước vào, hắn thấy trước mắt hắn, dưới ánh đèn, Đờ Cát thản nhiên ngồi đánh bài, và đang nói với người ngồi trước mặt: "Cậu chơi con hai "tép" là hố rồi!”. Qua khung cảnh đó, tên lính nhảy dù khốn khổ đã nhìn thấy ở người chỉ huy của mình một vị thiên thần.
Hắn lại có những động tác riêng đối với những người đặc biệt cần cho hắn và cũng đặc biệt hiểu rõ những công việc chỉ huy nghèo nàn của hắn ở đây, nhưng tên chỉ huy phó Lăng-gơ-le và tên thiếu tá chỉ huy phản kích Bi-gia. Sau những buổi hội ý sĩ quan, khi mọi người ra về, hắn bảo một trong hai tên này ngồi nán lại, như hắn có điều gì cơ mật cần trao đổi riêng. Khi còn mình hắn với viên sĩ quan, hắn đi lại góc hầm, thò tay vào trong hốc, rút ra một chai rượu Cô-nhắc hảo hạng, rót một ca đầy, rồi im lặng đặt trước mặt người đang băn khoăn không hiểu chỉ huy trưởng bảo mình nán lại làm gì, với một nụ cười thân mật. Hành động nho nhỏ này của Đờ Cát chinh phục bọn dưới quyền đắc lực hơn tất cả các kiểu bộc lộ tài năng mất nhiều thời giờ trong khi thảo luận tranh cãi về công việc.
Ở Điện Biên Phủ có một người đàn bà đã hơi lưống tuổi, làm công việc hộ lý tại trạm phẫu thuật. Chị ta được binh lính để ý vì đó là người đàn bà duy nhất săn sóc các vết thương cho chúng tại đây. Thỉnh thoảng, Đờ Cát lại cho gọi chị ta lên uống một cốc rượu, ăn một chiếc bánh, và đối xử với chị ta một cách rất lịch thiệp. Chị ta trở về nhà thương dưới lòng đất, không ngớt lời ca ngợi người chỉ huy.
Đôi lúc, trước những lời báo cáo hoảng hốt của Lăng-gơ-le hay Bi-ga: "Việt Minh tràn ngập các chiến hào...". "Việt Minh vừa tung ra những sinh lực mới tiếp tục tấn công chúng tôi...", hắn cũng cần xác định vai trò của mình. Hắn ra những mệnh lệnh thật ngắn: "Tổ chức phản kích ngay!". "Chặn chúng lại bằng mọi giá!". Vẫn chỉ là những tiếng cũ. Nhưng hắn biết quan trọng lúc này là thái độ của người ra lệnh. Hắn đã luyện cho mình được một giọng nói không hấp tấp bình thản, lạnh lùng, mà lại rất kiên quyết trong những trường hợp như thế. Và những câu nói ngắn ngủi đó nhiều lần cũng tỏ ra có hiệu lực.
Trong khi đó, tên trung tá Lăng-gơ-le ngày đêm chỉ huy các đợt phản kích, mặt móp lại như một chiếc lưỡi cày, viên bác sĩ cận thị Gơ-rô-oanh ngụp trong bể mủ máu của những tên bị thương, những sợi tóc thưa thớt trên đầu trở thành bạc trắng... Trước khi ta đánh, bọn chúng cho rằng với hai chiếc sân bay nằm giữa lòng tập đoàn cứ điểm, chúng chỉ cần làm công việc cấp cứu đầu tiên cho thương binh ở đây, rồi đưa lên máy bay chở về Hà Nội. Chỉ sau mười ba ngày chiến đấu, các sân bay đã trở thành hoàn toàn vô dụng. Trạm phẫu thuật của chúng lúc đầu chuẩn bị cho bốn mươi hai giường giờ phải chứa hàng ngàn thương binh... trận đánh kéo dài sức khỏe của Đờ Cát hồi phục dần cùng với sự thuyên giảm của bệnh lỵ. Hắn ung dung ngồi trong căn hầm chẳng hẹp đi hơn một chút nào.
Không phải hắn hoàn toàn không nghĩ gì đến số phận của cái tập đoàn cứ điểm này nữa. Bài học của các trận chiến đấu diễn ra đã dạy cho hắn cách đánh giá tình hình khá hơn khi còn đang chờ đợi. Hắn biết cái tập đoàn cứ điểm này không thể chống chọi với Việt Minh trong một cuộc chiến đấu lâu dài, mặc dù hắn có những tay chân khá đắc lực như Lăng-gơ-le, Bi-gia. Bọn này dồn quân lính của chúng vào chỗ chết một cách không thương tiếc để lấp các lỗ hổng do Việt Minh phá vỡ. Qua những cuộc trao đổi hàng ngày với Hà Nội, hắn biết rõ những người đã ném cả cái "binh đoàn đồn trú Tây Bắc xuống lòng chảo Điện Biên Phủ này là Na-va và Cô nhi, hiện thời cũng đang lúng túng chưa biết xoay xở thế nào để cứu vãn lại tình thế. Từ ngày nổ súng, các ông chẳng mách nước cho hắn được cách nào hay ho để ngăn cản bước tiến của quân địch. Lương thực và quân tăng viện, các ông đó cũng chỉ tiếp tế cho hắn một cách rỏ giọt. Nhưng hắn có một chỗ dựa để yên lòng... Hẳn biết Điện Biên Phủ này không phải của ông Na va, ông Cô-nhi hay cả ông La-ni-en, mà là của người Mỹ. Hắn đã gặp chính ông Ô. Đa-ni-en và các tướng lĩnh Mỹ khác ở ngay tai đây. Các ông đó dã đi xem xét từng chiếc công sự và đã nói chuyện khá nhiều với hắn. Cuối tháng ba vừa rồi, lại chính tổng thông Mỹ Ai-xen-hao đã gửi một bức điện thật thống thiết đến tận những chiến hào này để động viên hắn và binh sĩ. Vị nguyên tổng tư lệnh quân đội đồng minh trong đại chiến thử hai ấy đã nói: "Các bạn chiến đấu ở đây là để bảo vệ cho thế giới tự do". Thế thì người Mỹ không thể nào để cho Điện Biên Phủ bị tiêu diệt. Họ sẽ làm mọi cách để xoay chuyển tình hình.
Hắn được biết Chính phủ Pháp và Chính phủ Mỹ đã bàn bạc với nhau từ trung tuần tháng ba. Vừa rồi, bọn ở Hà Nội mới nhảy dù xuống đây tăng viện, cho hắn biết tin thêm, mọi việc sắp xong xuôi. Thủ tưởng Ra-ni-en đã chính thức đề nghị Chính phủ Mỹ giúp đỡ. Chiến dịch sắp tới của người Mỹ được gọi là chiến dịch "Chim kền kền". Ông tư lệnh không quân Mỹ đã đến Sài Gòn. Người Mỹ sẽ cho tám mươi pháo đài bay B29 sơn cờ Pháp. bay từ Phi Luật Tân trước khi mặt trời lặn, đến ném loại bom hai ngàn cân xuống chung quanh Điện Biên Phủ. Họ sẽ chia Điện Biên Phủ thành những ô vuông, và ném bom như vậy trong bốn đêm thì mọi việc sẽ xong. Họ còn định sẽ đồng thời phá hỏng hoàn toàn con đường 41, cái con đường mảnh như sợi chỉ mà không quân Pháp bất lực ba, bốn tháng nay không phá nổi.
Các việc đó người Mỹ đang lo, đang làm và cũng chỉ có chính người Mỹ mới làm được. Người Pháp hiện nay đã kiệt quệ rồi. Như vậy việc cứu vãn tình hình không tùy thuộc ở hắn. Hắn chỉ cần biết mọi việc đang được ráo riết chuẩn bị và yên làm chờ đợi. Hắn chẳng cần rúc đầu vào bụi rậm, tính toán chuyện dùng lực lượng của hắn để đánh bại Việt Minh như hồi đầu hắn đã làm. Làm như vậy chỉ tiêu hao sức lực một cách vô ích. Còn việc ngăn cản kẻ địch tiến vào khu trung tâm này thì đã có các chỉ huy phó. Ở đây, còn trên một vạn quân. Với lực lượng đó, có thể chờ đợi đến ngày người Mỹ trực tiếp nhảy vào làm biến đổi tình hình.
Hắn cứ yên trí ngồi im trong căn hầm với những vòm sắt cuốn, những phiến sắt lát sân bay, và cả một núi đất cát bên trên. Kẻ địch chỉ có một ít lựu pháo. Hắn chẳng lạ gì uy lực của loại pháo 105 ly này. Chỉ cần ít thân cây gỗ lát trên nóc hầm và một thước đất, mặc cho nó nổ ở trên, người ta văn có thể ăn ngon ngủ yên bên dưới. Hắn chờ một đêm nào đó, hắn ngủ dậy, thấy tình hình chung quanh đã thay đổi hẳn...
Sau khi các cao điểm khu Đông bị đánh, Đờ Cát bắt đầu cáu kỉnh và sốt ruột, tuy bề ngoài hắn vẫn giữ vẻ trầm lặng. Hắn thấy người Mỹ hơi chậm chạp. Cả bức thành để bảo vệ cho trung tâm lúc này chỉ còn nửa cái đồi Ê-li-an số 2 mà hắn đã ra lệnh cho Lăng-gơ-le và Bi-gia phải giữ bằng mọi giá. Hắn không hiểu tại sao đến tận giờ họ vẫn chưa thăng cấp cho hắn. Hắn cho là đáng lẽ việc này người ta phải giải quyết cách đây hàng tháng rồi. Trong cả cuộc đại chiến lần thứ hai, có nơi nào trên đất Pháp, các tướng tá đã phòng ngự được lấy ba ngày. Vậy mà hắn đã phòng ngự ở đây trước Việt Minh hơn một tháng. Lúc này, hắn quên khuấy mất ý định ban đầu của cấp chỉ huy và sau đó là của hắn, muốn lấy nơi lợi địa này làm chỗ “tiêu diệt quân đoàn tác chiến của Việt Minh"... Nhưng cấp trên của hắn cứ lờ tịt đi. Kể nếu còn cả bức thành án ngữ ở khu Đông, thì sự sốt ruột của hắn cũng vừa phải. Nhưng sau cái đêm ba mươi mốt tháng ba, tình hình đã thay đổi nhiều quá rồi... Chỉ cần mất nốt nửa quả đồi Ê-li-an kia, số phận của Điện Biên Phủ sẽ được quyết định. Khi đó, mọi hy vọng của hắn đều tan vỡ... Hắn nóng ruột chờ đợi từng ngày tin tức về chuyện này qua những buổi hội ý với Hà Nội. Càng chờ đợi hắn càng nóng ruột. Chả lẽ họ định đợi đến ngày hắn vào trại tù binh của Việt Minh rồi mới làm việc đó? Chả lẽ hắn lại tự mình phải nhắc điều đó với cấp trên! Không... Hắn muốn chính họ phải tự làm việc đó. Vì hắn thấy mình rất xứng đáng... Cũng không hiểu tại sao cái kế hoạch "Diều hâu” mãi đến giờ văn chưa tiến hành?... Mỗ buổi sáng, khi cầm cái mũ đỏ toàn những vạch ngang đội lên đầu, hắn lại cảm thấy bực mình. Không biết đến bao giờ thì hắn vứt được mấy cái vạch này đi để đổi lấy hai ngôi sao...
Đêm hôm qua, nằm trong căn hầm trằn trọc, cái mũ chào mào với những chiếc vạch vô duyên lại như chọc vào mắt hắn. Giữa lúc đó, những tiếng nổ ình ình của những khẩu pháo Việt Minh đặt trên đầu những rặng núi bao quanh cánh đồng, như muốn trêu tức hắn thêm. Rồi hắn lại chợt nhớ thêm một chuyện nữa làm cho hắn bực mình... vẫn là câu chuyện về cái mũ đỏ của hắn và những khẩu pháo. Trước ngày 13 tháng ba, thỉnh thoảng mới có vài ba phát sơn pháo 75 ly của Việt Minh bắn vào tập đoàn cứ điểm. Những khẩu pháo này cũng gây cho hắn đôi chút bực mình. Hắn biết rất rõ vị trí của nó ở trên một quả đồi trọc phía đông cánh đồng. Đã năm lần bảy lượt, hắn tung một tiểu đoàn, hai tiểu đoàn về phía đó, nhằm tiêu diệt mấy khẩu pháo tép khó chịu này đi, nhưng lần nào bọn chúng cũng quay về vỡ đầu xẻ tai mà mấy khẩu sơn pháo thì vẫn cứ nằm đó.
Hôm ấy một nhà báo phương tây đến thăm Điện Biên Phủ, lo ngại hỏi hắn:
- Bọn chúng cứ từ trên đầu ta mà bắn xuống thì làm thế nào?
Đờ Cát đã cầm chiếc mũ đỏ như máu chụp lên đầu rồi đáp:
- Tôi đội chiếc mũ đỏ này để bọn chúng nhìn rõ tôi hơn...
Câu trả lời của hắn đã làm cho nhà báo phục sát đất, và tất nhiên là nó được tung ngay đi khắp năm châu. Đờ Cát cũng rất bằng lòng mình, và cũng không hiểu vì sao lúc đó hắn đã gỡ thế bí cho mình bằng một cử chỉ và một câu nói hay như vậy. Và đúng là hồi đó người ta vẫn thấy hắn đội chiếc mũ đỏ chót ngồi trên xe jeep phóng tung bụi trên đường từ sở cho huy ra sân bay... nhưng đến bây giờ, câu nói đó đã phản lại hắn; nó tố cáo một cách hùng hồn sự ngốc nghếch của hắn.
Từ sau ngày mười ba, những khẩu pháo đã thay đổi cách sinh hoạt của hắn. Chúng buộc hắn phải bỏ hẳn thói quen hay đi ra ngoài. Hắn phải tự kìm chắc tấm thân dài ngoẵng trong căn hầm sắt cuốn của sở chỉ huy, mà theo lệnh hắn, mỗi ngày binh lính lại quẳng thêm lên những phiến băng lát sân bay, những bao đất, bao cát. Chính những khẩu pháo khó chịu đó đã làm cho hắn mất một cánh tay đắc lực. Viên đại tá Pi-rốt chỉ vì những khẩu pháo đó mà phải kết liễu đời mình.
Pi-rốt chết đi để khỏi phải chịu đựng một cách dai dẳng một sự khó chịu khác mà hắn đang phải chịu đựng hiện nay. Đó là sự khó chịu mỗi khi Đờ Cát ngồi đếm các tiếng pháo nổ. Từ chiều ngày mười ba, hắn đã nắm được là Việt Minh có tất cả hai mươi bốn khẩu pháo. Như vậy là về pháo nặng, Việt Minh không bằng hắn. Cuộc đối pháo diễn ra ngày này tiếp ngày khác. Số pháo của hắn bị pháo của đối phương làm cho im tiếng mỗi ngày một nhiều. Trong khi đó thì hai mươi bốn khẩu pháo của Việt Minh từ đầu đến cuối vẫn nguyên vẹn. Cái thói quen đếm những tiếng pháo nổ đầu nòng đã thành một cái tật của hắn. Cái tật đó mỗi ngày lại gây cho hắn một vài lần khó chịu.
Hắn đã đếm được hai mươi ba tiếng nổ. Hắn nằm im chờ tiếng đàn cuối cùng để kết thúc bản nhạc khó chịu. Nhưng lần này thì hắn bị hẫng... Sau đó, là sự im lặng mênh mông của đêm khuya. Hắn nghĩ, hay là vừa rồi mình đếm nhầm. Chút hơi hướng buồn ngủ tự nhiên biến mất. Hắn lại dỏng tai đón nghe loạt pháo thứ hai của đối phương. Lần này, hắn đếm cả những tiếng nổ đầu nòng và tiếng nổ mặt đất. Hắn mừng rỡ nhận ra là vừa rồi hắn không lầm... Đúng là chỉ có hai mươi ba khẩu. Cho đến những loạt pháo cuối cùng của đối phương đêm đó, hắn vẫn nhận thấy... chỉ còn có hai mươi ba khẩu.
Đúng ra, sự vắng mặt của một khẩu pháo, không ảnh hưởng gì đến sức mạnh của những trận đòn mà hắn phải chịu dựng. Nhưng đối với Đờ Cát thì lại là một chuyện khác. Điều đó nói lên, những khẩu pháo đối phương từ nay không còn trêu chọc được hắn bằng sự tuyệt đối an toàn của chúng. Tự nhiên hắn cảm thấy trong người vui vẻ, phấn chấn hẳn lên. Hắn tin rằng cả binh đoàn đồn trú này chỉ có một mình hắn phát hiện được ra điều đó. Trừ hắn, tất cả bọn chúng chắc đều chán làm công việc này rồi, vì chúng tin chẳng bao giờ tìm ra được một sự đổi thay mới.
Trong hoàn cảnh của cuộc chiến đấu rất hiếm hoi những điều vui vẻ này, thì cái việc đêm qua đến với hắn như một niềm vui thực sự.
Chính vì lẽ đó, sáng hôm nay hắn đến nơi làm việc sớm hơn một chút.
Hắn chăm chú nhìn những vị trí pháo của Việt Minh được đánh dấu trên bản đồ. Hắn định sớm nay sẽ theo dõi, kiểm tra lại một lần nữa, rồi buổi chiều sẽ nêu điều nhận xét mới mẻ đó trong buổi hội ý của các viên chỉ huy. Hắn cũng định sẽ nghiên cứu xem việc tiêu diệt khẩu lựu pháo đầu tiên của Việt Minh này là do không quân hay pháo binh.
Con chó xám chạy vòng quanh bàn ngoe nguẩy mãi cái đuôi vẫn không thấy chủ giơ tay cho nó như mọi lần. Nó sán đến cọ cổ vào ống chân lông lá của chủ. Chủ nó xòe các ngón tay và úp bàn tay có chiếc nhẫn to tướng lên đầu nó như mọi ngày, nhưng đôi mắt vẫn không nhìn nó. Đôi mắt không còn trẻ trung gì nữa của Đờ Cát lúc này xanh và trông lại như mắt một con mèo đang rình mồi.
Từ những dãy núi phía đông rồi phía tây, những tiếng ình ình lại bắt đầu. Tiếng nổ vừa dứt, mặt Đờ Cát bỗng cau hẳn lại. Hắn vứt chiếc mũ chào mào xuống bàn. Trên chiếc trán hói của hắn xuất hiện những làn sóng vết nhăn. Hai đầu lông mày rậm của hắn giao nhau. Hắn kiên nhẫn chờ đợi loạt pháo thứ hai để kiểm tra thêm. Những tiếng nổ ình ình không được nhất loạt lắm, vì đây là những khẩu pháo đặt phân tán ở các trận địa rất xa nhau, vang đến tai hắn lần này rõ mồn một... Con chó đang thè lưỡi mơn man liếm bàn tay chủ tự nhiên bị một cái đập vào mõm. Đờ Cát gấp nhanh tấm bản đồ lại, quăng chiếc địa bàn chặn lên trên. Lại vẫn bản đàn cũ. Vẫn đúng hai mươi bốn khẩu pháo ở nguyên những vị trí cũ. Hắn cảm thấy như mình vừa mắc lỡm với đối phương. Hắn vùng đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng, vung vung bàn tay như muốn xua đuổi tất cả những ý nghĩ ám ảnh khó chịu.... Giữa lúc đó, một viên sĩ quan liên lạc sang báo với hắn, đã đến giờ nói chuyện với vợ hắn ở Hà Nội.
Từ ngày nổ súng, cơ quan thông tin liên lạc ở Hà Nội đã dành cho vợ chồng hắn hàng ngày, một buổi nói chuyện vào ban sáng.
Đờ Cát bước sang phòng bên, đến trước máy vô tuyến điện thoại với bộ mặt cau có.
Đâu dây đằng kia, vang lên tiếng nói ngọt ngào của vợ hắn:
- Anh yêu quý, anh có khỏe không?
Vợ hắn ở Hà Nội vẫn băn khoăn nghĩ đến cái bệnh kiết lỵ trực trùng kinh niên của chồng. Tiếng nói trong trẻo của vợ làm cho Đờ Cát thoáng nghĩ có lẽ trong con người thì tiếng nói chậm già hơn cả.
Đờ Cát nói dằn từng tiếng:
- Rất khỏe. - Và lần này hắn quên hỏi thăm lại sức khỏe của vợ.
- Tình hình ở đó thế nào, anh yêu quý?
- Không có gì thay đổi. Vẫn không khá hơn.
- Cụm Ê-li-an ra sao?
Bà ấy dạo này đã chú ý đến cả tên những vị trí, hắn nghĩ vậy.
- Vẫn nắm được cái "chìa khóa sống" một nửa thôi chứ không phải tất cả.
- Anh nói cái đồi Ê-li-an số 2 phải không?
- Em biết rồi đấy!
- Nếu bây giờ mất nó thì có sao không?
Như vậy thì thật ra bà ấy cũng chẳng hiểu gì về những cái tên bà đang gọi ra vanh vách. Cũng chẳng cần giải thích dài dòng về sự quan trọng của quả đồi đã gọi là "chìa khóa sống" làm gì... Đờ Cát nói gọn:
- Không được để mất. Phải giữ lấy nó bằng mọi giá.
Vợ hắn cũng không băn khoăn hỏi thêm, vui vẻ chuyển ngay sang chuyện khác.
- Hôm nay ở Hà Nội, em lại được đọc một tờ báo đảng ảnh và tiểu sử của anh. Cái ảnh anh đang ngồi trên chiếc xe jeep. Họ gọi anh là người anh hùng của Điện Biên Phủ.
- Chỉ có thế thôi ư? Giá cái việc mỗi lần in ảnh của anh làm nới vòng tay của Việt Minh ra được một chút!
- Em sẽ nói cho anh một chuyện mà chắc anh chưa biết...
Giọng nói của vợ vẫn hớn hở, làm cho Đờ Cát bỗng cảm thấy hồi hộp. Nhưng hắn cố giữ giọng nói trầm lặng, hơi châm biếm một chút:
- Chuyện gì thế, em yêu?
- Trong tờ báo này có đăng lời phát biểu của Tổng thống Ai-xen-hao. Ông Tổng thống Mỹ nói: "Nếu thuộc thẩm quyền của ông thì ông sẽ thăng đại tá Đờ Cát-tơ-ri lên hàm tướng...".
Đờ Cát im lặng một chút. Hắn nén nỗi vui mừng. Đây là một cơ hội tốt. Một câu hỏi đặt ra trong đầu hắn: Giờ nên làm gì để lợi dụng cái cơ hội tốt này?...
Vợ hắn lại thỏ thẻ:
- Sao chậm quá thế nhỉ? Em tưởng việc đó phải đến từ lâu rồi. Hơn một tháng nay, cả thế giới đang hướng mắt vào các công việc của anh.
Mụ vợ này còn bận tâm đến việc thăng thưởng của hắn hơn chính cả hắn. Vì mụ nhìn vấn đề đơn giản hơn, và mụ nhiều lòng tham hơn. Trong những ngày cuộc chiến đấu chưa thực sự nổ ra ở đây, tại Hà Nội mụ không ngớt than thở vì sự yên tĩnh kéo dài ở Điện Biên Phủ. Mụ chẳng quan tâm gì nhiều đến việc "tiêu diệt quân đoàn tác chiến của Việt Minh". Mụ chỉ nghĩ mỗi một chuyện thiết thân đến mụ... chồng mụ đã ngoài năm mươi tuổi rồi... Trong cuộc đời nhà binh năm chìm bảy nổi của lão, hết Pháp đến Ý rồi lại sang Việt Nam, bao phen chết hụt và bị cầm tù, chưa bao giờ lão lại được cả người Mỹ lẫn người Pháp chú ý như lần này. Nếu bỏ lỡ dịp, chắc suốt đời chồng mụ không còn cơ hội nào tốt hơn. Nhưng muốn người ta thăng thưởng cho chồng mụ, thì phải có đánh nhau ở đó... Mụ chỉ lo Việt Minh lại rút lui như ở Nà Sản. Sau khi nổ súng, mụ nhận được những lá thư vắn tắt của chồng báo tin Việt Minh đã bắt đầu đánh vào kèm với những câu bi quan “Tình hình hoàn toàn không giống như anh đã mong đợi...". "...Em phải chờ đón mọi sự bất ngờ...". Chồng mụ lại còn gửi cho mụ cả hai tấm "séc" trắng đã ký sẵn, để khi cần mụ có thể rút hết tiền của hắn ở nhà băng... Tất cả những điều lo lắng không vui của chồng mụ chỉ làm cho mụ mừng rơn... Ở Điện Biên Phủ thế là đã có đánh nhau to rồi. Và bây giờ mụ cũng giống chồng đang sốt ruột vì việc thăng thưởng đến chậm...
Mặt Đờ Cát hơi tái đi. Chiếc đầu hói cúi xuống để lộ các mạch máu đang chuyển động mạnh. Cái mũi rất dài nhòm mồm lúc này và cặp mắt sâu sâu suy nghĩ càng làm cho bộ mặt của hắn giống một con vẹt.
- Em nghe này... - Giọng nói của Đờ Cát hơi dằn mạnh và trở nên nghiêm trang - Em hãy bảo cho họ biết: "Cơ-rit-chi-an đờ Cát-tơ-ri sẽ từ chức nếu không thăng ông ta lên hàm tướng”. Em nhớ chưa...? Em hãy nói cho họ biết, em được chính anh ủy nhiệm nói lại với họ điều đó.
- Em sẽ làm đúng như lời anh nói. Chao ôi!... Không biết họ còn muốn đợi anh yêu phải làm những việc gì nữa!
Đờ Cát thấy cần phải nhấn mạnh thêm một chút:
- Em nên nhớ là anh chỉ còn nắm được một nửa chiếc "chìa khóa sống” thôi. Nếu mất chiếc chìa khóa đó, mọi việc lúc đó đều không còn giá trị gì nữa...
Nội dung mới mẻ quan trọng của buổi nói chuyện sáng hôm nay làm Đờ Cát quên bẵng mất điều hắn đã định nói với vợ từ hôm qua, là hỏi vợ đã lấy tiền ở nhà băng ra chưa, dù sao cũng phải nhắc vợ hắn thận trọng trong việc tiêu pha.
Buổi nói chuyện giúp Đờ Cát xua đuổi được chuyện bực mình ban nãy. Hắn cho rằng mình đã đẩy mụ vợ làm một việc rất đúng lúc. Cũng như là đi buôn hay đánh một ván bài... Nghệ thuật là ở chỗ tung món hàng ra thị trường vào lúc nào cho có lãi, ném quân bài ra giữa canh bạc vào lúc nào cho được cuộc... Người khôn ngoan là người không bao giờ để lỡ cơ hội. Ông cựu Thủ tướng Pê-lê-ven, làm Bộ trưởng Bộ quốc phòng, sang kinh lý Đông Dương còn kết hợp buôn một món tiền phật lăng lớn ở Sài Gòn (ngay trong ngày ông lên thăm Điện Biên Phủ, một người bạn của Đờ Cát đi theo phái đoàn đã nói với hắn chuyện đó). Hắn phải vất vả ở cái lòng chảo này trong khi mọi người ăn ngon ngủ yên, hắn chẳng ngu dại gì mà lại không nhân cơ hội xoay xở một cái gì riêng cho hắn.
Cao Điểm Cuối Cùng Cao Điểm Cuối Cùng - Hữu Mai Cao Điểm Cuối Cùng