We have to walk in a way that we only print peace and serenity on the Earth. Walk as if you are kissing the Earth with your feet.

Thich Nhat Hanh

 
 
 
 
 
Tác giả: Mark Haddon
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Ace Lê
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 204 / 8
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:44 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11 - Nước Bước Tử Thần
ới đảo Skye, chị em tôi tạt vào một quầy thực phẩm để tích trữ bánh mì, bích quy, son môi, mứt dâu tây và phô mai Cheddar. Becky rút điện thoại và nhận ra rằng nơi đây nằm ngoài vùng phủ sóng. Chúng tôi lúc này đã chính thức bước ra ngoài bản đồ.
Chúng tôi tiến sâu vào dãy đồi. Thưa thớt đó đây là dăm ba ngôi làng, với vài chiếc ô tô. Hầu hết là núi non, cỏ cây, hồ nước, gia súc, những đàn cừu, vách đá, và lại núi non. Quang cảnh này nhìn như Vùng đất Bị Thời gian Lãng quên. Nếu bạn bịt tai vào và nghe tiếng gầm của con xe Moto Guzzi, thì có thể tưởng tượng ra một chú khủng long khổng lồ đang ì ạch lết ra khỏi thung lũng lọt giữa hai đỉnh núi phủ kín mây mù.
Tôi nghĩ tới những gã đàn ông bận com lê đắt tiền màu xám nhạt. Tôi nghĩ tới thầy Kidd và cô Pearce. Và đơn giản là tôi không thể tìm thấy mối tương đồng nào giữa họ và nơi này. Tôi bắt đầu tự hỏi không biết tất cả có phải chỉ là một sự nhầm lẫn, có phải tấm bản đồ chỉ là một tấm bản đồ thông thường, được giữ lại từ một chuyến đi tham quan những lâu đài Scotland. Tôi tự hỏi liệu Charlie có thật đang ở tuốt Bồ Đào Nha. Hay là điều gì đó còn tồi tệ hơn thế đã xảy ra.
Trời nhá nhem dần. Tôi thấy mệt mỏi và buồn ngủ. Nhưng tôi biết mình sẽ chẳng có lòng dạ nào mà ngủ. Không phải ở nơi này. Khi chưa thấy Charlie.
Cuối cùng con đường lượn vòng ra khỏi một ngọn đồi và tiến thẳng vào làng chài Elgol nhỏ bé. Nhìn thấy những ngôi nhà hai bên đường khiến lòng dạ tôi bớt bồn chồn. Kia là một phòng ngủ nhà ai đã thắp đèn. Còn kia là một khoảnh vườn trồng hoa. Quang cảnh đã trở về gần như bình thường.
Chúng tôi quành vào khúc rẽ cuối, và Becky phanh kít trước một mỏm cầu đá nhỏ lấn nhô ra mặt nước. Một ông già đang đứng trên cầu, rửa những chiếc giỏ đựng tôm hùm và dây thừng cuốn. Bên cạnh ông ta là một chú chó thuộc họ chó săn tai dài cụp, ngồi thở khò khè và đưa chân lên gãi tai.
Becky cởi mũ bảo hiểm và ngửa về sau nói với tôi, “Kia là đường phải đi.” Chị ấy trỏ bàn tay đeo găng về phía đường đèo uốn quanh eo biển. “Giờ thì, đi tìm chỗ cắm trại thôi.”
Bầu trời hoàng hôn rực rỡ hai màu tím và cam. Dãy núi in bóng lên nền trời nhìn như những dải giấy màu đen bị xé lởm chởm.
“Em muốn đi luôn bây giờ,” tôi hạ quyết tâm.
“Mày sủa lảm nhảm gì thế Jimbo,” Becky nói. “Tám dặm cơ đấy. Đường thì đầy đá. Trời lại đang tối.”
“Becky, chị thấy mấy kẻ ở nhà mình rồi đấy,” tôi đáp. “Chúng đang truy đuổi mình. Em biết mà. Mình không thể để phí một giây phút nào. Phải đi giúp Charlie. Dù có hay không có chị, thì em vẫn đi.”
“Được rồi, được rồi,” bà chị cau có, xuống xe và giúp tôi chuyển bớt đồ từ cốp xe vào ba lô. “Tao sẽ đi. Cũng chẳng có lựa chọn nào khác. Mẹ sẽ làm thịt tao nếu tao về nhà mà lạc mất mày.”
“Chị đúng là một chiến hữu,” tôi bắt tay bà chị.
“Tao là con ngốc thì có,” chị ấy đáp.
o O o
Khi chúng tôi vừa khóa xe và vác túi lên chuẩn bị xuất phát thì ông già rửa giỏ tôm lên tiếng chào.
“Chào buổi tối,” ông ta nói giọng Scotland đặc sệt.
“Chào buổi tối,” chúng tôi đáp, lòng đầy nghi hoặc.
“À, dân thành phố,” ông già ngó xuống đôi giày thể thao của tôi và bộ móng tay sơn đen của Becky. “Mấy đứa bộ dạng thế kia mà đòi leo bộ à? Đêm đang xuống rồi.”
“Không. Bọn này đi xem phim đấy,” Becky độp lại. Bà chị lúc nào cũng nhạy cảm khi có người nhận xét về “bộ dạng” của mình.
“Vâng. Chúng cháu cuốc bộ,” tôi lễ phép giải thích. Tôi chỉ muốn chuồn cho nhanh, thay vì lần lữa đứng đó mà nói chuyện phiếm với người lạ.
“Đến vịnh Camasunary? Hay đến tận hồ Coruisk?” ông ta hỏi.
Thế rồi, rất chậm chạp, ông ta đưa cái tẩu thuốc lên miệng, để vạt tay áo vải dầu vén lên làm lộ ra một chiếc vòng trên cổ tay trái. Tôi bước lui lại sau.
“Coruisk,” Becky đáp cộc lốc, “nên bọn này không có thời giờ nói chuyện phiếm đâu.”
Tôi cứ ngỡ lão già sẽ xộc tới bóp lấy gáy tôi, hoặc giơ mấy ngón tay phát sáng lên. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Lão cười mỉm, rồi cười khùng khục lên.
“Thôi, chúc mấy đứa vui vẻ,” lão nói. “Cứ việc leo bộ qua mỏm đá trong cái đêm đen mịt mùng này.” Đoạn lão quay người bước lại về phía con đường, con chó tai dài lon ton bám gót.
“Cái vòng tay...” tôi bảo Becky.
“Nhìn thấy rồi,” chị ấy đáp.
“Chúng biết ta ở đây,” tôi thầm thì, ngó quanh xem có ai ở trong tầm nghe, đang nấp sau cái giỏ tôm hùm hoặc cái thuyền lật úp nào không.
“Có thể,” Becky nói. “Mà cũng có thể chỉ là một chiếc vòng đồng bình thường thôi Jimbo. Loại người ta vẫn đeo. Có thể bọn mình bị hoang tưởng rồi.”
“Có thể,” tôi đáp. Nhưng tôi không sai đâu. Tôi biết mà. Lão già là một tên đồng bọn của chúng. Cái cách lão để lộ chiếc vòng. Kiểu cười khùng khục. Nhưng mặt khác, nếu lão là một tên trong số đó có nghĩa là chúng tôi đã đi đúng đường. Coruisk là nơi quan trọng.
Vậy sao lão không ngăn chúng tôi? Có thể lão biết chúng tôi sẽ không vượt qua được mỏm đá trong đêm tối. Có thể lão biết chúng tôi sẽ chẳng tìm thấy gì khi tới nơi. Hoặc giả lão biết có những tên đồng bọn khác đang đón chờ chúng tôi phía đầu bên kia, đung đưa những ngón tay sáng xanh trong ngọn gió đêm đen.
“Nào,” Becky nhắc, “còn chờ gì nữa?”
Tôi bèn rảo bước theo sau.
o O o
Chúng tôi không cần đến đèn pin. Lão già đánh tôm hùm đã sai lè. Trời đêm nay đâu có đen mịt mùng. Mười phút sau khi chúng tôi khởi hành, từng lớp mây xám bỗng tiêu tan, để lộ ra mặt trăng tròn trịa lửng lơ treo trên mặt biển bao la. Cảm giác như đang đi trong một cảnh phim Con trai Ma cà rồng. Nhưng ít ra chúng tôi có thể nhìn thấy bước chân mình đang đặt xuống đâu.
Và ít nhất chúng tôi cũng đang làm một việc tốt. Lối đi hẹp, lởm chởm đá, cắt ngọt vào mỏm núi dốc, rậm rạp, dựng đứng vượt lên khỏi mặt nước. Chúng tôi phải luồn dưới những thân cây xù xì, trèo qua những tảng đá lăn, và dọn dẹp những cành gãy cản đường. Bên trái là biển cả nhìn như một tấm gương bạc kỳ vĩ. Bên phải là đất đá, cây cối và bụi rậm nối nhau chạy vút lên tận màn trời đen.
Phía ngoài vịnh, một hòn đảo nổi lên như một chú cá voi khổng lồ bị hàu bám. Trải dài bên trên là đại dương, đêm đen và những ngôi sao. Mọi thứ đều có kích cỡ to không tưởng. Tôi cảm thấy cô đơn và hoang mang, ngay cả khi có Becky đang đi phía trước. Nếu lỡ trượt chân ngã xuống, chúng tôi sẽ bị khối nước băng đá bên dưới nuốt chửng và chôn vùi mãi mãi. Và sẽ không một ai biết điều đó cả.
Tệ hơn nữa là đôi giày thể thao thành thị của tôi vốn không được sinh ra để leo núi, làm cho gót chân phải tôi phồng rộp lên đau rát. Tôi bèn nhét giấy ăn vào trong giày và nghiến răng tiến bước.
o O o
Hai tiếng sau chúng tôi tới được vịnh Camasunary. Lối đi trở dốc xuống dưới, và mỏm núi thoai thoải dần thành một đồng cỏ mọc tua tủa. Chúng tôi leo qua một mỏm đá nhỏ, thấy trước mắt là bờ biển trải dài ngun ngút. Chúng tôi băng qua một dòng suối hẹp, rồi đặt chân lên thảm cỏ.
“Ối!” tôi thốt lên.
“Cái gì mà gớm thế này,” Becky kêu theo.
Cả thảm cỏ lít nhít những thỏ là thỏ. Một trăm con. Hai trăm con. Tôi chưa bao giờ ghê sợ lũ thỏ cả, nhưng nhiều thế này khiến tôi sởn hết cả gai ốc. Một rừng thỏ ngồi đó, với những túm đuôi bông và chỏm tai dài nhọn, cứ như nhảy ra từ một bộ phim kinh dị tên là Thỏ.
“Mình đi tiếp thôi,” tôi nói.
Chúng tôi tiếp tục nửa sau, nửa khó khăn hơn của chặng đường.
Chỉ có điều chặng này không còn gọi là đường được nữa. Chỉ rặt những đá sắc, tầm ma, gai nhọn, cây cối và bùn đất, lại thêm vết rộp của tôi ngày càng tệ.
Sau nửa giờ trơn trượt, vấp váp, cáu bẳn và tập tễnh, chúng tôi đâm phải một lối cụt. Sừng sững trước mặt chúng tôi là một phiến đá vát nhẵn nhụi, rêu bám từng mảng, nhìn như một cái mũi hoa cương khổng lồ. Không bùn đất, không cành cây, không bụi cỏ. Chẳng có gì sất. Bắt nguồn từ cao tít phía trên đầu chúng tôi, phiến đá vát thẳng xuống tới phía đáy lởm chởm, ngay trên mặt nước biển đen. Trên bản đồ nó được đặt tên “Nước bước Tử thần”. Bạn có thể hiểu tại sao nó lại có cái tên đó.
“Chị đi trước,” tôi nói. “Chị lớn hơn em.”
“Cám ơn nhé Jimbo,” Becky đáp. “Mày ga lăng hết sảy.”
Chúng tôi không có cách nào đi vòng qua sườn phiến đá. Cũng không thể vòng từ dưới lên được. Độ dốc quá lớn. Chỉ còn cách leo qua nó.
Becky run rẩy leo lên. Tôi run rẩy theo sau chị ấy. Chúng tôi nằm áp sát mặt vào tảng đá, tay chân duỗi thẳng hết ra như thằn lằn nằm phơi nắng, thận trọng nhích từng bước sang ngang.
Chúng tôi vẫn ổn. Đôi giày của tôi để đi đường trường thì tệ hại, nhưng gót cao su lại bám vào vách đá rất dính. Ngán một nỗi, với đám rong rêu thì ngược lại. Khi tôi đang rướn mình, đặt chân lên một tảng rêu, lúc trọng lượng chuyển xuống nó thì nó rách tan ra dưới chân tôi.
Tôi trượt thẳng xuống dưới, phanh lại chỉ bằng hai đầu gối, mấy ngón tay và chỏm mũi. Tim tôi ngừng đập và hai bàn chân tôi nhô ra khỏi viền đáy của phiến đá. Nghe Becky thét lên, tôi nhắm tịt mắt lại, đợi chờ một cú rớt hiển nhiên xuyên qua không trung xuống dưới kia, nơi những ngọn đá nham nhở xâm xấp nhô lên khỏi mặt lạnh băng.
Bỗng dưng tôi ngừng trượt, hai chân treo lủng lẳng giữa trời. Mấy ngón tay tôi đã mắc kẹt vào một khe nứt chạy ngang bề mặt phiến đá. Đó là một khe nứt hẹp, tay tôi nhói đau và chắc không thể trụ được lâu hơn. Tôi cố quờ hai chân lên tảng đá, nhưng quá xa tầm với.
“Jimbo!” Becky hét lên. “Ở nguyên đấy!” Tôi ngước lên. Chị ấy đang chầm chậm nhích dọc sống mũi khổng lồ xuống gần tôi, ba lô khoác qua vai.
“Có một kẽ nứt,” tôi vừa dứt lời thì một bàn tay tôi vuột khỏi khe nứt, và tôi thét lớn.
Mũi giày của Becky đã lần ra khe nứt. Chị ấy cởi ba lô ra khỏi vai và hạ nó xuống. “Nắm lấy!” Tôi nắm. “Giờ thì kéo.”
Chị ấy kéo. Tôi kéo. Cái quai cặp doãng ra hết cỡ. Tôi quơ chân phải lên. Một lần. Hai lần. Ba lần. Cuối cũng, tôi cũng tì được chân lên mép tảng đá. Tôi lại rướn người lên và kéo. Chị ấy cũng rướn lên và tôi đưa được chân còn lại lên mép đá, rồi nằm bẹp dí xuống, thở hổn hển.
“Lựu đạn, Jimbo,” chị ấy nói. “Đừng có bao giờ giở lại trò đó với tao nữa nghe chưa. Đừng bao giờ.”
Chúng tôi đợi đến khi hoàn hồn rồi bắt đầu nhúc nhích sang ngang, mũi chân ghì vào kẽ nứt. Men theo viền cong của phiến đá, chúng tôi tóm được một cành cây nhô ra, rồi đánh đu qua bờ đất ẩm phía bên kia một cách an toàn.
“Người Dơi của tôi ơi,” Becky thốt lên. “Đúng là ngàn cân treo sợi tóc.”
Tôi đưa tay lên mặt, liền nhận ra mũi mình đã chảy máu khi bị dùng làm phanh thắng.
“Dù sao thì,” chị ấy nói, “ở trường làm gì có những pha kịch tính thế này đúng không?”
o O o
Đảo Coruisk hiện ra trong sự kinh ngạc của chúng tôi. Lối đi dẫn xuống ngang mực nước biển, nơi hai chị em bị một con lạch nhỏ dẫn ra phía bờ chắn lại. Chúng tôi bèn quay lại và men theo con lạch vào trong đất liền. Chúng tôi vượt qua một ụ đá và nhìn thấy hồ nước lù lù hiện ra, với vài tỉ lít nước đen ngòm lạnh buốt trải dài hút mắt.
“Coruisk,” Becky đứng trên ụ đá, cứ như một người vừa chinh phục đỉnh Everest. “Ta thành công rồi, nhóc ơi.”
Từ mọi phía xung quanh hồ, dãy đồi Cullin mọc đâm vào màn đêm. Dưới ánh trăng, dải nước trung tâm lóa lên một màu xanh dương, nhưng bờ hồ xa xăm thì chìm lẫn vào bóng đen như mực của trập trùng đồi núi. Tít trên cao hàng đám sương mù quấn tụ lấy những chỏm núi rồi dạt tan về bầu trời lấp lánh ngàn sao.
Biển cả khi nãy trải dài về chân trời, tưởng như đã vĩ đại lắm rồi. Nhưng lúc này bóng đen khổng lồ của rặng núi khiến cho hồ nước trông còn vĩ đại hơn. Hoàn toàn tĩnh mịch. Ngoài biển còn có sóng gợn lăn tăn, tiếng nước vỗ về ghềnh đá. Còn ở đây, làn nước trơn láng và yên lặng tựa như thủy ngân. Đây không phải là nơi con người nên bén mảng tới khi tối trời.
“Nào,” Becky nói, “giờ làm trò gì tiếp theo đây?”
Tôi nghĩ đến Charlie. “Em không biết nữa.” Tôi cảm nhận được nước mắt chực trào ra nơi khóe mắt. Chúng tôi đã mất tới hai ngày trời chỉ để đến nơi này. Chúng tôi đã mạo hiểm tính mạng ít nhất hai lần. Lúc đó tôi cũng không biết mình sẽ tìm thấy gì khi đi đến đây. Nhưng tôi hy vọng ít nhất mình cũng sẽ tìm được cái gì đó. Thế mà, hóa ra đây là nơi trống trơn nhất tôi từng biết đến trong đời.
“Cố gắng lên,” Becky nói. “Nào đi làm bữa tối cái đã.”
Chúng tôi lê bước dọc theo bờ lạch, rồi nhún chân trên một dãy những hòn đá giữa dòng để băng ngang qua, kiếm một chỗ cắm trại bằng phẳng. Đang đi, chúng tôi tìm thấy một ngôi nhà tranh đổ nát, trong giây lát nom như thể đó là manh mối cho chúng tôi biết tại sao Coruisk lại quan trọng đến thế. Nhưng chỉ là một ngôi nhà bỏ hoang. Bốn bức tường xập xệ, một lối vào cửa chính, hai lỗ cửa sổ, sàn nhà bằng đất bùn. Chúng tôi trèo lên một thảm cỏ phẳng phiu, khuất hỏi những cặp mắt dòm ngó và những ngọn gió ngày càng mạnh, sát bên một tảng đá lớn hình bầu dục.
Becky dựng lều phía sau tảng đá lớn. Tôi lấy ra mấy cái băng cứu thương, khăn khử trùng và thuốc Savlon để xử lý đầu gối với chiếc mũi. Khi đã rúc vào túi ngủ, chúng tôi bẻ bánh mì và phô mai ra.
Bụng đã no và chân mỏi nhừ, chúng tôi nằm ngửa lên ngắm sao trời qua nóc mở của chiếc lều. Becky bịt tai nghe iPod vào và đắm chìm vào mấy cái ban nhạc Tử thi quỷ. Hoặc Chi hoại tử. Hoặc Chó con ngoẻo. Hoặc bất kỳ cái lằng tà nhằng nào bà chị vừa mới tải xuống gần đây.
Tôi cố nhớ xem tên của mấy chùm sao là gì. Đại hùng. Lưỡi cày. Lạp hộ. Cuối cùng, tôi kéo khóa lều, kéo túi ngủ lên quanh cổ và nhắm mắt lại.
“Ư...ư...ư...ư,” Becky rên chẳng theo giai điệu gì cả. Rồi chị ấy ngừng bặt. Chị ấy tháo một bên tai nghe ra, lắc lắc nó, nhét lại vào tai, rồi lại bứt nó ra. Tôi có thể nghe thấy một âm thanh lạ, lùng bùng phát ra từ cái loa màu trắng tí hon. “Hỏng rồi,” bà chị nhấm nhẳng. “Lại hỏng.”
“Đồng hồ chị kìa,” tôi hổn hển. “Nhìn cái đồng hồ kìa.”
Chị ấy nhìn xuống tay. Mặt đồng hồ phát sáng và kim thì chạy ngược tít lên.
“Á,” chị ấy thất thanh, vội vàng cởi vứt cái đồng hồ đi. “Nóng quá.”
Đâu đó bên trong túi ba lô, chiếc đèn pin cũng tắt bật liên tục.
Hai giây sau, cả chiếc lều đắm chìm trong một vầng sáng xanh dương rực rỡ.
Bùm Bùm - Mark Haddon Bùm