Giá trị thật của một người không phải ở chỗ cách anh ta xử sự lúc đang thoải mái và hưởng thụ, mà là ở chỗ lúc anh ta đối mặt với những khó khăn và thử thách.

Martin Luther King Jr.

 
 
 
 
 
Thể loại: Tùy Bút
Nguyên tác: “Генеральный Штаб В Годы Войны”
Dịch giả: Trần Anh Tuấn
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 16
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2840 / 59
Cập nhật: 2016-06-04 04:54:31 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 14: Chiến Cục Cuối Cùng
ăm mới tại “biệt thự gần thành phố” của Xta-lin ở Cun-xê-vô. – Hút lực lượng địch vào Đông Phổ và sang phía Nam. – Gh. C. Giu-cốp được cử làm tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1. – I. V. Xta-lin đảm nhiệm việc phối hợp hành động của bốn phương diện quân. – Có thể tiến công liên tục vào Béc-lin được không? – Sớc-sin đã kích thích lòng tham của Mỹ ra sao. – Cuộc họp tại Đại bản doanh ngày 1 tháng Tư 1945. – Đức đầu hàng.
Còn mấy tiếng đồng hồ nữa là bước sang năm 1945, A. I. An-tô-nôp báo cho tôi:
- Pô-xcri-ô-bư-sép vừa gọi dây nói báo cho biết là chúng ta sẽ đến “Biệt thự gần thành phố” của Xta-lin lúc mười một giờ rưỡi đêm, không mang theo bản đồ và tài liệu.
Tôi hỏi: vậy là thế nào, A. I. An-tô-nốp trả lời và bông đùa:
- Có thể chúng ta được mời đến ăn mừng Năm mới? Tốt chứ sao…
Mấy phút sau, I-a. N. Phê-đô-ren-cô, tư lệnh bộ đội xe tăng thiết giáp và cơ giới, gọi điện thoại tới chỗ chúng tôi. Đồng chí cũng hỏi xem chúng tôi có biết gì về việc đồng chí được triệu tập đến “biệt thự gần thành phố” cửa Xta-lin, mà lại đi người không kia chứ..
Tôi trả lời là chính chúng tôi cũng không biết tại sao lại có chuyện mời lạ như vậy.
Đúng 23 giờ, An-tô-nốp với tôi cùng đi bằng xe của đồng chí, dọc đường cứ cố đoán xem lý do cuộc triệu tập này. Thường thì những chuyến đi báo cáo hàng ngày của chúng tôi cho Tổng tư lệnh tối cao bao giờ cũng muộn hơn thế này; còn việc liên hoan thì chưa bao giờ chúng tôi được mời cả; vả lại trong những năm chiến tranh, gần như chúng tôi đã quên bẵng đến cả cái từ “liên hoan” ấy.
Tại “biệt thự gần thành phố” của Xta-lin, chúng tôi còn chạm trán với mấy quân nhân nữa: A. A. Nô-vi-côp. N. N. Vô-rô-nốp, I-a. N. Phê-đô-ren-cô, A. V. Khơ-ru-li-ốp và một lát sau thì cả X. M. Bu-đi-on-nưi cũng đến. Đúng là chúng tôi được mời đến đón mừng Năm mới, bàn tiệc dọn sẵn như thế kia đủ chứng tỏ việc đó lắm.
Còn mấy phút nữa thì đến mười hai giờ đêm. Các đồng chí ủy viên Bộ chính trị cùng đến với mấy đồng chí bộ trưởng dân ủy, mà tôi chỉ nhớ có hai người: B. L. Van-ni-cốp và V. A. Ma-lư-sép. Có mặt tất cả hai mươi lăm nam đồng chí và chỉ có một nữ đồng chí vợ Pan-mi-rô Tô-li-át-ti, Tổng bí thư Đảng cộng sản I-la-li-a. Cả hai vợ chồng bấy giờ đều có mặt ở đây.
Như thường lệ trong mọi bữa tiệc, Xta-lin ngồi vào chỗ của mình ở đầu bàn. Cái bình nước lọc đặt bên tay phải đúng như mọi khi. Chẳng có ai phục vụ quanh bàn ăn cả, mỗi người tự mình lấy thức ăn vào đĩa mình tùy thích.
Lúc chuông điểm mười hai tiếng, Tổng tư lệnh tối cao nói mấy lời ca ngợi những thành tích lớn lao của nhân dân xô-viết, đã làm tất cả những gì có thể để đánh tan quân đội Hít-le cho thắng lợi của chúng ta càng chóng đến. Đồng chí chúc mừng các Lực lượng vũ trang Liên Xô và chúc mừng tất cả chúng
- Chúc mừng các đồng chí Năm mới!
Chúng tôi chúc mừng sức khỏe lẫn nhau và nâng cốc chúc cho ngày toàn thắng sẽ đến trong năm 1945 này. Không khí dè dặt lúc ban đầu bỗng tan ngay. Chuyện trò trở nên náo nhiệt. Chủ nhân cũng bỏ cả nghi thức: sau mấy tuần chạm cốc liền rời khỏi bàn, tra thuốc vào tẩu, hút và bắt chuyện với vị khách nào đấy. Những người còn lại chẳng có gì gò bó nữa, cũng phân ra từng nhóm. Tiếng cười, câu nói thật là rộn rã.
M. Bu-đi-on-nưi lấy chiếc đàn bai-an mang theo để ở gian ngoài. Ngồi xuống chiếc ghế cứng, đồng chí kéo đàn thật cừ. Phần lớn là những bài dân gian Nga, những bản nhạc van-xơ và pôn-ca. Như mọi tay chơi đàn bai-an thiện nghệ, đồng chí nghiêng nghiêng đầu, tai ghé xuống đàn. Người ta thấy ngay đó là môn giải trí ưa thích của đồng chí.
C. E. Vô-rô-si-lốp ngồi xuống cạnh Xê-mi-on Mi-khai-lô vích Bu-đi-on-nưi. Rồi nhiều đồng chí khác cũng kéo đến
Khi Bu-đi-on-nưi chơi đã thấm mệt, Xta-lin mở máy hát. Đồng chí tự chọn lấy đĩa. Khách thử nhảy chơi, nhưng nữ chỉ có một người, nên cuộc vũ không thành. Bây giờ, khi chủ nhân rút trong chồng đĩa ra cái đĩa “ba-rư-nhi-a” thì X. M. Bu-đi-on-nưi không nhịn được nữa, liền đứng dậy bước vào nhảy. Đồng chí nhảy thật hùng dũng, điệu nhảy dân gian Nga, tay vỗ vào đầu gối, vào ủng da đập nhịp, thật khéo. Mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt.
Trọng tâm chương trình âm nhạc là những bài hát quân đội do đội ca vũ của giáo sư A. V. A-lêch-xan-đrốp trình bày. Những bài hát ấy tất cả chúng tôi đều biết và cùng đồng ca theo.
Khoảng ba giờ sáng, chúng tôi ở Cun-xê-vô ra về. Buổi đón Năm mới trong không khí nghỉ ngơi lần đầu tiên trong những năm chiến tranh này đặt ra nhiều suy nghĩ. Mọi người đầu cảm thấy ngày kết thúc chiến tranh chẳng còn bao xa. Từ nay mới đỡ căng thẳng, mặc dầu chúng tôi biết rằng, thời gian sắp tới đây, sẽ mở ra một cuộc tiến công to lớn mới, và không ít trận giao tranh quyết liệt đang chờ đợi chúng tôi
A. I. An-tô-nốp bỗng đề nghị không trở về địa vị làm việc như mọi khi nữa, mà về ngủ đêm ở gia đình. Năm mới bắt đầu hoàn toàn chẳng khác gì thời bình. Bữa tiệc chiêu đãi Năm mới ở nhà Tổng tư lệnh tối cao và tôi ngủ đêm ở gia đình – đó là những việc không thểo đúng chế độ đã qui định ở Bộ tổng tham mưu trong những năm chiến tranh
Nhưng bộ mặt Mát-xcơ-va vẫn còn có vẻ thời chiến. Phố xá chúng tôi đi qua đều vắng vẻ, đèn tắt, nhà cửa hai bên lạnh lẽo, cửa sổ rèm che kín. Thỉnh thoảng có hơi để lọt ra chút ánh sáng yếu ớt, duy có điều là đội tuần tra thành phố và những người trực ban phòng không cũng chẳng phạt những hiện tượng vi phạm ấy nghiêm khắc như trước.
Tóm lại, mọi việc trong đêm nay đều gợi lên ấn tượng: chiến tranh sắp kết thúc.
Việc xây dựng kế hoạch cho giai đoạn kết thúc cuộc đấu tranh trên mặt trận Xô – Đức bắt đầu trong quá trình chiến cục hè – thu năm 1944. Những kết luận thực tiễn rút ra từ tình hình chiến lược không phải đã có ngay được trong một thời gian ngắn ở Bộ tổng tham mưu và Đại bản doanh, mà phải hình thành dấn dần trong quá trình công tác.
Những điều tổng kết về đợt tiến công tuyệt vời của chúng ta trong mùa hè và mùa thu năm 1944 trên tất cả các hướng, càng làm cho chúng ta thêm tin tưởng. Quân đội Liên Xô đã đánh tan 219 sư đoàn và 22 lữ đoàn địch. Quân địch bị mất tất cả 1.600.000 người, 6.700 xe tăng, 28.000 khẩu pháo và súng cối, 12.000 máy bay. Nước Đức phát-xít không thể nào bổ sung được những thiệt hại kế trên. Tổn thất về tinh thần của chúng cũng rất lớn.
Đến cuối tháng Mười 1944, quân đội xô-viết đã đến biên giới Phần Lan và tiến công.thắng lợi ở Bắc Na Uy, quét địch ra khỏi miền Pri-ban-tích, trừ bán đảo Xư-rơ-ve và ở Cuôc-li-an-đi-a, đột nhập vào Đông Phổ đến tuyến Gôn-đáp, Áp-gu-xtốp. Ở phía Nam Đông Phổ ta đã tiến công vượt sông Nác-va và Vi-xla tại một số nơi, chiếm được nhiều căn cứ bàn đạp quan trọng trong những khu vực Rô-gia-nu, Xê-rốt-xcơ, Ma-gnu-sép, Pu-la-vư, Xan-đô-mia; hướng chiến lược Béc-lin đang mở rộng ở phía trước. Phương diện quân U-crai-na 2 tiến vào Bu-đa-pét. Phương diện quân U-crai-na 3, ngày 20 tháng Mười, giải phóng Bê-ô-grát, thủ đô Nam Tư.
Tuy vậy, thắng lợi đến với chúng ta thật không phải dễ dàng. Quân số các sư đoàn hao hụt dần. Tốc độ tiền quân của các sư đoàn chậm hẳn lại. Hít-le rút một phần lực lượng ở một số khu vực phòng ngự của chúng ở Tây Âu điều sang Phía Đông và lập ra ở đây một chiến tuyến dày đặc và vững chắc mà muốn đột phá được, ta cần phải chuẩn bị thật chu đáo.
Bộ tổng tham mưu hiểu rõ mọi nỗi khó khăn, gay go của việc tiếp tục phát huy thắng lợi. Những điều kiện và triển vọng của cuộc tiến công lại không phải nơi nào cũng giống nơi nào.
Hệ thống phòng ngự của quân địch ở miền Cuốc-li-an-đi-a đặc biệt vững chắc. Đột phá và tiêu diệt ba mươi sư đoàn địch đóng chặt ở đấy đòi hỏi chúng ta phải trả một giá rất đắt.
Tình hình ở Đông Phổ có thuận lợi hơn. Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 phần nào chiếm ưu thế về lực lượng hơn quân địch (Thời gian này quân Đức ở Đông Phổ có: 11 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn xe tăng. 2 lữ đoàn xe tăng, 2 lữ đoàn kỵ binh, cộng tất cả là 17 binh đoàn. Trong biên chế của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 có: 40 sư đoàn bộ binh, 12 quân đoàn xe tăng, 5 lữ đoàn xe tăng, cộng là 47 binh đoàn. Nhưng cũng cần phải lưu ý là quân số các sư đoàn bộ binh địch đông hơn các sư đoàn bộ binh của ta rất nhiều. Khả năng chiến đấu của những quân đoàn xe tăng Liên Xô và những sư đoàn xe tăng Đức thì tương đương với nhau.)
Căn cứ vào đó, Bộ tổng tham mưu cho rằng: Nếu được tăng cường một bộ phận lực lượng lấy trong đội dự bị của Bộ Tổng tư lệnh tối cao, thì có thể mở mũi đột kích mạnh qua suốt Đông Phổ đến tận cửa sông Vi-xla, sâu từ 220km dến 250 ki-lô-mét. Nhưng đáng tiếc là sau đấy, ở đây đành phải hạn chế – ít ra là trong thời gian đầu – ở những mục tiêu đơn giản hơn.
Còn về hướng Vác-sa-va – Pô-dơ-nan, và cả hướng Xi-lê-di, là những hướng thực tế đang quyết định vận mệnh của Béc-lin, thì thấy sức chống cự của quân địch tại đây sẽ rất mạnh. Lúc này, chúng tôi cho rằng phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và phương diện quân U-crai-na 1, với mức cố gắng tối đa, cũng chỉ có thể tiến hành chiến dịch tiến công trên một chiều sâu không quá 140 tới 150 ki-lô-mét mà thôi.
Ngược lại, trong các dải tiến công của các phương diện quân U-crai-na 4, 2 và 3, căn cứ trước hết vào những lý do chính trị, Bộ tổng tham mưu lại cho là sẽ đạt được những kết quả thật lớn và thấy hiện ra triển vọng quân ta sẽ tiến nhanh đến tận tuyến Mô-ráp-xca – Ô-xtơ-ra-va, Brơ-nô, đến tận những đường tiếp cận với Viên.
Việc chiếm được Bu-đa-pét và vượt sông Đa-nuýp trong một thời gian ngắn là hoàn toàn hiện thực đối với chúng ta. Đại bộ phận quân địch ở đây là những sư đoàn quân Hung. Theo dự đoán của ta hồi ấy, thì sức chiến đấu của các sư đoàn Hung đó có thể đã bị tan rã bởi phong trào phản chiến đang lan rộng trong hàng ngũ nhân dân Hung và bởi sự tàn bạo của bọn phát-xít đang ra sức tìm mọt cách cố giữ lầy nước Hung trong phạm vi thế lực của cái Đế chế thứ ba. Nhưng rất tiếc là những dự đoán ấy chưa thành sự thật được. Chế độ độc tài phát-xít được bọn Đức ủng hộ vẫn còn buộc được nước Hung vào guồng máy chiến tranh của Đức thêm một thời gian nữa.
Từ cuối tháng Mười, trên hướng Bu-đa-pét đã diễn ra những trận chiến đấu cực kỳ ác liệt và đẫm máu. Chống lại phương diện quân U-crai-na 2 là cả một tập đoàn địch gồm đến 39 binh đoàn mà nòng cốt là 7 sư đoàn xe tăng (5 sư đoàn Đức và 2 sư đoàn Hung), địch dựa vào hệ thống những công sự được chuẩn bị kỹ từ trước để kháng cự quyết liệt. Cuộc chiến đấu để chiếm thủ đô Hung kéo dài đến ba tháng rưỡi.
Những kết quả rất hạn chế chúng ta giành được trong tháng Mười chứng minh sự cần thiết phải cho các sư đoàn đã lâu chưa thay phiên được nghỉ ngơi, phải tổ chức điều động, đưa những lực lượng hậu cần lên phía trước, xây dựng những nguồn dự trữ vật chất cần thiết để đột phá và tiếp tục phát triển chiến dịch; và cuối cùng, trên cơ sở việc đánh giá tình huống, chọn lấy những phương hướng có lợi nhất, để xây dựng những kế hoạch tiêu diệt triệt để chủ nghĩa phát-xít Đức trong thời gian ngắn nhất.
Ngay hồi đầu tháng Mười một 1944, Đại bản doanh đã nghiên cứu toàn diện tình hình mọi công việc ở các khu vực hoạt động của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, Bê-lô-rút-xi-a 1 và U-crai-na 1. Đối diện với những phương diện quân ấy là tập đoàn chiến lược chủ yếu của địch: hai cụm tập đoàn quân “trung tâm” và “A”, tuy biên chế của chúng không còn đầy đủ như trước. Những phương diện quân của ta bấy giờ chưa đủ ưu thế cần thiết về lực lượng để tiến công. Từ đó có thể rút ra kết luận là: nếu cứ tiếp tục tiến công trên hướng Béc-lin thì sẽ không có lợi, cần phải tạm thời chuyển sang phòng ngự
Trong lần báo cáo thường kỳ cho Tổng tư lệnh tối cao, A. I. An-tô-nốp đặc biệt kiên trì bảo vệ quan điểm này và đến khi cho phép chuẩn bị những chỉ thị thích hợp. Chúng tôi được phép làm như vậy. Rạng ngày 5 tháng Mười một 1944, chỉ thị đã được gửi cho các phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 và 2 chuyển sang phòng ngự. Mấy hôm sau, lại ban hành những mệnh lệnh như thế cho bộ đội cánh phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1.
Ngay từ đầu, ta đã dự kiến tiến hành chiến cục cuối cùng củ chiến tranh chống nước Đức Hít-le làm hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, những hành động tích cực trước hết vẫn tiếp tục trên hướng cũ, nếu có thể nói như vậy, tức là ở sườn phía Nam mặt trận Xô – Đức trong khu vực Bu-đa-pét. Ta dự kiến sẽ tạo ra bước ngoặt ở đây, bằng cách đưa những lực lượng chủ yếu của phương diện quân U-crai-na 3 tiến vào giữa hai con sông Tít-xa và Đa-nuýp ở khu vực quá phía Nam Két-kê-mét. Từ đày, các đơn vị của phương diện quân ấy có thể hành động phối hợp với phương diện quân U-crai-na 2 đột kích sang phía Tây và Tây – Bắc.
Chúng ta hy vọng rằng bộ đội của hai phương diện quân trên, nếu hiệp đồng chặt chẽ với nhau, sẽ có thể tiến công với tốc độ cao và sau 20 đền 25 ngày là sẽ đạt tới tuyến Ban-xca – Bít-xtơ-ri-xa, Cô-mác-nô, Nát-ca-ni-gia, và một tháng sau, đến cuối tháng Chạp sẽ tiến tới những đường tiếp cận với Viên.
Chúng ta tin chắc rằng cứ thực sự uy hiếp tiêu diệt sườn phía Nam của chúng, là ta sẽ buộc bộ chỉ huy Đức phải điều những lực lượng bổ sung từ hướng Béc-lin đến và như vậy sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho những lực lượng chủ yếu của chúng ta, tức là những phương diện quân đã bố trí ở phía Bắc mạch núi Các-pát tiến lên phía trước.
Bộ tổng tham mưu tin chắc rằng, đến đầu năm 1945, Quân đội Liên Xô ở hạ lưu sông Vi-xla sẽ tới Brôm-béc, đánh vào Pô-dơ-nan, chiếm lấy Bre-xlau, Pác-đu-bi-xe, I-gla-va và Viên, nghĩa là từ tuyến bố trí trong tháng Mười của mình tiến lên phía trước từ 120 cho tới 350 ki-lô-mét. Sau đó, sẽ bắt đầu giai đoạn hai của chiến cục và kết quả là nước Đức sẽ phải đầu hàng.
Vậy là những tính toán sơ bộ hồi cuối tháng Mười 1944 chỉ vạch ra một nội dung chung của chiến cục kết thúc chiến tranh gồm hai giai đoạn thôi. Hướng đột kích chủ yếu vẫn còn chưa xác định được, nên lúc này, vẫn chưa nói rõ được ý định đột kích phá vỡ mặt trận chiến lược của địch và chia cắt những tập đoàn của chúng.
Để xây dựng ý định ấy được chính xác hơn, hồi đầu tháng Mười một, Bộ tổng tham mưu tổng kết những kết quả chúng ta đã giành được, đánh giá tóm tắt hình thái chiến lược của hai bên, đã xác định rằng Quân đội Liên Xô đã giành được những thắng lợi quyết định đối với kết cục của chiến tranh.
Việc kết thúc cuộc chiến đấu trên mặt trận Xô – Đức đã được quyết định, giờ phút tiêu diệt toàn bộ quân địch đang nhích lại gần. Chúng ta có ưu thế hơn địch không riêng về mặt quân số mà cả về mặt trình độ huấn luyện và trang bị kỹ thuật nữa. Công tác hậu cần tổ chức tốt, bảo đảm thành công chắc chắn cho mọi hành động chiến đấu, việc cung cấp cho tiền tuyến ngày một tăng lên nhiều.
Chúng ta đánh giá hình thái chiến lược của quân đội xô viết và quân đội các nước Đồng minh chống Hít-le là hình thái đang tiến gần tới ngày kết thúc việc bao vây nước Đức Những đòn đột kích của ta phối hợp rất khéo với hành động của các nước Đồng minh ở Tây Âu. Quân đội Liên Xô và những lực lượng Anh – Mỹ thực ra đã chiếm được những trận địa xuất phát để tiến công quyết định vào những trung tâm sinh tử của nước Đức. Đã sắp tới lúc tiến hành đợt tiến công như vũ bão cuối cùng và trong thời gian ngắn. sẽ hoàn thành việc tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Những sự kiện sau này đã xác nhận việc đánh giá tình hình như vậy là đúng đắn, một sự đánh giá làm cơ sở cho việc nghiên cứu tỉ mỉ mặt chiến dịch của ý định chiến cục cuối cùng ở châu Âu.
Ý định trên được thảo luận rất cặn kẽ trước hết ở chỗ A. I. An-tô-nôp với sự tham gia của cục trưởng Cục tác chiến, các phó cục trưởng A. A. Cru-dơ-lốp và N. A. Lô-mốp, các chủ nhiệm những khu vực mặt trận có liên quan. Tất cả những ý kiến phát biểu ở đây, sau được Cục tác chiến xác định rõ thêm.
Cục tác chiến lại còn tính toán kỹ các lực lượng và phương tiện, nghiên cứu cụ thể những yếu tố khác của chiến dịch, rồi cuối cùng đem thể hiện thành biểu đồ: kết quả của mọi tính toán đều ghi vào bản đồ, sau đó thì lại được đem ra thảo luận cặn kẽ một lần nữa. Cũng như những lần trước, các chiến dịch mở màn đều được đặt kế hoạch hết sức chi tiết, còn nhiệm vụ về sau của các phương diện quân là chỉ vạch ra những nét chung.
Trong quá trình nghiên cứu, tìm kiếm và sáng tạo, ban đầu mới chỉ nảy ra ý kiến, rồi sau kết tinh lại rõ dần ra thành ý định chung về những hành động của chúng ta. Mọi người thừa nhận rằng khu vực phía giữa của mặt trận Xô – Đức là khu vực quyết định, bỏi vì những mũi đột kích của quân ta ở đây sẽ chọc thẳng đến những trung tâm sinh tử của nước Đức bằng con đường ngắn nhất. Nhưng chính ở đây lại lả nơi tập trung cụm quân địch dày đặc nhất.
Để tạo ra những điều bện thuận lợi hơn cho cuộc tiến công của chúng ta, cần phải căng cụm quân phía giữa của quân Đức phát-xít ra. Vì vậy. chúng ta phải đẩy mạnh những hoạt động ở hai bên sườn mặt trận chiến lược đến mức tối đa. Và, như thế là không riêng gì ở Hung và Áo, mà cả ở Đông Phổ nữa. Cuộc tiến công mãnh liệt vào Bu-đa-pét và Viên đòi hỏi phải kết hợp với cuộc tiến công vào Khuê-ních-xbéc.
Chúng ta biết chắc rằng quân địch ở Đông Phổ và ở Hung sẽ nhạy cảm đến cao độ. Khi bị ép mạnh, nhất định chúng sẽ điều những đội dự bị và những đơn vị khác từ những nơi chưa bị đánh dồn về. Và, kết quả sẽ là: ở hướng Tây – hướng dự kiến sẽ xảy ra những sự kiện quyết định, chúng sẽ yếu hẳn đi.
Những dự kiến của chúng ta đều tỏ ra chính xác. Do những hành động tiến công của quân đội xô-viết trong tháng Mười một – tháng Chạp 1944, nên quân địch đã tập trung – theo tính toán của ta – ở Đông Phổ 26 sư đoàn, trong số đó có 7 sư đoàn xe tăng, và ngay sát thủ đô Hung 55 sư đoàn, trong đó có 9 sư đoàn xe tăng.
Như sau này đã rõ, trong thời gian ấy Hít-le cho rằng: năm 1945, quân đội xô-viết sẽ đột kích chủ yếu không phải trên hướng Béc-lin từ phía Đông, mà lại qua đất Hung và Tiệp. Vì vậy, chủ lực của quân đội Đức được điều động tới đấy. Lần này nữa, Bộ tổng chỉ huy Đức lại buộc phải theo ý định của ta và trong khu vực mặt trận chủ yếu đối với chúng ta, chúng còn lại tất cả có 49 sư đoàn, trong đó chỉ có 5 sư đoàn xe tăng.
Mặt trận chiến lược của địch có hình thái độc đáo như sau: các cụm quân mạnh thì đóng ở hai bên sườn, còn ở giữa lại tương đối yếu và không có những đội dự bị lớn bảo đảm. Điều đó buộc chúng ta phải nghĩ ra những phương pháp hoạt động sao cho hợp lý nhất ở trên hướng chủ yếu. Trong trường hợp này, có nên bỏ ý nghĩ cho tiến quân đều trên toàn bộ mặt trận để đẩy lùi địch hay không? Hay sẽ đột kích thẳng vào khu giữa tương đối yếu, chia cắt mặt trận chiến lược quân Đức ra và không để mất thời gian, phát triển tiến công vào Béc-lin thì có tốt hơn không.
Với phương án hành động sau, ta sẽ dễ dàng tiêu diệt toàn bộ quân địch bị chia cắt, thực sự đẩy nhanh việc giành lấy mục tiêu cuối cùng của chiến tranh. Bộ tổng tham mưu dừng lại ở phương án đó. Chúng tôi tin chắc rằng, cần phải tiến hành đột kích vào Béc-lin càng sớm càng tốt và phải đột kích liên tục không được dừng lại.
Nhưng gần đây, lại có lập luận cho rằng Bộ tổng tham mưu đã gác vấn đề đánh chiếm Béc-lin lại trong một thời gian không hạn định. Chúng tôi khẳng định đó là một lập luận hoàn toàn không có cơ sở. Những sự kiện xảy ra về sau chỉ bổ sung những cái gì cần hiệu chỉnh vào trong kế hoạch của chúng ta mà thôi.
Việc xác định rõ nhiệm vụ sắp tới và những phương pháp hành động hợp lý nhất cho từng phương diện quân không phải là không khó. Trước hết phải suy nghĩ nát óc về phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3. Cánh quân địch đóng ở Đông Phổ rất mạnh, lại dựa vào những cứ điểm đã chuẩn bị kiên cố từ những chướng ngại vật thiên nhiên, những vùng dân cư, rất thuận lợi cho việc phòng ngự. Từ đây, quân địch có thể đột kích vào sườn quân ta đang tiến trên hướng Béc-lin. Vì vậy chúng ta phải chiến đấu không những để kìm hãm chúng lại, mà còn để cô lập chúng, không cho liên lạc với những khu vực khác trên mặt trận chiến lược và tùy theo sức mạnh mà chia cắt chúng ra, không cho chúng hành động tập trung.
Nhiệm vụ chiến dịch nhiều mặt như vậy – kìm hãm, cô lập và chia cắt chúng – đòi hỏi cuộc tiến công vào Đông Phổ phải sử dụng ít ra là hai phương diện quân: một để đột kích từ phía Đông vào Khuê-ních-xbéc và một để cô lập cánh quân Đông Phổ của địch ra khỏi cụm tập đoàn quân “A” của chúng trên hướng Béc-lin cũng như ra khỏi cả hậu phương chiến lược của chúng nữa.
Mũi vu hồi sâu từ phía Nam và Tây-nam vào Đông Phổ đồng thời sẽ yểm hộ bên sườn cho quân ta tiến đánh Vác-sa-va, Pô-dơ-nan, Béc-lin. Mũi đột kích từ phía Đông vào cánh quân địch ở Đông Phổ giao cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 là thích hợp hơn cả, còn phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 thì sẽ đảm nhiệm việc mở những mũi vu hồi vào cánh quân ấy.
Còn giải quyết nhiệm vụ chủ yếu – mở cửa vào mặt trận chiến lược của địch và tiến công cấp tóc sang phía Tây – thì có thể sử dụng phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và phương diện quân U-crai-na 1, lúc này đã ở trên hướng ấy và đã chiếm được những căn cứ bàn đạp trên sông Vi-xla. Cần phải tìm mọi cách bổ sung thật đủ xe tăng cho các phương diện quân ấy mà trước hết là tổ chức ra những tập đoàn quân xe tăng vả những quân đoàn xe tăng độc lập.
Trong ba ngày cuối tháng Mười và đầu tháng Mười một 1944, hướng đột kích, dải tiến công, chiều sâu nhiệm.vụ trước mắt và tiếp sau của từng phương diện quân đã được xác định cụ thể. Bấy giờ, chúng tôi còn ước tính cả thời hạn tối thiểu, cần thiết để tiêu diệt hoàn toàn bộ máy chiến tranh của Hít-le.
Chúng tôi dự kiến có thể đạt được mục tiêu đó trong khoảng 45 ngày tiến công với chiều sâu từ 600 tới 700 ki-lô-mét, qua hai giai đoạn nối tiếp nhau, không có lúc tạm dừng chiến dịch ở giữa. Giai đoạn đầu được dành cho 15 ngày, giai đoạn sau 30 ngày. Theo kế hoạch thì tốc độ tiến công không cao lắm, vì dự kiến là trong những trận đánh kết thúc, sức chống cự của địch sẽ rất quyết liệt. Nhưng cả ở đây, thực tế đã đính chính lại: các đơn vị bộ đội xô-viết anh hùng đã tiến công vượt mức kế hoạch.
Trong khi xác định cho rõ chiều sâu các nhiệm vụ, chúng tôi có tính đến tất cả những điều kiện cụ thể, nhất là những đặc điểm của địa hình. Chẳng hạn đối với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3, khu vực hoạt động chiến đấu có nhiều khó khăn, mà địch lại mạnh, nên chiều sâu nhiệm vụ trước mắt chỉ xác định có 50 tới 60 ki-lô-mét.
Dải hoạt động của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 có thể cho phép đặt kế hoạch nhiệm vụ trước mắt đến tuyến Mơ-la-va, Đrô-bin, tức là 60 tới 80 ki-lô-mét. Chiều sâu các nhiệm vụ trước mắt cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, phương diện quân U-crai-na 1 và một phần của phương diện quân U-crai-na 4 có thể lên 120 tới 160 ki-lô-mét. Còn những nhiệm vụ tiếp sau của các phương diện quân Bê-lô-ru-xì-a 1 và U-crai-na 1, hoạt động trong điều kiện đồng bằng ở miền Tây Ba Lan, thì chiều sâu cũng đến 130 tới 180 ki-lô-mét.
Các hướng đột kích vạch ra cũng thật đáng tin tưởng. Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 đột kích hai mũi: tới Ma-ri-en-buốc, cắt cánh quân Đông Phổ ra khỏi những đơn vị khác của địch và tới A-len-stai-nơ, cắt đôi cánh quân Đông Phổ ấy ra. Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a I sẽ cho một bộ phận lực lượng tiến vòng qua Vác-sa-va, còn một bộ phận lực lượng tiến ra gặp những đơn vị của phương diện quân U-crai-na 1 đang tiêu diệt cánh quân Ken-txe – Ra-đôm của bọn Đức. Các lực lượng đột kích tiếp giáp nhau cửa hai phương diện quân U-crai-na 1 và U-crai-na 4 sẽ tiến công vào Cra-cốp. Còn hai phương diện quân ở phía Nam: U-crai-na 2, và 3, thì mục tiêu cuối cùng phải đạt trong những chiến dịch tiến công ở giai đoạn đầu của chiến cục vẫn là Viên như cũ.
Khi chuẩn bị ý định chiến cục năm l945, Đại bản doanh không triệu tập một hội nghị đặc biệt gồm những đồng chí tư lệnh các phương diện quân như trước kia, chẳng hạn như lần xây dựng kế hoạch “Ba-gra-chi-on’”. Lần này, chỉ triệu tập từng người một về Bộ tổng tham mưu và thảo luận với từng đồng chí tư lệnh về mọi chi tiết chiến dịch của phương diện quân của họ, rồi sau báo cáo lên Đại bản doanh những ý kiến đã thống nhất với nhau.
Các nguyên soái Liên Xô Ph. I. Tôn-bu-khin, C. C. Rô-cô-xốp-xki, I. X. Cô-nép và đại tướng I. Đ. Tséc-ni-a-khốp-ki đã làm việc lại Bộ tổng tham mưu đến ngày 7 tháng Mười một và trong cả những ngày lễ. Sau ngày lễ thì tiến hành thảo luận toàn bộ ý định chiến cục nói chung tại Đại bản doanh và không có gì bổ sung quan trọng vào ý định đó. Chúng ta thống nhất với nhau là trên hướng chủ yếu sẽ bắt đầu tiến công vào ngày 20 tháng Giêng 1945, nhưng chưa phê chuẩn kế hoạch các chiến dịch và chưa ra chỉ thị cho các phương diện quân.
Mấy hôm sau, Tổng tư lệnh tối cao quyết định nguyên soái Liên Xô Gh. C. Giu-cốp, Phó Tổng tư lệnh tối cao, là người có kinh nghiệm nhiều nhất, sẽ chỉ huy những đơn vị quân đội đánh chiếm thủ đô Béc-lin của nước Đức. Ngày 16 tháng Mười một 1944, Gh. C. Giu-cốp được chỉ định giữ cuơng vị tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1. Nguyên soái Liên Xô C. C. Rô-cô-xốp-xki từ đây chuyển sang phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 thay G. Ph. Da-kha-rốp. Xta-lin đích thân thông báo việc ấy cho các đồng chí trên bằng điện thoại.
Tổng tư lệnh tối cao tự mình đảm nhiệm việc phối hợp hành động của bốn phương diện quân trên hướng tiến vào Béclin, do đó A. M. Va-xi-lép-xki không cần phải công tác ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3 nữa. Với tư cách là đại điện của Đại bản doanh, đồng chí được giao nhiệm vụ chỉ đạo những chiến dịch của hai phương diện quân Pri-ban-tích 1 và 2. Nhưng ngày 20 tháng Hai 1945, khi đại tướng I. Đ Tséc-ni-a-khốp-xki hy sinh, A. M. Va-xi-lép-xki lại trở về phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 3, đồng chí làm tư lệnh phương diện quân thì A. I. An-tô-nôp được cứ giữ chức tổng nham mưu trưởng.
Vậy là chúng ta đã dự kiện mở đồng loạt những đòn đột kích mãnh liệt của một số phương diện quân ngay từ đầu năm 1945 trên hướng chiến lược Béc-lin. Những đòn đột kích ấy nhằm phá vỡ và chia cắt mặt trận địch ra từng mảnh, phá hủy đường giao thông và thông tin liên lạc của chúng, làm rối loạn sự hiệp đồng của những cụm quân địch đang bố trí tại đấy và ngay trong giai đoạn đầu của chiến cục, tiêu diệt những lực lượng chủ yếu của chúng. Nhờ đó sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để kết thức chiến tranh.
Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 được chú ý hơn hết. Các đơn vị của phương diện quân ấy sẽ tiến công từ những căn cứ bàn đạp Ma-gnu-sép và Pu-la-vư. Sức đột phá phải thật mãnh liệt. Thế nhưng phần nào quân địch cũng sẽ phát hiện ra hướng đột kích của chúng ta do sự xuất hiện của chính những căn cứ bàn đạp ấy, cố nhiên chúng cũng sẽ tìm những biện pháp chống trả.
Cũng phần nào vì vậy mà phương diện quân U-crai-na 1 ở bên trái sẽ phải phát triển tiến công tới biên giới nước Đức không theo con đường ngắn nhất, mà hơi chếch lên phía Bắc, tới Ca-li-sơ. Bộ tổng tham mưu cho rằng con đường ngắn nhất đối với phương diện quân U-crai-na 1 sở dĩ không thích hợp cũng là do nhiều nguyên nhân khác nữa.
Vì ở Ba Lan, trên đường này có khu vực công nghiệp Thượng Xi-lê-di cùng với những công trường đá to lớn thích ứng cho phòng ngự. Tiếp nữa là khu vực Xi-lê-di của Đức, những điều kiện phòng ngự ở đây cũng rất vững. Có triển vọng là những trận chiến đấu sẽ kéo dài, tốc độ của chiến dịch sẽ chậm lại và ta phải chịu nhiều tổn thất không hợp lý.
Bởi vậy, sau nhiều lần thảo luận vấn đề đó với nguyên soái I. X. Cô-nép, Bộ tổng tham mưu và sau đó cả Đại bản doanh nữa đều dừng lại ở phương án tiến công từ phía đông-bắc và phía Bắc vòng qua miền Xi-lê-di. Mũi đột kích ấy sẽ tạo nên môi uy hiếp thực sự vào sau lưng quân địch đang bố trí đối diện với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, làm cho bộ đội ta tiếp quân tới Pô-dơ-nan dễ dàng hơn.
Ngoài ra, theo phương án tiến công như vậy thì những cơ sở công nghiệp ở Xi-lê-di có thể sẽ còn lại nguyên vẹn tất cả. Xta-lin đặc biệt quan tâm tới việc giữ gìn khu vực công nghiệp Xi-lê-di và đã trao đổi riêng về vấn đề này với I. X. Cô-nép, tư lệnh phương diện quân U-crai-na 1.
Ngày 27 tháng Mười một, Gh. C. Giu-cốp đến Mát-xcơ-va theo lệnh triệu tập của Đại bản doanh. Dựa vào những tức tức của cơ quan trinh sát phương diện quân, đồng chí cho rằng phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đột kích thẳng vào phía Tây sẽ gặp nhiều khó khăn, vì ở đấy địch tổ chức rất nhiều tuyến phòng ngự có quân án ngữ. Theo ý của Giu-cốp nếu lực lượng chủ yếu của phương diện quân đánh tới Lot-dơ, rồi sau đó tiến ra Pô-dơ-nan thì có thể đạt được thắng lợi nhanh nhất. Tổng tư lệnh tối cao đồng ý với ý kiến bổ sung ấy. Và phương hướng chiến dịch giải quyết theo kế hoạch lúc ban đầu của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 phải thay đổi một tí.
Việc ấy cũng làm thay đổi cả nhiệm vụ của đơn vị bạn ở bên trái: việc phương diện quân U-crai-na 1 tiến tới Ca-li-sơ sẽ không còn tác dụng gì nữa và nguyên soái Cô-nép được chỉ thị: Phải đột kích theo hướng chủ yếu vào Bre-xlau.
Tất nhiên là trong khi chuẩn xác lại kế hoạch thì việc chuẩn bị chiến dịch vẫn cứ tiến hành: tập trung những đội dự bị, bổ sung mọi thứ cần thiết cho các phương diện quân.
Đến cuối tháng Mười một, toàn cảnh cuộc tiến công sắp tới đã được xác định hoàn toàn, mặc dầu mãi đến cuối tháng Chạp, các kế hoạch chiến dịch ấy mới được Đại bản doanh phê chuẩn. Sau này, chỉ phải thay đổi một ít chi tiết, chủ yếu là một số chiến dịch được bắt đầu sớm lên, do yêu cầu của các nước đồng minh đang gặp gay go ở miền Ác-đê-nư. Khoảng giữa tháng Chạp, quân Đức đánh ở đấy rất mạnh và thủ tướng Anh U. Sớc-sin phải đề nghị I. V. Xta-lin chi viện.
Trung thành với nghĩa vụ đồng minh của mình, quân đội xô viết chuyển sang tiến công quyết liệt ngày 12 tháng Giêng – trước thời hạn dự định 8 ngày. Nhịp độ tiến công, như đã nói trên, vượt tất cả mọi dự định của chúng ta. Trên hướng trung tâm, từ ngày 24 tháng Giêng, bộ đội của các phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và U-crai-na 1 đã tới tuyến Pô-dơ-nan – Bre-xlau. Lực lượng chủ yếu của cụm tập đoàn quân “trung tâm” Đức phòng ngự ở Ba Lan bị thua nặng. Tàn quân của chúng rút về phía Tây và Tây – Bắc.
Việc phân tích tình hình cuối tháng Giêng 1945 xác nhận rằng: kết luận chúng ta đã rút ra trước đây về sự cần thiết phải tiến công liên tục, cho đến khi chiếm được Béc-lin, là đúng. Nhưng trong thời gian ấy, chưa thể xem việc Béc-lin thất thủ có nghĩa là nước Đức đầu hàng hoàn toàn. Vì địch vẫn còn giữ được những cụm quân khá mạnh ở Tây Âu và cả ở Hung. Riêng chỉ trong khu vực Bu-đa-pét, theo ước tính của ta hồi ấy, thì địch đều có 11 sư đoàn xe tăng và nhiều đơn vị khác, có thể cầm cự được thêm một thời gian nào đó nữa.
Chúng ta được biết là Hít-le có ý đồ tiếp lục cố thủ trong cái “pháo đài núi An-pơ” (Tên gọi một vùng ở Nam Đức, có khối núi An-pơ hiểm trở, Hit-le đã cho thành lập khu cố thủ để lâm thời rút xuống đấy chống cự. – ND.); các nước Đổng minh cũng biết như thế, và U. Sớc-sin có hỏi Xta-lin về kế hoạch của Liên Xô trong trường hợp Hít-le “chuyển xuống phía Nam”. Nhưng dù thế nào thì việc chiếm được Béc-lin cũng cực kỳ tai hại đối với Đế chế thứ ba.
Để khỏi phạm phải những tính toán nhầm lẫn nguy hại, Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu, như trước đây thường vẫn làm, chưa hạ quyết tâm dứt khoát về giai đoạn hai của chiến cục, trong khi chưa lấy được ý kiến sơ bộ của các tư lệnh phương diện quân. Lúc quân đội ta tiến tới tuyến Pô-dơ-nan – Bre-xlau, Mát-xcơ-va mới hỏi ý kiến tư lệnh các phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và U-crai-na 1 về đặc điểm của các hành động sau này của các phương diện quân.
Ngày 26 tháng Giêng 1945, Bộ tổng tham mưu nhận được giải pháp của tư lệnh phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, thực ra vẫn là tiến công liên tục cho đến lúc chiếm được thủ đô của Đức. Phương diện quân dự định trong vòng bốn ngày sẽ điều quân lên phía trước, nhất là pháo binh, tập trung những đơn vị hậu cần, bổ sung dự trữ đạn dược, ổn định các đơn vị, bảo đảm vật chất cho những binh đoàn xe tăng, đưa tập đoàn quân đột kích 3 và tập đoàn quân Ba Lan 1 vào thê đội một nhằm ngày 1 hay 2 tháng Hai, sẽ sử dụng toàn bộ lực lượng của phương diện quân tiếp tục tiến công. Nhiệm vụ trước mắt là tiến công vượt sông Ô-đe trong hành tiến và tiếp sau là đột kích vào Béc-lin. Trong thời gian ấy, tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2 sẽ từ Tây – Bắc đánh vu hồi vào Béc-lin, còn tập đoàn quân 1 thì từ Đông – Bắc tiến công vào.
Ngày hôm sau, chúng tôi nhận được giải pháp của tư lệnh phương diện quân U-crai-na 1; đồng chí cũng có ỷ định hành động liên tục không có thời gian tạm dừng. Phương diện quân dự định tiếp tục tiến công vào ngày 5-6 tháng Hai và đến 25-28 tháng Hai thì sẽ đến sông En-bơ; cánh phải của phương diện quân thì hiệp đồng với phương diện quân Bê- lô ru xi a 1 chiếm Béc-lin.
Quan điểm của Tổng tư lệnh tối cao cũng đúng như vậy. Ngày 4 tháng Hai 1945 – theo hồi ký của U. Sớc-sin – trong cuộc hội nghị nổi tiếng ở I-an-ta, Xta-lin đánh giá tình hình rất lạc quan và nhận xét rằng mặt trận quân địch đã bị phá vỡ, quân Đức chỉ còn đủ sức bịt nổi những lỗ thủng nhỏ.
Vì thế, ý kiến của mọi người đều gặp nhau ở chỗ: cần tiếp tục tiến công liên tục và đánh chiếm Béc-lin. Các phương diện quân lại nhận được những chỉ thị cần thiết của Mát-xcơ-va, rồi lại giao nhiệm vụ cho các tập đoàn quân.
Bộ tổng tham mưu chỉ băn khoăn về một chi tiết: làm thế nào để trong hai phương diện quân tiến công vào Béc-lin, theo như chỉ thị của Xta-lin, lực lượng do Gh. C. Giu-cốp chỉ huy sẽ chiếm được thủ đô của nước Đức phát-xít. Sau những cuộc tranh luận sôi nổi, chúng tôi đề nghị lên trên phê chuẩn những giải pháp của cả hai đồng chí tư lệnh phương diện quân.
Đại bản doanh đồng ý, nhưng xác định tuyến phân giới giữa hai phương diện quân theo đề nghị của nguyên soái Giu-cốp ngày 26 tháng Giêng là: Xmi-gen, Un-rút-stốt, sông Phau-le-ốp-ra, sông Ô-đe, Rát-xđo, Phrít-lan, Grô-xơ Kê-rít, Mi-khen-đo. Cách phân giới như vậy thực tế đã kéo phương diện quân U-crai-na 1 xuống phía Nam Béc-lin, không cho phương diện quân này một cửa mở nào để đột kích vào thủ đô nước Đức; cánh phải của phương diện quân thì hướng thẳng tới Gu-ben và Bran-đen-buốc.
Rõ ràng là không hợp lý: một mặt đã phê chuẩn quyết tâm của nguyên soái Cô-nép là dùng cánh phải nói trên tiến công vào Béc-lin, nhưng mặt khác lại xác định tuyến phân giới không cho phép làm như thế. Nhưng, chúng tôi cho rằng còn lâu mới đến Béc-lin và rồi chúng ta sẽ khắc phục được tình trạng vô lý đó, tình huống tự nó sẽ có những bổ sung cần thiết trong quá trình chiến dịch. Quả thật, mọi việc đã diễn ra đúng như vậy. Nhưng không phải là trong tháng Hai, tháng Ba, mà cả tháng Tư cũng không phải. Những sự kiện phát triển sau đó, không cho phép chúng ta tiến hành tiến công vào Béc-lin đúng thời hạn đã tính.
Ngày 1 tháng Hai 1945, bộ đội của tập đoàn quân đột kích 5 và tiếp theo là tập đoàn quân cận vệ 8 của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đã lao nhanh tới bờ phía Tây sông Ô-đe, và một bộ phận lực lượng đã chiếm được những căn cứ bàn đạp nhỏ ở khu vực pháo đài Cu-xtơ-rin. Nhưng chính pháo đài thì vẫn còn ở trong tay địch. Tập đoàn quân 69 đã tiến đến bờ sông Ô-đe về phía Nam, nhưng trong dải tiến công của tập đoàn quân ấy, quân Đức vẫn giữ được một cứ điểm bàn đạp ở gần Phran-phuốc. Tập đoàn quân 33 cũng tới sông Ô-đe. Tiếp theo là một khoảng cách nhỏ, rồi phương diện quân U-crai-na 1 cũng tiến xuống phía Nam chiếm lĩnh những trận địa dọc sông Ô-đe.
Bộ đội xô-viết bị chặn lại trên tuyến này.
Tình hình chiến dịch không thuận lợi cho chúng ta. Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 có nhiệm vụ đánh đến Béc-lin, đã tiến lên phía trước, nhưng lúc này chưa thể chiếm được thủ đô nước Đức. Trên hướng Béc-lin, phương diện quân này thực ra chỉ có 4 tập đoàn quân binh chủng hợp thành và 2 tập đoàn quân xe tăng không còn đủ biên chế. Chưa kể những thiệt hại lớn trong chiến đấu, hai tập đoàn quân trong số đó là tập đoàn quân cận vệ 8 và tập đoàn quân 69 còn phải để lại một phần lực lượng để chiến đấu chống quân địch đang bị vây ở Pô-dơ-nan, còn một tập đoàn quân là tập đoàn quân đột kích 5 thì vừa tiến về phía Béc-lin, vừa phải tiếp tục vây hãm Cu-xtơ-rin.
Nguyên soái Gh. C. Giu-cốp phải cho những tập đoàn quân binh chủng hợp thành còn lại quay sang phía Bắc, vào hướng Đông Pô-mê-ra-ni, là nơi quân địch tập trung những lực lượng đáng kể và đã từng bước chống cự quyết liệt với bộ đội ta khi tiến qua đất Ba Lan. Dần dần, ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 hình thành một bên sườn kéo dài tới hàng trăm ki-lô-mét. Các tập đoàn quân đột kích 3, tập đoàn quân Ba Lan 1, 47 và 61 bảo đảm bên sườn ấy, trong lúc một phần lực lượng của họ lại bị hút vào cuộc chiến đấu chống quân Đức đang bị vây ở Snai-dơ-muyn và ở những vùng dân cư khác.
Sườn kéo dài như vậy không cho phép thành lập một tập đoàn đột kích đủ mạnh trên hướng chủ yếu, và sức chống cự mỗi lúc một tăng của địch đe dọa đột phá vào sườn để tiến vào sau lưng quân ta. Mối nguy cơ ấy ngày càng rõ vì giữa hai phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và 2 là cả một khoảng cách lớn gần như không có lực lượng nào bảo đảm.
Gh. C. Giu-côp tìm cách điều tập đoàn quân 47 vào hướng chủ yếu nhưng quân địch cản trở ý định ấy. Tạo nên một bước chuyển biến trong tình huống, bằng cách tiến hành những trận đánh nhằm tiêu diệt địch ở bên sườn, cũng không thể được. Tất cả những điều ấy làm giảm nhiều khả năng tiến công của bộ đội xô-viết, mà mệnh lệnh đánh chiếm Béc-lin của Đại bản doanh thì vẫn không hủy bỏ.
Lực lượng địch ở Đông Pô-mê-ra-ni tăng lên nhanh, còn về phía chúng ta thì hàng ngũ ngày một hao hụt dần. Chẳng hạn, trong tập đoàn quân cận vệ 8, sau khi phải chiến đấu liên lục, gay go trên chặng đường dài 500 ki-lô-mét, các trung đoàn trong biên chế chỉ còn có hai tiểu đoàn và các đại đội thì chỉ có 22 đến 45 người. Ở những tập đoàn quân khác đang tiến về Béc-lin, tình hình cũng hệt như vậy.
Việc bảo đảm vật chất lại càng gặp nhiều khó khăn. Bộ đội thiếu đạn nghiêm trọng. Phải chở đạn đại bác và đạn cho các loại súng từ những kho tàng còn nằm ở phía Đông sông Vi-xla.
Ngày 8 tháng Hai 1945, V. I. Tsui-cốp, tư lệnh tập đoàn quân cận vệ 8, báo cáo với Gh. C. Giu-cốp:
“Đạn bảo đảm cho tập đoàn quân trung bình chỉ có 0,3 -0,5 cơ số. Tiêu phí đạn dược hàng ngày rất lớn… Việc chuyển vận bằng đường bộ của tập đoàn quân không thể bảo đảm tiếp đạn từ khu vực sông Vi-xla lên phía trước được.
Đoàn tàu chỏ đạn cho tập đoàn quân xuất phát ngày 2 tháng Hai 1945 từ ga Xô-bô-lê-vô đến ngày 8 tháng Hai 1945 vẫn chưa thấy tới ga Sơ-véc-sen là nơi quy định.
Do địch tăng cường hoạt động ráo riết trong khu căn cứ bàn đạp và cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục trong thành phố Pô-dơ-nan, chúng tôi đề nghị bảo đảm việc tiếp đạn trong hạn từ hai đến ba ngày sắp đến”.
Đồng thời, tư lệnh tập đoàn quân còn báo cáo: “Lữ đoàn pháo binh 43 không thể tiếp tục tiến xa hơn nữa. Máy kéo bị hỏng, không thể tiến hành sửa chữa được, vì không có phụ tùng”.
Các tập đoàn quân 69, 33 và đột kích 5 cũng gửi về những bức điện tương tự như vậy. Tất cả đều đề nghị xin giúp đỡ, xin chi viện; mà khả năng thì chưa có được bao nhiêu.
Các tập đoàn quân đã tìm mọi cách vượt qua những khó khăn ấy. Ví dụ như tập đoàn quân cận vệ 8, đã sử dụng trang bị và đạn dược chiến lợi phẩm để chiến đấu mở rộng căn cứ bàn đạp. Nhưng, đặt kế hoạch phát triển thắng lợi và đánh chiếm thủ đô đích, mà lại chỉ trông chờ vào chiến lợi phẩm thì thật là nông nổi, không thể tha thứ được.
Đạn dược và nhiên liệu thiếu thốn lại không cho phép ta sử dụng một cách thỏa đáng pháo binh là lực lượng hỏa lực chủ yếu của chúng ta trong thời gian ấy. Mà không có pháo binh thì mọi ý định tiến công trước đây đều phải gác lại cả.
Khi quân đội xô-viết tiến tới sông Ô-đe, thì tình hình không quân đã thay đổi. Máy bay Đức hoạt động ráo riết hẳn lên, nhất là đối với những đơn vị bộ đội đang bố trí ở những căn cứ bàn đạp. Dựa vào trung tâm sân bay ở Béc-lin, máy bay của chúng có thể hoạt động ngay cả vào những lúc tuyết rơi nhiều và mưa to khiến cho những sân bay dã chiến của ta bị hư hại nặng, trong lúc lực lượng chủ yếu của tập đoàn quân không quân 16 phải cất cánh từ những sân bay dã chiến ấy. Thêm nữa là những căn cứ không quân chưa hoàn bị như vậy lại ở cách xa chiến tuyến của ta từ 120 tới 140 ki-lô-mét. Trong tình thế ấy, không quân của phương diện quân không thể chi viện đắc lực cho bộ đội mặt đất; mà hồi ấy đặc biệt có ngày địch đã xuất trận tới 3.000 lần chiếc và rõ ràng đã khống chế khoảng không. Vì thế, một loạt vấn đề về phòng không được cấp bách đề ra, đặc biệt là phải điểu động vội vã pháo cao xạ từ những phương diện quân khác đến.
Trong tình huống đó, quân Đức có thể chiếm lại quyền chủ động đang nằm trong tay ta và phá vỡ chiến dịch ta dự định tiến hành. Chúng chăm chú theo dõi những hành động của ta và ngay hồi cuối tháng Giêng, khi ta hạ quyết tâm tiến công liên tục vào Béc-lin, chúng đã thực hiện một số biện pháp chống trả quan trọng, đã điều học viên một số trường đào tạo sĩ quan và những binh đoàn dự bị tới sông Ô-đe, nơi những lực lượng chủ yếu của tập đoàn quân 9 của chúng đang phòng ngự. Việc phòng ngự hướng Béc-lin nói chung được giao cho cơ quan SS đặc trách, và chính Him-le được chỉ định làm tư lệnh cụm tập đoàn quân “Vi-xla” mới thành lập. Lúc đầu, trong biên chế của cụm tập đoàn quân này có hai tập đoàn quân 9 và 2.
Vấn đề tất nhiên không phải là ở chỗ Him-le làm tư lệnh cụm tập đoàn quân, vì như thế không phải là bộ chỉ huy quân Đức đã được tăng cường, mà nói cho đúng ra là đã bị suy yếu đi. Vấn đề chủ yếu là ở chỗ quân địch dùng những biện pháp đặc biệt, trong một thời gian ngắn đã thay đổi được tương quan lực lượng có lợi cho chúng ở trên hướng Béc-lin, nhất là ở sườn phía Đông Pô-mê-ra-ni, và hãm quân đội ta vào một tình thế rất bất lợi.
Tập đoàn quân 9 của địch, có một bộ phận lực lượng ở phía Đông sông Ô-đe, trực tiếp phòng ngự hướng Béc-lin. Tập đoàn quân 2 bố trí ở Đông Pô-mê-ra-ni đang tiến hành chiến đấu cùng một lúc với lực lượng cánh phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và cánh trái của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2.
Theo những số liệu của quân Đức, ngày 1 tháng Hai, tập đoàn quân 9 có năm sư đoàn bộ binh và một sư đoàn xe tăng, tập đoàn quân 2 có mười ba sư đoàn bộ binh và một sư đoàn xe tăng. Hai sư đoàn bộ binh và một lữ đoàn làm đội dự bị của cụm tập đoàn quân “Vi-xla”. Đáng tiếc là lúc ấy, chúng ta chưa có được những số liệu trên, và những điều ta kết luận về địch đã tỏ ra không hoàn toàn đúng. Theo tính toán của chúng tôi hồi ấy, thì đối diện với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 có tất cả mười một sư đoàn và một số chi đội.
Chiến tranh càng tới gần trung tâm của nước Đức, thì khả năng cơ động lực lượng và phương tiện của chúng càng tăng. Hệ thống đường sắt và đường bộ rất tốt ở đây thật dầy đặc. Thêm nữa, quân địch còn có thể sử dụng đường biển trong một chừng mực nào đó, để kéo quân của chúng ở miền Cuốc-li-an-đi-a về. Chỉ trong thượng tuần tháng Hai, chúng đã điều được một số binh đoàn từ cái “vùng nhốt thú Cuốc-li-an-đi-a” về Pô-mê-ra-ni bằng đường biển.
Đến ngày 10 tháng Hai, quân Đức đã lập được một tập đoàn quân mới, tập đoàn quân 11, chiếm lĩnh dải hoạt động ở phía Tây tập đoàn quân 2. Từ nay, cụm tập đoàn quân “Vi-xla” đã có 38 sư đoàn (trong số đó có 6 sư đoàn xe tăng) và 6 lữ đoàn. Ngoài ra, còn phải cộng thêm cả những đơn vị không nằm trong biên chế của cụm tập đoàn quân “Vi-xla”, nhưng đang hoạt động trong dải của tập đoàn quân 11 và tập đoàn quân 2, sau này trên cơ sở những đơn vị ấy đã triển khai ra thành hai sư đoàn là sư đoàn “Béc-van-đe” và “Ke-dơ-lin”.
Nhưng khả năng tăng cường lực lượng của địch trên các hướng chiến lược quan trọng, kể cả hướng Béc-lin, như vậy chưa phải là đã cạn. Trong hội nghị những người lãnh đạo ba cường quốc ở Crưm ngày 4 tháng Hai 1945, đại tướng A. I. An-tô-nốp đã trích dẫn những số liệu sau:
“a) Ngoài mặt trận chúng ta đã xuất hiện: 9 sư đoàn lấy ở các miền Trung Đức; 6 sư đoàn từ mặt trận Tây Âu; 1 sư đoàn từ I-ta-li-a; tất cả 16 sư đoàn.
b) Đang trên đường điều động: 4 sư đoàn xe tăng: 1 sư đoàn cơ giới: tất cả 5 sư đoàn.
c) Chắc là địch sẽ còn điều động thêm tới 30 hay 35 sư đoàn nữa, lấy ở các mặt trận Tây Âu, Na Uy, I-ta-li-a và những đội dự bị ở trong nước Đức.
Như vậy là trên mặt trận, chúng có thể có tới 35 hay 40 sư đoàn bổ sung thêm”.
Trong số những sư đoàn địch được bổ sung, nhiều sư đoàn có quân số đủ theo biên chế quy định, còn những sư đoàn của chúng ta hồi ấy thì trung bình chỉ có độ 4.000 người; trong việc chuyên chở đạn dược, nhiên liệu và những phương tiện vật chất khác lên phía trước, ta lại vấp phải rất nhiều khó khăn, trong lúc ấy, không quân Đức tạm thời giành được quyền khống chế trên không. Nếu cân nhắc kỹ các mặt trên, thì sẽ thấy rõ ràng tại sao chúng ta chưa thể tiếp tục tiến công liên tiếp vào Béc-lin được. Làm như thế sẽ là một trọng tội và tất nhiên Bộ Tổng tư lệnh tối cao, Bộ tổng tham mưu và cả những tư lệnh các phương diện quân quyết không thể theo con đường ấy được.
Những sự việc sau này xác nhận rằng những dự đoán của Bộ tổng tham mưu về cơ bản là đúng. Trong tháng Hai 1945, bộ chỉ huy phát-xít Đức thực sự đã có những lực lượng lớn để phòng ngự Béc-lin, và trong trường hợp cần thiết, chúng còn có thể tăng thêm quân nữa. Quả thật, cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, con thú phát-xít vẫn là con thú nguy hiểm, đủ sức chôn vùi dưới mồ hàng trăm ngàn sinh mệnh. Đó là chưa kể đến việc nếu đánh vào Béc-lin mà không thắng thì sẽ còn đi đến những hậu quả chính trị tai hại nữa.
Đồng thời với tin quân địch đang tổ chức điều động binh lực lớn, Bộ tổng tham mưu còn nhận được những tin tình báo về ý định của bộ chỉ huy phát-xít Đức lợi dụng tình hình bất lợi khi phòng ngự của các tập đoàn quân trong phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đã tiến lên phía trước, để mở những mũi đột kích giao nhau từ khu vực Ác-no-xơ-van-đe – Pô-mê-ra-ni xuống phía Nam và từ tuyến Glô-gau, Gu-ben ở Xi-lê-di xuống phía Bắc, nhằm chia cắt những tập đoàn quân đó.
Bây giờ ta biết rõ là Gu-đê-ri-an, Tổng tham mưu tưởng lục quân Đức, đã kiên trì trong kế hoạch ấy và sẽ tiến hành kế hoạch ấy thật nhanh chóng, trong khi chúng ta chưa kịp điều đủ những lực lượng lớn tới đây. Vào những ngày cuối tháng Giêng, quân địch đã tiến hành hoạt động thiết thực nhằm phối hợp hành động của các đơn vị được hút đến để thực hiện ý định đó.
Mọi nguy cơ hiện ra bên cánh phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đều được cân nhắc triệt để ở Mát-xcơ-va. Về điều này, Tổng tư lệnh tối cao và Bộ tổng tham mưu thường xuyên trao đổi ý kiến với Gh. C. Giu-cốp và cơ quan tham mưu của phương diện quân, lại trao đổi trực tiếp với cả các tư lệnh tập đoàn quân nữa. Chúng ta còn sử dụng rộng rãi tất cả những nguồn tin khác nữa để kiểm tra và xác định những tin tức về ý đồ cùng lực lượng của địch trên hướng Béc-lin và ở Pô-mê-ra-ni.
Về mối nguy cơ ở phía Xi-lê-di, nơi tiếp giáp giữa hai phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 và U-crai-na 1, thì ta đỡ lo hơn một chút, ở đây, địch còn phải lập một tập đoàn đột kích nữa và khi phản kích, chúng phải vượt sông Ô-đe và còn phải tiến hành cơ động bên sườn khá mạo hiểm xuống phía Bắc nữa.
Tôi nghĩ, nếu nhìn lại những thủ đoạn chính trị của bọn cầm đầu nước Đức phát-xít hồi ấy cũng không phải là vô ích. Chính trong thời gian này, bọn chúng đang tích cực tìm cách ký kết hòa ước riêng rẽ với Mỹ và Anh. Nhiều thủ lĩnh của Đế chế thứ ba tựa hồ những con nhện, đang chăng những tấm mạng đàm phán phức tạp, nhằm làm ly tán những thành viên trong khối liên minh chống Hít-le, nhân đó tranh thủ thời gian và đi đến điều đình ám muội với các nước đồng minh của chúng ta, làm thiệt hại cho Liên Xô.
Tình huống đó đặt ra một trách nhiệm lịch sử đặc biệt: đối với mỗi điều quyết định đều phải cân nhắc thận trọng, không thể hành động một cách khinh xuất được. Đại bản doanh, Bộ tổng tham mưu, các hội đồng quân sự các phương diện quân đánh giá lại những khả năng của ta, bằng cách so sánh với khả năng của địch, cuối cùng đã đi tới nhất trí với kết luận trước đây là: chưa tập trung được những dự trữ đầy đủ về các phương tiện vật chất tại khu vực sông Ô-de, chưa có thể tận dụng toàn bộ sức mạnh của không quân và pháo binh, chưa bảo đảm an toàn cho hai bên sườn, thì ta chưa thể tung những tập đoàn quân của ta tiến công vào thủ đô nước Đức được. Trong trường hợp này, đánh liều là không phải lúc. Đánh mà không thắng trong giai đoạn kết thúc chiến tranh này, thì hậu quả chính trị và quân sự đối với chúng ta sẽ vô cùng nặng nề và khó mà cứu vãn được.
Trước hết, cần phá vỡ kế hoạch mở lại những mũi đột kích giao nhau của địch ở Đông Pô-mê-ra-ni và Xi-lê-di và nhanh chóng đánh tan các đạo quân phát-xít Đức tập trung ở bai bên sườn. Chỉ dùng những chiến dịch đệm của phương diên quân Bê-lô-ru-xi-a 1 để giải quyết nhiệm vụ đó là không được ở đây đòi hỏi phải kết hợp những nỗ lực của cả ba phương diện quân: phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, Bê-lô-ru-xi-a 1 và U-crai-na 1.
Trên thực tế, ta đã dự kiến là ngay từ ngày 8 tháng Hai, phương diện quân U-crai-na 1 phải bắt đầu chiến dịch đánh tan cánh quân địch rất mạnh ở Hạ Xi-lê-di, để thủ tiêu mối uy hiếp đột kích bên sườn từ hướng này. Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 thì phải tức khắc quay sang Đông Pô-mê-ra-ni, đánh tan tập đoàn quân 2 của Đức tại đấy và tiến ra các cảng trên biển Ban-tích. Cuối cùng, những lực lượng chủ yếu của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, kể cả những tập đoàn quân xe tăng, có nhiệm vụ công kích kịch liệt vào cánh quân Stác-gát của địch đang uy hiếp bên sườn phương diện quân ấy.
Kế hoạch đó hoàn toàn phù hợp với các nhiệm vụ lúc bấy giờ và đã được Đại bản doanh thông qua.
Chiến dịch Ha Xi-lê-di của phương diện quân U-crai-na 1 ngay từ lúc đầu đã phát triển thắng lợi. Địch đã bị quét khỏi khu vực Glô-gau. Sau đó, bộ chỉ huy phát-xít Đức không thể nào mở lại mũi đột kích giao nhau như đã dự kiến, vì quân địch đã bị mất hẳn, không giành lại được những căn cứ xuất phát, còn cánh quân Xi-lê-di của chúng thì bị thiệt hại nặng. Bộ đội ta tiếp tục tiến quân cho tới sông Nây-xe mới dừng lại.
Ở phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, tình hình có khác đôi chút. Phương diện quân này chuyển sang tiến công ngày 10 tháng Hai mà không có thời gian để xây dựng một tập đoàn đột kích đủ mạnh. Lực lượng của phương diện quân bị phân tán và tiến chậm, tất nhiên cũng phần nào do hậu quả của những trận chiến đấu vừa qua.
Chỉ cần nhắc lại là hai mươi sáu sư đoàn của phương diện quân, mỗi sư đoàn chỉ còn trong biên chế có 3.000 người, có tám sư đoàn có 4.000 người. Xe tăng còn chiến đấu được tất cả chỉ có 297 chiếc. Phần lớn các sân bay đều ở xa, nên chi viện của không quân gặp nhiều khó khăn. Tập đoàn quân 19, lấy trong lực lượng dự bị của Đại bản doanh chuyển thuộc cho phương diện quân, thì đang còn trên đường ra mặt trận. Trong khi đó, quân địch lại dựa vào những công trình phòng ngự đã chuẩn bị từ trước và lợi dụng địa hình rừng có nhiều ao hồ, nên chống cự lại rất ngoan cố. Đến ngày 14 tháng Hai, nghĩa là sau năm ngày tiến công, bộ đội ta chỉ tiến được từ 10 tới 30 ki-lô-mét.
Trong lúc ấy, phương diện quân Bê-lô-ru-xia 1 lại chưa sẵn sàng đưa những lực lượng chủ yếu của mình lên, nên chỉ tiến hành được những hành động chiến đấu hạn chế. Nguy cơ bị địch từ Pô-mê-ra-ni đột kích bên sườn không những không được giải quyết mà ngược lại cứ tăng lên dần.
Ngày 15 tháng Hai, Tổng tư lệnh tối cao yêu cầu Gh. C. Giu-cốp và C. C. Rô-cô-xôp-xki trình bày dự kiến về những hành động tiếp sau. Rô-cô-xốp-xki đề nghị đến ngày 24 tháng Hai sẽ triển khai tập đoàn quân 19 và quân đoàn xe tăng cận vệ 3 bên cánh trái của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, nhằm từ đây đột kích tập trung vào hướng Ke-dơ-lin, tiến ra bờ biển Ban-tích, cắt cánh quân Pô-mê-ra-ni của địch và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu diệt chúng về sau.
Giu-cốp có ý định sử dụng lực lượng cánh phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 để hắt lùi địch, cắt những đường giao thông của chúng sang phía Tây, giúp đơn vị bạn tiến nhanh ra Stét-tin. Phương diện quân dự định tới ngày 19 tháng Hai thì bắt đầu chiến dịch này.
I. V. Xta-lin đồng ý với những đề nghị của hai tư lệnh và các phương diện quân liền bắt tay vào việc thiết thực chuẩn bị các chiến dịch trên.
Song, các sự kiện lại phát triển một cách khác. Ngày 17 tháng Hai, quân địch từ khu vực Stác-gát phản kích mạnh vào bộ đội của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, dồn phương diện quân lùi xuống phía Nam từ 8 tới 12 ki-lô-mét. Vì phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 còn một tuần nữa mới có thể hoạt động có kết quả được, nên không loại trừ khả năng là sẽ có một bộ phận lực lượng tập đoàn quân 2 của Đức xuất hiện ngay trên hướng này và địch rất có thể sử dụng bộ phận ấy để phát triển đột kích vào sườn và lưng các tập đoàn quân của chúng ta đang tiến về phía Béc-lin. Mối nguy cơ ấy lại càng trầm trọng, vì nó xuất hiện đúng vào lúc phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đang tiến hành điều động, tổ chức lại hàng ngũ.
Cần nhắc tình hình, ngày 20 tháng Hai, Gh. C. Giu-cốp báo cáo lên Đại bản doanh rằng cần phải tạm thời chuyển sang phòng ngự chặt chẽ trên toàn bộ vùng lãnh thổ do phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 chiếm đóng, kể cả khu vực sông Ô-đe. Cho tới lúc phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 bắt đầu tiến công, đồng chí có ý định tiêu hao quân địch, rồi dùng một bộ phận lực lượng đột kích vào Gôn-nốp, để cắt cụm quân phát-xít Đức ở Đông Pô-mê-ra-ni ra khỏi nước Đức. Trong trường hợp phương diện quân của C. C. Rô-cô-xốp-xki giành được thắng lợi, đồng chí sẽ sử dụng toàn bộ lực lượng cánh phải của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 chuyển sang tiến công vào hướng Tây – Bắc và cùng với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2, tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở Đông Pô-mê-ra-ni.
Ý kiến của Gh. C. Giu-cốp được nghiên cứu kỹ và Tổng tư lệnh tối cao đã phê chuẩn cho thực hiện.
Việc tạm thời chuyển sang phòng ngự trên hướng Béc-lin đã cho phép chúng ta tách ra được những lực lượng lớn để tiêu diệt quân địch ở Đông Pô-mê-ra-ni. Các lực lượng của hai phương diện quân đã hiệp đồng chiến đấu ở khu vực này từ ngày 24 tháng Hai cho đến hết ngày 4 tháng Tư 1945, trong giai đoạn cuối có cả Hạm đội Ban-tích Cờ đỏ cùng tham gia.
Tất cả những mũi đột kích của địch từ khu vực Stác-gát đều bị bộ đội của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đánh lui. Sau đó, ngày 1 tháng Ba. phương diện quân ấy cho cánh phải của mình tiến lên phía trước, dùng một tập đoàn đột kích mạnh trên hướng Stác-gát – Côn-béc, mũi nhọn của nó gồm hai tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 và 2. Sức chống cự ngoan cố của địch bị bẻ gãy hẳn, và ngày 4 tháng Ba, ở khu vực Côn-béc, xe tăng xô-viết đã tiến ra đến bờ biển Ban-tich, chia cắt đại bộ phận cánh quân ở Đông Pô-mê-ra-ni của địch ra.
Kết quả của những trận chiến đấu lúc đó và tiếp sau là: 11 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn cơ giới và 1 sư đoàn xe tăng nằm trong biên chế của tập đoàn quân 11 cũ của Đức bị tiêu diệt hoàn toàn. Tôi nói là “cũ”, vì lúc kết thúc những trận chiến đấu nói trên, tập đoàn quân 11 đã tổ chức lại thành tập đoàn quân xe tăng 3.
Trong thời gian ấy, tập đoàn đột kích của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 phát triển tiến công vào Ke-dơ-lin. Ngay trong quá trình chiến dịch, địch đã sử dụng những binh đoàn rút ở Cuốc-li-an-đi-a về và những đơn vị mới bổ sung, sinh lực còn dồi dào, lấy ở các khu vực khác trong nước Đức, để tăng cường cho tập đoàn quân Đức 2 đang phòng ngự tại đây.
Nếu như lúc chúng ta bắt đầu tiến công, tập đoàn quân 2 của Đức có 13 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn xe tăng và 3 lữ đoàn thì đến ngày 1 tháng Ba, biên chế của chúng đã lên tới 18 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn xe tăng, 1 sư đoàn cơ giới, với một lữ đoàn bộ binh và một lữ đoàn xe tăng khác nữa.
Tất cả các binh đoàn trên đều bị đánh tan. Tàn quân của chúng toan trụ lại trong các cứ điểm ở Đan-xích và Gơ-dư-nhi-a, dựa vào sự chi viện của hải quân chúng. Song, quân đội xô-viêt tiến công mãnh liệt, đã chiếm những cứ điểm ấy và riêng ở Đan-xích đã bắt được 10.000 tù binh, với một số lớn trang bị vũ khí, khí tài kỹ thuật.
Ngày 4 tháng Tư, ta kết thúc việc tiêu diệt cánh quân địch ở Đông Pô-mê-ra-ni. Từ đây, ta đã loại hẳn mối nguy cơ quân địch đột kích vào bên sườn và sau lưng nhằm phá vỡ cuộc tiến công của quân ta vào Béc-lin.
Chiến dịch tiến công vào Béc-lin buộc phải hoãn lại, đó là điều không thể tránh được, nhằm bảo đảm cho thắng lợi tuyệt đối của chúng ta. Được chuẩn bị kỹ lường và bảo đảm về mọi mặt, chiến dịch ấy đã diễn ra thực sự quyết liệt. Những đòn cuối cùng đánh vào quân địch trong tháng Tư và tháng Năm 1945, tựa như chính số phận đã định ra, không thể nào khác được
Đó là những sự kiện đã thuộc về lịch sử.
Công tác của Bộ tổng tham mưu nhằm xây dựng kế hoạch cho những đòn đột kích kết thúc chiến tranh thật vô cùng phức tạp vì có quyết định dứt khoát của Xta-lin về vai trò đặc biệt của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1. Đánh chiếm một thành phố to lớn như Béc-lin có hệ thống phòng ngự chuẩn bị từ lâu, mà chỉ do một phương diện quân tiến hành, dù cho phương diện quân đó có mạnh như phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 đi nữa, thì cũng vẫn là một việc quá sức. Tình huống cấp bách đòi hôi phải lấy thêm ít ra là phương diện quân U-crai-na 1 để cùng đánh vào Béc-lin. Dĩ nhiên là cần phải tránh sử dụng những lực lượng chủ yếu đột kích vỗ mặt kém hiệu quả như trước đây.
Chúng ta lại phải quay về với ý định hồi tháng Giêng là: sử dụng những mũi đột kích vu hồi của phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 từ phía Bắc và Tây – Bắc cũng như của phương diện quân U-crai-na 1 từ phía Tây – Nam và phía Tây để chiếm Béc-lin. Bộ đội của hai phương diện quân được quy định gặp nhau ở khu vực Bran-đen-buốc – Pốt-xđam.
Chúng ta đã xây dựng mọi kế hoạch tiếp sau, có dự kiến đến cả những tình huống bất lợi nhất như: phải chiến đấu kéo dài và gay go trên các đường phố Béc-lin, quân Đức có thể từ phía Tây và Tây – Nam tổ chức phản kích vào mặt ngoài của vòng vây, chúng có thể khôi phục được hệ thống phòng ngự ở phía Tây Béc-lin và buộc ta phải tiếp tục tiến công nữa. Lại còn giá thiết đến cả “hoàn cảnh trùng phùng” với nhau là: các nước Đồng minh phương Tây của ta, vì những nguyên nhân nào đó, không chế áp được sức kháng cự của quân địch và sa lầy một thời gian lâu tại chỗ.
Nhưng, việc chiến đấu của các nước Đồng minh ít lâu sau thì được giải quyết. Quân Đồng minh tiến chậm và thận trọng lên phía trước. Trong tháng Hai và tháng Ba, quân Đồng minh đã hất địch sang bên kia sông Ranh, và cá biệt có nơi đã chiếm được những căn cứ bàn đạp trên bờ sông phía Đông.
Kết quả hoạt động chiến đấu ở miền Tây nước Hung, trên hướng Viên, là cực kỳ quan trọng. Hít-le có ý định đánh tan quân đội xô-viết tại đấy, khôi phục mặt trận sông Đa-nuýp và rút lực lượng, trước hết là lực lượng xe tăng về giữ Béc-lin. Trong khu vực ấy, đang tập trung những đội dự bị lấy từ I-ta-li-a và Tây Âu sang, đặc biệt có tập đoàn quân xe tăng 6 SS.
Quân địch mưu toan tạo nên một bước ngoặt có lợi cho chúng để chuyển sang phản công lại phương diện quân U-crai-na 3. Trận đánh cực kỳ ác liệt bên hồ Ba-la-tôn kéo dài suốt mười ngày. Bước phiêu lưu tiếp theo này của bọn Hit-le tất nhiên đã thất bại, và quân ta lập tức mở đợt tiến công vào Viên. Đại bản doanh đã báo trước cho tư lệnh phương diện quân U-crai-na 3 biết rằng cần phải giữ tập đoàn quân cận vệ 9 để dành cho cuộc tiến công ấy, chứ đừng đưa vào tham chiến trong trận hồ Ba-la-tôn. Đồng thời, bộ đội của phương diện quân U-crai-na 2 cũng từ phía Bắc tiến vào thủ đô nước Áo, còn phương diện quân U-crai-na 4 thì ngày càng đánh bật quân địch ra khỏi miền núi Các-pát và Đông Tiệp Khắc.
Ngày 13 tháng Tư, Viên được giải phóng, quân ta tiếp tục tiến sang phía Tây. Các sự kiện phát triển như vậy không những đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta ở Béc-lin, mà còn đẩy mạnh hoạt động của các nước Đồng minh. Bây giờ, quân của họ tiến với tốc độ cao hơn. Cánh quân Đức khá đông bị quân Đồng minh vây ở vùng Rua, sau đó đã bị chia cắt nhỏ ra, rồi chẳng bao lâu phải ngừng chống cự. Lực lượng chủ yếu của quân Anh – Mỹ đè bẹp sức kháng cự yếu ớt của quân địch, lao nhanh về phía sông En-bơ và bờ biển Ban-tích trong khu vực Luy-béc.
Không còn nghi ngờ gì nữa, các nước Đồng minh có ý đồ chiếm lấy Béc-lin trước chúng ta, mặc dầu theo hiệp định I-an-ta, thủ đô nước Đức đã được liệt vào vùng chiếm đóng của quân đội xô-viết. Ngày nay, mọi người đều biết tạp hồi ký của Sớc-sin, kẻ đã quá cố, và biết ông ta đã xúi giục Ru- dơ-ven với Ai-xen-hao hành động trong việc này ra sao. Trong bức thông điệp gửi tổng thống Mỹ ngày 1 tháng Tư 1945, Sớc-sin viết:
“Không có gì ảnh hưởng đến tâm trạng và gây ra thất vọng nặng trong toàn thể lực lượng kháng cự của Đức bằng việc Béc-lin thất thủ. Đối với nhân dân Đức, đó sẽ là dấu hiệu thất bại rõ ràng nhất. Mặt khác, nếu để cho Béc-lin nằm trong cảnh đổ nát mà chống đỡ được cuộc vây hãm của quân Nga, thì phải thấy rằng Béc-lin sẽ cổ vũ sức kháng cự của mọi người dân Đức, bao giờ ngọn cờ Đức còn phấp phới ở đây là họ còn cầm súng.
Ngoài ra, lại còn một mặt nữa của vấn đề mà Ngài và tôi phải nghiên cứu. Quân đội Nga tất nhiên sẽ chiếm toàn bộ nước Áo và tiến vào Viên. Nếu họ lại chiếm cả Béc-lin nữa, thì liệu có nảy ra cho họ một ý niệm quá lớn về việc họ đã góp phần quá chênh lệnh vào thắng lợi chung của chúng ta không, và việc đó có thể dẫn đến xu thế gây ra những khó khăn nghiêm trọng, hết sức to lớn sau này không?
Vì vậy, tôi cho rằng, đứng về quan điểm chính trị, chúng ta cần tiến vào nước Đức, càng sâu sang phía Đông càng tốt, và trường hợp Béc-lin nằm trong phạm vi ta có thể với tới, thì cố nhiên là ta phải chiếm lấy. Như vậy, cũng thật khôn ngoan cả về quan điểm quân sự nữa”.
Nhưng chúng ta cũng đủ tính táo. Bộ tổng tham mưu, trong thời gian ấy, đã nghiên cứu tất cả những dự kiến chủ yếu về chiến dịch Béc-lin. Trong quá trình công tác, chúng tôi đã giữ vững sự tiếp xúc hết sức chặt chẽ với các tham mưu trưởng các phương diện quân: A. N. Bô-gô-liu-bốp, M. X. Ma-li-nin, V. Đ. Xô-cô-lốp-xki sau này với I. E. Pê-tơ-rốp), và khi vừa phát hiện ra những dấu hiệu đầu tiên về mưu đồ của các nước Đồng minh đối với Béc-lin là chúng tôi liền triệu tập ngay Gh. C. Giu-cốp và I. X. Cô-nép về Mát-xcơ va.
Ngày 31 tháng Ba, Bộ tổng tham mưu đã cùng với các đồng chí ấy nghiên cứu ý định những hành động sau này của các phương diện quân. Nguyên soái Cô-nép rất lo lắng về tuyến phân giới với phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1, vì tuyến ấy không dành cho phương diện quân của đồng chí khả năng đột kích vào Béc-lin. Nhưng ở Bộ tổng tham mưu không ai có thể gỡ được sự vướng mắc đó.
Hôm sau, ngày 1 tháng Tư 1945, kế hoạch chiến dịch Béc-lin được thảo luận ở Đại bản doanh. Tình huống trên các mặt trận hành động của các nước Đồng minh và mưu đồ của họ đều được báo cáo rõ ràng tỉ mỉ. Căn cứ vào đó, Xta-lin rút ra kết luận là chúng ta phải chiếm cho được Béc-lin trong thời hạn ngắn nhất, chiến dịch phải bắt đầu, không được chậm quá ngày 16 tháng Tư và trong khoảng 10 tới 15 ngày phải kết thúc toàn bộ. Các đồng chí tư lệnh các phương diện quân đồng ý với kết luận trên và hứa trước Đại bản doanh là bộ đội sẵn sàng đúng hạn.
Tổng tham mưu trưởng thấy cần phải đề nghị Tổng tư lệnh tối cao lưu ý tới tuyến phân giới giữa hai phương diện quân. Đồng chí nhấn mạnh vào vấn đề là: tuyến đó trong thực tế đã loại trừ sự tham gia chiến đấu trực tiếp đánh chiếm Béc-lin của bộ đội phương diện quân U-crai-na 1 và như vậy có thể ảnh hưởng không tốt đến thời hạn hoàn thành nhiệm vụ. Nguyên soái Cô-nép cũng phát biểu theo tinh thần ấy. Đồng chí lại chứng minh rằng điều một bộ phận lực lượng của phương diện quân U-crai-na 1, nhất là các tập đoàn quân xe tăng, sang đánh vào ngoại ô Tây – Nam Béc-lin là việc làm hợp lý.
Xta-lin đi tới chỗ dung hòa: đồng chí không bỏ hẳn ý định của mình, nhưng cũng không bác hẳn những ý kiến của I. X. Cô nép mà Bộ tổng tham mưu ủng hộ. Trên bản đồ thể hiện ý định chiến dịch. Tổng tư lệnh tối cao lặng lẽ xóa đi một phần tuyến phân giới cắt phương diện quân U-crai-na 1 ra khỏi Béc-lin và kéo dài thêm tuyến đó tới vùng dân cư Li-u-ben cách Béc-lin 60 ki-lô-mét về phía Đông – Nam.
Lát sau, đồng chí nói:
- Ai đột nhập trước, người ấy sẽ chiếm Béc-lin.
Bộ tổng tham mưu lấy làm thỏa mãn về cách giải quyết như vậy. Cái tuyến phân giới đáng nguyền rủa này đã làm chúng tôi không yên tâm hơn hai tháng. Và nguyên soái Cô-nép cũng hài lòng, vì như vậy cũng hợp ý đồng chí.
Ngay trong ngày hôm ấy, I. V. Xta-lin ký chỉ thị cho tư lệnh Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 về chiến dịch đánh chiếm Béc-lin và đến cuối tháng thì tiến tới sông En-bơ. Chúng tôi dự kiến sẽ sử dụng lực lượng của bốn tập đoàn quân binh chủng hợp thành và hai tập đoàn quân xe tăng, để đột kích chủ yếu từ căn cứ bàn đạp Cu-xtơ-rin, hơn nữa là chỉ đưa hai tập đoàn quân xe tăng trên vào hành động, sau khi đã đột phá phòng ngự địch để phát triển kết quả từ phía Bắc và Đông – Bắc vu hồi vào Béc-lin. Còn trên hướng chủ yếu thì phải sử dụng cả thê đội hai của phương diện quân là tập đoàn quân binh chủng hợp thành 3, do thượng tướng A. V. Goóc-ba-tốp chỉ huy.
Ngày 2 tháng Tư, Đại bản doanh ban hành chỉ thị cho tư lệnh phương diện quân U-crai-na 1: đồng chí được lệnh đánh tan cánh quân địch ở khu vực Côt-bút và phía Nam Béc-lin và trong thời hạn 10-12 ngày sau phải tiến tới tuyến Be-e-lít, Vi-ten-béc và xa nữa dọc theo sông En-bơ tới Đrét-đen.
Mũi đợt kích chủ yếu của phương diện quân được quy định trên hướng Xprem-béc, Ben-xích, cách Béc-lin 50 ki-lô-mét về phía Nam. Những tập đoàn quân xe tăng (phương diện quân có hai tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 và 4) sẽ bước vào tham chiến sau khi đột phá tuyến phòng ngự địch, để phát triển thắng lợi trên hướng chủ yếu.
Đại bản doanh còn dự kiến cả một phương án bổ sung: có khả năng điều những tập đoàn quân xe tăng của phương diện quân U-crai-na 1 quay sang tiến công vào Béc-lin, nhưng chỉ trong trường hợp sau khi các tập đoàn quân ấy đã vượt qua Li-u-ben.
Ngày 6 tháng Tư thì ban hành chỉ thị cho phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2. Phương diện quân này không tham gia trực tiếp đánh chiếm Béc-lin, nhưng có nhiệm vụ rất quan trọng là tiến công trên hướng Tây, sang mặt phía Bắc của thủ đô nước Đức, và tiêu diệt cánh quân Stét-tin rất mạnh của địch, bảo đảm hướng này cho toàn bộ chiến dịch.
Mục đích cuối cùng của ý định và kế hoạch chiến dịch Béc-lin là buộc những lực lượng vũ trang của nước Đức phát-xít phải đầu hàng: mục đích ấy lại quy định phải chia cắt và bao vây quân địch ở phía Đông thủ đô nước Đức, đồng thời tiêu diệt gọn những đơn vị đang bị vây của chúng. Quân đội Liên Xô tiến nhanh sang phía Tây còn nhằm mục đích ngăn ngừa không cho bọn Hít-le thành lập ra một mặt trận mới.
Trên những hướng đột kích kết thúc chủ yếu của chúng ta, đã tập trung những tập đoàn các đơn vị mạnh, cùng với một số lượng lớn pháo binh, xe tăng và máy bay. Cuộc tiến công bắt đầu đúng như hạn định và kết thúc bằng việc tiêu diệt hoàn toàn quân địch. Ngày 2 tháng Năm, Béc-lin ngừng kháng cự; và sáu ngày sau, toàn nước Đức phát-xít xin đầu hàng vô điều kiện.
Chiến cục kết thúc chiến tranh ở châu Âu đã chứng minh rõ rằng các Lực lượng vũ trang của chúng ta ưu việt hơn hẳn bộ máy chiến tranh của Hít-le về mọi mặt. Qua những chiến dịch chủ yếu trong chiến cục, đã nổi lên rõ nét những mục đích chính trị, sự tính toán sáng suốt và tính kiên quyết của ta. Tập thể lãnh đạo chiến lược xô-viết biết dựa vào những kinh nghiệm xương máu, rút ra từ quá trình toàn cuộc chiến tranh, biết tận dụng tất cả tài năng của các cán bộ chỉ huy- các đồng chí tư lệnh các phương diện quân, các tập đoàn quân, các binh đoàn, đơn vị và phân đội. Giữ vai trò trợ thủ xứng đáng cho tập thể lãnh đạo chiến lược xô-viết là cơ quan tham mưu các cấp, thời ấy đã đạt tới trình độ điều khiển quân đội cao.
Thủ tướng Anh ở chỗ Tổng tư lệnh tối cao. – Tập trung bộ đội ở biên giới Viễn Đông. – Đạo quân Quan Đông, lực lượng và bố trí của chúng. – Có thể bất ngờ không? – R. I-a. Ma-li-nốp-xki được triệu tập về Đại bản doanh. – Hội nghị Pỗt-đam và tiếng vang của nó. – Bí mật lọt ra ngoài phạm vi Bộ tổng tham mưu. – Giờ đã điểm. – Những hành động táo bạo của quân đổ bộ đường không. – Nhật đầu hàng.
Từ lúc bắt đầu cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, tình hình ngoài biên giới Viễn Đông đất nước chúng ta càng ngày càng căng thẳng thêm. Mặc dầu giữa Liên Xô và Nhật đã ký kết hiệp ước trung lập, nguy cơ bị Nhật uy hiếp vẫn ngày càng tăng. Những lực lượng lớn quân Nhật tập trung ở Mãn Châu chỉ chờ thời cơ thuận lợi là tiến công Liên Xô, chiếm lấy đất Xi-bi-ri và miền Viễn Đông xô-viết.
Bọn quân phiệt Nhật thường vi phạm biên giới Tổ quốc ta, xâm nhập vùng trời và vùng biển chúng ta. Cuộc tiến công của quân đội phát-xít Đức vào Mát-xcơ-va bị đánh tan đã làm nguội lạnh phần nào mưu đồ của chúng, nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ ý định xâm lược. Việc ấy nay được xem là hoàn toàn xác thực, căn cứ vào những tài liệu của vụ án quốc tế xét xử những tên tội phạm chiến tranh đầu sỏ của Nhật.
Bộ tổng tham mưu vẫn chăm chú theo dõi thái độ không thiện chí của kẻ láng giềng ấy. Chúng ta quan tâm đến bọn đánh canh bạc chung với Hít-le ở phía Đông trong trục Béc-lin – Rôm – Tô-ki-ô, không phải chỉ vì chúng gây ra nguy cơ chiến tranh trực tiếp đối với Liên Xô, mà còn vì “vấn đề Nhật Bản” có một ý nghĩa nữa: nó gắn liền với nhiệm vụ rút ngắn thời hạn cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Loài người đang đổ máu yêu cầu như vậy. Không tiêu diệt đế quốc Nhật, chưa thể có hòa bình trên trái đất. Sau cùng, còn cần phải giúp đờ các dân tộc châu Á, trước hết là Trung Quốc, vứt bỏ ách nô dịch của nước ngoài.
Trong khi tập trung chú ý đến những mặt trận đang xảy ra chiến sự, chúng ta không hề quên mặt Viễn Đông. Hơn thế nữa, trong những lúc chiến tranh chống quân phát-xíl Đức xâm lược gặp khó khăn, ta lại càng tăng cường quan tâm đến Viễn Đông.
Bạn đọc cũng biết rằng trong những ngày khó khăn năm 1942, tại Bộ tổng tham mưu chúng ta có một Phó tổng tham mưu trưởng đặc trách mặt Viễn Đông, và trong Cục tác chiến cũng có một bộ phận chuyên trách về Viễn Đông, do một cán bộ có kinh nghiệm là thiếu tướng Ph. I. Sép-tsen-cô phụ trách.
Tháng Sáu 1943, đồng chí tham mưu phó phương diện quân Viễn Đông, thiếu tướng N. A. Lô-mốp, được điều về công tác ở Cục tác chiến, và thiếu tướng Ph. I. Sép-tsen-cô ở Bộ tổng tham mưu được cử ra thay đồng chí. Vậy là, mặt Viễn Đông được bổ sung một đồng chí cấp tướng chẳng những am hiểu chiến trường này, mà còn nắm vững cả những quan điểm của Đại bản doanh và yêu cầu của Bộ tổng tham mưu về Viễn Đông, đồng thời, Bộ tổng tham mưu lại có được N. A. Lô-mốp, một chuyên gia nắm vững ngọn ngành mọi đặc điểm tình hình ở Viễn Đông.
Ngay trước lúc chiến tranh bắt đầu, năm 1938, quân khu Viễn Đông và năm 1941, cả quân khu Da-bai-can nữa, đều được đổi thành những phương diện quân mang hai tên ấy. Bộ phận chỉ huy các phương diện quân này chưa có kinh nghiệm chiến đấu, nên trong thời gian chiến tranh dần dần được thay bằng những tướng lĩnh và sĩ quan đã từng trải qua chiến đấu chống quân Đức Hít-le; chẳng hạn đại tướng M. A. Puốc-ca-ép, nguyên là tư lệnh phương diện quân Ca-li-nin được cử giữ chức tư lệnh phương diện quân Viễn Đông, còn đại tướng I. R. A-pa-na-xen-cô được phái đi thực tế ở phương diện quân Vô-rô-ne-giơ. Và các cán bộ chỉ huy khác ở Viễn Đông cùng đều lần lượt kinh qua thực tế chiến đấu trong các đơn vị đang tác chiến.
Từ giữa năm 1943 về sau, khi trên mặt trận Xô – Đức đã hiện ra bước ngoặt cơ bản có lợi cho ta thì việc tất yếu không tránh được là: sớm muộn gì rồi Nhật cũng phải quy theo vết nước Đức phát-xít. Các nước Đồng minh phương Tây của chúng ta, bằng mọi cách, thúc giục chúng ta tham chiến ở Viễn Đông càng sớm càng tốt. Nhưng chỉ tới khi hội nghị Tê-bê-ran, sau khi đã đi tới thỏa thuận cụ thể với nhau về việc mở mặt trận thứ hai ở châu Âu, thì đoàn đại biểu Liên Xô mới đồng ý về nguyên tắc là Liên Xô sẽ tiến công vũ trang vào nước Nhật đế quốc chủ nghĩa, nhưng với quy ước rõ ràng là Liên Xô sẽ tiến công sau khi đã đánh bại xong nước Đức Hít-le.
Các nhà cầm quyền Anh và Mỹ, như chưa thỏa mãn với những điều ước ấy, vẫn tiếp tục thúc giục Chính phủ Liên Xô tiến quân. Mới nhìn có thể cho rằng đường lối ấy của các nước Đồng minh là có mục đích tốt: nhằm nhanh chóng lập lại hòa bình trên trái đất. Nhưng, thực ra việc ấy sẽ đem lại những kết quả khác hắn. Liên Xô sẽ phải phân tán những cố gắng chiến tranh của mình, sẽ phải điều động quân đội từ mặt trận chính – mặt trận Đức sang, trong khi ở đấy quân thù vẫn chưa bị đánh bại. Và bất kỳ thế nào, nếu như việc chống quân Đức Hít-le phải kéo dài, thì chiến thắng cuối cùng cùng sẽ bị lùi xa, và trong thực tế, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai cũng sẽ phải kéo dài thời gian ra. Đứng về quan điểm chiến lược, làm như thế thật không hợp lý và chúng ta không làm như thế.
Mùa hè năm 1944, khi mặt trận thứ hai trì hoãn mãi sau cùng mới mở ra, thì các nước Đồng minh liền mưu toan tác động đến cách giải quyết của Liên Xô về vấn đề Nhật. Cuối tháng Sáu, thiếu tướng Đ. Đin, trưởng phái đoàn quân sự Mỹ ở Mát-xcơ-va, thay mặt tham mưu trưởng quân đội Mỹ đến gặp nguyên soái Liên Xô A. M. Va-xi-lép-xki, Tổng tham mưu trưởng của chúng ta, khẩn khoản đề nghị Liên Xô xúc tiến gấp chiến tranh ở Viễn Đông. Nắm vững quan điểm của Chính phủ xô-viết, A. M. Va-xi-lép-xki tuyên bố dứt khoát rằng chưa thể bàn đến việc này trước khi tiêu diệt được hoàn toàn nước Đức phát-xít. I. V. Xta-lin cũng trả lời đề nghị tương tự như vậy của Sớc-sin là: lập trường của Chính phủ xô-viết không thay đổi.
Mãi đến cuối tháng Chín 1944, sau khi báo cáo thường lệ ở Đại bản doanh, chúng tôi được Tổng tư lệnh tối cao giao cho nhiệm vụ chuẩn bị tính toán việc tập trung và bảo đảm quân đội ở Viễn Đông.
- Chắc là sắp cần đến, – Xta-lin kết thúc câu chuyện ngắn ngủi thoáng qua như thế thôi.
Đầu tháng Mười đã tính toán xong, và đến giữa tháng thì Xta-lin đã sử dụng những kết quả tính toán ấy lần đầu tiên trong cuộc hội đàm với Sớc-sin và I-đơn ở Mát-xcơ-va.
Riêng tôi, lần ấy là lần duy nhất trông thấy thủ tướng Anh. Một buổi tối, tôi cùng với tướng A. I. An-tô-nốp đến báo cáo thường kỳ ở Đại bản doanh; vừa đến phòng khách thì được tin Sớc-sin đang ở chỗ Xta-lin và Tổng tư lệnh tối cao có chỉ thị là chúng tôi đến báo cáo thì mời vào ngay.
Sớc-sin với Xta-lin ngồi trên hai chiếc ghế bành đối diện nhau, cả hai đều hút thuốc rất dữ: một người ngậm điếu xì gà thật to, còn một người vẫn cái tẩ không thay đổi. Đồng chí phiên dịch ngồi sau bàn.
Xta-lin giới thiệu chúng tôi và nói rằng ngài Sớc-sin muốn nghe báo cáo tình hình trên các mặt trận. An-tô-nôp báo cáo, nhưng bỏ một phần nội dung đã được Đại bản doanh thông qua. Báo cáo lần lượt các mặt trận từ Bắc xuống Nam và tình huống được trình bày gọn lại. Sớc-sin ra đứng bên bàn, chăm chú nhìn vào những tấm bản đồ trải rộng, chi hỏi có một câu: “Đức có bao nhiêu quân chống lại Ai-xen-hao?”. A. I. An-tô-nốp trả lời ông ta.
Sau đó chúng tôi được phép ra về, nhưng chúng tôi vẫn ngồi lại ở phòng bên nán đợi, vì biết rằng Sớc-sin sắp rời khỏi đây và chúng tôi sẽ lại báo cáo tiếp, xin chữ ký của Tổng tư lệnh tối cao vào một số văn kiện cần gấp. Chỉ chừng hai mươi phút sau, quả đúng như thế.
Trước khi chúng tôi ra về, Xta-lin gọi Pô-xcri-ô-bư-sép đến và chỉ thị:
- Rượu uýt-xki và xì-gà Sớc-sin tặng tôi, chuyển cho quân đội. – Xong, đồng chí quay sang phía chúng tôi, nói thêm: – Các đồng chí nếm thử xem, chắc không đến nỗi tồi.
Khi chúng tôi ra xe thì hòm uýt-xkt và xì-gà đã để trong thùng xe.
Cuộc hội đàm với Sớc-sin và I-đơn lúc đầu không có các đồng chí quân đội tham gia, nhưng khi nói tới tình hình Viễn Đông, thì có mời A. I. An-tô-nôp và Ph. I. Sép-tsen-cô tham dự. Sép-tsen-cô lúc này là trung tướng, tham mưu trưởng phương diện quân Viễn Đông. Chính phủ Liên Xô xác nhận trách nhiệm của mình phải tuyên chiến với Nhật Bản và có nói rõ thêm là việc đó sẽ tiến hành khoảng ba tháng sau khi nước Đức Hít-le đã đầu hàng.
Thời hạn ấy rất sát với thực tế nếu ta được các nước Đồng minh giúp cho việc tích lũy ở Viễn Đông chừng hai đến ba tháng nhiên liệu, lương thực dự trữ và xây dựng những phương tiện vận tải. Các nước Đồng minh dù chỉ chuyển giúp cho một phần những thứ trên trực tiếp tới các hải cảng ở Thái Bình Dương của ta, cũng sẽ làm đỡ cho ta được phần lớn việc điều động và tổ chức lại bộ đội đồng thời rút bớt thời hạn và khối lượng các thứ phải chuyên chở từ trung tâm đất nước ta. Các nước Đồng minh đồng ý với những điều yêu cầu của ta và bằng lòng đảm nhiệm một phần việc chuyên chở.
Tôi còn nhớ là sau những cuộc hội đàm tháng Mười 1944, vẫn chưa tiến hành ngay được biện pháp đặc biệt nào trong việc đặt kế hoạch chiến lược cho những chiến dịch đánh Nhật, vì bấy giờ vẫn chưa có dấu hiệu gì tỏ ra rằng sắp kết thúc chiến tranh với quân phát-xít Đức, mặc dầu chúng liên tiếp thất bại nặng.
Tháng Hai 1945, những người lãnh đạo ba cường quốc liên minh lại họp hội nghị nữa. Lần này họp ở Crưm. Cùng với những vấn đề quan trọng khác, hội nghị đã xác định rõ lần cuối cùng thời hạn Liên Xô phải tuyên chiến với Nhật là hai hay ba tháng sau khi kết thúc chiến tranh ở châu Âu. Đoàn đại biểu Liên Xô nêu ra trước hội nghị ba điều kiện:
1. Bảo vệ sự tồn tại của nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ.
2. Khôi phục những quyền lợi của Nga đã bị Nhật vi phạm năm 1904: thu hồi Nam Xa-kha-lin; quốc tế hóa Đại Liên và lập lại tô giới Lữ Thuận làm thành hải cảng quân sự của Liên Xô; cùng với Trung Quốc sử dụng các đường sắt Đông Trung Quốc và Nam Mãn Châu.
3. Trả lại quần đảo Cu-rin cho Liên Xô.
Các nước Đồng minh tiếp nhận những điều kiện của ta.
Ngày 5 tháng Tư, Chính phủ xô-viết tuyên bố hiệp ước trung lập ký kết với Nhật hết hiệu lực. Nếu ta cứ tự buộc mình vào hiệp ước ấy, trong khi phía Nhật đã bội ước và vi phạm thì thật là vô lý. Bấy giờ, ai cũng thấy rõ rằng chỉ trong vòng 30 tới 40 ngày nữa là chúng ta kết thúc toàn thắng chiến tranh ở phía Tây.
Và chính phủ Nhật Xu-du-ki không thể không thấy việc đó. Giả chúng biết nghĩ tới tình thế tuyệt vọng của chúng trong việc tiếp tục chiến tranh ở Thái Bình Dương thì thật là may mắn cho đất nước chúng. Việc tuyên bố bài ước của Liên Xô là một đòn mạnh cảnh cáo trước, nhưng chúng vẫn chưa chịu lưu tâm đến. Vẫn như trước, chúng cứ ra sức tuyên truyền chiến tranh điên cuồng với khẩu hiệu: dù thế nào chúng cũng chiến thắng. Thủ tướng Xu-du-ki thay mặt chính phủ tuyên bố: “chúng ta cấp bách tiến quân không ngừng để giành lấy thắng lợi trong chiến tranh”.
Đối với chúng ta, thì không còn việc gì khác ngoài việc đẩy mạnh các mặt công tác chuẩn bị để làm đầy đủ các trách nhiệm đồng minh của mình. Tổng tư lệnh tối cao lệnh cho Bộ tổng tham mưu tăng cường các cơ quan tham mưu và thành phần các cán bộ cao cấp cho các phương diện quân Da- bai-can và Viễn Đông và cho cả tập đoàn miền Duyên hải, điều động những cán bộ đã được rèn luyện trong chiến tranh chống quân Đức Hít-le sang đây, tốt nhất là những đồng chí trước đây đã từng phục vụ ở Viễn Đông. Đồng thời, Tổng tư lệnh tối cao còn chỉ thị đặt kế hoạch điều quân sang Viễn Đông, nhất là điều những tập đoàn quân và binh đoàn đã từng chiến đấu trong những điều kiện tương tự với miền Viễn Đông.
Chúng tôi lại được quy định là không đảo lộn tổ chức những đơn vị đang đóng ở Viễn Đông. Phương diện quân Viễn Đông về cơ bản vẫn giữ biên chế như cũ và do M. A. Puốc-ca-ép làm tư lệnh. Tập đoàn miền Duyên hải chuyển thuộc cơ quan tham mưu của phương diện quân Ca-rê-li-a trước đây, nay được điều sang phía Đông. Nguyên soái Liên Xô K. A. Mê-rét-xcốp được cử làm tư lệnh tập đoàn ấy.
- Anh chàng I-a-rô-xláp (Mê-rét-xcốp sinh trưởng ở thành phố I-a-rô-xláp nằm trên sông Vôn-ga. – ND.) khôn ngoan này sẽ tìm ra cách diệt bọn Nhật. – Tổng tư lệnh tối cao nói, khi cử Mê-rét-cốp làm tư lệnh. – Anh ta đã từng chiến đấu trong rừng và đã nhổ đồn địch không phải là lần đầu tiên.
Đối với hướng chủ yếu, hướng Da-bai-can, thì yêu cầu phải có những cán bộ lãnh đạo giàu kinh nghiệm đánh vận động. Tôi còn nhớ, A. M. Va-xi-lép-xki, người tham gia tích cực nhất vào việc xây dựng những kế hoạch chiến tranh ở Viễn Đông, đã để cử trước hết là nguyên soái Liên Xô R. I-a. Ma-li-nôp-xki làm tư lệnh phương diện quân Da-bai-can, rồi giới thiệu đại tướng M. V. Da-kha-rốp, một trong những cán bộ lãnh đạo giàu kinh nghiệm nhất của các cơ quan thuộc phương diện quân, làm tham mưu trưởng phương diện quân Da-bai-can.
Đề nghị ấy hợp ý Tổng tư lệnh tối cao. Ma-li-nốp-xki nổi tiếng từ lâu ở Đại bản doanh là một thống soái có tài, một vị chỉ huy quân sự nghiêm nghị, bình tĩnh và thận trọng, khi yêu cầu thì có căn cứ, khi báo cáo thì chặt chẽ.
Tháng Tư 1945. các đơn vị và cơ quan tham mưu bắt đầu chuyển sang Viễn Đông. Toàn bộ cơ quan tham mưu của phương diện quân Ca-rê-li-a trước đây lên đường đầu tiên tới thành phố Vô-rô-si-lốp.
Nguyên soái K. A. Mê-rét-xcốp, tư lệnh mới của tập đoàn miền Duyên hải đến địa điểm công tác chậm lại một thời gian, để khỏi lộ ý định, vì không riêng gì quân đội mà cả bên ngoài cũng đều biết Mê-rét-xcôp.
Ngày 30 tháng Tư, có chỉ thị chuyển tập đoàn quân 39 của thượng tướng I. I. Li-út-ni-cốp từ In-xtéc-buốc tới Da-bai-can. Khi quân Đức đã đầu hàng, thì cả những tập đoàn quân nổi tiếng khác từ rất xa cũng kéo về, như: tập đoàn quân 5 do thượng tướng N. I. Crư-lốp chỉ huy kéo về tập đoàn miền Duyên hải, tập đoàn quân 53 do thượng tướng I. M. Ma-na-ga-rốp làm tư lệnh và tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 do thượng tướng bộ đội xe tăng A. G. Cráp-tsen-cô làm tư lệnh, đều kéo tới phương diện quân Da-bai-can.
Nhiều đồng chí lãnh đạo của phương diện quân U-crai-na 2 ngày trước, như nguyên soái Liên Xô R. I-a. Ma-li-nôp-xki, đại tướng M. V. Da-kha-rốp, thượng tướng I. A. Pli-ép, trung tướng N. O. Páp-lốp-xki được cử sang đây, đều tới Tsi-ta. Trung tướng A. A. Lu-trin-xki làm tư lệnh tập đoàn quân 36 là tập đoàn quân đã ở Da-bai-can từ trước.
Chỉ huy các tập đoàn quân bố trí ở miền Duyên hải là: thượng tướng A. P. Bê-lô-bô-rô-đốp – tư lệnh tập đoàn quân Cờ đỏ 1, thượng tướng I. M. Tsi-xti-a-cốp – tập đoàn quân 25, và trung tướng N. Đ. Da-khơ-va-ta-ép – tập đoàn quân 35. Còn các đồng chí nguyên tư lệnh các tập đoàn quân ấy thì xuống làm phó tư lệnh. Các đồng chí đó thông thạo chiến trường ở đây, nên tất nhiên là rất có ích.
Cũng trong tháng Tư, ta đã triển khai việc cải tiến những thiết bị vật chất của các binh đoàn xe tăng hoạt động ở Viễn Đông.
Trong thời gian này, Bộ tổng tham mưu được chỉ thị phải hoàn thành việc lập kế hoạch chiến tranh chống Nhật. Lúc đầu chỉ mới khái quát thành nhiệm vụ chung, và mục đích có tính chất nguyên tắc mà Tổng tư lệnh tối cao đặc biệt nhấn mạnh là: tiến hành chiến tranh trong thời gian ngắn nhất.
Đó là nhiệm vụ còn phải mò mẫm rất nhiều.
Chúng tôi chưa biết được chắc là bọn hiếu chiến Nhật thấy tình trạng thất bại không sao tránh khỏi của quân đội Hít le, liệu có từ bỏ âm mưu tiến công vào Liên Xô không. Khả năng chúng tập kích ta vẫn chưa hoàn toàn bị loại trừ. Vì có thể là tình hình khó khăn của nước Đức phát-xít sẽ thúc đẩy nước đồng minh châu Á của nó hoạt động, nhằm phục vụ cho lợi ích chung.
Những lực lượng lớn lục quân Nhật bố trí dọc biên giới quốc gia Liên Xô, những căn cứ không quân và hải quân Nhật đặt ở gần lãnh thổ Liên Xô, cho phép bọn quân phiệt quá khích có thể đột kích vào những mục tiêu và những đơn vị quân đội quan trọng của ta, gây nên những hậu quả rất nặng nề cho ta. Do đó, ta rút ra kết luận là kế hoạch chiến tranh ở Viễn Đông nhất thiết phải có dự kiến đánh bại cuộc đột kích bất ngờ này.
Quá trình diễn biến của những sự kiện sau này mới cho thấy là các Lực lượng vũ trang Liên Xô không cần thiết phải tiến hành phòng ngự. Song, trước đây nhiệm vụ phòng ngự đã giao cho bộ đội, hệ thống phòng ngự đã được xây dựng, và những nguồn tư liệu hiện còn đã phản ánh đặc điểm đó trong những dự kiến chiến dịch – chiến lược hồi ấy của Bộ tổng tham mưu.
Kế hoạch hành động của Nhật trong trường hợp bị ta tấn công chưa thật rõ ràng lằm. Thành phấn chủ yếu của các lực lượng vũ trang Nhật là hải quân và lục quân. Không quân Nhật so với ta thì tương đối yếu. Tình hình các tập đoàn lục quân và hải quân chủ yếu của chúng có thể cho phép chúng phối hợp nhiều mặt với nhau. Tình hình đó cũng đòi hỏi ta phải phân tích để xây dựng kế hoạch hành động của mình cho thật hợp lý.
Lục quân Nhật bị phân tán. Ở Trung Quốc, chúng bố trí phần lớn thành những cụm quân trên khắp lãnh thổ của đất nước rộng lớn này. Ở Đông Dương, quan sát kỹ cũng thấy hình thái tương tự như vậy. Nhưng bố trí bị phân tán nhiều nhất là những lực lượng quân Nhật ở các đảo trên biển phía nam: địa hình ở đây không những bị các hải dương chia cắt, mà ngay trên đất liền cũng bị vướng nhiều núi non, rừng rậm.
Tập đoàn lục quân lớn cùng những tiềm lực dự bị chủ yếu của chúng còn đóng trên lãnh thổ ở chính quốc Nhật. Những lực lượng chủ yếu của hải quân và không quân cũng đặt căn cứ tại đây. Các nước Đồng minh của ta chưa quyết định tiến công thẳng vào chính quốc Nhật, và cũng chưa có ý định làm việc đó trong thời gian sắp tới.
Đạo quân Quan Đông ở Mãn Châu, do tướng O. I-a-ma-đa chỉ huy, là đạo quân tập trung nhất và mạnh nhất, hoàn toàn sẵn sàng hành động. Nhiều tướng lĩnh và sĩ quan Nhật đã trải qua trường học quân sự thực tế tại đấy.
Chúng tôi đã lọc đi lọc lại vô số phương án, nhằm tìm khâu chủ yếu, nếu thanh toán được khâu chủ yếu ấy thì toàn bộ hệ thống chiến tranh của Nhật sẽ bị sụp đổ. Chúng tôi làm việc không có gì phải vội vàng lắm, vì có đủ thời gian. Ni-cô-lai An-đrây-ê-vích Lô-mốp là cốt cán trong việc xây dựng kế hoạch, tính tình điềm đạm của đồng chí rất thích hợp với việc phân tích sâu tình huống ở Viễn Đông.
Hướng Mãn Châu, nơi đang bố trí Đạo quân Quan Đông của Nhật, là hướng đã thu hút chúng tôi nhiều hơn cả. Nếu đánh tan đạo quân này thì sẽ tiêu diệt được lực lượng xung kích chủ yếu của lục quân Nhật và phá đến tận gốc sức kháng cự của cả nước Nhật. Bộ tổng tham mưu, rồi sau đó cả Đại bản doanh, đã dần đi tới xác nhận ý định ấy và lấy nó làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch chiến tranh.
Đạo quân Quan Đông có gần một triệu người, được trang bị và huấn luyện tốt. Được phục vụ trong đạo quân này là bằng chứng của lòng trung thành đối với chế độ và nền tảng của chủ nghĩa đế quốc Nhật. Binh lính và sĩ quan được giáo dục lòng tin mù quáng đối với Nhật hoàng và lòng căm thù đối với các dân tộc khác, trước hết là đối với nhân dân xô-viết và nhân dân Mông Cổ, Trung Quốc.
Trước lúc bắt đầu chiến tranh, Đạo quân Quan đông có phương diện quân 1 và phương diện quân 3, tập đoàn quân độc lập 4 và tập đoàn quân không quân 2 cùng chi hạm đội sông Tùng Hoa. Khi bắt đầu chiến tranh, thành phần của Đạo quân Quan Đông được bổ sung thêm phương diện quân 17 và tập đoàn quân không quân 5.
Phương diện quân 1, hay là phương diện quân Đông Mãn Châu, gồm hai tập đoàn quân 3 và 5, do tướng Ki-tơ chỉ huy, có 10 sư đoàn bộ binh và một lữ đoàn. Phương diện quân triển khai dọc biên giới miền Duyên hải, những lực lượng chủ yếu bố trí trên hướng Mẫu Đơn Giang chạy dài tới Cáp Nhĩ Tân và Cát Lâm. Cơ quan tham mưu của phương diện quân đặt tại Mẫu Đơn Giang.
Phương diện quân 3 có hai tập đoàn quân 30 và 44, do tướng U-si-rốc chỉ huy, đã sử dụng một phần lực lượng là hai sư đoàn bố trí gần biên giới nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ; còn tập đoàn chủ yếu của chúng gồm sáu sư đoàn bộ binh, ba lữ đoàn bộ binh và một lữ đoàn xe tăng thì đóng ở miền Trung Bộ Mãn Châu, ở khu vực Thẩm Dương. Cơ quan tham mưu phương diện quân cũng bố trí tại đây.
Một tập đoàn quân độc lập 4 của tướng U. Mi-ki-ô, bố trí phân tán trên một không gian rộng ở Bắc Mãn Châu, thành cái hình vuông Hải Lạc Nhĩ – Tề-tề-cáp-nhĩ – Cáp Nhĩ Tân – Xa-kha-li-an. Tập đoàn quân này có ba sư đoàn bộ binh và bốn lữ đoàn.
Phương diện quân 17 gồm hai tập đoàn quân 34 và 58 bố trí ở Triều Tiên, cơ quan tham mưu đóng ở Hán Thành. Chỉ huy phương diện quân này là tướng Côt-du-ki, có chín sư đoàn bộ binh.
Lực lượng dự bị của tư lệnh Đạo quân Quan Đông gồm một sư đoàn bộ binh, một lữ đoàn bộ binh và một lữ đoàn xe tăng. Một lữ đoàn được tổ chức đặc biệt, mang danh hiệu cảm tử quân, gồm các trinh sát viên và lính diệt tăng, có một chức năng riêng. Trong không quân và hải quân cũng tổ chức những đội cảm tử quân.
Tập đoàn quân không quân 2 của tướng Kha-ra-đa, bố trí ở Trung Bộ Mãn Châu, có hơn 1.200 máy bay, (tuy những máy bay chiến đấu ít hơn nhiều). Ở Triều Tiên, có tập đoàn quân không quân 5 gồm 600 máy bay chiến đấu.
Trực thuộc tư lệnh Đạo quân Quan Đông còn có quân của Mãn Châu Quốc, Nội Mông và tỉnh Tuy Viễn, tổng số tới 20 sư đoàn bộ binh và từ 14 đến 15 lữ đoàn kỵ binh. Những binh đoàn trên không được như quân Nhật, huấn luyện ít, trang bị kém, nhưng tổng số quân cũng tới gần ba mươi vạn. Bộ chỉ huy Nhật lại có thể điều động lực lượng dự bị chiến lược đóng tại khu vực Bắc Kinh (gồm hai tập đoàn quân khoảng sáu đến tám sư đoàn) khi cần chi viện cho Đạo quân Quan Đông.
Hình thái chiến lược của Đạo quân Quan Đông có đặc điểm trước hết là ở cách xa chính quốc. Liên lạc với nước Nhật không phải ở đâu cũng thuận tiện, vì giao thông bị trở ngại. Ở Bắc Bộ và Tây Bộ Mãn Châu, mạng lưới đường sắt không được phát triển. Ở Trung Bộ và Đông Bộ thì những tuyến đường sắt chủ yếu lại nằm trong phạm vi hoạt động của máy bay xô-viết.
Đạo quân Quan Đông phải đóng rải thành một cánh cung lớn kéo dài tới 4.500 ki-lô-mét, dọc theo biên giới quốc gia Liên Xô và nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Thêm nữa là hậu phương Trung Quốc của chúng lại không được ổn định. Trong cái nhà nước ngụy là Mãn Châu Quốc, do Nhật dựng lên, nhằm che đậy đường lối đế quốc của chúng, thì nhân dân có thái độ thù địch với quân chiếm đóng.
Toàn dân Trung Quốc cũng căm thù bọn quân phiệt Nhật. Tình hình càng rắc rối hơn nữa, vì Tưởng Giới Thạch cũng là đối thủ của Nhật, chưa nói đến Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Tướng I-a-ma-đa buộc lòng chỉ trông cậy được vào Triều Tiên là đất quân Nhật đã chiếm đóng từ lâu. Đối với Đạo quân Quan Đông, Triều Tiên là nguồn lương thực chủ yếu và cơ sở tác chiến trong trường hợp tình thế gặp khó khăn. Nhưng ở Triều Tiên, quần chúng nhân dân cũng căm thù bọn chiếm đóng ghê gớm. Thêm nữa, Triều Tiên lại cách khá xa tập đoàn Mãn Châu của Nhật, nếu Liên Xô mở mũi đột kích từ phía miền Duyên hải vào thì có thể dễ dàng chia cắt tập đoàn đó ra. Như vậy bất kỳ ở đâu, hậu phương cũng vẫn là chỗ hiểm yếu của Đạo quân Quan Đông.
Trong nhiều năm chiếm đóng Trung Quốc, bọn quân phiệt Nhật đã tăng cường tiến hành việc xây dựng công sự dọc biên giới giáp Liên Xô. Dọc tuyến núi non giáp miền Duyên hải của ta có phòng tuyến cấu trúc những cứ điểm trong rừng rậm và trên núi. Dựa vào những công trình bằng bê tông và những chướng ngại vật thiên nhiên, các tướng Nhật cảm thấy tương đối an toàn.
Ở phía Bắc, những đường tiếp cận vào Mãn Châu chẳng những được mạch núi Tiểu Hưng An mà còn cả sông A-mua (Ta cũng thường gọi là Hắc Long Giang theo tiếng Trung Quốc. – ND.) rộng lớn yểm hộ, còn ở phía Tây – Bắc thì có dãy núi In-khu-ri – A-lin và dãy hoành sơn Đại Hưng An che chở.
Dãy núi hiểm trở Đại Hưng An cao trung bình 1.000 tới 1.100 mét trên mặt biển, chạy dài hàng mấy trăm ki-lô-mét theo hướng kinh tuyến, ăn sâu xuống lãnh thổ Mãn Châu, lúc thì chạy sát chỉ cách biên giới chừng 50 ki-lô-mét ở hướng Ho Luân, lúc thì ra xa 200 tới 250 ki-lô-mét. Còn ở Nội Mông, những ngọn núi Đại Hưng An lại liên kết với miền cao nguyên bán sa mạc, kéo tới tận phía Tây – Nam sa mạc Gô-bi.
Tuy vậy, cũng cần phải nhận xét rằng trong điều kiện không gian rộng lớn của chiến trường ở đây, Nhật không thể có đủ lực lượng để đóng liên tục suốt biên giới, hoặc chiếm giữ tất cả những tuyến phòng thủ thiên nhiên. Dù muốn hay không, chúng cũng bắt buộc phải chọn lấy những hướng tác chiến nào có nhiều khả năng thuận lợi hơn hết.
Dọc biên giới chung với Liên Xô và một phần biên giới chung với nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, chúng đã cấu trúc nhiều cứ điểm, yểm hộ những đường tiếp cận tới những đường ngang chính vượt qua các mạch núi. Trên nhiều đoạn dọc biên giới Mãn Châu với nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ có những bãi trảng rộng, mọi binh chủng bộ đội hoạt động dễ, thì không cấu trúc những công trình chướng ngại và hoàn toàn không có những đơn vị yểm hộ. Hướng có nhiều núi và sa mạc tới Đa Luân và Da-di-a-côp (Can-gan), bên cực phải phía sườn Mông Cổ thì rất yếu. Tất nhiên, chúng tôi có nghiên cứu kỹ hướng này lúc xây dựng ý định các chiến dịch.
Đồng thời, phải thấy rằng hình thái Đạo quân Quan Đông trên một số địa đoạn ngoài mặt trận sắp tới có nhiều ưu thế không thể chối cãi được. Rõ nhất là những địa đoạn ở Viễn Đông. Như đã nhận xét ở trên, dọc biên giới miền Duyên hải trên những hướng ta sẽ tiến công, chúng đã cấu trúc những khu vực kiên cố, có lực lượng của phương diện quân Đông Mãn Châu chiếm đóng, hợp thành thê đội một phòng ngự của địch.
Phía sau, không cách xa, là lực lượng của phương diện quân 17 mà khi cần, chúng có thể sử dụng tại Đông Bộ Mãn Châu. Chiến dịch tiến công của ta ở đây sẽ không tránh được việc phải tổ chức đột phá liên tục những khu vực kiên cố tiến công vượt qua những dãy núi và rừng rậm, tức là một hình thức tiến công gay go nhất, đòi hỏi phải có ưu thế trội hẳn về lực lượng và một số lớn những khí tài có sức chế áp mạnh.
Tại đồng bằng Mãn Châu, dựa vào những chướng ngại vật thiên nhiên, các khu vực trúc thành và các trận địa phòng ngự quân địch có thể tự do cơ động trên những tuyến tác chiến trong nội địa, điều quân ra những đoạn bị uy hiếp và triển khai trên những tuyến có lợi. Những tuyến tác chiến trong nội địa còn giúp cho quân Nhật có thể giữ được tập đoàn các đơn vị của chúng ổn định khi tình huống buộc phải tháo lui. Mạng đường sắt và đường bộ lớn hoàn toàn bảo đảm cho chúng đủ đường để cơ động rút lui.
Tất cả những mặt tích cực trên của quân Nhật. tất nhiên chúng tôi đều có tính toán thấy hết.
Việc nghiên cứu tỉ mỉ tình hình Đạo quân Quan Đông giúp cho Bộ tổng tham mưu rút ra được những kết luận sơ bộ rất quan trọng. Trước hết, rõ ràng là trong điều kiện ở Mãn Châu, Đạo quân Quan Đông bắt buộc phải tác chiến một cách tương đối biệt lập với những tập đoàn các đơn vị khác của quân Nhật.
Để chuyển chúng từ chỗ tương đối bị cô lập đến hoàn toàn bị cô lập, thì phía chúng ta, song song với việc đột kích của những lực lượng chủ yếu, phải triển khai tiến công cả trên những khu vực mà ta dự kiến là tướng I-a-ma-đa có thể cầu viện quân tiếp ứng. Việc ấy liên quan trước hết đến Triều Tiên, và tới một chừng mực nào đó, có liên quan đến miền Nam đảo Xa-kha-lin. Do đó, việc khống chế trên không của ta có ý nghĩa quan trọng.
Còn về hình thức vận động thì ngay trong giai đoạn nghiên cứu địch lúc này chúng tôi thấy thích hợp nhất là những hành động bên sườn cho phép bộ đội ta tiến vào khu vực Cát Lâm, Thẩm Dương. Như vậy sẽ chia cắt được toàn bộ tập đoàn Nhật ở Mãn Châu, không cho chúng hiệp đồng với tập đoàn các đơn vị đóng ở Triều Tiên và những đội dự bị ở khu vực Bắc Kinh. Sườn phía Mông Cổ của Đạo quân Quan Đông bị yếu, cho phép ta có thể thọc sâu ở đây, vào phía sau tập đoàn của chúng.
Đặc điểm bố trí thành tuyên sâu của Đạo quân Quan Đông, theo quan điểm chúng tôi, chứng minh rằng: nếu diễn biến chiến đấu ở Mãn Châu mà không lợi, thì bộ chỉ huy Nhật sẽ cho rút quân ra khỏi mặt Bắc và mặt Tây khu vực đang tác chiến, kéo về phía biên giới Triều Tiên; và như vậy sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để tiếp tục chiến dịch. Bộ tổng tham mưu đã không nhầm. Đúng là bọn Nhật đã có kế hoạch như thế. Nhưng chúng không tài nào thực hiện nổi, vì những đợt tiến công của quân đội xô-viết quá mãnh liệt.
Cũng cần vạch ra là nếu như các mũi đột kích của các tập đoàn đơn vị chúng ta hành động không đồng loạt với nhau, thì bọn Nhật có thể đánh lui từng bộ phận một, điều quân của chúng từ hướng này sang hướng khác. Và, chúng ta lại một lần nữa rút ra những kết luận thực tiễn.
Rất nhiều vấn đề đặt ra trước Bộ tổng tham mưu trong khi xây dựng ý định những chiến dịch. Muốn chiến thắng quân Nhật trong thời gian ngắn, thì phải dự kiến tiến công nhanh. Phải đánh tan ngay Đạo quân Quan Đông, không cho chúng rút về sâu Trung Quốc hay sang Triều Tiên.
Tập đoàn bộ đội xô-viết có mặt ở Viễn Đông tháng Tư 1945 chưa thể làm được việc ấy; tập đoàn đó mới chỉ giải quyết được những nhiệm vụ phòng ngự. Căn cứ vào hình thái bố trí bộ đội ta lúc bấy giờ, chúng ta chỉ có thể đột kích trên hướng Mẫu Đơn Giang (từ phía miền Duyên hải) và trên hướng Hải Lạc Nhì – Tề-tề-cáp-nhĩ (từ phía Da-bai-can).
Song, những mũi đột kích như vậy chưa giải quyết được vấn đề bao vây Đạo quân Quan Đông và cũng chưa thể cắt nổi giao thông của chúng. Những mũi đột kích đó có thể đẩy lùi nhưng không tiêu diệt được quân địch, như thế là sẽ mâu thuẫn với thực chất nhiệm vụ Đại bản doanh đã giao cho và không phù hợp với tính chất kiên quyết của chiến dịch sắp tới. Nếu chỉ đơn thuần đẩy lùi địch, thì chúng vẫn có thể tiếp tục điều những đơn vị trong tung thâm, nhất là ở Triều Tiên, đến tăng cường; và như vậy có nghĩa là không thể kết thúc chiến tranh sớm được. Với những lực lượng dự bị chúng có thể điều lên phía trước, thì mật độ lực lượng của chúng nhất định sẽ tăng lên. Đồng thời, sườn bên phải phương diện quân Da-bai-can của chúng ta lại bị quân địch từ phía những khu vực trúc thành trên biên giới nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ uy hiếp.
Muốn tránh khỏi tình trạng diễn biến như vậy, muốn ngăn không cho quân Nhật rút lui có tổ chức, thì yêu cầu đối với ta là không những phải thay đổi cách bố trí lực lượng, mà còn phải chọn hướng đột kích chủ yếu làm sao cho có lợi hơn cả. Lại còn phải bảo đảm cho mình những điều kiện để phát huy thắng lợi, tức là phải giải quyết đúng đắn vấn đề bố trí lực lượng thành tuyến trên các mặt trận, xây dựng các thê đội hai ở những nơi nào cần thiết. Tất nhiên, làm những việc trên không được để tổn hại đến uy lực của mũi đột kích ban đầu mà phải dựa vào việc điều quân bổ sung từ phía Tây sang.
Chúng ta thấy rằng mũi tiến công của một phương diện quân từ lãnh thổ Mông Cổ, đồng thời hợp điểm với mũi đột kích từ phía miền Duyên hải tới, là thuận lợi nhất. Trường hợp ấy diễn ra thì có thể cô lập hoàn toàn được Đạo quân Quan Đông. Ngoài ra, cũng không bỏ những mũi đột kích chính diện từ phía Bắc tới, vượt qua sông A-mua và dọc theo sông Tùng Hoa; những mũi đột kích này có nhiệm vụ góp phần vào việc chia cắt và tiêu diệt quân Nhật.
Mũi đột kích từ miền Duyên hải sang, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng cần phải đột phá cho được những khu vực trúc thành của quân địch. Mũi đột kích ấy sẽ đánh vào Trung Bộ Mãn Châu, phải làm cho phương diện quân 1 của Nhật thất bại chắc chắn và đưa quân ta tiến thẳng tới Trường Xuân, nơi cơ quan tham mưu của Đạo quân Quan Đông đang đóng.
Tất nhiên là khi tổ chức tiến công từ Mông Cổ sang, không được hút lực lượng vào những hướng không có triển vọng, những hướng nhìn chung không có địch. Quân địch không bố trí ở bên sườn cực phải, trên hướng Can-gan – Bắc Kinh, trong các bãi hoang sa mạc. Tiến công ở đây, sẽ không đem lại được cho chúng ta kết quả gì, ngoài việc phải uổng công chống lại khí hậu khắc nghiệt. Do đó, ta phải tuân theo một nguyên tắc mà qua thử thách đã chứng tỏ là đúng: phải đột kích chủ yếu vào nơi nào có thể mau chóng đem lại kết quả lớn nhất, và hướng mũi đột kích vào chỗ chắc chắn sẽ phá vỡ được sức mạnh những lực lượng chủ yếu của địch. Theo quan điểm của chúng tôi, hướng Ho Luân sẽ đáp ứng được triệt để những yêu cầu ấy.
Chúng tôi đã suy nghĩ khá lâu đến việc xây dựng tập đoàn binh lực. Yêu cầu phải có là bao nhiêu và như thế nào? Phải bố trí đội hình ra sao để bảo đảm chắc chắn tiêu diệt được địch và tiến công thật kết quả trên một không gian rộng lớn như vậy, đồng thời lại phải vượt qua núi non, rừng rậm, sa mạc, sông lớn, và những khu vực trúc thành? Khi nghiên cứu kỹ những vấn đề trên, ta thấy rõ ràng ở Mãn Châu, nếu không có tập đoàn quân xe tăng, những binh đoàn xe tăng độc lập và kỵ binh thì sẽ không giải quyết được gì. Lại cần có cả hạm đội trên sông A-mua lẫn sông Tùng Hoa. Cần cả không quân mạnh của tất cả các binh chủng nữa.
Chúng ta đã đem ra thảo luận vấn đề tập trung tập đoàn quân xe tăng ở đâu và sử dụng nó ra sao. Bộ tổng tham mưu lại nhìn đến mặt trận Da-bai-can; ở đây không có con sông A-mua sâu rộng, không có rừng rậm và những khu vực trúc thành. Tập đoàn quân xe tăng là phương tiện chiến đấu chủ yếu tăng sức mạnh đột phá cho bộ đội phương diện quân, làm cho tốc độ tiến quân sẽ cao và bảo đảm được chiều sâu tiến công. Dĩ nhiên vì ở sâu bên trong, trên đường tiến quân, xe tăng sẽ vướng phải dãy núi Đại Hưng An; chỉ mới nghĩ đến việc cho các chiến sĩ xe tăng đột phá qua dãy núi này là đã thấy rất phức tạp rồi. Nhưng Bộ tổng tham mưu cho rằng, việc sử dụng một tập đoàn xe tăng lớn bất ngờ như vậy, lại chính là then chốt để giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu của chiến dịch. Chúng tôi kiên trì chủ trương sử dụng tập đoàn quân xe tăng trên hướng chủ yếu thọc qua dãy Đại Hưng An và nhất thiết phải để nó nằm trong thê đội một của đội hình chiến dịch phương diện quân.
Lý do là: quân Nhật sẽ không thể ngờ được rằng mũi đột kích lại chọn ở đây. Theo những tin tức của ta thì những trận địa của chúng ở Hưng An không được chuẩn bị; những cứ điểm dã chiến độc lập lại do những đơn vị tương đối yếu chiếm đóng. Còn đối với dãy núi kia, chúng tôi cho rằng các chiến sĩ xe tăng dầy kinh nghiệm hoàn toàn có thể khắc phục được. Nếu như lại chiếm được những con đường xuyên ngang qua núi ở đấy trước quân địch, thì chúng sẽ không tài nào tìm đâu ra lực lượng đủ sức chống lại tập đoàn quân xe tăng.
Những dự kiến giành lấy quyền chủ động là quan trọng đặc biệt. Tập đoàn quân xe tăng mạnh và nhanh, bất ngờ đột kích có thể đem đến nhiều thắng lợi và sẽ tạo nên một lợi thế cần thiết cho toàn bộ chiến dịch của phương diện quân.
Vấn đề hiệp đồng các phương diện quân, nhất là hiệp đồng về thời gian bắt đầu các chiến dịch của các phương diện quân, cũng không thật đơn giản. Tầm quan trọng của việc hiệp đồng thì ai cũng biết, nhưng ở Mãn Châu, việc phối hợp làm sao cho thật sát giữa những nỗ lực của các phương diện quân với nhau có một ý nghĩa thật đặc biệt, vì điều kiện trên các hướng rất phức tạp và khác hẳn nhau.
Còn vấn đề kéo lực lượng địch ra khỏi dải hoạt động của tập đoàn miền Duyên hải cũng thật là hấp dẫn. Mới nhìn thì thấy rằng phương diện quân Da-bai-can bắt đầu tiến công trước để thu hút địch là hợp lý. Theo tính toán của ta, phải vào khoảng ngày thứ mười của chiến dịch, quân địch mới có thể điều được những đơn vị quân của chúng từ miền Duyên hải tới đây. Vì thế, phía miền Duyên hải sẽ mở mũi đột kích trong khoảng thời gian ấy.
Tuy nhiên, trong phương án ấy vẫn còn ẩn nhiều mối nguy hiểm. Chưa ai có thể cam đoan là bộ chỉ huy Nhật nhất định sẽ để cho hướng miền Duyên hải bị yếu, mà lại không sử dụng những đơn vị khác để đánh lui cuộc tiến công của ta ở Da-bai-can. Trong trường hợp này, quân địch lại có thể chống trả các phương diện quân của Liên Xô, như người ta thường nói là lần lượt theo thứ tự trước sau. Ngoài ra, những hành động của ta trên miền Duyên hải sẽ bị mất tính bất ngờ, vì quân địch đã đón mũi đột kích tại đây, và tất nhiên là chúng sẽ áp dụng những biện pháp phá đợt đột kích của ta.
Luận giải như vậy thì thấy: các phương diện quân tiến công đồng loạt là tốt nhất.
Rốt cuộc, cả phương án trên lẫn phương án dưới đều không bị bác bỏ. Theo chỉ thị của Đại bản doanh, Bộ tổng tham mưu tiếp tục suy nghĩ và nghiên cứu từng phương án một, sâu thêm nữa. Đại bản doanh cho rằng, trước lúc bắt đầu chiến tranh, tình huống tự nhiên sẽ giúp chúng ta tìm ra giải pháp đúng hơn cả đối với tình thế lưỡng nan ấy.
Chúng ta muốn giành cho được tính bất ngờ khi hành động nên gặp rất nhiều khó khăn, vì đã từ lâu bọn Nhật vẫn tin chắc rằng chiến tranh với Liên Xô là việc không thể tránh được Vì vậy giành cho được tính bất ngờ chiến lược lại càng là việc hết sức khó thực hiện. Tuy nhiên, trong lúc cân nhắc suy tính, chúng tôi đã nhiều lần nhớ lại những ngày đầu của cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại: bấy giờ đất nước chúng ta cũng chờ đợi cuộc tiến công như thế và đã chuẩn bị, song quân Đức vẫn đột kích được bất ngờ. Vì vậy, cả trong trường hợp này, lại càng không nên sớm bác bỏ việc tìm phương kế giành tính bất ngờ.
Yếu tố bất ngờ lúc bắt đầu chiến tranh ở Viễn Đông này, phụ thuộc trước hết vào việc giữ bí mật về tình hình chuẩn bị của bộ đội xô-viết. Bởi vậy, đã phải đề ra và tuân thủ hết sức chặt chẽ quy chế đặc biệt về việc điều động và tổ chức lại bộ đội. Thời gian bắt đấu tác chiến, tất nhiên chưa hề tuyên bố cho một ai biết.
Khả năng giành bất ngờ còn bao hàm cả việc tổ chức tập trung những phương tiện vật chất theo cách không giống như mọi khi. Chúng tôi cho rằng, quân địch dù có biết được một số tin tức về việc tiếp tế của các nước Đồng minh, nhưng nhất thiết sẽ vẫn ước tính quá cao thời gian chuyển vận của ta trên trục đường sắt duy nhất qua Xi-bi-ri. Dựa vào khả năng chuyển vận tương đối bị hạn chế của ta qua Xi-bi-ri, bọn Nhật xác định là phải đến mùa thu ta mới có thể bắt đầu chiến tranh, và chắc rằng đến lúc ấy chúng mới chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.
Chúng tôi còn dựa vào chỗ quân địch đinh ninh rằng bộ đội xô viết sẽ không bắt đầu tiến công khi điều kiện thời tiết không thuận lợi. Vì về thời gian bắt đầu chiến tranh với Nhật, ta đã thỏa thuận với các nước Đồng minh là “hai hay ba tháng sau khi kết thúc chiến tranh với Đức”, mà thời gian ấy lại rơi đúng vào mùa mưa ở Viễn Đông là lúc rất không thuận tiện, theo quan điểm lô-gích hình thức về chiến tranh.
Căn cứ vào các mặt của thứ lô-gích trên, bộ chỉ huy Nhật cho rằng thế nào ta cũng bắt đầu tiến công chậm lại, sau lúc ấy một ít, khi đã sang hẳn mùa khô. Sau này, những dự kiến của Bộ tổng tham mưu đã được xác nhận là không sai. Bộ chỉ huy Nhật phán đoán là đến giữa tháng Chín, ta mới bắt đầu tiến công được.
Địa hình, như đã nói một phần ở trên, cũng được sử dụng để đạt yếu tố bất ngờ. Cũng tất nhiên thôi, quân địch không ngờ nổi những đòn đột kích của ta nói chung, và nhất là mũi đột kích của xe tăng lại thọc xuyên qua mạch núi, rừng rậm và sa mạc khó đi lại. Việc ấy liên quan trước hết tới địa đoạn Mông Cổ, địa đoạn này lại bị mạch núi Đại Hưng An và những thảo nguyên khô cằn tiếp với sa mạc Gô-bi ngăn khỏi Mãn Châu và Nội Mông. Núi non hiềm trở, cây cối rậm rạp, biển cát khó vận động, đã bất chấp tất cả thứ lô-gích hình thức đó, hóa thành đồng minh của quân đội xô-viết!
Cuối cùng, không thể nào không nói đến cuộc tiến công táo bạo, mãnh liệt của Liên Xô. Thoạt nhìn, thì đó là đặc điểm thông thường của bất kỳ một chiến dịch tiến công nào. Nhưng ở đây, cần phải nghĩ kỹ đến quá khứ lịch sử của các lực lượng vũ trang Nhật Bản.
Trong những cuộc chiến tranh trước đây, quân Nhật thường phản bội trắng trợn, bao giờ cũng tiến công trước. Chẳng hạn khi chúng khai chiến với nước Nga năm 1904. Rồi đến ngày 7 tháng Chạp 1941, chúng cũng làm lại y hệt như thế ở Piếc Hác-bơ. Qua những hành động Phòng ngự trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Nhật chỉ gặp toàn những đối phương thường hay tiến hành những cuộc tiến công rất thận trọng, theo khuôn phép, có pháo binh và không quân bắn chuẩn bị và chi viện mạnh.
Như tôi được biết phấn nào, thì trước đó quân Nhật không thể đánh lui được những cuộc tiến công lớn bằng xe tăng. Chúng quen với lối hành động dè dặt, theo khuôn phép của những đối phương mà chúng đã gặp, quen với tốc độ tấn công tương đối không cao. Dĩ nhiên là chúng có coi nhẹ những kinh nghiệm chiến đấu khác. Vì vậy, đi đôi với việc giành yếu tố bất ngờ chiến lược, chúng tôi còn cố gắng sử dụng tất cả những phương pháp có thể để giành lấy bất ngờ chiến dịch và cả chiến thuật nữa, nhất là những đợt tiến công không dùng pháo bắn chuẩn bị và những trận đánh ban đêm. Những sự kiện ấy, trong một chừng mực nào đó, cũng đã góp phần giúp ta giành được thắng lợi.
Tháng Năm trôi qua lúc nào không biết, tháng Sáu đã đến…
Trong những ngày đầu của tháng hè đầu tiên ấy, ý định về những chiến dịch tiến công Đạo quân Quan Đông đã được lập xong về đại thể. Chúng tôi báo cáo lên Tổng tư lệnh tối cao ý định ấy, cùng với những bảng tính có liên quan. I. V. Xta-lin thông qua tất cả, không bác bỏ điểm nào, chỉ ra lệnh cho triệu tập nguyên soái R. I-a. Ma-li-nốp-xki và tướng M. V. Da- kha-rôp về Mát-xcơ-va sớm hơn những tư lệnh các phương diện quân khác cùng được mời về dự lễ Duyệt binh Chiến thắng.
R. I-a. Ma-li-nôp-xki và M. V. Da-kha-rốp phòng xa nên đã đem theo đồng chí trưởng ban tác chiến của cơ quan tham mưu phương diện quân – N. O. Páp-lôp-xki, và đã được cho năm ngày để xây dựng kế hoạch chiến dịch của phương diện quân. Họ nhanh chóng bắt tay vào việc ngay. Tất nhiên, ở Bộ tổng tham mưu các đồng chí ấy đã được thông báo tỉ mỉ ý định chiến lược, biên chế của phương diện quân và thời gian tập trung những đơn vị bộ đội. Chúng ta dự kiến là những đoàn tàu chở quân cuối cùng trong khoảng từ 1 đến 5 tháng Tám là phải hoàn thành nhiệm vụ.
Ngày 18 tháng Sáu, R. I-a. Ma-li-nốp-xki tường trình báo cáo của mình. Đúng như những yêu cầu của Đại bản doanh, tư lệnh phương diện quân Da-bai-can xuất phát từ sự cần thiết phải đánh tan Đạo quân Quan Đông trong một thời gian ngắn. Dự kiến là trong khoảng một tháng rưỡi đến hai tháng, sẽ làm cho những lực lượng chủ yếu của Đạo quân Quan Đông bị thất bại hoàn toàn. Nhưng, có thêm một điều: nếu điều kiện thuận lợi, địch có thể bị tiêu diệt còn sớm hơn nữa.
Trong dải hoạt động của phương diện quân Da-bai-can, dự kiến là phải chọi không những với những lực lượng lớn bộ binh Nhật, mà còn với xe tăng của chúng, với cả những đơn vị quân của Mãn Châu Quốc và của công tước Đe-van ở Nội Mông nữa. R. I-a. Ma-li-nốp-xki báo cáo: “Quân Nhật sẽ áp dụng mọi biện pháp có thể để tăng cường cho hướng này. Vì vậy, phải thấy rằng, chúng sẽ điều thêm lực lượng ở miền Bắc Trung Quốc tới đây, chừng bảy hay tám sư đoàn bộ binh. Cho nên, trong khoảng một tháng rưỡi đến hai tháng đầu của chiến tranh, phương diện quân Da-bai-can có thể chạm trán với 17 hay 18 sư đoàn Nhật, 6 hay 7 sư đoàn Mãn Châu Quốc và Nội Mông, và 2 sư đoàn xe tăng”.
Sau khi cân nhắc những khả năng của mình, trong điều kiện biên chế lúc ấy của phương diện quân gồm có bốn tập đoàn quân binh chủng hợp thành (17, 36, 39, 53), tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6, tập đoàn quân kỵ binh – cơ giới và tập đoàn quân không quân 12, tư lệnh phương diện quân rút ra kết luận: “Lực lượng như vậy đủ để đè bẹp sức chống cự của địch và nếu điều kiện thuận lợi, thì dựa vào ưu thế của chúng ta về xe tăng và pháo binh mà tiêu diệt 18 tới 25 sư đoàn Nhật”.
R. I-a. Ma-li-nốp-xki, cũng như Bộ tổng tham mưu, công nhận rằng hướng tới Hổ Luân, Sư-pin-gay là hướng đột kích chủ yếu có lợi nhất. Để đạt mục đích trên, ta dự kiến mở hai chiến dịch: chiến dịch thứ nhất có mục đích đánh chiếm Tổng Bộ Mãn Châu, chiến dịch thứ hai thì kết cục sẽ đưa bộ đội ta tới biên giới Mãn Châu – Bắc Trung Quốc, và giải bán đảo Liêu Đông.
Bố trí chiến dịch của phương diện quân là hai thê đội, tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 được sử dụng ở phía sau tập đoàn đột kích của phương diện quân. Ngay mở đầu cuộc tấn công được dự định trong khoảng từ 20 tới 25 tháng Tám.
Bộ tổng tham mưu đồng ý với kế hoạch đó về các nét cơ bản, nhưng về mặt sử dụng tập đoàn quân xe tăng thì Bộ tổng tham mưu giữ ý kiến trước đây của mình. Nếu để nằm trong thê đội hai, tập đoàn quân xe tăng sẽ không thể giữ vai trò chủ đạo khi phương diện quân vượt qua mạch núi Đại Hưng An được. Trong trường hợp ấy, bộ binh ở phía trước sẽ hạn chế tốc độ tiến quân của xe tăng sang phía Đông. Đồng thời, quả đấm bọc thép này rõ ràng đã mất khả năng chi viện cho bộ bính lúc đánh chiếm và bám lại trên những đường ngang xuyên qua mạch núi. Không thể trông đợi vào việc nhờ bộ binh yểm hộ cho xe tăng đột phá qua những đèo ngang đổ xuống đồng bằng Mãn Châu. Cứ thử tổ chức cho xe tăng đột phá trong khi bộ binh và các đoàn xe của bộ binh đang ùn đang lại trên các đèo ngang và những đường băng qua núi mà xem. Tóm lại, nêu bố trí đội hình tác chiến như vậy, các binh đoàn xe tăng sẽ mất cả tính năng tác chiến chủ yếu của nó.
Đại bản doanh công nhận những lý lẽ của Bộ tổng tham mưu là có chứng cứ đầy đủ và đề nghị R. I-a. Ma-li-nốp-xki khi về tới Da-bai-can thì nghiên cứu lại lần nữa phần nội dung đang còn tranh luận ấy trong kế hoạch, nghiên cứu bổ sung thêm ngoài thực địa những ý kiến khác của các đồng chí, rồi sau đó mới hạ quyết tâm cuối cùng. R. I-a. Ma-li-nốp-xki đồng ý, sau này đã đề nghị sử dụng tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 trong thê đội một.
Nhờ kết quả công việc tập thể sáng tạo với tất cả các tư lệnh phương diện quân, đến ngày 27 tháng Sáu 1945, ta đã xác định xong nội dung chủ yếu của kế hoạch chiến lược của Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô. Kế hoạch quy định mở ba mũi đột kích quyết liệt đồng loạt, hợp điểm ở Trung Bộ – Mãn Châu: sử dụng lực lượng chủ yếu của phương diện quân Da-bai-can đột kích từ cái gọi là “chỗ lồi Tam-xắc” ở nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ; sử dụng lực lượng của phương diện quân Viễn Đông 2, đột kích lừ khu Tây – Nam Kha-ba-rop-xcơ; và sử dụng tập đoàn bộ đội chủ yếu của phương diện quân Viễn Đông 1, đột kích từ miền Duyên hải. Mục đích của những mũi đột kích này là chia cắt các đơn vị của Đạo quân Quan Đông, cô lập chúng ở Trúng Bộ và ở Nam Bộ Mãn Châu và tiêu diệt chúng từng bộ phận một.
Bộ đội của phương diện quân Da-bai-can giữ vai trò chủ chốt, đột kích vào những cứ điểm quan trọng sống còn của địch: Thẩm Dương: Trường Xuân, Cảng Lữ Thuận. Chiếm được các mục tiêu trên là quyết định việc kết thúc chiến tranh.
Bộ đội của phương diện quân Viễn Đông 1 từ miền Duyên hải đột kích vào Cát Lâm theo con đường ngắn nhất, đón mũi đột kích của phương diện quân Da-bai-can. Bộ đội của phương diện quân Viễn Đông 2 tiến công vào miền ven Hắc Long Giang, kiềm chế địch và tạo điều kiện đánh tan Đạo quân Quan Đông.
Kế hoạch chung đã ghi như vậy trên bản đồ của A. M. Va-xi-lép-xki. Đồng chí được cử làm Tổng tư lệnh tất cả các đơn vị quân đội xô-viết ở Viễn Đông. Sau này, khi tiến hành các mặt công tác chuẩn bị trực tiếp ngoài các mặt trận, thì chỉ cần xác định lại cho rõ thêm một số chi tiết thôi. Kế hoạch phản ánh rất rõ ý định chủ yếu của Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô nhằm cô lập và tiêu diệt Đạo quân Quan Đông. Sau này, trên cơ sở kế hoạch đó, đã thảo ra những chỉ thị của Đại bản doanh về các chiến dịch ở Mãn Châu.
Ngày 27 tháng Sáu, K. A. Mê-rét-xcốp được phép lên đường sang Viễn Đông. Đồng chí rời khỏi Mát-xcơ-va trước A. M. Va-xi-lép-xki và R. I-a. Ma-li-nốp-xki mấy ngày.
Vì lợi ích chung, phải giữ gìn bí mật, nên các đồng chí đều không mang quân hàm nguyên soái.
Đến địa điểm công tác mới, K. A. Mê-rét-xcốp lấy tên là thượng tướng Mắc-xi-mốp, không được đi xe hỏa như đồng chí muốn mà phải đi máy bay. Xta-lin ngại là Mê-rét-xcốp có thể bị nhận ra nếu đi bằng đường sắt. Ngoài ra, Tổng tư lệnh tối cao còn muốn kiểm tra xem bay như vậy phải hết bao nhiêu thời gian.
K. A. Mê-rét-xcôp đi mất 36 giờ 55 phút thì tới thành phố Vô-rô-si-lốp. Riêng ngồi trên máy bay mất 28 giờ 30 phút. Đồng chí đến địa điểm ngày 29 tháng Sáu.
R. I-a. Ma-li-nốp-xki, lấy bí danh là thượng tướng Mô-rô-dốp, đến Tri-ta ngày 4 tháng Bảy. Cùng đi với đồng chí có M. V. Da-kha-rốp, lấy tên là thượng tướng Dô-lô-tốp. Đến mông 5 tháng Bảy, A. M. Va-xi-lép-xki cũng tới nơi, với chức vụ ghi trong giấy ủy nhiệm: “thứ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng, thượng tướng Va-xi-li-ép”.
Trước hết, A. M. Va-xi-lép-xki giao cho R. I-a. Ma-li-nôp-xki chỉ thị của Xta-lin về chiến dịch sắp tới. Văn kiện đó đặc biệt lưu ý việc bảo đảm cho đường sắt hoạt động liên tục trong phạm vi mặt trận và việc bảo vệ khu vực bố trí những lực lượng chủ yếu của ta.
Theo dự tính thì đến ngày 25 tháng Bảy là hoàn thành việc chuẩn bị những hành động tiến công phối hợp chung giữa bộ đội của phương diện quân Da-bai-can với Quân đội nhân dân cách mạng Mông Cổ. Mục đích chiến dịch là đánh tan Đạo quân Quan Đông và chiếm lấy khu vực Xích Phong – Thẩm Dương – Trường Xuân – Trà Lan Đông, nên phải đột nhập thật nhanh vào Trung Bộ Mãn Châu, có hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị của tập đoàn miền Duyên hải và phương diện quân Viễn Đông.
Chỉ thị lại nhắc đến việc phải cố chiếm lấy mạch núi Đại Hưng An trước quân Nhật. Vì vậy phải lập một tập đoàn đột kích mạnh, gồm ba tập đoàn quân binh chủng hợp thành (39, 53, 17) và một tập đoàn quân xe tăng (cận vệ 6), để vòng qua khu vực trúc thành Kha-lun Ác-san tới Trường Xuân.
Lại có yêu cầu ngăn chặn không cho địch rút quân về miền núi. Nhiệm vụ trước mắt của phương diện quân là: đánh tan quân địch đang chống cự, tiến công vượt qua Đại Hưng An, và đến ngày tiến công thứ 15 thì những lực lượng chủ yếu phải tiến tới tuyến Đại Bàn Sơn Lu-bây – Hổ Luân. Chiếm được tuyến này và bám được mạch núi Hưng An là những điều kiện quan trọng nhất để tiếp tục phát triển thắng lợi chiến dịch.
Xta-lin không ưa những việc không dứt khoát, rõ ràng. Đồng chí nhớ đến những cuộc tranh luận của chúng tôi mới đây về cách sử dụng tập đoàn quân xe tăng, nên khi ký chỉ thị, đã lệnh phải thêm vào điểm sau đây: “tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6, hành động trong dải đột kích chủ yếu ở hướng chung tới Trường Xuân, đến ngày thứ mười của chiến dịch phải tiến công vượt qua Đại Hưng An, chiếm giữ những đèo ngang qua núi, không cho địch có thể điều những đội dự bị của chúng từ phía Trung Bộ và phía Nam Bộ Mãn Châu tới, trước khi những lực lượng chủ yếu của bộ binh ta tiếp cận đến”. Chỉ thị viết như vậy đúng là đã quy định rõ vị trí của tập đoàn quân xe tăng trong đội hình chiến dịch của phương diện quân. Tập đoàn quân xe tăng chỉ có thể nằm trong thê đội một và tiến công ở phía trước những đơn vị khác.
Nhiệm vụ tiếp sau của phương diện quân là đưa những lực lượng chủ yếu tiến ra tuyến Xích Phong – Thẩm Dương – Trường Xuân – Trà Lan Đông, tức là vào chính giữa đội hình bố trí của Đạo quân Quan Đông.
Chỉ thị của Đại bản doanh còn quy định cả những hành động của các đơn vị trên những hướng thứ yếu. Cuối cùng, chỉ thị yêu cầu phải giữ gìn hết sức bí mật mọi công tác chuẩn bị của ta: “chỉ có tư lệnh, ủy viên Hội đồng quân sự, tham mưu trưởng phương diện quân và trưởng ban tác chiến trong cơ quan tham mưu phương diện quân mới được xây dựng toàn kế hoạch chiến dịch. Còn chủ nhiệm các binh chủng khác chỉ được xây dựng phần chuyên môn của mình trong kế hoạch chung, không được biết những nhiệm vụ chung của phương diện quân. Giao nhiệm vụ cho các tư lệnh tập đoàn quân thì giao trực tiếp bằng miệng. chứ không giao bằng văn bản. Số cán bộ chủ trì được phép tham gia xây dựng kế hoạch chiến dịch của tập đoàn quân cũng được quy định đúng như ở phương diện quân. Toàn bộ văn kiện tài liệu về kế hoạch hành động của. các đơn vị phải cất trong những tủ sắt riêng của tư lệnh phương diện quân và tư lệnh tập đoàn quân”. Ngoài ra, lại còn những chỉ thị bảo đảm bí mật chung cho tất cả các đơn vị bộ đội ở Viễn Đông nữa.
Đúng là ngay hôm đầu tiên tới Tri-ta, A. M. Va-xi-lép-xki liền cùng với Hội đồng quân sự phương diện quân nghiên cứu nhiều vấn đề tổ chức không thể trì hoãn, trong đó có một sồ vấn đề nếu không có sự can thiệp cấp bách của Mát-xcơ-va thì không thể nào giải quyết ổn thỏa được, ví dụ như việc thiếu than cho ngành đường sắt. Nguồn dự trữ than ở địa phương sắp hết, và muốn khỏi trở ngại đến việc vận chuyển cho chiến dịch, thì phải được phép sử dụng đến nguồn dự trữ của Nhà nước, bấy giờ đang cấm không được đụng đến.
Nhịp độ tích lũy đạn dược cũng đáng lo ngại. Phải đẩy mạnh tốc độ sản xuất ở các nhà máy và giao nhanh cho bộ đội. Máy bay vận tải đến mặt trận cũng không được nhanh lắm.
Khối lượng nước dự trữ cho các đơn vị thiếu nghiêm trọng. Mà thiếu nước thì cuộc tiến công của ta trên những miền sa mạc và núi ở Mãn Châu sẽ gặp nguy cơ phải dừng lại. Các điện báo viên cũng thiếu. Các cơ quan quân y được bổ sung chậm. Tình hình sửa chữa kỹ thuật xe tăng thiết giáp cũng không tốt.
Đáng ngại nhất là tình hình tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6. Kế hoạch vận chuyển bộ đội và khí tài của tập đoàn quân bằng đường sắt ngày càng bị phá vỡ. Tập đoàn quân không có ô tô vận tải, vì ô-tô còn ở vị trí bố trí cũ của tập đoàn quân. Ô tô của các đơn vị trong biên chế tập đoàn quân bổ sung tới chưa đủ, mới có 2.274 chiếc, cộng với số ô-tô của hai sư đoàn bộ binh cơ giới phối thuộc mới lên tới 3.000 chiếc.
Những cuộc trao đổi ý kiến và họp bàn chiếm mất hết ngày 5 tháng Bảy. Còn những ngày tiếp theo, A. M. Va-xi-lép-xki và R. I-a. Ma-li-nốp-xki, có hôm đi riêng, có hôm cùng đi với nhau, đến những hướng chiến dịch chủ yếu của phương diện quân Da-bai-can, tiến hành trinh sát thực địa thật kỹ càng với các tư lệnh tập đoàn quân và đích thân đi kiểm tra các đơn vị bộ đội. Trong quá trình làm việc ngoài thực địa, đã nảy ra nhiều dự kiến quyết định trước cho những thắng lợi rực rỡ của các chiến dịch tiến công sau đó của phương diện quân.
Tư lệnh phương diện quân đã bổ sung và hoàn chỉnh thêm kế hoạch tác chiến vạch ra lúc ban đầu.
Đồng chí thấy có thể giao cho tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 nhiệm vụ không phải đến ngày thứ mười của chiến dịch mới tiến công vượt Đại Hưng An như Bộ tổng tham mưu đã dự kiến, mà có thể vượt ngay trước ngày thứ năm của chiến dịch. Tốc độ tiến công như thế, trong điều kiện địa hình núi non hiểm trở, thoạt nhìn có thể cho là không ổn, nhưng trong thực tế thì các đơn vị không những có thể khắc phục được khó khăn, mà còn vượt mức nữa là khác.
Thời hạn quy định trước đây cho hai tập đoàn quân binh chủng hợp thành tiến vào đồng bằng Mãn Châu cũng rút ngắn hẳn lại. Ví như, tập đoàn quân 36 tiến công bên sườn trái phương diện quân, theo kế hoạch lúc đầu là đến ngày thứ mười hai của chiến dịch, phải chiếm lĩnh khu vực Hải Lạc Nhĩ; bây giờ tư lệnh phương diện quân lại giao nhiệm vụ cho tập đoàn quân là đền ngày thứ mười của chiến dịch đã phải hoàn thành nhiệm vụ trên, và tiến công xa nữa theo hướng Trà Lan Đông, Tề-tề-cáp-nhĩ.
Tập đoàn quân 53 được lệnh phải bám sát sau xe tăng và như vậy có nghĩa là thời gian mà bộ binh vượt Đại Hưng An sẽ rút ngắn rất nhiều. Trước kia, theo quy định trong kế hoạch, bộ đội của tập đoàn quân 17 đến ngày tiến công thứ mười lăm sẽ chiếm lấy Đại Ban Sơn, còn bây giờ theo đề nghị của tư lệnh tập đoàn quân A. I. Đa-ni-lốp, thì chỉ đến ngày thứ mười. Và, trong thực tế thì những chi đội phái đi trước của tập đoàn quân 17 đã chiếm được mục tiêu quy định và đến ngày thứ năm của chiến dịch đã đánh tan kỵ binh quân địch tại đây.
Tập đoàn kỵ binh – cơ giới Mông Cổ – Liên Xô, dưới sự chỉ huy của I. A. Pli-ép, hoạt động bên sườn phải của phương diện quân, cũng đề nghị rút ngắn thời gian tiến quân tới Can-gan và Đa Luân. Dự kiến là sẽ gặp Bát lộ quân Trung Quốc tại đấy và thực tế đã diễn ra đúng như vậy.
Tất cả những đề nghị của R. I-a. Ma-li-nốp-xki bổ sung và hoàn chỉnh bản kế hoạch, sau khi đã nghiên cứu tỉ mỉ những điều kiện trên thực địa, tất nhiên là đều được Đại bản doanh đồng ý.
Hoạt động của hai phương diện quân bạn ở miền Duyên hải và ven Hắc Long Giang cũng đúng như vậy. Được sự tham gia tích cực và trực tiếp của A. M. Va-xi-lép-xki, K. A. Mê-rét-xcốp và M. A. Puốc-ca-ép, các cơ quan tham mưu, chính trị và chủ nhiệm binh chủng của các phương diện quân đã giải quyết hết mọi vấn đề, nghiên cứu kỹ lưỡng địa hình, tình hình địch và tình hình bộ đội ta, xác định rõ thời hạn trong kế hoạch, áp dụng những biện pháp cải tiến việc bảo đảm vật chất trong chiến đấu.
Trong cuộc chiến đấu sắp tới, ta phải chống lại một kẻ địch mới, xảo quyệt và nguy hiểm, trên một chiến trường rất độc đáo và phức tạp. Cần phải tỉnh kỹ đến mọi mặt, tuyệt đối không để mắc sai lầm và phải sử dụng thật triệt để những kinh nghiệm lớn, tích lũy trong bốn năm chiến tranh ác liệt với nước Đức phát-xít.
Lúc đầu, Bộ tổng tham mưu chưa tính đến hình thức phối hợp những hành động của các phương diện quân. Hình thức ấy vốn đã có và đã được thực nghiệm trong suốt cuộc chiến tranh: đó là vai trò của vị đại diện Đại bản doanh.
Nhưng, tình huống và nhiệm vụ mà những cơ quan chỉ huy cao cấp phải giải quyết trong những chiến dịch chống đế quốc Nhật lại khác xa với những tình huống và nhiệm vụ trong cuộc chiến tranh ở phía Tây. Chiến trường ở cách xa trung tâm đất nước, quy mô rộng và phức tạp, việc sử dụng lực lượng và phương tiện có nhiều điểm khác hẳn, tất cả những điều đó đã gây thêm nhiêu khó khản. ở phía Tây, các phương diện quân ở kề nhau thường tiến công song song, và tiếp cận với nhau. Còn ở Viễn Đông này, căn cứ vào đặc điểm tình hình của địch, các phương diện quân lại phải tổ chức tiến công từ ba hướng dồn lại, mở những mũi đột kích hợp điểm tiêu diệt quân địch, cùng với sự tham gia tích cực của hạm đội. Muốn tổ chức và duy trì sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các phương diện quân, yêu cầu phải có một cơ quan chỉ huy riêng có đủ quyền lực.
Việc chỉ đạo ngoài thực địa ở đây đặt ra một loạt nhiệm vụ khác hẳn trước kia. Vị đại diện Đại bản doanh có uy tín đến đâu cũng không đủ quyền hạn đối với những nhiệm vụ ấy. Nói thật đúng ra, ngay các phương diện quân cũng không thuộc quyền vị đại diện Đại bản doanh nữa.
Vị Tổng tư lệnh quân đội xô-viết ở Viễn Đông phải đứng trên một cương vị khác hẳn thế. I. V. Xta-lin đã đề cập tới vấn đề này từ hồi tháng Tư 1945, khi tuyên bố cho A. M. Va-xi-lép-xki biết lần đầu tiên ý định cử đồng chí sang Viễn Đông. A. I. An-tô-nốp và tôi cũng có mặt trong buổi trao đổi hôm ấy. Sau đó, Đảng và Chính phủ lại trao cho đồng chí Tổng tư lệnh những quyền hành rộng lớn và cử theo đồng chí những cán bộ giúp việc đáng tin cậy.
Đại bản doanh cử thượng tướng I. V. Si-kin làm ủy viên Hội đồng quân sự quân đội Viễn Đông. Như tôi được biết, I. V. Xta-lin giới thiệu đại tướng M. V. Da-kha-rốp làm tham mưu trưởng Bộ Tổng tư lệnh. Lúc đến Tri-ta, A. M. Va-xi-lép-xki trao đổi về việc ấy với M. V. Da-kha-rốp. Nhưng Da-kha-rốp có ý kiến đề nghị trên để đồng chí làm tham mưu trưởng phương diện quân Da-bai-can thì có lợi hơn. Đại bản doanh và riêng A. M. Va-xi-lép-xki có nghiên cứu ý kiến ấy và thấy là đúng, vì M. V. Da-kha-rốp đã cộng tác lâu ngày với R. I-a. Ma-li-nốp-xki. Về sau, A. M. Va-xi-lép-xki hình như có ngỏ ý đề cử thượng tướng V. V. Cu-ra-xốp làm tham mưu trưởng, nhưng Cu-ra-xốp cũng đề nghị đừng đề cử đồng chí. Bây giờ mới cử thượng tướng X. P. I-va-nốp làm tham mưu trưởng Bộ tổng tư lệnh Viên Đông.
Cơ quan tham mưu được thành lập ngay. Các tướng lĩnh và sĩ quan đi với Va-xi-lép-xki đều được điều về công tác ở đây. Ngoài ra, còn cả một tổ sĩ quan của Bộ tổng tham mưu đang công tác ở Viễn Đông, dưới sự chỉ đạo của thiếu tướng N. Ph. Men-de-lin-xép, cũng bổ sung vào cơ quan tham mưu ấy. Việc chỉ huy các Lực lượng không quân tập trung vào bàn tay đầy kinh nghiệm của nguyên soái tư lệnh A. A. Nô-vi-côp; và trong cơ quan tham mưu của Bộ Tổng tư lệnh chỉ có một nhóm chỉ huy nhỏ do trung tướng E. M. Be-lít-xki phụ trách. Thượng tướng C. X. Na-da-rôp chỉ huy bộ đội công binh. Thượng tướng N. Đ. Pxu-rơ-xép chỉ huy bộ đội thông tin. Trực thuộc Bộ tổng tư lệnh còn có những đồng chí đại biểu có trọng trách của tất cả các cục trung ương, phụ trách bảo đảm vật chất kỹ thuật. Nhờ có những đồng chí ấy, tất cả những điều yêu cầu gửi về Mát-xcơ-va đều được giải quyết rất linh hoạt. Những đồng chí đại biểu ấy họp thành một tổ gồm 52 người, do thượng tướng V. I. Vi-nô-grát-đốp phó chủ nhiệm hậu cần các Lực lượng vũ trang, phụ trách.
Toàn bộ tiến trình những sự kiện sau này chứng minh rằng tổ chức chỉ huy như vậy là hoàn toàn đúng.
Sau khi Đức đầu hàng được ít lâu, I. V. Xta-lin có hội đàm với một nhà hoạt động chính trị nổi tiếng của Mỹ là Ha-ri Hốp-kin-xơ. Và ngay trong thời gian ấy, Bộ tổng tham mưu đã nhận được chỉ thị chuẩn bị cho cuộc hội nghị mới của những người lãnh đạo các cường quốc Đồng minh. Hội nghị đã họp trong hạ tuần tháng Bảy 1945 tại cung điện cũ của các vua Phổ ở Pốt-xđam.
Xta-lin đứng đầu đoàn đại biểu Liên Xô. Tham gia hội nghị, về phía quân đội có các đồng chí: Gh. C. Giu-cốp, N. Gh. Cu-dơ-nét-xốp, Ph. I-a. Pha-la-lê-ép, X. G. Cu-tre-rốp. Bộ tổng tham mưu có các đồng chí: A. I. An-tô-nốp, A. A. Grư-dơ-lốp, N. V. Xla-vin và M. A. Va-vi-lốp, cùng một bộ phận cơ quan phục vụ. Còn tôi phải ở lại để giải quyết công việc thường ngày của Bộ tổng tham mưu.
Hội nghị tiến hành như ta được biết, là không có Ru-dơ-ven. Ru-dơ-ven mới mất trước ngày chiến thắng nước Đức phát-xít được ít lâu. Nguyên phó tổng thống Mỹ G. Tơ-ru-man, lên thay tổng thống Mỹ, đến dự hội nghị Pốt-xđam.
Phần thứ hai của hội nghị họp không có Sớc-sin. C. Át-li, lãnh tụ của Công đảng Anh thắng phiếu trong cuộc tổng tuyến cử ở Anh, đã lên thay Sớc-sin.
Ở Pốt-xđam, trước hết đã xác định đường lối chung của các nước tham gia khối đồng minh chống Hít-le về vấn đề Đức. Các nước Đồng minh đã thông qua hiệp nghị quy định việc phi quân sự hóa và dân chủ hóa nước Đức, bồi thường cho những nước bị phát-xít xâm lược, xác định biên giới họp lý giữa các quốc gia. Nhiều vấn đề khác có liên quan đến nước Đức tương lai và hòa bình ở châu Âu cũng được giải quyết.
Ngay trong ngày họp đầu tiên, Liên Xô xác nhận là phía mình đã sẵn sàng hoàn thành trách nhiệm chiến tranh với Nhật. Tướng An-tô-nốp đã thông báo tỉ mỉ những kế hoạch của Liên Xô ở Viễn Đông. Các nước Đồng minh cũng báo cáo những ý định của mình, nhưng tuyệt không nói gì đến bom nguyên tử. Mãi sau một tuần lễ làm việc, G. Tơ-ru-man, đã thỏa thuận trước với Sớc-sin, mới đặt vấn đề cho Xta-lin biết rằng Mỹ có một loại bom có sức mạnh phi thường. Việc này diễn ra trong một cuộc hội đàm riêng, không chính thức, khi những người tham gia hội nghị đang vội thu xếp rạ về, sau những phiên họp đã làm mọi người mệt mỏi. Nhưng tổng thống Mỹ không hề nói đến kế hoạch sử dụng loại bom ấy.
Sau này, A. I. An-tô-nốp nói với tôi là Xta-lin có báo cho đồng chí biết rằng Mỹ đang có một loại bom mới, sức mạnh khủng khiếp phi thường. Nhưng An-tô-nốp, và có lẽ chính cả Xta-lin nữa, qua cuộc nói chuyện trên với Tơ-ru-man, dầu không rút ra được kết luận rằng đây là một thứ vũ khí mới về nguyên tắc. Dù sao, Bộ tổng tham mưu cũng không được chỉ thị gì về việc đó.
Mỹ, Anh và Trung Quốc ký kết ở Pốt-xđam bản tuyên bố chung theo hình thức tối hậu thư, yêu cầu Nhật phải đầu hàng không điều kiện. Ý nghĩa cơ bản của văn kiện ấy phù hợp với lợi ích của Liên Xô, nên trước khi bắt đầu chiến tranh với Nhật, Chính phủ chúng ta cũng tham gia ký vào bản tuyên bố với tư cách là thành viên thứ tư.
Ngày 3 tháng Tám, ngay sau khi Tổng tư lệnh tối cao ở Pốt-xđam về, nguyên soái A. M. Va-xi-lép-xki đã báo cáo tỉ mỉ về quá trình chuẩn bị tiến công. Công việc chuẩn bị đã gần xong. Ở phương diện quân Da-bai-can, các tập đoàn quân của I. I. Li-út-ni-cốp và I. M. Ma-na-ga-rốp đã tiến ra khu vực tập trung, cách biên giới Mông Cổ với Mãn Châu có 50 tới 60 ki-lô-mét. Cùng với tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 và những đơn vị khác của phương diện quân, các tập đoàn quân trên có thể bắt đầu tác chiến từ sáng mồng 5 tháng Tám.
Những tập đoàn đột kích khác của ta cũng đã ở trong các khu vực tập trung, hoặc ở gần ngay các nơi ấy. Trong thời gian này, các phương diện quân cũng lấy tên mới cho hợp với tình hình thực tiễn. Từ ngày 5 tháng Tám, phương diện quân Viễn Đông cũ gọi là phương diện quân Viễn Đông 2, còn tập đoàn miền Duyên hải thì gọi là phương diện quân Viễn Đông 1 Lúc bắt đầu tiến công quân Nhật, chúng ta có tất cả một triệu rưởi quân đã sẵn sàng chiến đấu, hơn 29 nghìn khẩu pháo và súng cối, hơn 5.200 xe tăng và pháo tự hành, gần 5.200 máy bay chiến đấu.
Theo kế hoạch, đến ngày 5 hay 7 tháng Tám, hạm đội Thái Bình Dương phải hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu.
A. M. Va-xi-lép-xki chủ trương là không nên để quá ngày 9 hay 10 tháng Tám mới vượt qua biên giới. Cần phải lợi dụng thời tiết thuận tiện trong những ngày sắp đến ở Da-bai-can, thời tiết ấy cho phép ta có thể sử dụng triệt để máy bay và xe tăng. Còn ở miền Duyên hải, tuy mưa vẫn kéo dài, nhưng đường sá và những sân bay xây rất tốt của các Lực lượng không quân, vẫn không hỏng. Riêng số sân bay của hạm đội có kém hơn và bị thấm nước. Nhưng, từ ngày 6 đến 10 tháng Tám, ở miền Duyên hải thời tiết có thể khá hơn.
Nếu còn hoãn lại ngày bắt đầu chiến tranh, thì sẽ không lợi cho ta, vì trinh sát đã phát hiện được một số dấu hiệu cho biết quân Nhật đang điều động, tổ chức lại ở Mãn Châu và Triều Tiên. Trong vòng tháng Bảy, số sư đoàn địch ở đây từ 19 đã lên tới 23, còn máy bay chiến đấu thì từ 450 lên đến 850 chiếc. Hơn nữa là bộ binh, chủ yếu trên những hướng miền Duyên hải và Hổ Luân, đều được tăng cường. Những sự kiện trên cũng đáng ngại, vi có thể chứng minh rằng quân địch đã phát hiện ra những ý định của ta và chuẩn bị phá vỡ những ý định ấy.
Tổng tư lệnh quân đội xô-viết ở Viễn Đông cho rằng các phương diện quân Viễn Đông 1 và 2 phải bắt đầu tác chiến cùng một ngày, một giờ với phương diện quân Da-bai-can, có như vậy mới hoàn toàn bảo đảm được yếu tố bất ngờ
Tuy vậy, cũng chỉ mới triển khai hành động đồng loạt của những chi đội mạnh phái đi trước, chuyên dùng để đánh chiến những mục tiêu phòng ngự quan trọng nhất của quân Nhật. Còn lực lượng chủ yếu của các phương diện quân thì chưa nghĩ đến việc triển khai đồng loạt. A. M. Va-xi-lép-xki đề nghị rằng chiến dịch chủ yếu của phương diện quân Viễn đông 1 và do đó những lực lượng chủ yếu của phương diện quân “tùy thuộc vào quá trình phát triển chiến dịch của phương diện quân Da-bai-can và sẽ bắt đầu sau chiến dịch của phương diện quân Da-bai-can chừng 5 tới 7 ngày”.
Tổng tư lệnh còn đề nghị đô đốc N. Gh. Cu-dơ-nét-xôp, bộ trưởng Bộ hải quân, tới Viễn Đông gấp để phối hợp hành động của các lực lượng hải quân với lục quân; quy định trước việc tiếp tục tăng cường cho các phương diện quân về người và kỹ thuật, nhất là xe tăng.
Những ý kiến của A. M. Va-xi-lép-xki nhằm xúc tiến gấp mọi việc để có thể bắt đầu chiến tranh sớm, trước kế hoạch một hay hai ngày, và cả trình tự bước vào tác chiến của phương diện quân Viễn Đông 1 cũng đã duyệt, Bộ tổng tham mưu chú ý nghiên cứu, tính toán kiểm tra lại. Dựa vào những sự tính toán trên, Đại bản doanh đã đối chiếu những dự kiến phát triển các sự kiện theo cả hai phương án. Kết quả là đề nghị của A. M. Va-xi-lép-xki, bắt đầu chiến tranh ngày 9 hay 10 tháng Tám, được thông qua. Nhưng Đại bản doanh không tán thành phương án của đồng chí chuyển bộ đội của phương diện quân Viễn Đông 1 sang tiến công chậm lại sau ít ngày. Chúng ta cho rằng những chi đội phái đi trước, dù mạnh đến thế nào cùng khó có thể chiến đấu đơn độc trong suốt 5 hay 7 ngày liền. Vì vậy cần phải nhanh chóng đưa chủ lực vào ngay để phát huy thắng lợi của những chi đội phái đi trước
Quyết tâm của Đại bản doanh được truyền đạt ngay cho A. M. Va-xi-lép-xki. Và đến ngày 7 tháng Tám, lúc 16 giờ 30 phút, Tổng tư lệnh tối cao mới ký chỉ thị. Bản chỉ thị xác nhận những nhiệm vụ đã giao trước đây cho các phương diện quân. Dự kiến là không quân sẽ bắt đầu hoạt động trên cả mặt trận từ sáng ngày 9 tháng Tám. Sảng hôm ấy, bộ binh của các phương diện quân Da-bai-can và Viễn Đông I phải vượt qua biên giới. Phương diện quân Viễn Đông 2 sẽ hành động theo chỉ thị của nguyên soái A. M. Va-xi-lép-xki.
Hạm đội Thái Bình Dương được lệnh sẵn sàng chiến đấu số 1. Các tàu ngầm bắt đầu hành động đồng thời với không quân từ sáng ngày 9 tháng Tám.
Mỗi lần nhớ lại cái việc đặc biệt sau đây, tôi tựa hồ nhớ lại một cơn ác mộng.
Còn độ mấy ngày nữa là bắt đầu chiến tranh, đúng vào ngày 3 tháng Tám, trong số văn kiện gửi cho tôi buổi sáng thấy có một lá thư ngắn do tòa soạn báo “Sao đỏ” gửi tới. Lá thư này gửi về tòa báo theo đường dây bưu điện, trông bên ngoài chẳng có gì đáng chú ý hơn hàng trăm bức thư khác. Nhưng những dòng chữ đấu tiên viết trong thư làm tôi hết sức kình ngạc. Té ra là trong lúc các mặt công tác chuẩn bị chiến tranh với Nhật đã tiến hành xong, kế hoạch và thời hạn tiến công đã ổn định, nguyên soái Va-xi-lép-xki và các tư lệnh phương diện quân đang ngày đêm điều động các đơn vị bộ đội tới những tuyến xuất phát, thì những tin tức về các sự kiện ấy đáng lẽ phải giữ gìn tuyệt đối bí mật, lại có thể đang hoặc đã thành ra tài sản của bọn địch.
Đồng chí Pê-tơ-rôp, người phóng viên không quen biết chúng tôi, đã báo cho biết như vậy:..
“Một hoàn cảnh đặc biệt buộc tôi, một người già, phải viết cho các đồng chí bức thư này. Trong những ngày cuối tháng Bảy, trước một số người lạ mặt ở một nơi công cộng, chừng hơn 20 người, một sĩ quan Hồng quân, quân hàm trung tá vô cùng ba hoa, đã tiết lộ bí mật của quân đội và nhà nước. Họ của đồng chí ấy là Pô-lúp hay Gô-lúp gì đó, còn tên là Ni-cô-lai I-va-nô-vích. Hình như hiện nay ta đang tăng cường chuẩn bị chiến tranh với Nhật, và đã phái một tổ sĩ quan của Bộ tổng tham mưu, do nguyên soái Va-xi-lép-xki đứng đầu để chi đạo những chiến dịch chống quân Nhật ở Viễn Đông.”
Tiếp theo, tác giả bức thư đề nghị phải khiển trách con người ba hoa này: “đồng chí ấy phải hiểu rằng lợi ích của nhà nước chúng ta đối với chúng tôi, những con người bình thưởng, còn quý hơn sự phong lưu riêng của con người trẻ tuổi ấy. Kính thư. Pê-tơ-rốp”.
Thế là bắt đầu cho đi truy tầm. Cái con người mà Pê-tơ-rốp cho biết trong thư, tìm ra cũng nhanh thôi. Đồng chí này là người được chọn đến công tác trong cơ quan của A. M. Va-xi-lép-xki. Chúng tôi còn xác nhận thêm được là đồng chí sĩ quan này còn ba hoa nhiều chuyện về cả cấp trên của mình, một cán bộ cấp tướng, có quan hệ trực tiếp với Tổng tư lệnh quân đội Viễn Đông, và về một số biện pháp của Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô nhằm chuẩn bị chiến tranh với Nhật.
Tất nhiên là chúng tôi không để đồng chí đó tiếp tục công tác trong cơ quan của Bộ Tổng tư lệnh, và cả trong bất kỳ cơ quan tham mưu nào khác nữa. Đồng chí ấy đã bị sa thải. Chúng tôi không báo cáo cho Xta-lin biết việc này.
Bức thư làm chúng tôi nửa buồn nửa vui, vì một mặt nó nói lên những thiếu sót trong công tác cán bộ của chúng tôi, nhưng mặt khác lại chứng minh rằng, có hàng triệu người xô viết yêu nước đang theo dõi bảo vệ những bí mật quân sự. May thay, những tin tức do anh chàng ba hoa kia tiết lộ, có lẽ không đi xa quá phạm vi nhóm người mà Pê-tơ-rôp viết trong thư, ít ra là chúng cũng chưa rơi vào tay địch.
Giờ bắt đầu chiến tranh đang nhích đến gần, mối lo về việc Nhật tăng quân ở Mãn Châu vẫn chưa dứt. Nhưng trinh sát báo cáo: không thấy có gì đáng lo ngại cả, và thế là có thể hy vọng rằng quân địch chưa thể nào giành quyền chủ động hành động với chúng ta.
Đúng lúc ấy đã diễn ra một hành động man rợ của Mỹ, bất chấp cả lương tri và sự cần thiết của chiến tranh: ngày 6 tháng Tám, chúng đã cho nổ trái bom nguyên tứ đầu tiên ở Hi-rô-si-ma, và ngày 9 tháng Tám, trái bom nguyên tử thứ hai đã thiêu sạch Na-ga-xa-ki. Tấn thảm kịch của hai thành phố trên không sao tả xiết được.
Những trái bom nguyên tử ném xuống đấy không thể ảnh hưởng gì tới khả năng tiếp tục chiến tranh của Nhật và tới những kế hoạch chiến tranh của ta.
Ngày 8 tháng Tám, chủng ta trao cho đại sứ Nhật ở Mát-xcơ-va một bản tuyên bố, có nêu rõ lý do, của Chính phú Liên Xô nói rằng từ ngày mồng 9, Liên Xô tự xem là ở trong tình trạng chiến tranh với Nhật. Ngay lúc ấy, ở Viễn Đông tuyên bố có tình trạng chiến tranh.
Ngày 9 tháng Tám, hồi 00 giờ 10 phút, theo giờ địa phương, những chi đội phái đi trước trong phương diện quân Da-bai-can bắt đầu hoạt động. Bốn giờ rưỡi sau thì những lực lượng chủ yếu bước vào tham chiến và hầu như không gặp sức kháng cự nào trên đường tiến quân.
Những đơn vị của phương diện quân Viễn Đông 1 vượt qua biên giới quốc gia lúc 1 giờ đêm. Trong dải của tập đoàn quân 35 hoạt động bên cánh phải, có tập kích pháo 15 phút trước khi tiến công. Còn trên hướng chủ yếu, tập đoàn quân Cờ đỏ 1 và tập đoàn quân 5 bắt đầu tiến công, không có pháo bắn chuẩn bị, có thể nói là hoàn toàn lặng lẽ, nếu như ở miền Duyên hải không nổi cơn dông.
Đột kích bất ngờ, đến cuối ngày thì các đơn vị bộ đội của phương diện quân Viễn Đông 1 đã thọc sâu vào lãnh thổ địch đến 10 ki-lô-mẻt, thậm chí có nơi còn sâu hơn nữa. Trong dải của mình, tập đoàn quân 5 đã chiếm được trung tâm đề kháng Vô-lưn thuộc khu vực bố phòng biên giới. Và, tập đoàn quân 25 bên sườn trái cũng tiến quân có hiệu quả.
Hai mũi vu hồi của hai phương diện quân tiến công đồng loạt hoàn toàn có hiệu lực. Bấy giờ, quân Nhật không tài nào có thể đẩy lùi các đơn vị bộ đội ta từng bộ phận một nữa. Phòng ngự của chúng đã bị rạn nứt khắp mọi nơi. chỉ cần một vài ngày nữa là cuộc vu hồi bao vây to lớn Đạo quân Quan Đông sẽ kết thúc rất tài tình…
Phương diện quân Viễn Đông 2 cũng bắt đầu tiến công hồi 1 giờ đêm ngày 9 tháng Tám. Những hành động của phương diện quân phối hợp tuyệt đẹp về thời gian với những phương diện quân khác. Các chi đội phái đi trước của tập đoàn quân 15 và các đơn vị biên phòng vượt qua sông A-mua có nhiệm vụ đánh chiếm những hòn đảo và những địa đoạn trên bờ sông đối diện. Các đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Sau đó, các lực lượng chủ yếu của tập đoàn quân bắt đấu tiến công vượt sông A-mua.
Tình hình trong dải của quân đoàn độc lập 5, tiến công vượt sông Út-xu-ri, cũng phát triển tương tự như vậy.
Tàu chiến của Chi hạm đội A-mua Cờ đỏ đã tiến vào cửa sông Tùng Hoa và chiến đấu trong khu vực trúc thành của quân Nhật. Các xuồng phóng lôi trên Thái Bình Dương đã tiến hành những đợt tiến công đầu tiên vào những chiến hạm địch.
Không quân thì đột kích vào các đơn vị quân Nhật và những mục tiêu quân sự khác.
Chiến cục bắt đầu ở nơi nào cũng có kết quả.
Lúc này, Bộ tổng tham mưu tập trung chú ý tới vấn đề giữ cho tốc độ tiến công đừng giảm sút. Quyết không cho quân địch hồi tỉnh và tổ chức phòng ngự vững chắc.
Hành động của các đơn vị bộ đội ta không có gì đáng lo ngại. Ngay ngày 12 tháng Tám, những lực lượng chủ yếu của các quân đoàn cơ giới thuộc tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 đã vượt mạch núi Đại Hưng An và uy hiếp đồng bằng Mãn Châu. Tuyến phòng thủ thiên nhiên quan trọng nhất, mà quân Nhật có thể dựa vào để ngoan cố chống cự, đã ở hẳn phía sau ta. Các đơn vị tiếp tục tiến quân với tốc độ không thay đổi tới Trung Bộ Mãn Châu, đến “mục tiêu số 1”, hồi ấy là Thẩm Dương. Thất thủ Thẩm Dương là toàn bộ hệ thống phòng ngự của quân Nhật ở Mãn Châu bị tiêu diệt.
Tình hình ở các phương diện quân Viễn Đông cũng diễn tiến tốt. Ở miền Duyên hải, bộ binh ta nối tiếp nhau vượt qua những khu vực trúc thành của địch, đi vòng ra sau những ổ đề kháng cực mạnh, để khỏi giảm tốc độ tiến công.
Chính phủ Nhật mưu toan tìm những cách giải quyết quanh co. Ngày 14 tháng Tám, khi quân đội xô-viết vượt qua những khu rừng rậm, núi non và những thảo nguyên, sa mạc, đang tiến như vũ bão xuống đồng bằng Mãn Châu thì chính phủ Nhật tuyên bố quyết định chấp nhận những điều kiện trong bản tuyên bố của hội nghị Pốt-xđam và xin đầu hàng không điều kiện trước các nước Đồng minh. Nhưng Đạo quân Quan Đông và cả những đơn vị quân khác, cùng hạm đội của chúng, vẫn không được lệnh cụ thể gì về việc đầu hàng cả. Theo tin tức từ các mặt trận báo cáo về, thì các sư đoàn quân Nhật và các đơn vị đồn trú vẫn tiếp tục chiến đấu.
Bộ tổng tham mưu báo cáo tình hình trên lên Tổng tư lệnh tối cao. Xta-lin có thái độ rất điềm tĩnh đối với vấn đề ấy đã lệnh cho chúng tôi công bố lên báo chí, giải thích tình hình thực tế ngoài các mặt trận và ra chỉ thị cho bộ đội tiếp tục những hành động chiến đấu tích cực cho đến khi quân địch phải thực sự đầu hàng không điều kiện.
Ngày 16 tháng Tám, báo chí công bố bản thông báo có chữ ký của A. I. An-tô-nốp. Tổng tham mưu trưởng Liên Xô giải thích rằng lời tuyên bố đầu hàng của Nhật hoàng chỉ là tuyên bố chung. “Chưa thấy có lệnh đình chỉ chiến sự gửi cho các lực lượng vũ trang và các lực lượng vũ trang Nhật vẫn tiếp tục chống cự như trước. Vì vậy, những lực lượng vũ trang Nhật chưa phải đã đầu hàng thực sự. Chỉ có thể công nhận cho các lực lượng vũ trang Nhật đầu hàng khi nào Nhật hoàng ra lệnh cho các lực lượng vũ trang của mình đình chỉ những hoạt động chiến đấu và hạ vũ khí, và khi nào mệnh lệnh đó thực tế được chấp.hành…”
Trong thời gian ấy, cuộc tiến công của bộ đội ta vẫn phát triển theo kế hoạch. Bộ tư lệnh Đạo quân Quan Đông thấy không thể ngăn nổi cuộc tiến công, buộc phải ra lệnh ngừng những hoạt động chiến đấu.
Nhưng lần này nữa cũng không phải không có những âm mưu xảo quyệt: trong mệnh lệnh không nói một chữ nào đến việc chịu đầu hàng làm tù binh. Như tướng U. Mi-ki-ô đã chỉ ra, văn bản mệnh lệnh truyền cho binh lính như sau: “Theo lệnh của Nhật hoàng, đình chỉ những hoạt động chiến đấu”. Ngoài ra, không nói gì hơn nữa, mặc dầu binh lính và sĩ quan Nhật lâu nay vẫn được giáo dục theo cái gọi là truyền thống quân nhân Nhật Bản, không chịu đầu hàng làm tù binh. Và, muốn tránh khỏi bị bắt làm tù binh, tất nhiên là chúng vẫn tiếp tục chống cự. Hơn nữa, ở một số khu vực trên mặt trận, có những nơi chúng còn tổ chức phản kích.
Ngày 17 tháng Tám, Tổng tư lệnh quân đội xô-viết ở Viễn Đông điện cho tư lệnh Đạo quân Quan Đông, yêu cầu dứt khoát buộc tất cả những đơn vị đồn trú của Nhật Bản phải hạ vũ khí và đầu hàng làm tù binh. Tiếp tục quanh co nữa cũng không xong, ngay ngày hôm sau, bộ chỉ huy quân Nhật đã phải ra lệnh đầu hàng và báo cho A. M. Va-xi-lép-xki biết. Nhưng sau đó, tại nhiều khu vực ở Mãn Châu, các trận chiến đấu vẫn tiếp tục, còn trên các đảo Cu-rin và Xa-kha-lin thì chiến đấu mới bắt đầu nổ ra.
Để đẩy mạnh việc buộc quân Nhật phải sớm đầu hàng thực sự và tránh việc tiếp tục đổ máu một cách không cần thiết, chúng ta đã quyết định cho đổ bộ đường không xuống những khu vực bố trí quân then chốt của địch: Cáp Nhĩ Tân, Cát Lâm, Thẩm Dương, Trường Xuân và một số thành phố khác ở Mãn Châu và Triều Tiên.
Ngày 18 tháng Tám, lúc 17 giờ, những máy bay chở đội đổ bộ đầu tiên gồm 120 người do trung tá Da-be-lin chỉ huy, cất cánh từ sân bay Khô-rôn và bay tới Cáp Nhĩ Tân. Đội đổ bộ có nhiệm vụ: chiếm sân bay và những mục tiêu quân sự quan trọng khác, bảo đảm việc gìn giữ những cầu qua sông Tùng Hoa và giữ vững những cầu ấy cho tới khi các lực lượng chủ yếu của phương diện quân Viễn Đông 1 tiếp cận đến.
Thiếu tướng G. A. Se-la-khốp, phó tham mưu trưởng phương diện quân được ủy nhiệm đặc biệt của Hội đồng quân sự phương diện quân, cùng đi với thê đội một của đội đổ bộ. Đồng chí nhận trách nhiệm trao cho bộ chỉ huy quân Nhật ở Cáp Nhĩ Tân bức tối hậu thư buộc phải đầu hàng và ra những điều kiện buộc chúng phải theo. Ta không có những tin tức chính xác về tình hình trong thành phần và lãnh sự quán Liên Xô hiện đang còn ở trong ấy. Chỉ biết rằng những lực lượng chủ yếu của phương diện quân 1 thuộc Đạo quân Quan Đông, quân số rất đông, đã bị thất bại ở Mẫu Đơn Giang và tạt sang Cáp Nhĩ Tân.
Đội đổ bộ của Liên Xô đến 19 giờ thì hạ cánh xuống sân bay Cáp Nhĩ Tân, và đã nhanh chóng chiếm toàn bộ khu vực sân bay. Lát sau, tướng Kh. Ha-ta, tham mưu trưởng đạo quân Quan Đông, có một số sĩ quan hộ tống, cũng tới đấy. Ha-ta báo cáo với thiếu tướng đặc mệnh rằng, các đơn vị quân Nhật ở vùng Cáp Nhĩ Tân đã rối loạn và bộ tham mưu hầu như không chỉ huy được nữa. G. A. Sê-la-khốp yêu cầu quân Nhật phải đầu hàng không điều kiện, và trao cho Ha-ta bức tối hậu thư sau đây:
“1. Để tránh đổ máu vô ích, Bộ tư lệnh quân đội Liên Xô yêu cầu đình chỉ ngay việc chống cự và bắt tay vào việc tổ chức đầu hàng, vì vậy hai tiếng đồng hồ sau phải đệ trình những số liệu về biên chế chiến đấu và quân số của các đơn vị quân đội khu vực Cáp Nhĩ Tân;
2. Các tướng lĩnh và sĩ quan Đạo quân Quan Đông, nếu tình nguyện đầu hàng thì trước khi Bộ tư lệnh Liên Xô có chỉ thị đặc biệt riêng, đều được phép mang bên mình vũ khí lạnh và ở lại những nơi đang ở của mình;
3. Bộ chỉ huy Nhật chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc bảo vệ và tổ chức giao nộp các trang bị, đạn dược, kho tàng, căn cứ và tài sản quân sự khác trước khi các đơn vị bộ đội Liên Xô đến;
4. Trước khi bộ đội Liên Xô đến, việc giữ gìn trật tự cần thiết trong thành phố Cáp Nhĩ Tân và những vùng ngoại ô giao cho các đơn vị quân Nhật. Vì vậy, cho phép một bộ phận những phân đội được vũ trang do sĩ quan Nhật chỉ huy, làm nhiệm vụ trên;
5. Những mục tiêu quan trọng nhất ở Cáp Nhĩ Tân và ở các vùng ngoại ô, như: sân bay, những cầu trên sông Tùng Hoa, đầu mối đường sắt, điện báo, cơ quan bưu điện, ngân hàng và những mục tiêu quan trọng khác, các phân đội đổ bộ sẽ chiếm lĩnh ngay;
6. Để thông nhất những vấn đề có liên quan tới việc đầu hàng và tước vũ khí toàn bộ Đạo quân Quan Đông trên lãnh thổ Màn Châu, tôi đề nghị trung tướng Ha-ta – tham mưu trưởng Đạo quân Quan Đông, Mi-i-ắc-ca-va – lãnh sự Nhật ở Cáp Nhĩ Tân, và những nhân vật khác tùy theo Bộ chỉ huy Nhật xét thấy cần thiết, đúng 7 giờ ngày 19 tháng Tám phải đáp máy bay của đội đổ bộ Liên Xô tới sở chỉ huy của tư lệnh phương diện quân Viễn Đông 1”.
Ha-ta xin ba tiếng đồng hồ “để chuẩn bị những tài liệu cần thiết”. Đề nghị ấy được chấp nhận. Hồi 23 giờ U. Mi-ki-ô, tư lệnh tập đoàn quân 4 của Nhật gửi tới bản mệnh lệnh xin đầu hàng của tất cả các đơn vị quân Nhật ở Mãn Châu, danh sách các tướng lĩnh và quân số, biên chế trong khu vực thành phố Cáp Nhĩ Tân. Bấy giờ, C. A. Sê-la-khốp đã ở trong ngôi nhà của lãnh sự quán Liên Xô. Lãnh sự G. I. Páp-lư-tsép của ta cũng có mặt ở đây. Còn các chiến sĩ đổ bộ đã chiếm lĩnh tất cả các cầu và những mục tiêu quan trọng khác trong thành phố.
Ngày 19 tháng Tám, Ha-ta, Mi-i-ắc-ca-va và các tướng lĩnh, sĩ quan Nhật đi cùng, đã tới sở chỉ huy của K. A. Mê-rét-xcốp. A. M. Va-xi-lép-xki, Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô ở Viễn Đông, cũng tới đây. Đồng chí đích thân quy định cho bọn Nhật cách thức đầu hàng của Đạo quân Quan Đông. Việc đầu hàng làm tù binh và tước vũ khí của tất cả các đơn vị phải kết thúc xong trước 12 giờ ngày 20 tháng Tám.
Trong lúc đang tiến hành những cuộc trao đổi trên thì các đội đổ bộ đường không của Liên Xô vẫn tiếp tục đổ quân xuống một số cứ điểm quan trọng trên đất Mãn Châu.
Sáng sớm ngày 19 thảng Tám, đại tá đặc mệnh I. T. Ác-tê-men-cô từ phương diện quân Da-bai-can bay thẳng tới Trường Xuân nơi bố trí bộ tham mưu của đạo quân Quan Đông. Đồng chí có nhiệm vụ tiếp nhận sự đầu hàng cua các đơn vị đồn trú ở Trường Xuân và tất cả những đơn vị quân Nhật đang đóng ở những vùng ngoại ô thành phố. Đi cùng với đại tá có 4 sĩ quan và 6 chiến sĩ, không kể 5 chiếc máy bay tiêm kích theo hộ tống.
Các máy bay Liên Xô xuất hiện bất ngờ trên sân bay trung tâm ở Trường Xuân, nơi đang đỗ gần 300 máy bay địch. Máy bay của ta lượn mấy vòng rồi hạ cánh, chiếm lĩnh đường bay và khống chế sân bay một lát trong tầm hỏa lực của mình. Sau khi thấy tình hình không có gì đáng ngại, Ác-tê-men-cô ra tín hiệu cho đội đổ bộ để bay tới Trường Xuân còn đồng chí thì tới trực tiếp gặp tư lệnh Đạo quân Quan đông
Trong phòng làm việc của I-a-ma-đa đang có cuộc họp. Đồng chí sĩ quan Liên Xô cắt ngang cuộc họp và trao cho quân Nhật Bản yêu cầu phải đầu hàng ngay và không điều kiện. Viên tư lệnh trưởng im lặng. Đến lúc các máy bay chở quân đổ bộ và những máy bay ném bom của ta xuất hiện trên bầu trời thành phố thì y mới trổ tài ăn nói. I-a-ma-đa mưu toan đặt những điều kiện trước cho mình. Nhưng I. T. Ác-tê-men-cô, theo đúng những điều đã hướng dẫn, bác bỏ thẳng những điều kiện ấy và kiên quyết yêu cầu phải đầu hàng ngay. Viên tư lệnh tự tháo kiếm ra trước tiên và trao cho đại tá đặc mệnh, nhận mình là tù binh của Quân đội Liên Xô. Tiếp theo, tất cả các tướng lĩnh khác đang ở trong phòng họp cùng làm như vậy.
Đến 11 giờ, toàn đội đổ bộ đứng đầu là thiếu tá cận vệ P. N. Áp-ra-men-cô, Anh hùng Liên Xô, đổ bộ an toàn xuống sân bay. Thành phần đội đổ bộ gồm những sĩ quan và chiến sĩ của lữ đoàn cơ giới cận vệ 30. Các chiến sĩ đổ bộ thay thế đội bảo vệ sân bay của địch, chiếm lĩnh phòng ngự vòng tròn và bắt đầu tước vũ khí các đơn vị quân Nhật và quân Mãn Châu.
Còn trong phòng làm việc của I-a-ma-đa, mọi việc cũng tuần tự diễn ra như sau: tư lệnh Đạo quân Quan Đông và thủ tướng Mãn Châu Quốc lần lượt ký biên bản đầu hàng.
Tối ngày 19 tháng Tám, lá cờ Nhật trên nóc ngôi nhà bộ tham mưu Đạo quân Quan Đông bị hạ xuống và cờ Liên Xô được treo lên. Các phân đội đổ bộ chiếm lĩnh đầu mối đường sắt, nhà ngân hàng, bưu điện, đài vô tuyến và điện báo. Các đơn vị quân địch rút ra khỏi thành phố. Ngôi nhà bố trí Ác-tê-men-cô cùng ban tham mưu được vội vã thành lập do một trung đội võ sĩ đạo đặc biệt bảo vệ. Nhưng đứng gác ở cửa ra vào không phải là một người lính, mà là một cậu bé còn rất trẻ, cháu trai của I-a-ma-đa. Theo tục lệ cổ của Nhật Bản, những người thân cận nhất của chủ nhà thường giữ gìn sự yên tĩnh cho khách; người cháu trai của viên tư lệnh đứng gác là bằng chứng và là sự bảo đảm cho an ninh của các đại diện xô-viết. Sáng ngày 20 tháng Tám, những chi đội phái đi trước của tập đoàn quân cận vệ 6 cùng tiến vào Trường Xuân.
Ngày 19 tháng Tám, hồi 13 giờ 15 phút, 225 người dũng cảm chọn trong tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 này, đổ bộ xuống Thẩm Dương. Thiếu tướng A. Đ. Pri-tu-la, chủ nhiệm chính trị của bộ tư lệnh phương diện quân Da-bai-can cùng đi với đội đổ bộ, với tư cách là thiếu tướng đặc mệnh.
Những sự kiện diễn ra ở đây có khác ở Trường Xuân đôi chút. Đại biểu của “Hoàng đế” Mãn Châu Quốc và giám binh Nhật ra đón các chiến sĩ đổ bộ. Trong lúc xem xét các ngôi nhà trong sân bay, bỗng có người phát hiện ra chính “hoàng đế” Phổ Nghi đang ở trong một ngôi nhà, ông ta tình cờ bị hãm ở đây. Các “ông chủ” Nhật Bản của đất nước này ra lệnh cho ông ta phải sang Nhật, nhưng chưa có máy bay đến chở, và Phổ Nghi cùng với đám tùy tùng đang ở sân bay, đợi chuyến bay đó, thì đúng lúc các chiến sĩ đổ bộ của ta hạ xuống.
Phổ Nghi đề nghị ngay là đừng tiết lộ ông ta cho bọn Nhật biết, sau đó chảy dòng nước mắt cá sấu khóc tình cảnh bị áp bức của nhân dân địa phương trong thời quân Nhật chiếm đóng. Sau cùng, ông ta trao cho thiếu tướng đặc mệnh của ta bức thông điệp, đoạn cuối có câu nguyên văn như sau: “Với lòng tôn kính sâu xa ngưỡng vọng tới Đại nguyên soái Liên Xô Xta-lin, tôi xin bày tỏ với Ngài lòng biết ơn chân thành và chúc Ngài sức khỏe dồi dào”.
Tình hình ở Thẩm Dương rất phức tạp. Dân số thành phố tới 1.700.000 người, trong đó có 70.000 người Nhật, chưa kể quân đội của chúng rút về đây và gần một nghìn rưởi kiều dân Nga trắng. Trong thành phố có lãnh sự quán Đức và cả “thủ lĩnh” của những tổ chức phát-xít Đức. Có 180 xí nghiệp công nghiệp các loại, kể cả những xưởng sửa chữa máy bay và xe tăng, đang hoạt động. Chủ nhân những xí nghiệp ấy đều là Nhật và chúng đã chạy trốn hết.
Một thành phố như vậy mới có 225 chiến sĩ đổ bộ tới làm nhiệm vụ thì thật không đủ sức. Ngày hôm sau, phải cử viện binh tới. Nhưng dầu sao thì bây giờ quân số của Liên Xô đóng trong thành phố cũng chỉ có tất cả 1.000 người, mà phải tước khí giới của 50.000 quân Nhật. Không có việc gì đáng tiếc xảy ra cả, nhưng bận rộn và căng thẳng vô cùng.
Từ ngày 20 tháng Tám, bộ tư lệnh quân quản của Liên Xô đứng đầu là thiếu tướng A. I. Cốp-tun – Xtan-kê-vích, bắt đầu hoạt động ở Thẩm Dương.
Không phải là không có chuyện nực cười. Ngày hôm sau, khi các đơn vị bộ đội của ta đã chiếm lĩnh Thẩm Dương. thì thấy máy bay Mỹ xuất hiện ngay trên bầu trời trung tâm thành phố và ném truyền đơn của viên tư lệnh quân đội Mỹ ở Trung Quốc gửi tới các sĩ quan quân đội Nhật. Truyền đơn nói rằng: bộ tư lệnh quân đội Mỹ muốn liên lạc với các chiến sĩ và sĩ quan của quân đội các nước đồng minh bị Nhật bắt làm tù binh, xin cho những đại biểu của mình hạ cánh xuống sân bay Thẩm Dương; thêm nữa còn có lời nói đón rằng, những đại biểu này xuống không theo đuổi một mục đích nào khác và đề nghị là nếu dưới đất ưng thuận thì cho “rải vải trắng ra sân bay”. Các chiến sĩ của ta trải vải trắng ra và máy bay Mỹ đỗ xuống. Các đại biểu xuống tới nơi đều xiết bao kinh ngạc, khi thấy ra đón họ lại là những quân nhân xô-viết.
Bên phía ta cũng xảy ra những trường hợp “đặc biệt”. Tình hình thành phố như vậy, nên không ai có thể cam đoan là bảo đảm được an toàn cho Phổ Nghi và những người tùy tùng của ông ta. Để tránh mọi việc bất ngờ có thể xảy ra: các chiến sĩ đổ bộ của chúng ta đã đút ngài Phổ Nghi vào sau những chấn song sắt để bảo vệ cho được chắc chắn. Việc đó được báo cáo lên A. M. Va-xi-lép-xki và Va-xi-lép-xki điện xuống là phải bỏ ngay cái kiểu giam giữ người như vậy và lệnh giải thích cho mọi người hiểu là cần đối xử với những nhân vật như vậy ra làm sao.
Các chiến sĩ đổ bộ đều đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chủ yếu của mình là bắt Đạo quân Quan Đông sớm phải đầu hàng. Những hành động táo bạo và chính xác của các chiến sĩ đổ bộ đã bảo vệ được những xí nghiệp công nghiệp, nhà máy điện, các công trình thông tin liên lạc, đường sắt và nhiều mục tiêu quân sự khác, giúp cho việc nhanh chóng khôi phục lại trật tự trong nhân dân, loại trừ được nhiều manh tâm phiêu lưu chính trị khác.
Khi quân Nhật ở Mãn Châu bắt đầu hạ vũ khí, Đại bản doanh liền ra ngay quyết định: những khu vực nào mà địch đã đầu hàng thì phải ngừng bắn ngay. Tuy nhiên, các tập đoàn quân và sư đoàn Liên Xô vẫn tiếp tục tiến quân tới nhưng khu vực đã định. Những chi đội mạnh phái đi trước hoạt động ở phía trước. Theo sau là những lực lượng chủ yếu làm nhiệm vụ tiếp nhận cho quân địch đầu hàng.
Bộ đội ta tiến vào lãnh thổ Triều Tiên. Các đội đổ bộ đường biển chiếm lĩnh những hải cảng quan trọng nhất của Triều Tiên. Các chiến sĩ xô-viết đã tới mảnh đất của cảng Lữ Thuận, là mảnh đất thiêng liêng đối với họ.
Việc đánh tan Đạo quân Quan Đông đã thành hiện thực. Riêng ở Xa-kha-lin, tại một vài nơi địch vẫn tiếp tục chống cự đến ngày 25-26 tháng Tám; còn ở quần đảo Cu-rin thì các đội đổ bộ đường biển mãi đến ngày cuối tháng Tám mới tiếp nhận xong việc quân Nhật đầu hàng.
Sau khi kết thúc những hành động chiến đấu, chúng tôi trong Bộ tổng tham mưu mới được giải đáp đầy đủ về một vấn đề mà chúng tôi vô cùng lo ngại là: chúng ta có giành được thế bất ngờ không? Sự thật lịch sử đã giải đáp câu hỏi đó và các tướng Nhật bị bắt làm tù binh đã xác nhận những sự thật lịch sử ấy. Quân địch thật không ngờ cuộc tiến công của ta lại mở ra trong tháng Tám; chúng cho rằng có mở được thì cũng phải lâu hơn nhiều. Vì vậy, công việc chuẩn bị những tuyến phòng ngự không những ở hướng Da-bai-can, hướng miền Duyên hải đều tiến hành chậm, mà cả trên tuyến Sư-pin-gay – Thẩm Dương, theo ý kiến của bọn Nhật là những nơi sẽ diễn ra những sự kiện chủ yếu, cũng làm chậm nốt. Tướng Mi-ki-ô, tư lệnh tập đoàn quân 4 của Nhật bị bắt làm tù binh, khai rằng việc thiết bị những tuyến phòng ngự phải tới tháng Mười 1945 mới có thể làm xong. Và tướng Xi- mít-du, nguyên tư lệnh tập đoàn quân 5, cũng tuyên bố là việc xây dựng những trận địa phòng ngự của chúng đang còn dở dang.
Những lời khai của phó tham mưu trưởng Đạo quân Quan cũng cùng có những điểm đặc biệt.
- Việc Liên Xô tuyên bố chiến tranh ngày 8 tháng Tám thực là hoàn toàn bất ngờ đối với bộ tư lệnh Đạo quân Quan Đông – tên thiếu tướng M. Tô-mô-ca-xu tuyên bố như vậy.
Chúng lại còn bị bất ngờ cả về quy mô, tốc độ tiến công và hướng đột kích nữa.
- Chúng tôi không ngờ cuộc tiến công của quân Nga lại nhanh đến vậy. – Xi-mít-du thú nhận. – Hơn nữa chúng tôi cũng không ngờ là quân Nga sẽ vượt qua được miền rừng rậm ấy.
Vì vậy, tất cả những gì chúng ta mong đợi và toàn bộ tổng hợp những biện pháp ta đã áp dụng, đều tỏ ra hoàn toàn đúng đắn.
Ngày 2 tháng Chín 1945, trên thiết giáp hạm “Mít-xu-ri”, chính phủ Nhật ký biên bản đầu hàng không điều kiện. Tham gia ký biên bản, về phía Liên Xô có trung tướng C. N. Đê-rê-vi-an-cô, đại diện của ta tại quân đội đồng minh ở Viễn Đông
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Trong cuộc chiến tranh này, Liên Xô đảm đương trọng trách quyết định và đã hoàn thành vai trò chủ yếu trong việc tiêu diệt chủ nghĩa quân phiệt điên cuồng không những chỉ ở phương Tây mà cả ở phương Đông nữa.
Bộ Tổng Tham Mưu Xô Viết Trong Chiến Tranh Bộ Tổng Tham Mưu Xô Viết Trong Chiến Tranh - Sergei Matveevich Shtemenko Bộ Tổng Tham Mưu Xô Viết Trong Chiến Tranh