Sự khác biệt giữa người thành công và những người khác không nằm ở chỗ thiếu sức mạnh, thiếu kiến thức, mà là ở chỗ thiếu ý chí.

Vince Lambardi

 
 
 
 
 
Tác giả: Rick Riordan
Thể loại: Phiêu Lưu
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 29
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 400 / 39
Cập nhật: 2019-12-06 08:57:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1 - Vui Với Đám Cháy Tự Phát
arter đây, Này nhé, chúng ta không có thời gian để giới thiệu dài dòng. Tôi cần phải kể câu chuyện này thật nhanh, hoặc tất cả chúng ta sẽ chết.
Nếu các bạn chưa nghe bản thu âm đầu tiên của chúng tôi, à... rất vui được gặp bạn: các vị thần Ai Cập đang tự do chạy loanh quanh trong thế giới hiện đại; một đám các pháp sư có tên gọi là Ngôi Nhà Sự Sống đang cố ngăn chặn các vị thần; mọi người căm ghét Sadie và tôi; và một con rắn khổng lồ sắp nuốt chửng mặt trời và hủy diệt thế giới.
[Ối! Cái gì thế nhỉ? ]
Sadie vừa đấm tôi. Con bé nói rằng tôi sẽ khiến các bạn quá sợ. Tôi nên quay lại, trấn tĩnh và bắt đầu lại từ đầu.
Tốt thôi. Nhưng cá nhân tôi, tôi nghĩ các bạn nên sợ hãi.
Mục đích của việc thu âm là để các bạn biết điều gì đang thực sự diễn ra và mọi việc trở nên tồi tệ như thế nào. Các bạn sẽ nghe thấy rất nhiều người nói vớ vẩn vể chúng tôi, nhưng chúng tôi không gây ra những cái chết đó.chuyện con rắn, cũng không phải là lỗi của chúng tôi nốt.
Ờ... không hẳn. Tất cả pháp sư trên thế giới phải cùng sát cánh bên nhau. Đó là cơ hội duy nhất của chúng tôi.
Vậy thì câu chuyện là thế này. Bạn hãy tự quyết định. Chuyện bắt đầu khi chúng tôi gây cháy ở Brookkyn.
Lẽ ra đó là một nhiệm vụ đơn giản: lén và Bản tàng Brooklyn, mượn một món đồ cổ Ai Cập nhất định và thoát ra mà không bị bắt.
Không, đây không phải là một vụ trộm cướp. Rồi thì chúng tôi cũng sẽ trả lại vật đó thôi. Nhưng tôi đoán là trông chúng tôi khả nghi: bốn thiếu niên mặc trang phục ninja đen ở trên mái bảo tàng. Ồ, và một con khỉ đầu chó, cũng mặc như một ninja. Hoàn toàn khả nghi.
Việc đầu tiên chúng tôi làm là cử hai học viên Jaz và Walt đi mở cửa sổ bên, trong khi Khufu, Sadie và tôi kiểm tra mái vòm kính lớn ở nóc bảo tàng, dự kiến là đường rút lui của chúng tôi.
Kế hoạch rút lui của chúng tôi có vẻ không được tốt cho lắm.
Trởi tối lâu rồi và lẽ ra bảo tàng đã phải đóng cửa. Nhưng mái vòm kính vẫn có ánh sáng. Bên trong, dưới chúng tôi bốn mươi bộ, hàng trăm người mặc lễ phục và váy dạ hội hòa vào nhau và khiêu vũ trong căn phòng lớn cỡ một nhà chứa máy bay. Một dàn nhạc đang chơi, nhưng với tiếng gió rít lên bên tai và răng và lập cập, tôi không thể nghe thấy tiếng nhạc.tôi đang bị đông cứng trong bộ quần áo ngủ bằng vải lanh.
Các pháp sư thường mặc đồ bằng vải lanh bởi nó không làm ảnh hưởng đến phép thuật, có lẽ đó là một truyền thống hay ho trên sa mạc Ai Cập nơi hầu như không bao giờ lạnh và mưa. Còn ở Brooklyn trong tháng Ba – không lấy gì làm hay ho cho lắm.
Sadie, em gái tôi, dường như không bận tâm tới giá lạnh. Em tôi đang mở khóa trên mái vòm trong khi khẽ hát theo một điệu nhạc gì đó trên Ipod. Tôi muốn nói là, nghiêm chỉnh nhé, ai lại mang những bản nhạc ưa thích của mình theo trong khi đột nhập bảo tàng chứ?
Con bé mặc quần áo như tôi ngoại trừ đôi bốt da hầm hố. Mái tóc vàng của Sadie điểm những lọn tóc highlight đỏ rực – thật là kín đáo để đi ăn trộm. Mắt xanh lam và làn da sáng, trông con bé chẳng hề giống tôi chút nào, cả tôi và con bé đều nhất trí là như thế chẳng sao hết. Thật tốt khi có thể phủ nhận cái đứa con gái điên rồ ở bên cạnh là em tôi.
“Em đã nói là bảo tàng sẽ không có người,” Tôi phàn nàn.
Sadie không nghe thấy tôi nói gì cho tới khi tôi rút tai nghe của nó ra và nhắc lại những gì đã nói.
“À, lẽ ra là không có người.” Em tôi sẽ phủ nhận điều này, nhưng sau khi sống ở Mỹ ba tháng qua, con bé đang bắt đầu mất dần giọng Anh của mình. “Trang web nói rằng bảo tàng đóng cửa lúc năm giờ. Làm sao em biết được lại có một đám cưới chứ?”
Một đám cưới? tôi nhìn xuống và thấy Sadie nói đúng. Một vài phụ nữ mặc những chiếc váy phù dâu màu hồng đào. Trên một trong những chiếc bàn là một chiếc bánh ba tầng màu trắng. Hai nhóm khách đã nâng cô dâu và chú rể trên hai chiếc ghế và khiêng họ đi khắp gian phòng trong khi bạn bè quây xung quanh họ, nhảy múa và vỗ tay. Toàn cảnh trông như thể một cú đâm trực diện với đồ đạc sắp sửa diễn ra.
Khufu gõ lên mặt kính. Dù mặc quần áo đen, nó chẳng dễ hòa vào bóng tối với bộ lông vàng kim, chưa kể đến cái mũi màu cầu vồng và bàn tọa của nó nữa.
“Á!” nó gầm gừ.
Bởi nó là khỉ đầu chó, nên nói như vậy có thể nghĩa là Nhìn kìa, dưới kia có đồ ăn hoặc Tấm kính này bẩn thế hay Này, mấy người kia đang làm chuyện ngu ngốc với mấy chiếc ghế.
“Khufu đúng đấy,” Sadie phiên dịch. “Chúng ta sẽ khó mà lẻn ra qua bữa tiệc kia. Có lẽ nếu chúng ta vờ là đội bảo dưỡng -”
“Hẳn vậy,” tôi đáp, “thứ lỗi cho chúng tôi nhé. Bốn đứa nhóc đi qua với một bức tượng nặng ba tấn. Chỉ đưa tượng qua mái nhà thôi hả. Đừng để tâm đến chúng tôi.”
Sadie trợn mắt. Con bé lôi cây đũa thần của mình ra – một cây đũa cong bằng ngà trạm trổ hình ảnh các quái vật – và chỉ vào chân mái vòm. Một ký tự tượng hình màu vàng kim cháy lên, và ổ khóa cuối cùng bật ra.
“Nào, nếu chúng ta không dùng lối này làm đường rút,” em tôi nói, “thì tại sao em mở nó ra nhỉ? Chẳng lẽ ta không thể thoát ra bằng lối ta vào – qua cửa sổ bên?”
“Anh nói với em rồi. Bức tượng to lắm. Nó sẽ không lọt qua cửa sổ bên đâu. Hơn nữa, những cái bẫy –“
“Thế thì, mai ta thử lại vậy?” em tôi nói.
Tôi lắc đầu. “Ngày mai toàn bộ các vật trưng bày sẽ được đóng hòm và chuyển đi phục vụ triển lãm.”
Con bé nhướn mày theo cái kiểu rất khó chịu của nó. “Có lẽ nếu ai đó bảo ta sớm hơn rằng ta cần ăn trộm bực tượng này – “
“Quên đi.” Tôi có thể đoán được chuyện này sẽ đi tới đâu, và sẽ chẳng ích gì nếu Sadie và tôi cãi nhau trên mái nhà cả đêm. Dĩ nhiên, em tôi nói đúng. Tôi đã không nói với con bé sớm lắm. Nhưng này – nguồn tin của tôi cũng không hẳn là đáng tin cậy. Sau hàng tuần cầu xin giúp đỡ, cuối cùng tôi cũng được ông bạn thân Horus, thần chiến tranh chim ưng, mách nước trong những giấc mơ: Ồ, nhân tiện, cái món đồ cổ trưng bày mà cậu muốn đó? Cái món đồ có thể nắm giữ chìa khóa để cứu hành tinh này ấy mà? Nó đã yên vị trong Bảo tàng Brooklyn trên phố trong ba mươi năm qua, nhưng ngày mai nó sẽ rời đi Châu Âu, vậy nên cậu hãy khẩn trương lên thì hơn! Cậu sẽ có năm ngày để tìm ra cách sử dụng nó, hoặc là chúng ta sẽ toi cả. Chúc may mắn!
Tôi có thể gào lên với ông bạn vì đã không bảo tôi sớm hơn, nhưng như thế cũng chẳng thay đổi được gì. Các vị thần chỉ nói khi họ sẵn sàng, và họ không cảm nhận tốt lắm về thời gian của người trần. Tôi biết thế vì Horus đã chiếm hữu một phần trí óc tôi vài tháng trước. Tôi vẫn còn một vài thói quen không hòa đồng lắm của ông ấy – ví dụ như đôi khi có ham muốn mạnh mẽ phải săn lùng những con thú gặm nhấm bé nhỏ lông lá, hay thách đấu sinh tử với mọi người.
“Hãy làm đúng theo kế hoạch,” Sadie nói. “Vào qua cửa sổ bên, tìm ra bức tượng, đưa nó đi qua phòng khiêu vũ. Lúc đó chúng ta sẽ nghĩ ra cách đối phó với tiệc cưới. Có lẽ sẽ đánh lạc hướng.”
Tôi cau mày. “Đánh lạc hướng ư?”
“Carter, anh lo lắng quá mức,” em tôi nói. “Sẽ tuyệt vời. Trừ phi là anh có một ý tưởng khác?”
Vấn đề là ở chỗ, tôi chẳng có ý tưởng khác.
Bạn cứ nghĩ rằng phép thuật sẽ khiến mọi thứ đơn giản hơn. Trên thực tế, nó thường khiến mọi sự phức tạp hơn. Luôn có cả triệu lý do tại sao câu bùa phép này hay bùa phép khác không hiệu nghiệm trong một số tình huống nhất định. Hoặc là có những phép thuật khác cản trở bạn – ví dụ như những bùa phép bảo vệ bảo tàng này.
Chúng tôi không biết chắc ai là người đã yểm những bùa chú đó. Có thể một trong những nhân viên bảo tàng là một pháp sư cải trang, một điều không phải là không phổ biến. Chính cha chúng tôi đã sử dụng chức vị tiến sĩ về Ai Cập học làm bình phong để có thể tiếp cận các đồ cổ. Thêm nữa, Bảo tàng Brooklyn có bộ sưu tập các cuộn giấy phép thuật Ai Cập lớn nhất trên thế giới. Chính vì thế mà ông chú Amos của chúng tôi đặt trụ sở đầu não ở Brooklyn. Rất nhiều pháp sư có thể có lý do để bảo vệ hoặc đặt bẫy treo trên các hiện vật quý của bảo tàng.
Dù sao chăng nữa, các cửa và cửa sổ được yểm vài lời nguyền khá là hiểm ác. Chúng tôi không thể mở một cánh cửa phép thuật và phòng trưng bày cũng như không thể sử dụng shabti triệu hồi của chúng tôi – những bức tượng phép thuật bằng đất sét đã từng phục vụ chúng tôi trong thư viện – để đưa chúng tôi tới chỗ món đồ cổ mà chúng tôi cần.
Chúng tôi sẽ phải vào và ra một cách vất vả; và nếu chúng tôi phạm sai lầm, không thể nào nói được là chúng tôi sẽ kích hoạt lời nguyền nào: những quái vật canh gác, bệnh dịch hạch, lửa hay những con lừa nổ tung (đừng cười; chúng chẳng hay ho gì đâu).
Lối ra duy nhất không bị cài bẫy treo là mái vòm ở phía trên phòng khiêu vũ. Có vẻ như những người bảo vệ bảo tàng không lo lắng gì về chuyện những tên trộm có thể làm bốc hơi các vật trưng bày qua một cửa mở ra không trung cao tới bốn mươi bộ. Hoặc là mái vòm đã bị đặt bẫy, và bẫy được giấu quá khéo nên chúng tôi không nhìn thấy.
Kiểu gì thì chúng tôi cũng phải thử. Chúng tôi chỉ còn đêm nay để ăn trộm – xin lỗi, để mượn – món đồ cổ. sau đó chúng tôi sẽ có năm ngày để tìm ra cách sử dụng dụng nó. Tôi rất khoái các thời hạn đấy.
“Vậy là chúng ta sẽ xông vào và tùy cơ ứng biến chứ?” Sadie hỏi.
Tôi nhìn xuống tiệc đám cưới, hi vọng là chúng tôi không sắp sửa làm hỏng đêm đặc biệt của họ. “Anh đoán vậy.”
“Hay lắm,” Sadie nói. “Khufu, ở lại đây và theo dõi nhé. Mở cửa vòm ra khi nhìn thấy chúng ta đi lên, nhé?”
“Á!” con khỉ đầu chó đáp.
Tôi cảm thấy nhột nhạt sau gáy. Tôi có cảm giác là vụ trộm này sẽ chẳng hay gì.
“Đi thôi,” tôi bảo Sadie. “Đi xem Jaz và Walt đang làm gì.”
Chúng tôi buông mình xuống một cái gờ phía bên ngoài tầng ba, nơi trưng bày bộ sưu tập Ai Cập.
Jaz và Walt đã làm công việc của họ một cách hoàn hảo. Họ đã dùng băng dính dán bốn bức tượng Các Con Trai của Horus xung quanh mép cửa sổ và sơn những chữ tượng hình lên cửa kính để đối phó với các lời nguyền và hệ thống báo động của người trần.
Khi tôi và Sadie xuống bên họ, dường như họ đang dở một cuộc trò chuyện nghiêm túc. Jaz đang nắm hai tay Walt. Điều đó khiến tôi ngạc nhiên, nhưng nó còn khiến Sadie ngạc nhiên hơn nữa. Con bé rú lên khe khẽ như thể một con chuột bị người ta dẫm phải.
[Ồ, phải, em đã làm thế. Em đã ở đó mà. ]
Tại sao Sadie lại quan tâm chứ? Được, ngay sau dịp Năm Mới, khi Sadie và tôi gửi đi các tín hiệu bùa hộ mạng djed để thu hút các thiếu niên có tiềm năng phép thuật đến trụ sở của chúng tôi, Jaz và Walt là những người đầu tiên đáp lại. Họ đã được chúng tôi huấn luyện trong bảy tuần, dài nhất so với những người khác, vậy nên chúng tôi đã biết về họ khá nhiều.
Jaz là đội trưởng một đội cổ động ở Nashville. Tên cô là cách gọi tắt của Jasmine, nhưng đừng có bao giờ gọi tên đầy đủ cô ấy trừ phi bạn muốn bị biến thành bụi cây. Cô ấy xinh xăn tóc vàng đúng kiểu đội trưởng đội cổ động – không thực sự là kiểu tôi ưa – nhưng bạn không thể không thích cô ấy bởi vì cô ấy rất tử tế với mọi người và luôn sẵn sàng giúp đỡ. Cô ấy cũng có tài năng về các phép thuật chữa trị, vậy nên cô ấy là một người tuyệt vời ta có thể đưa đi cùng trong trường hợp có rắc rồi, mà điều đó xảy ra với tôi và Sadie trong chín mươi chín phần trăm trường hợp.
Tôi nay cô ấy bọc mái tóc mình trong một chiếc băng đô màu đen. Trên vai cô đeo một chiếc túi pháp sư, trên túi có biểu tượng nữ thần sư tử Sekhmet.
Cô ấy đang nói với Walt, “Chúng ta sẽ tìm ra,” khi tôi và Sadie hạ xuống bên họ.
Trông Walt có vẻ ngượng ngùng.
Cậu ấy... nào, tôi sẽ tả Walt thế nào đây?
[Không, cám ơn em, Sadie. Anh sẽ không dùng từ nóng bỏng để tả cậu ấy đâu. Đợi đến lượt em đi. ]
Walt mười bốn tuoir, như tôi, nhưng cậu ấy đủ cao để chơi tiền đạo cho đội bóng ở trường đại học.cậu ấy có khổ người thích hợp – mảnh dẻ và cơ bắp – và hai bàn chân cậu chàng to làm sao. Cậu ấy có nước da nâu cà phê, hơi sẫm màu hơn tôi và có mái tóc húi cua trông như một cái bóng mờ của da đầu. Mặc dầu trời lạnh, cậu ấy mặc một chiếc áo phông không tay màu đen và một chiếc quần soóc thể thao – không phải thứ quần áo tiêu chuẩn của pháp sư – nhưng không ai tranh luận với Walt. Cậu ấy là học viên đầu tiên tới chỗ chúng tôi, từ mãi Seatle – và cậu chàng là một sau bẩm sinh – một người chế tạo bùa ngải. Cậu ấy đeo một mớ các dây chuyền vàng ở cổ với các loại bùa hộ mệnh màu nhiệm cậu tự chế cho mình.
Dù sao thì, tôi tương đối tin rằng Sadie ghen với Jaz và thích Walt, mặc dù con bé không bao giờ thú nhận điều đó bởi mấy tháng vừa rồi nó đã rầu rĩ về một người con trai khác – thực ra là một vị thần – mà nó đã phải lòng.
[Ờ, được thôi Sadie. Giờ anh sẽ bỏ qua chuyện đó.những anh nhận thấy là em không phủ nhận. ]
Khi chúng tôi làm gián đoạn câu chuyện của hai người, Walt buông tay Jaz thật nhanh và lùi lại. Sadie nhìn tới nhìn lui hai người bọn họ, cố gắng hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Walt hắng giọng. “Cửa sổ đã sẵn sàng.”
“Tuyệt lắm.” Sadie nhìn Jaz. “Ý chị là gì, ‘Chúng ta sẽ tìm ra’ ấy?”
Jaz ngáp ngáp như một con cá cố gắng thở.
Walt trả lời thay cho cô ấy: “Em biết đấy. Cuốn sách của Ra. Chúng ta sẽ tìm ra.”
“Đúng vậy!” Jaz nói. “Cuốn sách của Ra.”
Tôi có thể thấy là họ nói dối, nhưng tôi cho rằng dù họ thích nhau đi nữa thì đó cũng không phải là việc của tôi. Chúng tôi không có thời gian cho bi kịch.
“Được,” tôi nói trước khi Sadie có thể đòi hỏi một lời giải thích phù hợp hơn. “Bắt đầu cuộc vui thôi.”
Cánh cửa sổ mở tung ra dễ dàng. Không có những vụ nổ thần kỳ. không có chuông báo động. Tôi thở nhẹ nhõm và bước vào khu trưng bày Ai Cập, tự hỏi liệu rút cuộc chúng tôi có cơ may để thành công.
Những đồ Ai Cập trưng bày ở đây khiến bao nhiêu ký ức ùa về. Cho tới tận năm ngoái, phần lớn thời gian tôi đi du lịch với cha mình từ bảo tàng này đến bảo tàng khác, giảng về Ai Cập cổ đại. Đó là trước khi tôi biết rằng Cha là pháp sư – trước khi cha đã đã giải phóng một nhóm các vị thần, và cuộc sống của chúng tôi trở nên rắc rối.
Giờ thì tôi không thể không nhìn những món cổ vật Ai Cập mà không cảm thấy một mói liên hệ riêng tư. Tôi giật mình khi chúng tôi đi ngang qua bức tượng Horus – vị thần đầu chim ưng đã sống trong tôi hồi Giáng Sinh năm trước. Chúng tôi đi qua một chiếc quách, và tôi nhớ lại việc thần Set độc ác đã cầm tù cha chúng tôi trong một chiếc áo quan bằng vàng ở Bảo Tàng Anh. Đâu đâu cũng có những bức tranh Osiris, thần chết có làn da màu xanh lam, và tôi nghĩ đến việc Cha đã hi sinh như thể nào để trở thành vật chủ mới của Osiris. Ngay lúc này đây, ở đâu đó trong vương quốc thần kỳ Duat [1], cha chúng tôi đang là vua của Âm phủ. Tôi thậm chí không thể mô tả cảm giác lạ lùng khi nhìn một bực tranh năm nghìn năm tuổi của một vị thần Ai Cập xanh lam và nghĩ, “Ờ, đó là cha mình.”
[1] Trong truyền thuyết Ai Cập, Duat là Thế giới Âm phủ.
Các vật trưng bày cứ như là các đồ lưu niệm gia đình vậy: một cây đũa thần giống y hệt cây đũa của Sadie; một bức tranh vẽ những con báo đầu rắn từng một lần tấn công chúng tôi; một trang trong Cuốn Sách về Cái Chết minh họa những ác quỷ chúng tôi từng gặp. Rồi có cả các shabti, những bức tượng nhỏ thường sống lại khi được triệu hồi. Vài tháng trước, tôi đã phải lòng một cô gái tên là Zia Rashid, người hóa ra là một shabti.
Yêu lần đầu cũng đã khó khăn rồi. Nhưng khi cô gái mà bạn thích hóa thành một món đồ sứ và vỡ thành từng mảnh ngay trước mắt bạn – nào, điều đó mang đến cho câu nói “làm tan vỡ trái tim bạn” một ý nghĩa mới mẻ.
Chúng tôi đi qua căn phòng đầu tiên, dưới một bức bích họa lớn kiểu cung hoàng đạo Ai Cập trên trần nhà. Tôi có thể nghe tiếng ồn ào của tiếc tùng diễn ra trong phòng khiêu vũ lớn ở hành lang bên tay phải. Tiếng nhạc và tiếng cười vang lên khắp tòa nhà.
Trong căn phòng Ai Cập thứ hai, chúng tôi dừng lại trước một phiến đá to cỡ của một ga ra. Hình ảnh một quái vật đang giày xéo một vài người trận được trạm trổ trên phiến đá.
“Đó là quái vật sư tử đầu chim à?” Jaz hỏi.
Tôi gật đầu. “Ờ, phiên bản Ai Cập.”
Con thú có thân hình của một con sư tử và đầu của chim ưng, nhưng cánh nó không giống như cánh của phần lớn những quái vật sư tử đầu chim khác mà bạn từng thấy. Thay vì đôi cánh chim thông thường, đôi cánh chạy trên phần lưng quái vật – dài, nằm ngang và tua tủa lông như những chiếc bàn chải thép lật ngược. Nếu như quái vật có thể bay được bằng thứ này, tôi cho rằng chúng phải chấp chới liên tục như cánh bướm. Phiến đá trang trí đã từng có thời được tô màu. Tôi có thể nhận ra những vẩy đỏ và vàng kim trên vài chỗ khuất của quái vật; nhưng dù không có màu chăng nữa, quái vật mình sư tử đầu chim trông vẫn sống động kỳ quái. Đôi mắt như hạt cườm của nó dường như dõi theo tôi.
“Quái vật sư tử đầu chim là những kẻ hộ vệ,” tôi nói, nhớ lại vài điều Cha đã có lần nói với tôi. “Chúng canh gác các kho báu và các thứ khác.”
“Đỉnh thật,” Sadie nói, “Vậy ý anh là chúng tấn công... ờ, ví dụ như, những kẻ trộm, đột nhập vào bảo tàng và ăn trộm cổ vật?”
“Đó chỉ là phiến đã trang trí thôi,” tôi đáp. Nhưng tôi ngờ là giải đáp này không khiến mọi người cảm thấy dễ chịu hơn. Phép thuật Ai Cập nằm ở chỗ biến những lời nói và hình ảnh thành hiện thực.
“Đấy” Walt chỉ qua bên kia phòng. “Nó đấy, đúng không?”
Chúng tôi đi vòng thật xa qua chỗ sư tử đầu chim và tiến về phía bức tượng ở giữa phòng.
Vị thần đứng đó cao chừng tám bộ. Ông được tạc bằng đá đen và mặc trang phục kiểu Ai Cập điển hình: Ngực trần, với chiếc váy quấn và xăng đan. Ông có khuôn mặt cừu đực và những chiếc sừng trải qua bao thế kỉ đã bị gãy một phần. Trên đầu ông đội một vương miện hình đĩa – chiếc đĩa mặt trời tết từ những con rắn. Đứng trước ông là tượng một người trần nhỏ hơn rất nhiều. Vị thần đặt tay lên đầu người trần, như đang ban phước cho anh ta.
Sadie liếc nhìn dòng ký tự tượng hình. Kể từ khi con bé từng là vật chủ của tinh linh Isis, nữ thần phép thuật, Sadie đã có khả năng đọc chữ tượng hình phi thường.
“KNM,” con bé đọc. “Đọc là Khnum, em đoán vậy. Vần với cái chum?”
“Ừ,” tôi nhất trí. “Đây chính là bức tượng ta cần. Horus nói với anh rằng bức tượng lưu giữ bí mật liên quan đến việc tìm ra Cuốn sách của Ra.”
Chẳng may, Horus đã không nói cụ thể lắm. Giờ đây khi chúng tôi tìm thấy bức tượng, tôi hoàn toàn không có tí khái niệm về chuyện nó sẽ giúp chúng tôi như thế nào. Tôi liếc nhìn các chữ tượng hình, hi vọng có manh mối.
“Cái người nhỏ bé đứng trước là ai thế nhỉ?” Walt hỏi. “Một đứa trẻ ư?”
Jaz búng ngón tay. “Không, mình nhớ rồi! Khnum tạo ra con người trên một bàn xoay nặn gốm. Chắc là ông ta đang làm thế trong trường hợp này, mình cuộc đấy – tạo ra con người từ đất sét.”
Cô ấy nhìn tôi như đợi lời khẳng định. Sự thật là, chính tôi đã quên câu chuyện này. Sadie và tôi là giảng viên thật, nhưng Jaz thường nhớ được nhiều chi tiết hơn tôi.
“Ừ phải đấy,” tôi nói. “Tạo ra con người từ đất sét. Chính xác.”
Sadie cau mày nhìn cái đầu cừu đực của Khnum. “Trông hơi giống bộ phim hoạt hình cũ đấy... Bullwinkle [2], phải không nào? Có thể là thần nai sừng tấm.”
[2]Nhân vật người đầu nai trong serie phim hoạt hình Mỹ những năm 1959-1964.
“Ông ta không phải là thần nai sừng tấm,” tôi đáp.
“Nhưng nếu chúng ta đang tìm kiếm Cuốn sách của Ra,” cô nói, “và Ra là thần mặt trời, thì tại sao ta lại tìm kiếm một con nai sừng tấm?”
Sadie có thể rất rắc rồi. Tôi đã nói vậy chưa nhỉ?
“Khnum là một bản ngã của thần mặt trời,” tôi nói. “Ra gồm ba bản ngã khác nhau. Ông ấy là Khepri, thần bọ hung vào buổi sáng; Ra ban ngày; và Khnum, thần đầu cừu đực, vào lúc hoàng hôm, khi ông ấy đi đến Âm Phủ.”
“Thật rắc rối,” Jaz nói.
“Không hẳn,” Sadie đáp. “Carter cũng có nhiều bản ngã khác nhau. Anh ấy biến đổi từ một thây ma sống vào buổi sáng sang ốc sen vào buổi chiều và-”
“Sadie,” tôi nói, “Im đi.”
Walt gãi càm. “Mình nghĩ là Sadie đúng đấy. Đó là một con nai sừng tấm.”
“Cám ơn anh,” Sadie nói.
Walt miễn cưỡng cười với con bé, nhưng trông cậu ta vẫn có vẻ không tập trung, như là có điều gì đó khiến cậu ấy phiền muộn. Tôi thấy Jaz quan sát cậu ta với vẻ lo lắng, và tôi tự hỏi không biết vừa nãy họ đã trao đổi với nhau về việc gì.
“Chuyện nai sừng tấm vậy là đủ rồi đấy,” tôi nói. “Chúng ta phải đưa bức tượng này về Nhà Brooklyn. Nó nắm giữ đầu mối gì đó -”
“Nhưng làm sao ta tìm ra nó?” Walt hỏi. “Và cậu vẫn chưa nói cho bọn mình biết tại sao chúng ta cần Cuốn Sách của Ra đến thế.”
Tôi lưỡng lự. Có nhiều thứ chúng tôi còn chưa nói với các học viên, kể cả Walt và Jaz – ví như việc thế giới này có thể kết thúc trong năm ngày tới.những thứ như vậy có thể làm người ta bị phân tán tư tưởng trong quá trình học.
“Mình sẽ giải thích khi chúng ta quay về,” tôi hứa. “Ngay bây giờ, hãy tính cách để di chuyển bức tượng.”
Jaz nhíu đôi mày. “Mình không nghĩ là có thể cất nó vào túi xách của mình được.”
“Ồ, lo lắng thế,” Sadie nói. “Nghe này, chúng ta sẽ gieo một câu thần chú lên bức tượng. Chúng ta sẽ tạo ra một thứ gì đó thật lớn để đánh lạc hướng nhằm làm trống phòng khiêu vũ -”
“Khoan đã.” Walt cúi xuống và xem xét bức tượng người trần nhỏ hơn. Người đàn ông đang mỉm cười, như thể được tạo ra từ đất sét là một niềm vui tuyệt vời. “Ông ta đeo một chiếc bùa hộ mạng. Hình bọ hung.”
“Đó là một biểu tượng phổ biến,” tôi nói.
“Ừ...” Walt sờ sờ bộ sưu tập bùa hộ mạng của chính cậu. “Nhưng con bọ hung tượng trưng cho sự tái sinh của Ra, đúng không? Và bức tượng này mô tả Khnum tạo ra một cuộc sống mới. Có lẽ ta không cần toàn bộ bức tượng. Có lẽ đầu mối là -”
“A!” Sadie rút cây đũa thần của mình ra. “Tuyệt lắm.”
Tôi định nói, “Sadie, không!” nhưng dĩ nhiên điều đó chẳng nghĩa lý gì. Sadie chẳng bao giờ nghe tôi.
Con bé gõ vào chiếc bùa của người đàn ông bé nhỏ. Hai bàn tay Khnum tỏa sáng. Đầu bức tượng nhỏ hơn mở ra làm bốn nhánh như đầu một tên lửa, và thò ra từ cổ bức tượng là một cuộn giấy papypus ngả vàng.
“Voilà (Tiếng Pháp, gần như kiểu here we go – người đánh máy),” Sadie nói tự hào.
Con bé đút cây đũa thần vào túi xách và nắm lấy cuộn giấy đúng lúc tôi kêu lên. “Nó có thể là cái bẫy đấy!”
Như tôi đã nói, con bé chẳng bao giờ nghe lời.
Ngay khi Sadie vừa giật cuộn giấy ra khỏi bức tượng, toàn bộ căn phòng rung chuyển. Các vết nứt xuất hiện trên những bệ kính trưng bày.
Sadie kêu lên khi cuộn giấy trên tay con bé bùng cháy. Lửa không có vẻ thiểu cháy cuộn giấy cói [3] cũng như làm đau Sadie; nhưng khi con bé cố gắng dập lửa, ngọn lửa ma quái màu trắng lan đến kệ trưng bày gần nhất và chạy quanh phòng như thể lan theo một vệt dầu. Ngọn lửa chạm đến các cửa sổ và những chữ tượng hình trắng bừng lên trên kính, có lẽ sẽ kích hoạt vô khối những mã khóa bảo vệ và những lời nguyền. Thế rồi ngọn lửa ma quái cháy ngang một riềm đá trang trí lớn ở lối vào phòng. Phiến đá lắc lư thật mạnh. Tôi không thể nhìn thấy phần trạm trổ ở mặt bên kia, nhưng tôi nghe thấy một tiếng kêu bực tức – như tiếng kêu của một con vẹt rất to và rất tức giận.
[3] Loại giấy cổ làm từ sợi cói ép dẹp, phơi khô, được người Ai Cập, La Mã sử dụng thời cổ đại.
Walt tháo cây gậy sau lưng xuống. Sadie vẫy vẫy cuộn giấy bốc lửa như thể nó dính chặt vào tay mình. “Gỡ cái này khỏi tay em đi! Đây thực sự không phải là lỗi của em nhé!”
“Ừm...” Jaz rút cây đũa thần của mình ra. “Âm thanh gì thế nhỉ?”
Tim tôi lặng đi.
“Mình nghĩ,” tôi đáp. “Sadie vừa tìm ra trò đánh lạc hướng lớn.”
Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa - Rick Riordan Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa