Tôi không thể cho bạn một công thức thành công, nhưng tôi có thể cho bạn một công thức cho sự thất bại, đó là: cố gắng làm vừa lòng mọi người.

Herbert Bayard Swope

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 201 / 19
Cập nhật: 2020-07-08 19:36:02 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 20
M VÀ TÔI MỞ TIỆC ĂN MỪNG, cá bơn với nước sốt rượu vang trắng và nụ bạch hoa. Bí đỏ nghiền. Rau xà-lách trộn. Champagne. Và tráng miệng có bánh kem Jackson Pollock của Tyler - bánh ga-tô hạt phỉ, bên ngoài phủ kem sô-cô-la trắng, trang trí như một bức họa của Pollock với những giọt sô-cô-la đen, caramel và espresso bắn tóe trên mặt bánh.
CM nâng ly lên.
- Uống mừng bạn thân nhất, người chị, nữ chiến binh Amazon của tôi - giờ chính thức đã là nhà bánh-mì-học cự phách.
- Hôm qua tôi còn chưa đánh vần nổi từ “doanh nhân”, hôm nay đã trở thành một trong số họ rồi. Bồ biết không, tôi nghĩ một chai chẳng bõ bèn gì đâu. Có thể thêm chai nữa vào tủ lạnh không?
CM đảo mắt.
- Có thể chứ, cơ mà không còn nữa.
- Sao lại hết champagne được nhỉ?
- Tôi chẳng biết nữa, nhưng đúng thế mà. Đây là chai cuối cùng.
- Phải mua thêm mới được. Bồ đóng chai này lại hộ tôi, mới cả đưa tôi chìa khóa xe, trong khi tôi còn lái được.
Cô lẳng ví lại phía tôi.
- Tôi sẽ tranh thủ nhóm lò sưởi, rửa xà-lách. Bồ mua thêm phô mai dê nữa nhé.
Không bao giờ nên đến Thriftway khi đang đói. Tôi đã quay về với ba chai champagne, năm loại ô-liu, hai loại phô mai dê, một góc phô mai Stilton vị chanh, và một lạng hạt điều thô, món khoái khẩu của CM.
Cô mở túi đồ ra và hỏi:
- Chúng ta mở tiệc đãi một đoàn du mục đến cắm trại hả?
Lửa đã cháy tí tách trong lò sưởi nhỏ. Giỡ đồ từ trong túi ra, tôi chợt chú ý đến nhạc phát ra từ máy cát-xét của CM. Đó là đoạn cuối bài “Lau sạch những ô cửa sổ” của Van Morrison. Tôi mở tủ lạnh, lấy chai champagne dở ra.
Những nốt nhạc cuối nhỏ dần đi, rồi một giọng nam cao vang lên:
“Tình yêu của tôi hẳn đã mù quáng rồi
Tôi chỉ thấy mỗi em thôi...
Những vì sao có mọc trên vòm trời đêm nay không?
Sáng lung linh hay nấp ở sau mây?
Tôi chẳng còn thiết ngóng trông”.
- Đang bật băng nào thế?
CM nhún vai.
- Tôi nhặt đại trong hộp của bồ thôi. Nhiều bài hay lắm.
Cô đưa cho tôi tờ giấy ghi tên các ca khúc. Mười hai bài. Tên, nghệ sĩ biểu diễn, hãng thu âm, thời gian chạy băng.
- Băng này Mac đã đưa tôi trước khi anh ấy đi. - Trên mặt sau hộp băng, anh còn viết mấy chữ “Nhớ nghe nhé”.
- Cho tôi xem với. - Cô rút nó khỏi tay tôi và săm soi trong khi tôi rót thêm rượu.
- Đói quá rồi, dọn bữa tối thôi.
Tôi bật bếp, đặt chảo lên và thấm khô khúc cá, nhưng CM nhoài đến tắt bếp đi.
- Bồ làm gì thế? - Tôi hỏi.
- Bồ phải nghe cái này trước. Người làm băng này có điều muốn thổ lộ. - CM cầm tay tôi, kéo lại tấm đệm gấp. - Bồ không thấy sao? Người ta nói về bồ đó.
- Tha cho tôi đi mà.
- Nhìn các bài hát đi. - Cô huơ huơ tờ giấy trước mặt tôi, nhưng tôi giơ tay ra thì CM lại giật nó lại và đọc to lên. - “Cô gái mắt nâu”. Chính là bồ...
- Ờ. Hóa ra tôi là người phụ nữ duy nhất trên thế giới có đôi mắt nâu.
CM phớt lờ những lời ấy.
- “Sally bên hoa hồng” - là bản thể đặc biệt của bồ khi ở bên ai đó. “Thay ngựa” - về tình cảm tan vỡ. “Cuộn tròn trong khắc khoải”... - CM vén tóc ra sau mang tai và ngồi uỵch xuống cạnh tôi.
- Chỉ là tình cờ trùng hợp thôi. Anh ấy thích nhạc của Dylan.
- Dù bồ không tin thì cứ thử nhìn cái này xem. - CM cười khanh khách. - “Vực nước lạnh” - đứt đuôi là Gary nhé. “Lau sạch những ô cửa sổ” - đích thị là Mac.
- Trí tưởng tượng của bồ phong phú gớm.
- “Tôi chỉ thấy mình em”. Lãng mạn quá đi!
- Lãng mạn gì đâu, chỉ là...
- Chỉ là sao?
Tôi nhìn trân trân những ngọn đèn thành phố như được đóng khung trong ô cửa sổ nhà CM.
- Chỉ là bài được phát trên radio hôm mưa tuyết anh ấy chở tôi đến bệnh viện.
- Wyn, gọi điện cho chàng đi.
- Anh ấy không có điện thoại. Mới cả, giả sử bồ đúng, mà tôi ngờ là ngược lại lắm, thì anh ấy đã làm cái băng từ mấy tháng trước rồi.
- Đừng có mà lý do lý trấu. Bồ không thể nhắn tin cho chàng được à? Mà không, bồ phải đi đến đó. Lấy chiếc Camry đi.
- Và mặc bồ trong tình trạng phi-phương-tiện-đi-lại hả?
- Tôi đi xe buýt khỏe re. Mai bồ lên đường ngay đi cho.
- Mai tôi không đi được.
- Sao không? Thứ Bảy mà. Bồ có phải đi làm đâu.
- Tôi không biết đường tới đó.
- Dễ như ăn bánh. Tôi có bản đồ. Về cơ bản, bồ chỉ việc lái thẳng đến Anacortes - mất khoảng một tiếng rưỡi - rồi lên phà.
- Tôi không biết anh ấy đang ở đâu.
CM mỉm cười.
- Nhưng bồ biết phải hỏi ai. Trúng tim đen chưa?
Băng đang chạy đến bài cuối. “Ngày buông tắt nắng” của Richard Thompson, một trong những giọng nam Celtic thuần khiến nhất, tiếng hát như cứa vào trái tim người nghe.
- CM ơi, tha cho tôi đi, tôi vừa mới quen với chuyện anh ấy đã đi rồi.
Cô đặt vỏ băng xuống bàn cà phê, khoanh tay lại, nhìn thẳng vào tôi bằng cặp mắt xanh lục.
- Nếu tôi sai, bồ có vô khối thời gian quen lại với chuyện chàng đã ra đi. Cơ mà nếu tôi đúng...
o O o
Sau đó, khi tất cả những gì còn lại từ bữa tiệc ăn mừng chỉ là mùi đồ ăn còn thoang thoảng trong nhà và góc bánh đã được bọc lại, chúng tôi đã uống kha khá champagne đến mức cùng song ca “Vào đêm người ta phát minh ra champagne”, CM nhớ ra cách giả tiếng “pác” khi mở rượu thế nào, bằng cách bật ngón tay trên miệng, rồi hai đứa ôm nhau lần nữa, và cô lên giường đi ngủ, còn tôi cuộn mình nằm nghiêng trên cái đệm gấp, lặng ngắm những tàn lửa cuối cùng lụi đi trong bóng tối.
Có thể tôi sẽ giống CM - cống hiến đời mình cho nghệ thuật của mình. Suy nghĩ ấy xem ra thật hấp dẫn. Nhưng chẳng cần suy xét nhiều, tôi biết sẽ không giống như vậy. CM có một cái gì đó - một sợi cáp bằng thép chạy xuyên suốt cuộc đời cô. Xung quanh sợi cáp ấy, những đường chỉ hiện hữu khác của cô được nối vào.
Làm bánh mì là nghề kiếm sống, là nghệ thuật của tôi. Tôi là một boulangère. Nhưng tôi không phải là CM. Không có sợi cáp thép, tôi chỉ có một lõi rỗng. Tôi cần ai đó. Nhưng liệu có phải là Mac không? Anh thực sự là người ở ngoài mọi trải nghiệm của tôi. Thậm chí nếu những gì tôi cảm nhận cũng chính là... những gì lí trí gọi tên... Liệu có thể nói đó là tình yêu hay không? Dù tôi có cảm thấy như vậy, nhưng biết đâu anh lại không. Biết đâu anh chỉ bối rối và cần một Nàng Quá Độ. Hoặc có thể anh chỉ cần ai đó để lấp khoảng trống thời gian, cho đến khi anh sẵn sàng lên đường, và chẳng còn bận tâm nữa. Và thậm chí nếu anh có quan tâm, và tôi có quan tâm, thì cũng chẳng có gì đảm bảo rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Ý tôi là chúng tôi quá khác nhau.
Tôi ngồi dậy, vỗ gối cao lên, lại ngả người xuống và nằm ngửa.
Từ phòng ngủ đã tắt đèn tối om, tiếng CM dập dờn vọng ra.
- Này bồ, xe đầy xăng đấy nhé...
o O o
Chuyến phà M.V. Anacortes lướt qua một thế giới đẹp như mơ những hòn đảo nhô ra khỏi sương rồi lại lặn ngút vào sương. Từ hồi mới dọn đến Seattle, tôi đã nghe nói nhiều về quần đảo San Juans, nhưng những điều mục kích không giống như tôi đã hình dung - không có bãi cát, cũng chẳng có những tán cọ. Chỉ có núi đá với những rặng cây lá kim sừng sững sắc nét trên nền Thái Bình Dương xanh thẳm. Không khí sạch đến mức nó đưa mùi đại dương vào tận sâu cuống họng ta. CM nói rằng tháng Chín vẫn còn có thể bắt gặp cá voi sát thủ, nhưng tất cả những gì trông na ná một cái vây lưng đen rút cục chỉ là khúc gỗ trôi dạt hoặc con vịt hay chú sư tử biển hiếu kỳ nào đó.
Cầu phà bằng kim loại chạm vào bờ ở bến Orcas, tôi từ từ lái chiếc Camry vào đường lớn, hỏi người đàn ông đang điều tiết giao thông đường đến Eastsound.
Anh mỉm cười với tôi như thể anh không bị hỏi câu đó năm trăm lần một ngày.
- Từ đây là đường cao tốc Horsehoe. Chị cứ theo đường này.
Con đường lọt thỏm trong đường hầm tạo bởi những vòm cây, dẫn qua những ngọn đồi nối tiếp nhau. Sương còn loáng thoáng giăng ở vài chỗ thấp, nhưng rồi nhanh chóng tan đi dưới ánh mặt trời kiên quyết tỏa xuống.
Tôi thấy sợ. Giống như lần đầu đạp xe sau khi bố tôi tháo bớt bánh xe phụ khỏi xe đạp. Mấy tuần liền bố đã cố lựa lời bảo tôi chỉ cần đi bằng hai bánh thôi, và rằng cả chục lần gần đây, bánh phụ hầu như không chạm xuống vỉa hè. Nhưng tôi vẫn muốn để nguyên bốn bánh. Tôi cần yên tâm rằng nếu tôi không giữ được thăng bằng hoàn hảo, và nếu lý thuyết về quán tính chỉ là bịa đặt, thì tôi vẫn không sợ bị ngã lăn quay cu lơ. Cuối cùng, bố cứ tháo bánh phụ ra, bảo rằng nếu tôi muốn đi thì chỉ việc ngồi lên xe và nhấn pê-đan đạp như điên.
Lúc này tôi không có kế hoạch gì, cũng chẳng biết sẽ nói gì với Mac khi gặp anh. Tôi chỉ guồng chân đạp. Trời ạ, sao tôi lại nghe CM xui khôn xui dại tôi lao đầu vào chuyện ngốc nghếch này? Đã gần năm tháng kể từ hôm anh đưa tôi cuộn băng đó. Nếu anh không còn cảm thấy như trước nữa thì sao? Nếu anh chưa từng có cảm giác đặc biệt gì thì sao? Tôi nện lòng bàn tay lên tay lái. Mac, quỷ tha ma bắt anh đi. Nếu anh có gan nói gì đó với tôi thì đã tránh được toàn bộ đống bấn loạn này rồi.
Tất nhiên, tôi cũng đã có thể nói gì đó với anh, tôi nghĩ thế. Giống như cái đêm ở bến phà. Nhưng tôi nên nói gì đây? Đừng đi ư? Nếu anh chỉ nhìn tôi và hỏi “Sao lại không?” thì sao? Chắc tôi sẽ lao ngay xuống nước mất.
Đường cao tốc bẻ ngoặt chín mươi độ về bên phải, tôi rù rì chạy xe vào làng Eastsound. Chỉ có ba hoặc bốn con phố, nên tôi rẽ vào North Beach Road, phố đầu tiên, và đỗ xe bên lề đường. Vỉa hè lát gỗ chạy dọc theo các quán cà phê, một hiệu sách, hai phòng trưng bày nghệ thuật, một cửa hàng dụng cụ thể thao, và một văn phòng bảo hiểm nhỏ. Cái mũi của tôi chỉ đường đến tiệm bánh xinh xinh nằm thụt vào một khoảng sân, khấp khởi mong một chiếc muffin bí ngô sẽ lấp đầy cảm giác trống trải trong tôi. Bánh muffin rất mềm, đậm đà với các loại hạt và quả khô, nhưng tôi chỉ cắn một miếng rồi bỏ lại vào túi.
Ở cuối phố, bên tay trái, là văn phòng Bất Động Sản Jaimie Johnson. Cửa vẫn khóa dù đã gần mười rưỡi sáng. Rick đã dặn tôi rằng tầm chín giờ là có người trực rồi. Có lẽ tôi đã tự hại mình, đến vào đúng dịp nghỉ lễ trái khoáy nào đó của đảo này, và tất cả các văn phòng đóng cửa vào ngày thứ Bảy thứ ba trong tháng thứ chín của năm. Tôi suýt rời đi thì nghe thấy một giọng nói tươi tắn.
- Xin chào, tôi giúp được gì cho cô không?
Một phụ nữ cao lớn, tóc sẫm màu đang đi về phía tôi, trên tay cầm cái cốc màu hồng.
- Tôi là Doris Alesworth. - Chị chìa tay ra. - Xin lỗi cô, tôi cần có ca-phê-in mà sáng nay lại chẳng có ai trực thay cho một lúc được cả.
- Tôi là Wyn Morrison. Anh Rick Bensinger đã trao đổi với ai đó về bản đồ tới căn nhà gỗ của anh ấy.
- À, đúng rồi. Cô biết hiện giờ ở đó đang có người chứ?
Tôi đưa mắt nhìn cắt qua phố, hướng đến bãi đỗ xe nhỏ, bất giác tìm kiếm chiếc El Camino trắng.
- Chính là... thực ra tôi cần gặp người đang sống ở đó, chứ không cần căn nhà.
- Mời cô vào. Để tôi đánh dấu lên bản đồ cho cô. Đường dễ đi lắm.
Tôi thấy thật yên lòng.
Trải bản sao tấm bản đồ lên ghế cạnh chỗ ngồi lái, tôi xoay nó đi để định hướng mình theo những dấu bút dạ màu vàng. Quay lại cao tốc Horsehoe. Con đường men theo bãi biển Crescent, một tấm biển cảnh báo những người có ý định mò trai biển trái phép hãy tránh xa những bãi trai. Rẽ trái vào Terrill’s Beach Road, một nơi chẳng có vẻ gì liên quan đến biển cả, rồi sang phải vào Buckhorn Road. Mất vài phút, tôi không khỏi trầm trồ mặt nước lấp lánh bên mạn trái. Chính xác nửa dặm theo đồng hồ trên xe, tôi thấy tấm biển đề “Nhà tranh Madrone”.
Dù không đi nhanh, tôi vẫn nhấn phanh, và cứ ngồi đó cọ cọ lòng bàn tay đang ướt đẫm mồ hôi lên tay lái. Khi ngước nhìn gương chiếu hậu, tôi thấy một chiếc Honda Civic màu bạc đang kiên nhẫn đợi phía sau. Nếu đang ở Los Angeles, hoặc thậm chí cả Seattle, tài xế ắt đã nhấn còi giục giã. Tôi vẫy tay tỏ ý xin lỗi, rẽ vào con đường đầy sống trâu.
Một căn nhà tường ốp gỗ trắng bất ngờ hiện ra, tĩnh tại bên rìa một đồng cỏ mênh mông, và trông như nó muốn lặn luôn xuống cỏ. Chiếc Elky đỗ trên vạt sỏi phía bên trái hàng hiên. Rút cục anh đã sơn lại tấm chắn bùn.
Tôi đỗ xe gần một cụm cây cách nhà chừng hai chục mét và ra ngoài, khẽ đóng cửa xe lại. Vẫn ngửi thấy mùi của biển, nhưng đại dương duy nhất hiện hữu ở đây chính là cánh đồng cỏ dập dờn chen nhau sắc vàng và xanh lá cây. Tiếng sóc kêu chút chít đâu đó khiến tôi giật mình đánh thót, chẳng khác gì kẻ đột nhập bị bắt quả tang.
Tiếng hát bằng giọng mũi của Bob Dylan vang ra qua cửa sổ để ngỏ. “Điệu blues nhớ nhà”. Tôi bước gần đến hiên thì tiếng nhạc chợt tắt lịm.
- Chạy bộ thôi. Đi chứ?
Rõ ràng là anh không ở một mình. Trái tim tôi đang nện ngay trong tai, không rõ tiếng nhưng rất rõ rung động từ nhịp đập, như thể nó đang đập dưới nước vậy. Nếu quay lại nấp sau cụm cây, tôi có thể chờ xem ai đang ở cùng anh. Nếu là nam giới, tốt thôi. Nếu là phụ nữ, tôi cần cân nhắc có nên tự hạ mình thảm hại hay chỉ việc lặng lẽ quay lại bến phà.
Bước hai bước vào cỏ cao, chân trái của tôi biến thành một chiếc thủy phi cơ hạ cánh xuống lớp bùn dày quánh, ngập lút mắt cá chân. Cáu thật! Đôi giày thể thao mới tinh. Tôi còn suýt ngã bệt xuống khi cố rút chân lên khỏi bùn. Cảnh này ngoạn mục phải biết! Anh đi ra cùng với người khác - Chúa mới biết được, có khi Laura đang ở trong đó - trong khi tôi lăn qua lăn lại như một con tê giác thích thú vầy bùn.
Tôi còn chưa quyết định có nên trốn đi hay không, thì cửa đã bật mở lưng chừng, và một gương mặt nhô ra. Đôi mắt tròn xoe như khuy áo và cái mũi đen. Một bạn chó vàng hơi xơ xác, chẳng rõ nguồn gốc bố mẹ nòi gì, thung thăng ra khỏi cửa. Vừa đánh hơi thấy mùi của tôi, nó đã dựng hết lông lên và khẽ gầm gừ trong cổ họng.
- Mày đang bảo vệ tao khỏi bị bọn sóc lắm điều tấn công đấy à?
Một người lạ bước ra, mặc quần soóc thể thao và áo nỉ, tay áo đã cắt phô ra cánh tay cơ bắp và rám nắng. Mái tóc nhuộm nắng buộc lại đằng sau, và râu quai nón che kín mặt. Nhưng đôi mắt là của Mac.
Anh sững người nhìn tôi.
- Wyn. - Ánh mắt anh dừng lại ở bàn chân tôi. Trông tôi như đang đi một chiếc giày đen, một chiếc giày trắng. - Chị bị dính bùn kìa.
- Như tôi từng nhận định trước đây, anh có tài chỉ ra những điều hiển nhiên.
Cậu chó vàng đã quyết định rằng tôi “chơi được”, nên nhảy mấy bậc khỏi thềm và bắt đầu liếm chân tôi bằng cái lưỡi ram ráp ấm.
- Tôi không biết nên nói gì nữa, - Mac nói.
Ít nhất trông anh có vẻ vui.
- Chắc lần đầu tôi thấy anh cạn từ như vậy quá. - Tôi cúi xuống gãi gãi tai chú chó. - Cậu bạn này tên là gì?
- Minnie.
- Anh lấy tên chuột để đặt cho chó sao?
- Không hẳn. Minnie trong “Minnie Kẻ Lãng Du”. Của Cab Calloway. Và cô bạn này không thực sự là của tôi. Chỉ thỉnh thoảng đến chơi với tôi thôi. Sao chị tìm được đường đến đây?
Tôi ngoái qua vai, nhìn về phía chiếc Camry của CM.
- Lái xe tới Anacortes rồi đi phà tiếp. - Tôi dừng lại, cảm thấy hơi kì kì, nhưng rồi nói nốt. - Nơi này... kì diệu quá. Không như tôi tưởng tượng.
- Rất tuyệt, đúng không? - Khi anh mỉm cười, dạ dày tôi như lộn ngược lại.
Minnie đã chán đợi cuộc chạy bộ được hứa hẹn, tự vẫy đuôi chạy vào rừng. Mac nói tiếp:
- Để tôi lấy thứ gì lau giày cho chị.
Tôi ngồi xuống bậc tam cấp, rút chân ra khỏi chiếc giày nhão bùn, cởi tất bẩn ra. Mac quay lại với con dao lưỡi mỏng dùng để trát ma-tít, và mảnh giẻ cũ. Anh ngồi xuống cạnh tôi, nhưng không quá gần, cầm lấy chiếc giày.
Những cụm mây rải rác trên cao dệt một tấm thảm bằng nắng và bóng râm lên đồng cỏ, điểm xuyết bông kế trắng phất phơ và những cành mao địa hoàng dại màu hồng nhạt cuối cùng của mùa hè. Chim két biếng nhác bay những đường xoáy trôn ốc. Gió dịu và còn ấm, nhưng đã mang chút cảnh báo rằng ngày đang ngắn lại.
Tôi nhìn quanh quất, cố gắng mỉm cười vô tư lự.
- Anh làm được những gì rồi?
- Sơn sửa thôi. Từ trong ra ngoài. Sửa mái nhà. Dọn quang mấy bãi đất và dựng cái nhà kho nhỏ. - Vừa nói, anh vừa làm sạch bùn bám trên giày tôi, miết lưỡi dao dính bùn lên cạnh thềm. - Chắc chị còn phải tốn nhiều thời gian giặt chiếc giày này đấy.
Nét mặt anh khiến tôi nhớ đến lần đầu chúng tôi gặp nhau. Cởi mở, thẳng thắn. Nhưng không còn ẩn danh nữa. Bây giờ tôi biết rõ những chi tiết nói lên được nhiều điều. Chẳng hạn, anh không hòa hợp với ông anh trai. Mỗi năm Mac cắt tóc một lần. Anh thích Raymond Chandler và John Irving, Wallace Stegner và Joan Didion. Anh thích nhạc blues và những bài hát có cốt truyện. Đi phà chỉ vì muốn được ở trên mặt nước. Và hương vị ưa thích là caramel.
- Nếu không, chị cứ phơi cho đến khi bùn khô cong, lúc đó nó sẽ tự bong ra.
Tôi muốn đưa ngón tay trỏ của mình chạy dọc cơ bắp cuộn lên trên cánh tay Mac khi anh giữ chặt chiếc giày của tôi.
- Tôi không muốn làm mất thời gian chạy bộ của anh.
Mac đứng lên.
- Lúc nào tôi chạy chả được. Lại đây. Tôi cho chị xem cái này.
Anh đẩy cửa ra vào, và tôi bước theo anh, bên trong căn nhà thoáng mùi ngai ngái rất dễ chịu.
Những ván gỗ thông nhiều mắt ghép lại thành phông nền hay hay cho những món đồ không đồng bộ: xô-pha màu nâu, hai ghế đẩu màu lá cây, cái hòm cũ được trưng dụng thành bàn cà phê, trên mặt có cái cốc thủy tinh. Giá chật cứng sách và các bộ đồ chơi. Thảm dệt bằng sợi thô. Lò sưởi xây bằng gạch.
- Ấm cúng quá. Giống như nhà của một cụ bà vậy.
Trong giây lát, tôi suýt nghĩ rằng anh sẽ nắm tay tôi, nhưng Mac quay người đi sang phòng bên cạnh.
- Ở đây chị ạ.
Sàn bếp nghiêng ghê gớm so với phần còn lại của căn nhà. Lớp vải sơn lót sàn man mát và hơi nhăn dưới một bàn chân không đi tất của tôi. Có bếp và lò nướng Wedgewood kiểu cũ, tủ lạnh, một bàn gỗ đã mòn và ba chiếc ghế.
Ở chính giữa bàn, như một tác phẩm nghệ thuật được trưng bày, là một hộp các-tông nhăn đựng bản thảo. Mac nhìn cái hộp, không nhìn tôi; nên tôi đặt ví xuống, với tay mở nắp hộp.
TÌNH CỜ SINH HẠ
Tiểu thuyết
của
Matthew Spencer McLeod
Anh cố tỏ ra khiêm tốn và giấu cái tôi đi, nhưng không nổi.
Tôi mỉm cười, quên phắt mất lý do đã khiến tôi cáu anh.
- Ôi Chúa ơi, Mac! Chắc anh đã dốc hết sức lực làm việc rồi!
Anh ngồi lên một góc bàn.
- Tôi cứ nghĩ mãi đến điều chị đã nói.
- Về chuyện gì cơ?
- Rằng nếu tôi nghĩ về bản thân như một người pha chế rượu viết sách, thì tôi sẽ trở thành như vậy. Cho nên tôi quyết định thử nghĩ về mình như một người cầm bút cần công việc. - Anh gượng cười. - Chị muốn dùng cà phê không?
- Không, cảm ơn anh.
Tôi lại gần bồn rửa bằng sứ đã mẻ, nhìn qua cửa thấy vạt rừng phía trước. Nghe thấy khúc aria xua sóc của Minnie.
- Thế đấy. - Anh khoanh tay trước ngực. - Chị sẽ cho tôi biết tại sao chị lại đi cả chặng đường đến đây chứ? Hay là tôi phải đoán?
- Sao lại không? Chính anh bắt tôi phải đoán trước. - Giọng tôi lạc đi, xấu hổ quá, thật chẳng khác gì cô bé chớm vào tuổi dậy thì. - Thật ra, tôi quên mất. Tôi thực sự hết sức cáu anh. - Tôi quay lại và trừng mắt nhìn anh. - Sao anh dám chứ?
Mac ngẩn ra.
- Sao tôi dám cái gì?
- Sao anh dám đưa tôi cuộn băng đó rồi rời thành phố như một kẻ trốn chạy hả?
- Thế tôi nên làm thế nào?
- Lẽ ra anh nên nói gì đó.
- Tôi có thể, nhưng tôi đã không nói. Mà khi đó chị cũng có nghe đâu. - Bàn tay trái anh bồn chồn cọ lên miệng túi quần soóc. - Chị còn bận vẽ kế hoạch trả thù người cũ, và rối vào ông anh trai.
- Anh ấy là con riêng của bố dượng tôi. Đừng biến sự việc thành chuyện loạn luân.
- Chị biết đấy, lẽ ra chị cũng nên nói gì đó.
- Tôi biết nói gì đây? Đừng tương tư Laura nữa và cố...
- Laura ư? - Mac chằm chằm nhìn tôi.
- Phải, Laura. Anh đã tan nát cõi lòng sau khi thấy cô ấy đi dự tiệc cùng người khác.
- Tôi tan nát gì đâu. Hôm đó tôi buồn ngủ vì đã thức cả đêm, và khi mọi thứ bắt đầu tiến triển tốt, thì anh trai - xin lỗi - anh con riêng của bố dượng chị xuất hiện cùng với cả một cửa hàng hoa trong vòng tay.
- Nhưng những ngày sau đó anh vẫn sầm sì cáu kỉnh...
Mac chầm chậm lắc đầu.
- Trời ơi, tôi chưa bao giờ đoán đúng được chị nghĩ gì. Tôi sầm sì cáu kỉnh vì tôi nhận ra mình đã gắn bó quá nhiều với chị, còn khi ấy chị rõ ràng lại đang bận tâm chuyện trọng đại khác. Cho nên tôi nghĩ nếu tôi đi khỏi thành phố một thời gian thì sẽ tốt hơn. - Anh nhìn tôi vẻ trách móc. - Có ai bắt chị phải đợi cả mùa hè mới liên lạc với tôi như thế đâu.
- Tôi mới nghe cái băng hôm... mấy ngày trước.
- Sao mãi chị mới nghe thế?
- Anh nghĩ vì sao chứ? - Tôi cáu. - Tôi đã không thể nghe được vì tôi nhớ anh.
Tôi yêu ánh màu hổ phách trong mắt anh, chỉ có thể thấy khi nhìn ở góc sáng nhất định. Cả cái cách hàng mi anh sẫm màu ở chân, nhưng nhạt đi như ánh trăng ở ngọn. Ngang sống mũi anh có thêm một chỗ mới rám nắng.
- Anh nhớ em, - anh nói, và những cảm xúc kiềm nén chất chứa suốt mùa hè đã thoát ra, bùng lên như những ngọn lửa rực rỡ trong lồng ngực tôi.
- Kenny nói anh sẽ lên đường làm ô nhiễm Alaska.
- Kế hoạch là như vậy. - Trong khi tôi lại quay mặt ra cửa sổ, anh khiến khoảng cách một mét giữa chúng tôi biến mất. Bàn tay anh đặt lên cánh tay tôi. - Sao em không đi cùng anh?
- McLeod, anh làm tôi khóc và anh là đồ đáng chết phơi xác ngoài đường.
Anh bật cười ngay trước khi hôn tôi. Khuôn miệng ấm áp, và chóp mũi anh man mát cọ vào má tôi. Lưỡi anh hầu như không đưa sang miệng tôi, giống như khi ta gõ cửa rồi lịch sự lùi lại, chờ được mời vào. Anh có mùi gỗ thông mới xẻ, khói củi và cỏ đồng nội.
Tôi đưa một tay lên chạm vào hàm râu quai nón.
- Cứng quá phải không? - Anh nói.
Tôi thử vuốt nó theo các hướng khác nhau.
- Chắc sẽ có cách.
- Đi Alaska với anh nhé. Sẽ...
- Không được. - Đây là khi tôi suýt đánh mất.
- Sao không?
Tôi bặm môi đáp:
- Trước mặt anh là người rất tự hào được đồng sở hữu hiệu bánh Queen Street.
- Vậy thủ tục li hôn...
- Gần xong hết rồi.
Anh mỉm cười.
- Ý em là mình thỏa thuận xong rồi phải không?
Nụ hôn thứ hai lâu hơn, nồng nàn hơn, đưa tôi đến nhiều nơi. Như lần đầu đạp xe trên vỉa hè mà không cần bánh phụ. Như lặn sâu xuống con sóng lớn ở bãi biển Zuma. Như nhìn thấy nước Pháp từ độ cao mười ki-lô-mét và biết rằng đâu đó dưới kia, trong mê cung những ngôi nhà gạch hồng, có hiệu Boulangerie du Pont đang đợi tôi. Dịu dàng nhưng chắc chắn, những môi hôn đưa tôi trở lại mảnh đất nhỏ cách xa bờ biển Washington này, nơi bùn đang khô đi trên chiếc giày, và Mac đang ôm ghì lấy tôi, vòng tay vững vàng đến mức khó có thể hoài nghi những dự định của anh.
Khi chúng tôi tách nhau ra để thở, anh nói:
- Nhưng mặt khác, mùa thu không phải thời điểm lý tưởng để đi Alaska.
- Em nghĩ như thế chắc anh phải tùy cơ ứng biến thôi. - Và tôi rộng rãi đề nghị. - Ít nhất cho đến mùa xuân.
Thoáng yên lặng, không lâu hơn một nhịp tim. Tôi cảm thấy lồng ngực anh hít sâu một hơi, như thể anh sắp tuyên bố điều gì đó hết sức hệ trọng, nhưng Mac chỉ cuộn một lọn tóc của tôi quanh ngón tay anh, và nói:
- Ít nhất thế nhé.
Bánh Mì Cô Đơn Bánh Mì Cô Đơn - Judith Ryan Hendricks Bánh Mì Cô Đơn