I love to lose myself in other men's minds.... Books think for me.

Charles Lamb

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Thiên Nga
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5394 / 158
Cập nhật: 2017-04-18 13:32:28 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 33
nne, một mình trong phòng riêng... vì có điện gọi Gilbert đi rồi... ngồi xuống bên cửa sổ đôi phút để tương thông với cái dịu dàng của đêm và thưởng thức sức quyến rũ thần tiên của căn phòng sáng trăng. Ai đó muốn nói sao thì nói, Anne thầm nghĩ, nhưng căn phòng sáng trăng bao giờ cũng có gì đó lạ lùng. Tính cách nó đổi khác hoàn toàn. Không thân thiện lắm... không con người lắm. Nó xa xôi cách biệt và thu mình trong thế giới riêng. Gần như nó xem ta là kẻ xâm nhập.
Cô hơi mệt sau ngày bận rộn còn giờ thì khắp nơi đều yên tĩnh tuyệt vời... bầy trẻ đã ngủ, Bên Ánh Lửa đã trật tự trở lại.Trong nhà không một âm thanh ngoài tiếng thình thịch đều đều từ Susan đang nhồi bột bánh mì trong bếp.
Những âm thanh của đêm vọng qua cửa sổ mở, Anne biết và yêu thích từng thanh âm đó. Tiếng cười êm từ cảng vắng lại trong không khí êm đềm. Có ai đang hát dưới Glen, nghe như những nốt nhạc ám ảnh của một bài ca nào đã lâu rồi. Trên biển có những lối đi trăng soi ánh bạc, nhưng Bên Ánh Lửa phủ trùm bóng tối. Cây cối thì thầm “những câu đố đời xưa” và một con cú đang kêu trong Thung Lũng Cầu Vồng.
“Mùa hè năm nay mới hạnh phúc làm sao,” Anne nghĩ... và rồi có chút nhói đau khi nhớ lại điều cô nghe dì Highland Kitty ở Bắc Glen từng nói... “một mùa hè không bao giờ đến hai lần”.
Không bao giờ hoàn toàn như trước. Một mùa hè nữa sẽ đến... nhưng bọn trẻ sẽ lớn thêm chút nữa và Rilla sẽ đến trường... “và mình sẽ không còn bé con nào nữa,” Anne buồn bã nghĩ. Jem giờ lên mười hai và đã nhắc đến “Kỳ thi vào đại học”... Jem mà hôm qua đây thôi hãy còn là cậu bé trong Ngôi Nhà Mơ Uớc cũ. Walter đang lớn nhanh như thổi và chính sáng hôm ấy cô nghe Nan ghẹo Di về một “cậu bé” nào đó ở trường, Di đỏ mặt và hất mái tóc đỏ hoe. Thôi cuộc sống là vậy. Niềm vui và nỗi buồn...hy vọng và lo sợ... và đổi thay. Luôn đổi thay! Ta không thể ngăn nó được. Ta phải để cái cũ đi và mở lòng đón nhận cái mới... học cách yêu mến nó và rồi lại để nó ra đi. Mùa xuân, dù đáng yêu là vậy, phải nhường cho mùa hạ rồi mùa hạ mất mình cho mùa thu. Chào đời... đám cưới... chết...
Anne chợt nghĩ đến chuyện Walter đòi kể cho nghe sự việc xảy ra tại đám tang Peter Kirk. Đã nhiều năm rồi cô không nghĩ đến, nhưng cô không quên. Cô cảm thấy chắc chắn rằng không ai có mặt ở đấy mà đã quên hay sẽ quên. Ngồi đó trong buổi chiều chạng vạng sáng trăng cô nhớ lại tất cả.
Đó là vào tháng Mười một... tháng Mười một đầu tiên họ ở Bên Ánh Lửa... theo sau một đợt nóng như mùa hè vào cuối thu. Nhà Kirk sống ở Mowbray Narrows nhưng đi nhà thờ Glen và Gilbert là bác sĩ của họ; nên cả anh và Anne đều đi dự đám tang.
Cô nhớ đó là một ngày ấm áp, êm đềm, xanh ngọc trai. Khắp quanh họ là cảnh vật nâu tím đìu hiu tháng Mười một, mặt trời soi qua nhưng kẽ nứt trong mây tạo thành những vạt nắng đây đó trên triền cao con dốc. “Kirkwynd” gần bờ biển đến mức một làn gió mặn thổi qua rặng linh sam nghiêm nghị sau nhà. Đó là một ngôi nhà lớn trông thịnh vượng nhưng Anne vẫn luôn thấy chái chữ L trông hệt như một khuôn mặt dài đuột, khinh bạc.
Anne dừng lại để chuyện trò với dăm bà đang tụm lại trên bãi cỏ cứng không hoa. Họ đều là những người làm việc chăm chỉ tử tế, đối với họ đám tang không phải là một sự kiện háo hức khó chịu.
“Tôi quên mang theo khăn tay rồi,” bà Bryan Blake than vãn. “Nếu khóc thì tôi làm sao đây?”
“Sao chị lại phải khóc?” em dâu bà là Camilla Blake hỏi cộc lốc. Camila không ưa đàn bà quá mau nước mắt. “Perter Kirk đâu phải bà con với chị mà chị cũng đâu ưa gì ông ta.”
“Tôi nghĩ khóc tại đám tang là đúng mực,” bà Blake nói cứng nhắc. “Nó thể hiện tình cảm khi một hàng xóm được triệu hồi đến ngôi nhà trường cửu.”
“Nếu ngoài những người thích peter ra không ai khóc tại đám tang ông ta cả thì sẽ chẳng có nhiều mắt ướt đâu” bà Curtis Rodd nói lạnh nhạt. “Đó là sự thật nên sao không nói toạc ra? Ông ta là một lão bịp sùng đạo và tôi biết điều đó nếu không ai biết nữa cả. Ai đang tiến đến cánh cổng nhỏ thế kia? Đừng... đừng nói với tôi là Clara Wilson đấy nhé.”
“Đúng đấy,” bà Bryan thì thầm, mặt tỏ vẻ không tin nổi.
“Thôi được, mấy chị biết là sau khi vợ đầu của Peter mất thì cô ta nói chừng nào đến dự đám tang ông ta thì cô ta mới tới nhà, và cô ta đã giữ lời,” Camilla Blake nói. “Cô ta là em của vợ đầu Peter,”... giải thích riêng cho Anne đang tò mò nhìn Clara Wilson khi cô lướt qua mà không nhìn thấy họ, đôi mắt màu hổ phách nung nấu nhìn thẳng trước mặt. Cô là người đàn bà mảnh khảnh có gương mặt bi thảm, đôi mày đen, mái tóc đen dưới cái mũ vành buồn cười mà đàn bà lớn tuổi vẫn còn đội... một thứ có lông vũ và “hạt huyền” với tấm mạng ít vải ngắn đến ngang mũi. Cô không nhìn hay nói chuyện với ai cả, chiếc váy vải bóng đen sột soạt trên cỏ khi cô bước lên mấy bậc thềm.
“Jed Clinton ở cửa kìa, khoác bộ mặt đưa đám” Camila mỉa mai. “Rõ ràng hắn ta nghĩ đã đến lúc chúng ta phải vào. Lúc nào cũng huênh hoang là tại đám tang hắn tổ chức mọi thứ đều diễn ra đúng như dự kiến. Hắn không bao giờ tha thứ cho Winnie Clow vì xỉu trước khi có bài thuyết giáo. Lẽ ra bà ta xỉu sau đó thì chuyện đã không tệ đến thế. Chà, chắc không ai ngất tại đám tang này đâu. Olivia không phải kiểu dễ ngất.”
“Jed Clinton... người lo dịch vụ tang lễ ở Lowbridge,” bà Reese nói. “Sao họ không thuê người ở Glen?”
“Ai? Carter Flagg à? Sao thế, bà thân mến, cả đời Peter và ông ta cứ hằm hè choảng nhau. Carter muốn cưới Amy Wilson mà, các chị biết đấy.”
“Rất nhiều người muốn cưới bà ấy,” Camilia nói. “Hồi xưa bà ấy rất xinh đẹp, tóc đỏ đồng và đôi mắt đen như mực. Dù hồi ấy thiên hạ nghĩ trong hai người thì Clara đẹp hơn. Lạ là cô ta không bao giờ lấy chồng. Cuối cùng thì mục sư cũng tới kìa... có đức cha Owen ở Lowbridge đi cùng nữa. Dĩ nhiên ông ta là em họ của Olivia. Ổn cả trừ chuyện ông ta cứ đưa nhiều ‘ôi’ vào bài cầu nguyện quá.Ta nên vào thôi kẻo Jed lại nổi cơn.”
Trên đường đến ghế ngồi Anne dừng lại nhìn Peter Kirk. Cô chưa hề thích ông ta. “Mặt ông ta tàn nhẫn,” lần đầu tiên thấy ông ta cô đã nghĩ như vậy. Đẹp, phải... nhưng đôi mắt lạnh như thép ngay từ hồi ấy đã húp híp, cái miệng của kẻ keo kiệt mỏng dính núm lại tàn nhẫn. Ông ta nổi tiếng là ích kỷ và kiêu ngạo trong cách cư xử với đồng loại dù có nghề nghiệp ngoan đạo và mấy bài cầu nguyện ngọt xớt. “Bao giờ cũng cảm thấy mình quan trọng,” có lần cô nghe ai đó nói. Nhưng nhìn chung thì ông ta được tôn trọng và kính nể.
Ông ta cao ngạo lúc còn sống cũng như khi đã chết và có gì nơi mấy ngón tay dài chắp lại bên trên ngực im lìm làm Anne rùng mình. Cô nghĩ đến trái tim người đàn bà bị nắm giữ trong đó và liếc nhìn Olivia Kirk, mặc đồ tang ngồi đối diện cô. Olivia là một phụ nữ cao ráo, xinh đẹp đôi mắt xanh to... “tôi không chịu được đàn bà xấu,” Peter Kirk từng nói... nhưng mặt cô điềm nhiên và vô hồn. Không có dấu vết nước mắt rõ ràng... nhưng, nghĩ lại thì Olivia là người nhà Random mà nhà Random không phải kiểu mau nước mắt. ít nhất cô cũng ngồi nghiêm trang và góa phụ đau khổ nhất trên đời cũng không thể nào mặc đồ tang nặng nề hơn.
Không khí ngậy mùi thơm của hoa xếp hai bên quan tài…. cho Peter Kirk, người chưa hề biết đến sự tồn tại của hoa. Chi hội của ông ta gửi đến một vòng hoa, nhà thờ gửi một vòng, Hội Bảo thủ gửi một vòng, các ủy viên trường học gửi một vòng, Hội Phô mai gửi một vòng. Đứa con trai độc nhất, từ lâu đã xa lạ thì không gửi gì, nhưng đại diện dòng họ Kirk gửi một mỏ neo to hoa hồng trắng có hàng chữ “Cuối cùng cũng đã về nơi nương náu” bằng nụ hồng đỏ chạy ngang, và còn một vòng hoa của chính Olivia... một vòng huệ trắng. Camilla Blake nhăn mặt khi nhìn thấy nó và Anne nhớ cô từng nghe Camilla kể rằng không lâu sau đám cưới thứ hai của Peter cô ta có mặt ở Kirkwynđ đúng lúc Peter ném chậu hoa huệ trắng mà cô dâu cầm theo ra cửa sổ. Ông ta nói rằng sẽ không để nhà mình chen chúc đồ tang.
Dường như Olivia đã rất điềm tĩnh chấp nhận, sau đó ở Kirkwynd không còn huệ trắng nữa. Phải chăng Olivia... nhưng Anne nhìn gương mặt bình thản của bà Kirk mà bỏ qua điều nghi ngờ. Suy cho cùng, người bán hoa thường gợi ý nên dùng loại hoa nào.
Dàn đồng ca hát “Cái chết như biển hẹp ngăn cách nước Chúa với nước chúng ta” rồi Anne bắt gặp ánh mắt Camila và biết cả hai đang tự hỏi Peter Kirk sẽ khớp làm sao vào nước Chúa ấy. Anne gần như còn nghe được Camilia nói, “Nếu dám thì cứ tưởng tượng Peter Kirk bên cây đàn hạc và có vầng hào quang xem.”
Đức cha Owen đọc một chương rồi cầu nguyện, cùng nhiều “ôi” và nhiều khẩn nài những trái tim đang sầu đau nên thấy được an ủi. Mục sư ở Glen có bài phát biểu mà nhiều người thầm cho là thái quá, dù đã chấp nhận thực tế rằng ta phải nói gì đó tốt đẹp về người chết. Nghe gọi Peter Kirk là một người cha trìu mến và người chồng dịu dàng, một hàng xóm tốt bụng và một tín đồ Cơ Đốc nhiệt thành thì họ cảm thấy đó là sự lạm ngôn. Camila tìm chỗ nấp sau khăn tay, không phải để rơi nước mắt, còn Stephen Macdonald hắng giọng vài lần. Bà Bryan hẳn đã mượn được khăn tay của ai đó, vì bà đang thút thít vào khăn, nhưng đôi mắt xanh Olivia cúi xuống vẫn ráo hoảnh.
Jed Clinton hít một hơi nhẹ nhõm. Cho đến lúc này mọi chuyện đều diễn ra tuyệt vời. Một bài thánh ca nữa... diễu hành theo tục lệ để nhìn lần cuối “di hài”... rồi thì một đám tang thành công nữa sẽ thêm vào danh sách dài của ông ta.
Có chút lao xao ở một góc gian phòng lớn và rồi Clara Wilson đi qua ma trận những hàng ghế đến chiếc bàn bên quan tài. Ở đó cô quay lại nhìn về nhóm người họp mặt. Chiếc mũ cột dây buồn cười hơi tuột qua một bên nên một lọn tóc đen dày buông lơi trên vai. Nhưng không ai thấy Clara Wilson lố bịch. Khuôn mặt dài tái xanh ửng đỏ, đôi mắt bi thảm ám ảnh đang bừng bừng. Cô là người đàn bà ám ảnh. Cay đắng, như một căn bệnh vô phương cứu chữa ăn dần ăn mòn nào đó, dường như đã lan khắp người cô.
“Quý vị vừa nghe toàn điều dối trá... quý vị là những người đến đây để ‘tỏ lòng kinh trọng’... hay thỏa óc tò mò, bất kể đó là gì. Giờ tôi sẽ nói cho quý vị biết sự thật về Peter Kirk. Tôi không phải người đạo đức giả... tôi không bao giờ sợ hắn khi còn sống và cũng không sợ khi giờ hắn đã chết. Chưa từng có ai dám nói thẳng thắn vào mặt hắn sự thật về hắn nhưng giờ thì sẽ được nói... ở đây tại đám tang mà hắn được gọi là một người chồng tốt và một người hàng xóm tử tế. Một người chồng tốt ư! Hắn cưới chị Amy của tôi... người chị xinh đẹp của tôi, Amy. Quý vị đều biết chị dễ thương và yêu kiều thế nào. Hắn làm cho đời chị ấy khốn khổ. Hắn hành hạ và làm nhục chị... hắn thích làm vậy. Ồ, hắn đi nhà thờ đều đặn... cầu nguyện lê thê và trả nợ nần. Nhưng hắn là bạo chúa và kẻ áp bức... đến con chó của hắn cũng bỏ chạy khi nghe hắn đến gần.
“Tôi nói với Amy là chị sẽ hối hận vì lấy hắn ta. Tôi giúp chị may váy cưới... tôi thà may vải liệm cho chị còn hơn. Hồi ấy chị si mê hắn ta điên dại, tội nghiệp chị, nhưng chị làm vợ hắn chưa được một tuần thì đã biết hắn là thế nào. Mẹ hắn đã là nô lệ nên hắn mong vợ mình cũng là nô lệ. ‘Trong nhà của tôi sẽ không có tranh luận,’ hắn nói với chị. Chị không có can đảm để tranh luận... lòng chị tan nát. Ồ, tôi biết chị trải qua những gì, chị yêu quý xinh đẹp tội nghiệp. Hắn ngăn cản chị trong mọi chuyện. Chị không được có một vườn hoa... chị không được nuôi một con mèo... tôi cho chị một con thì hắn trấn nước cho chết. Chị phải ghi chép đàng hoàng cho hắn từng xu dù tiêu. Có ai trong quý vị từng thấy chị mặc cái gì đàng hoàng tử tế chưa? Hắn sẽ bắt lỗi vì chị đội cái mũ đẹp nhất nếu trời như muốn mưa. Mưa không được làm hư cái mũ của chị con người tội nghiệp. Mà chị là người thích áo quần xinh đẹp! Hắn luôn chế nhạo mọi người. Cả đời hắn chưa bao giờ cười... đã ai trong quý vị nghe hắn thật sự cười chưa? Hắn mỉm cười... ồ phải, hắn luôn mỉm cười, bình thản và ngọt lịm khi gây ra những điều buồn đau phiền muộn nhất. Hắn mỉm cười bảo chị sau khi đứa con đầu chết lúc lọt lòng rằng chị cũng nên chết quách đi, nếu chị không thể sinh ra thứ gì ngoài chuột chết. Mười năm sau thì chị chết... và tôi mừng chị đã thoát được hắn. Lúc ấy tôi đã nói với hắn tôi sẽ không bước chân vào nhà hắn cho đến chừng nào đến dự đám tang hắn. Một số quý vị có nghe tôi nói. Tôi đã giữ lời và giờ tôi đến để nói sự thật về hắn. Đó là sự thật... Ông biết điều đó”... cô giận dữ chỉ vào stephen Macdonald... “Bà biết điều đó”... ngón tay dài phóng về Camilia Blake... “Bà biết điều đó”... Olivia Kirk không hề nhúc nhích... “Ông biết điều đó”... chính mục sư tội nghiệp cũng cảm thấy như thể ngón tay đó đâm xuyên qua mình. “Tôi đã khóc tại đám cưới Peter Kirk nhưng tôi bảo hắn tôi sẽ cười tại đám tang hắn. Và tôi sẽ làm vậy.”
Cô thịnh nộ quay ngoắt lại rồi cúi bên quan tài. Những sai trái mưng mủ bao năm đã được rửa hận. Cuối cùng cô đã trút được nỗi căm giận. Toàn thân cô run lên vì chiến thắng và mãn nguyện khi cô nhìn xuống bộ mặt im lìm lạnh ngắt của người chết. Ai cũng chờ nghe tiếng cười thù hận vỡ ra. Nhưng không. Khuôn mặt giận dữ của Clara Wilson bất thần biến đổi... co rúm... nhăn lại như mặt đứa trẻ. Clara đang... khóc.
Nước mắt giàn giụa xuống đôi má lấm lem, cô quay lại để rời phòng. Nhưng Olivia Kirk lên trước mặt cô và để tay lên cánh tay cô. Trong chốc lát hai người đàn bà nhìn nhau. Căn phòng chìm trong im lặng.
“Cám ơn Clara Wilson,” Olivia Kirk nói. Mặt cô cũng khó dò như trước nay vẫn vậy, nhưng trong giọng nói điềm nhiên đều đều có một ẩn ý làm Anne rùng mình. Cô cảm thấy như thể một cái hố thình lình mở ra trước mắt. Clara Wilson có thể căm thù Peter Kirk, còn sống hay đã chết, nhưng Anne cảm thấy nỗi hận thù của cô còn quá yếu ớt so với lòng căm thù của Olivia Kirk.
Clara nước mắt giàn giụa đi ra, ngang một Jed thịnh nộ với một đám tang đã hỏng trong tay. Mục sư, định tuyên bố cho bài thánh ca cuối cùng, “Yên nghỉ trong lòng Chúa,” nghĩ lại nên chỉ rụt rè tuyên bố ban phước. Jed không có thông báo thường lệ là bạn bè bà con giờ có thể nhìn vĩnh biệt “thi hài”. Thứ nghiêm trang duy nhất có làm, ông ta cảm thấy, là đậy ngay nắp quan tài và đem chôn Peter Kirk cho khuất mắt càng nhanh càng tốt.
Anne hít vào một hơi sâu bước xuống mấy bậc thềm. Không khí trong lành lạnh ngắt dễ chịu làm sao sau căn phòng ngột ngạt, đầy mùi hoa cùng nỗi cay đắng của hai người đàn bà như tra tấn họ. Buổi chiều đã lạnh hơn và xám hơn. Từng nhóm nhỏ đây đó trên bãi cỏ đang thì thầm bàn tán. Vẫn còn thấy Clara Wilson băng qua đồng cỏ úa về nhà.
“Chẹp, chuyện đó đúng là không tin nổi nhỉ?” Nelson mất hồn nói.
“Choáng váng... choáng váng!” Elder Baxter nói.
“Sao chúng ta không có đôi người ngăn cô ta lại?” Henry Reese hỏi.
“Vì mấy chị đều muốn nghe cái cô ta muốn nói mà,” Camilla bẻ lại.
“Làm vậy không được... trang nghiêm,” chú Sandy MacDougall nói. ông ta đã bắt được một từ vừa lòng nên cứ uốn nó trong lưỡi. “Không được trang nghiêm. Một đám tang phải trang nghiêm dù nó có thể là gì khác đi nữa... trang nghiêm.”
“Chúa ơi, đời có buồn cười không chứ?” Augustus Palmer nói.
“Khi Peter và Amy mới làm quen tôi đã để ý rồi mà,” James Porter già trầm ngâm. “Mùa đông đó tôi cũng đang tán tỉnh người đàn bà của mình. Ngày ấy Clara xinh đẹp lắm. Mà cô ta làm bánh anh đào thì tuyệt!”
“Cô ta bao giờ cũng là cô gái miệng lưỡi sắc sảo,” Boyce Warren nói. “Khi thấy cô ta tới tôi đã nghi sẽ có kiểu chấn động nào đó nhưng không nghĩ nó sẽ có dạng như vậy. Còn Olivia nữa chứ! Mấy chị có tưởng tượng được vậy không? Phụ nữ thật kỳ lạ.”
“Nó sẽ thành câu chuyện ta nhớ đến hết đời cho xem,” Camilia nói. “Suy cho cùng, tôi nghĩ nếu không bao giờ có những chuyện như vậy xảy ra thì lịch sử sẽ là thứ chán phèo.”
Jed nản lòng gọi mấy người khiêng quan tài xúm lại đưa quan tài ra ngoài.
Khi xe tang chạy xuôi đường, đoàn xe ngựa chầm chậm theo sau, người ta nghe thấy một con chó tru thảm thiết trong chuồng. Có lẽ, cuối cùng thì cũng có một sinh vật đang sống tiếc thương cho Peter Kirk.
Stephen Macdonald đến chỗ Anne khi cô chờ Gilbert. Ông là người ở Bắc Glen cao ráo có cái đầu như hoàng đế La Mã xưa. Anne vẫn luôn mến ông.
“Có mùi như tuyết,” ông nói. “Tôi vẫn luôn thấy như tháng Mười một là thời gian nhớ nhà. Cô có bao giờ nghĩ vậy không cô Blythe?”
“Có. Năm đang buồn bã nhìn lại mùa xuân của mình đã mất.”
“Mùa xuân... mùa xuân! Cô Blythe ạ, tôi đang già đi. Tôi thấy mình nghĩ các mùa đang khác đi. Mùa đông không như đã từng... tôi không nhận ra mùa hè... còn mùa xuân... giờ chẳng có mùa xuân nữa. Ít nhất, đó là cách ta cảm nhận khi người ta từng quen biết không về để cùng chia sẻ. Giờ là Clara Wilson tội nghiệp... cô nghĩ sao về mọi điều ấy?”
“Ồ, thật đau lòng. Hận thù như vậy...”
“Phảiiii. Bà biết không, chính cô ta phải lòng Peter từ lâu yêu khủng khiếp. Ngày ấy Clara là người con gái xinh đẹp nhất Mowbray Narrows... những lọn tóc đen xinh xắn quanh gương mặt trắng mịn... nhưng Amy lại hay cười nói, líu lo. Peter bỏ Clara mà thân thiết với Amy. Cách ta được sinh ra thật kỳ lạ, bà Blythe ạ.”
Một thoáng lay động kỳ quái trong đám linh san tơi bời gió thổi đằng sau Kirkwynd, xa tít ngoài kia một trận gió tuyết làm trắng xóa một ngọn đồi có hàng dương Lombardy đâm lên bầu trời xám xịt. Ai nấy vội vã bỏ đi trước khi gió tuyết tới Mowbray Narrows.
“Mình có quyền hạnh phúc không khi những người đàn bà kia đau khổ như vậy?” Anne tự hỏi khi đánh xe về nhà nhớ lại đôi mắt Olivia Kirk khi cô cám ơn Clara Wilson.
Anne đứng dậy bên cửa sổ. Chuyện đó cũng gần mười hai năm về trước rồi. Clara Wilson đã chết còn Olivia Kirk đến sống bên bờ biển và đi bước nữa. Cô trẻ hơn Peter nhiều.
“Thời gian nhân từ hơn ta tưởng,” Anne nghĩ. “Thật là một sai lầm đáng sợ khi ôm mãi cay đắng trong lòng bao năm trời... ôm chặt nó trong tim như một kho báu. Nhưng mình nghĩ chuyện xảy ra tại đám tang Peter Kirk là cái Walter không bao giờ phải biết. Dứt khoát đó không phải câu chuyện cho trẻ con.”
Anne Dưới Mái Nhà Bên Ánh Lửa Anne Dưới Mái Nhà Bên Ánh Lửa - Lucy Maud Montgomery Anne Dưới Mái Nhà Bên Ánh Lửa