A good book on your shelf is a friend that turns its back on you and remains a friend.

Author Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Cao Hành Kiện
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Trần Đĩnh
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bach Ly Bang
Số chương: 82
Phí download: 8 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 7882 / 158
Cập nhật: 2015-08-05 20:17:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 59
a nằm trên giường lò xo có khăn trải giường trắng tinh. Trên tường, giấy sơn màu vàng nhạt với những họa tiết hoa nổi, ở cửa sổ, rèm trắng thêu móc, thảm đỏ sẫm trên mặt đất, cặp ghế bành to tướng giữ sạch sẽ bằng hai chiếc khăn lớn. Gian phòng có buồng nước với bồn tắm Nếu ta không cầm trongtay một quyển in sao ra nhiều bản các bài hát của nông dân, Trống Chiêc cho việc cào cỏ thì khó khăn lắm mới nhận ra rằng ta đang ở trong khu lâm nghiệp Thần Nông Giá. Ngôi nhà một tầng gác mới toanh này được xây lên cho nhóm khảo sát người Mỹ nhưng vì một lý do không rõ nào đó họ đã không đến, thế là người ta biến ngôi nhà thành trung tâm đón tiếp các vị lãnh đạo đến đây thị sát. Nhờ trưởng cung đoạn ân cần, ta được hưởng một đãi ngộ ưu tien trong khu vực lâm nghiệp. Tiền trọ tính với ta ở giá thấp nhất và mỗi bữa ăn còn được phục vụ cả bia, tuy ta thích rựu trắng hơn. Tiện nghi và sạch sẽ đem lại cho ta một nguôi dịu sâu xa và ta thích ở lại đây thêm vài ngày nữa. Nghĩ cho kỹ, chẳng có cái gì buộc ta phải vội vã lên đường.
Ta nghe như có tiếng sột soạt. Ta nghĩ tới một con côn trùng, nhưng quan sát căn phòng, ta nhận thấy không có chỗ nào cho một con nào có thể ẩn được vì trần nhà và chao đèn đều một màu trắng sữa. Tiếng sột soạt tiếp tục, như lơ lửng trong không. Lắng lại, ta có cảm giác đó là một tiếng đàn bà đang lượn lờ quanh ta và biến mất khi ta buông sách xuống. Ta cầm sách lên, lại nghe thấy cái tiếng nói kia ở bên tai. Ngỡ bị ù tai, ta dứt khoát đứng dậy mở cửa sổ.
Trước tòa nhà một bãi sỏi trải dài, ngập nắng. Đang trưa, không một bóng người; có lẽ cái âm thanh kia đến từ chính ta. Đó là một tiết tấu khó dò theo, không rõ lời nhưng với ta hình như nó quen thuộc, hơi giống những bài hát tang ma của phụ nữ nông dân vùng núi.
Ta quyết định ra ngoài ngó quanh. Bên dưới chân tòa nhà một dòng suối hung dữ chảy siết, nước màu lam sáng lóa trong nắng. Chúng quanh dù không được rừng che phủ thì các đỉnh núi vẫn có một tấm thảm thực vật phong phú. Dưới chân dốc, con đường đất dẫn tới thị trấn nhỏ cách xa hơn một hay hai dặm. Bên tay trái, dưới chân các đỉnh xanh rờn là trường học. Không một học sinh nào trên sân vận động, có thể chúng đang lên lớp. Muốn sao thầy cô của cái sơn thôn này cũng không thể dạy cho trò của họ các bài hát ma chay. Vả lại, yên tĩnh hoàn toàn bao trùm nơi đây. Chỉ nghr thấy gió gào trong núi và tiếng suối thì thầm Trên bờ suối có nhà trú ẩn cho người lao động, nhưng ta không nhìn thấy ai ở bên trong.
Ta quay lại phòng mình, ngồi vào bàn giấy, gần cửa sổ để chép lại các tư liệu của ta về dân ca, nhưng vào lúc đó ta nghe thấy âm thanh kia tái diễn, tựa như sau cơn đau, bây giờ nó diễn tả một nỗi buồn dịu khuây, nhưng không thể thoát, nỗi buồn đang nhè nhẹ lan dần. Ta bắt đầu cảm thấy cái gì đó kỳ quặc và đang muốn biết rõ về nó: một ai đó đang hát hay là ta đang hóa quẩn? Khi ta ngẩng đầu lên, âm thanh đến từ sau gáy và khi ta quay lại, nó lại vẫn lơ lửng treo trong không, rõ rệt như một sợi tơ nhện ngoài đồng. Sợi tơ nhện phơ phất trong gió thì có hình, nó lại không, không thể nào nắm bắt nổi. Ta đứng lên tay ghế bành có ý dò theo nó. Cuối cùng ta phát hiện ra rằng nó đến từ cửa phụ thông hơi trên cửa ra vào. Ta lên một ghế dựa để mở lần kính sạch như lau như ly ra ngoài bao lơn. Ta mang ghế dựa ra khỏi phòng, nhưng vẫn chưa đủ cao để nhìn xem âm thanh từ đâu đến. Trước bao lơn, một mảnh sân nhỏ tráng xi măng phơi mình trong nắng, ta đã chăng lên đấy một sợi dây thép để phơi quần áo vừa giặt ngay sáng nay. Rõ ràng là quần áo không biết hát. Xa nữa là bức tường bao dưới chân núi và phía sau là sườn dốc chặn ngang bằng một dải đất hoang và những búi gai. Không có đường đi. Ta ra ngoài bao lơn đi vào nắng. Âm thanh càng rõ hơn, hình như nó đến từ ánh nắng chói chang, bên trên mái nhà. Ta nheo mắt nhìn lên trời, đó là thứ âm thanh của kim loại, sắc và rõ nét. Mặt trời chói chang. Mắt ta mờ đi rồi chuyển thành ánh lam đen, do bàn tay ta che chắn, ta nhận ra trên lưng núi trơ trụi, vài ba hình dáng tí xíu đang hoa hoa tay. Âm thanh kim loại đến từ đấy. Cuối cùng ta nhận thấy đó là những người đập đá. Một người trong đám hình như mặc may ô đỏ còn các người khác mình trần thì nổi không rõ trên vách núi màu nâu vàng bị mìn mở phanh ra. Tiếng hát bay trong nắng, theo gió, đôi khi rất mạnh, đôi khi thoảng nhẹ.
Ta nảy ý là có thể dùng ống kính cực xa của máy ảnh để kéo họ gần lại. Quả nhiên, người mặc may ô đỏ dùng một cái búa tạ; âm thanh giống với bài hát ma chay của người đàn bà nông thôn là ứng vào tiếng đập xà beng khác, mình tần hình như làm tiếng vọng lại cho nó.
Có thể họ đã để ý tới ánh mặt trời phản chiếu trên ống kính máy ảnh vì tiếng hát ngừng bặt. Những người đập đá dừng việc nhìn về phía ta. Không một tiếng nói nào nữa, một sự im lặng gần như e sợ. Tuy vậy ta hài lòng. Điều này chứng tỏ rằng không phải ta ốm đau và thính giác ta vẫn bình thường.
Ta quay lại phòng, ta muốn viết một cái gì, nhưng cái gì chứ? Tại sao lại không viết tiếng hát của những người đập đá? Nhưng ta không sao viết ra nổi một chữ nào.
Ta tự nhủ chẳng cò gì cản ta đến uống rượu và tán gẫu với họ tối nay. Như thế sẽ làm ta giải sầu. Vậy là ta đặt bút xuống và đi vào thị trấn.
Ta mua một chai rượu và lạc rang ở cửa hàng nhỏ. Tình cờ trên đường ta gặp người bạn đã cho ta mượn tài liệu. Anh bảo anh đã tập hợp được các bài hát dân ca vùng núi. Ta không còn đòi hỏi gì hơn bèn mời anh đến tán gẫu với ta. Vì lúc này bận, anh hẹn gặp nhau sau bữa tối.
Tối, ta chờ anh đến hơn mười giờ. Ta là người khách duy nhất của trung tâm đón tiếp và bầu không khí im lặng thật ngột ngạt. Ta thật sự tiếc đã không đi tán chuyện với những người đạp đá thì thình lình có tiếng gõ vào cửa kính. Nhận ra tiếng anh bạn, ta mở cửa sổ. Anh giải thích rằng các cô trực ở trên gác đã khóa cửa chính và đi ngủ rồi. Ta đỡ cho anh cây đèn pin và cái túi giấy; anh vào bằng cửa sổ, điều đó ít nhiều làm ta vui. Lập tức ta mở chai rượu và mỗi người tự hầu mình hơn nửa cốc.
Ta đã không thể nhớ lại hình dạng của anh. Hình như anh thấp gầy, thân hình nhỏ và thanh mảnh. Anh có vẻ hơi nhút nhát nhưng cách nói năng của anh vẫn còn cái nhiệt tình mà cuộc đời chưa phá hủy được. Hình hài diện mạo anh khôn quan trọng, ta khoái nhất là việc anh cho ta xem kho báu của anh. Anh mở cái túi giấy. Ngoài vài quyển sổ tay ghi chép, tất cả là tập bản thảo các bài dân ca lưu truyền đến nay. Ta lần lượt mở xem. Khi thấy ta hài lòng đến mức nào rồi, anh sôi nổi tuyên bố:
- Anh cứ việc chép lại những bài anh thích. Ở vùng núi này, từ rất lâu dân ca đã phong phú rồi. Nếu tìm được một lão sự phụ dân ca, ông ấy có thể hát cả ngày lẫn đêm không nghỉ đấy.
Ta bèn hỏi anh về bài hát của những người đập đá.
- À, đó là những làn điệu rất cao. Dân ca vùng Ba Đông, ở vùng ấy, cây cối đầu bị đốn sạch. Họ rời que hương đi đập đá.
- Cả họ cũng có những làn điệu dân ca và lời hát riêng ư?
- Làn điệu ít nhiều có chung nhưng lời thì họ ngẫu hứng. Họ hát những gì thoáng qua đầu và phần lớn thì rất thô lỗ.
- Chửi tục trong các bài hát ấy ư?
- Đám thợ ấy, anh cười giải thích cho ta, lâu ngày xa đàn bà, xa nhà, họ tự khuây khỏa trong khi đập đá mà.
- Tôi đã nghe các giai điệu của họ. Sao mà buồn và xúc động đến thế?
- Thế đấy, không hiểu lời thì người ta ngỡ là một bài than, nghe rất hay, nhưng thật ra lời chẳng có chút lý thú nào đâu. Anh nghe thử xem các lời này.
Anh bạn lấy ra cuốn sổ tay từ trong xắc, mở ra chia cho ta. Sau Hắc ám truyện (Bài ca mở đầu), có thể đọc thấy:
Vào một ngày lành, trời và đất chia tay.
Nhà hiếu, đám bạn bè mời chúng ta hát và gõ.
Đến sới hát, ta cất tiếng dạo đầu.
Một hai ba bốn năm, kim mộc thủy hỏa thổ.
Khó khăn thay bài hát mở đầu của tôi,
Miệng chưa mở, mồ hôi đã chảy dài.
Đêm khuya khoắt, người im ắng, trăng sáng và sao thưa.
Chúng ta chuẩn bị cất lên bài hát mở đầu.
Nếu nó dài đêm sẽ lại khuya,
Nếu nó ngắn nó sẽ xong trước khi trời sáng,
Chỉ có hát không ngắn không dài,
Chúng ta mới không làm muộn những người hát khác.
Đầu tiên mở trời đất nước
Thứ đến mở mặt trời mặt trăng và sao
Thứ ba mở năm phương thổ địa
Thứ tư ở Mẹ Tầm Sét chớp nhoang nhoáng
Thư năm mở bàn Bàn Cổ tách đất khỏi trời,
Thứ sáu mở Tam Hoàng, Ngũ Đế quân vương mọi đời
Thứ bảy mở sư tử đen, voi trắng, rồng vàng và chim phụng
Thứ tám mở con chó dữ canh cổng,
Thứ chín mở các thần chết, thần rừng, thần nước,
Thứ mười mở hổ, báo, sói và sài lang,
Các ngườidẹp cả sang bên, tránh vào một phía
Cho phép anh em hát chúng tôi, lang quân bước vào sới hát!
- Tuyệt! Anh tìm nó ở đâu?
- Cách đây hai năm, khi tôi là giáo viên ở vùng núi, một nghệ nhân dã hát và tôi ghi lại.
- Ngôn ngữ này thật là đẹp, lời hoàn toàn thốt ra từ tâm can, không có bị thi luật của những cái gọi là dân ca ngũ ngôn hay thất ngôn gò bó.
- Anh nói đúng, đây chính là dân ca đích thực.
Tính e dè của anh hoàn toàn tan biến mất do tác dụng của rượu.
- Chúng tôi không bị các văn nhân làm hư hỏng! Đây là các bài hát từ tâm hồn. Anh hiểu cái đó chứ? Anh đã cứu một nền văn hóa! Không phải chỉ các dân tộc thiểu số mà cả dân tộc Hán cũng vẫn còn có được một nền văn hóa dân gian chân chính, chưa bị luân lý giáo hóa của nho gia làm cho ô nhiễm!
Ta cao hứng đến cực điểm.
- Anh lại nói đúng đấy, nhưng khoan, đọc tiếp đi!
Đầy cao hứng, anh đã rũ bỏ cái khiếm tốn bề ngoài của một viên chức nhỏ. Anh đang hoàng cầm lấy sổ tay rồi bắt đầu ngâm nga các bài thơ, bắt chước một nghệ nhân đang biểu diễn:
Ở đây tôi chắp tay chào,
Anh là người xứ nào, ca sĩ?
Quê bài hát ở đâu?
Nhà tại châu nào, phủ nào?
Tại sao anh đến?
Đây, tôi xin đáp lễ:
Tôi là tay lái tay trống đất Dương Châu
Quê bài hát là ở Liễu Châu
Tôi đến thăm các bạn hát ở sới hát bốn biển
Tôi xin các người ở chiếu xem thứ lỗi
Anh mang cái gì trên vai kia?
Anh giữ cái lồng gì trong tay?
Nặng mà lưng anh gù, người anh cúi xuống
Ra mắt chúng tôi đi, sư phụ hát, xin mời,
Trên vai tôi mang một gánh bài ca
Trong tay tôi quyển sách lạ tôi cầm
Chư vị sư phụ đã đọc hết cả chưa?
Tôi đặc biệt đến quý phủ đây học hỏi,
Ta có cảm tưởng như đã nhìn thấy người này, nghe thấy tiếng nói này cùng cả tiếng chiêng tiếng trống. Tuy vậy ở bên ngoài chỉ có tiếng gió núi gào và tiếng suối thì thầm.
Tôi chở đi ba trăm sáu mươi gánh bài hát
Các bạn chọn gánh nào?
Tôi có ba vạn sáu nghìn bản hát,
Các bạn muốn bản nào?
Tôi muốn thưa với Sư phụ hát rằng tôi biết cái tình
Quyển thứ nhất là những sách về nguồn về gốc,
Bản thứ nhất là văn về gốc bề nguồn,
Tôi hiểu ra ngay lập tức,
Su pụ hát cũng là một người đi đường
Ông có thể biết những việc gốc nguồn,
Ông có thể biết địa lý, thiên văn đời sau.
Ở đây tôi đến hỏi
Năm nào, tháng nào bài hát ra đời?
Ngày nào, tháng nào bài hát có cuộc sống?
Ta có cảm tưởng nghe thấy tiếng hát thê lương và băng giá của một cụ già trong bóng tối, đệm bằng tiếng gió vỗ.
Phục Hi đã chế ra cây cổ cắm
Nữ Oa đã nghĩ ra cái khèn.
Nhờ âm mà đẻ ra ngôn ngữ
Nhờ dương mà đẻ ra âm thanh.
Âm dương giao hòa mới có người.
Có người mới có tiếng nói,
Có tiếng nói mới có bài hát,
Bài hát nhiều, người ta thu nhập thành tập.
Thời ấy, những sách do Khổng Tử biên tập
Đã bị mất đi trong vùng hoang,
Tập thứ nhất gió thổi lên tận trời
Thế mới có tình yêu Ngưu lang Chức nũ
Quyển thứ hai bị thổi vào trong biển,
Ngư ông thu nó lên hát oan hồn.
Quyển thứ ba gió đẩy vào chùa chiền
Các sư đạo phật và thấy tu Đạo giáo bèn tụng các bài kinh
Quyển thứ tư rơi xuống phố làng,
Con gái con trai bèn hát ân tình.
Quyển thứ năm rơi vào ruộng nước,
Nông dân đã hát lên những bài hát núi.
Quyển thứ sáu chính là "Truyện bóng tối" này đây,
Sư phụ hát nhặt nó đem về hát vong hồn,
- Đây mới chỉ là bài mở đầu, còn Truyện về bóng tôi thì sao nhỉ? Ta hỏi anh bạn trong khi vẫn đi đi lại lại ở trong phòng.
Anh nói với ta rằng tác phẩm ấy là một tập hợp nhữn bài hát hiếu ca người ta hát trong các đám ma ở vùng núi đã từ lâu rồi. Hát ba ngày ba đêm liền không nghỉ trên bãi đất trước quan tài chưa hạ huyệt. Nhưng không được tùy tiện. Nhưng không được tùy tiện hát trong các hoàn cảnh khác. Đã hát chúng lên thì các bài khác sẽ hóa thành cấm kỵ. Anh đây mới chỉ ghi được phần nhỏ, không ngờ người nghệ nhân hát kia đổ bệnh rồi chết.
- Tại sao dạo ấy anh không chép nốt đi?
- Ông cụ rất ốm. Ông cụ nằm trên một cái giường bé tẹo chẳng chiếu chăn, anh giải thích tựa như đã phạm một sai lầm. Anh lại lấy lại vẻ nhút nhát.
- Không còn ai có thể hát được các bài ấy ở tỏng núi ư?
- Còn những người biết đoạn mở đầu nhưng chẳng ai tìm ra ai hát được toàn bộ nữa.
Anh còn biết một nghệ nhân già nữa có cái hòm sắt đầy cac tập bài hát trong đó có Truyện bóng tối. Vào thời kì người ta kiểm kê sách sổ, sách này đã bị coi là một thí dụ điển hình về đồi tượng mê tín dị đoan phản động. Ông già đã chôn cái hòm đi. Vài tháng sau, khi ông đào nó lên, các sách đã bị mốc. Ông đem phơi ở sân nhưng một người nào đó đã tố giác ông. Người ta cử công an đến buộc ông lão phải nộp tất cả cho các quan chức. Sau ít lâu, ông cụ chết.
- Người ta tìm ở đâu ra nơi cung kính các vong linh đây? Tìm đâu ra các bài hát thiên hạ lắng nghe, thậm chí quỳ nghe chuyên chú cực kỳ? Người ta không tôn thờ những gì cần tôn thờ nữa, chỉ còn tôn thờ những cái ba lăng nhăng! Một đất nước vô hồn đến thế này! Một dân tộc đã đánh mất hồn của nó!
Phẫn nộ làm ta khảng khái.
Ta hiểu ta đã quá chén khiến lửa tà bốc lên ta hiểu khi thấy nét mặt anh bạn sầu não nhìn ta.
Buổi sang, một chiếc xe jeep đỗ ở trước tòa nhà. Họ đến báo cho ta biết các thủ trưởng và cán bộ của khu lâm nghiệp đã triệu tập một hội nghị báo cáo công việc của họ cho ta, điều khiến ta hết sức bối rối. Lúc ở huyện lỵ, chắc là tại hơi men, ta đã tuyên bố gì đó làm cho họ ngỡ ta từ thủ đô đến kiểm tra. Họ tưởng tượng ta có thể chuyển đạt những phàn nàn thắc mắc của họ lên cấp trên. Xe đã đỗ ở cửa, không thể đánh tháo được.
Các cán bộ đã ngồi từ lâu trong phòng họp, mỗi người một tách trà ở trước mặt. Vừa yên vị, họ đã đưa cho ta khăn mặt nóng. Đúng y như khi ta đi cùng đoàn đại biểu nhà văn. Hội nhà văn thỉnh thoảng tổ chức những chuyến tham quan nhà máy, trại lính, đồng ruộng, hầm mỏ, trung tâm nghiên cứu nghề thủ công nhân dân, viện bảo tàng kỷ niệm cách mạng, với lý do giúp nhà văn hiển cuộc sống. Những dịp đó, luôn có người lãnh đạo các nhà văn hay cá nhà văn lãnh đạo các nhà văn khác đọc diễn văn ở vị trí danh dự. Những nhà văn nhỏ nhứ ta chẳng hạn, chỉ ở đó cho thêm đông, luôn luôn có thể tìm được một chỗ khuất mắt ở trong góc uống trà, chứ không phảo nói năng gì. Nhưng hôm nay, hội nghị đã được triệu tập vì ta, ta tuyệt đối phải nghĩ đến những điều sắp nói.
Đầu tiên một cán bộ phụ trách nói về lịch sử sơ lược của khu vực lâm nghiệp cùng việc xây dựng nó. Anh ta giải thích rằng năm 1907, một người Anh tên là Wilson đã đến sưu tầm mẫu vật ở đây, Thời ấy, vùng này đóng cửa, ông ta chỉ có thể đến được ven ven khu vực. Trước năm 1960, đây là rừng nguyên sinh, ít nhìn thấy ánh nắng và chỉ nghe thấy tiếng suối. Trong những năm ba mươi, chính phủ Quốc dân đảng đã dự kiến khai thác gỗ ở đây nhưng không có đường nên chẳng ai có thẻ vào nổi.
"Năm 1960, Cục không ảnh của bộ Lâm nghiệp dựng nên một bản đồ. Tổng cộng, 3250 cây số vuông rừng núi.
"Năm 1962 bắt đầu khai thác ở phía Bắc và năm 1966 bắt đầu có đường giao thông.
"Năm 1970, một đơn vị hành chính được lập nên, nay gồm hơn năm mươi nghìn nông dân và khoảng mười nghìn cán bộ, công nhân trong ngành nuôi cá cùng gia đình họ. Bây giờ, hơn chín trăm nghìn mét khối gỗ đá được cung cấp cho Nhà nước.
"Năm 1976, các nhà khoa học ra lời kêu gọi bao vệ Thần Nông Giá.
"Năm 1980, người ta để ý kiến lập một khu bảo tồn tự nhiên.
"Năm 1982, chính quyền tỉnh đã quyết định vạch ra một khu bảo tồn rộng một triệu hai trăm nghìm mẫu.
"Năm 1983, tổ xây dựng của khu bảo tồn đã trục xuất tổ nuôi thả cá ra khỏi khu vực bảo vệ và quy định tiêu chí ở bốn phía. Lập ra các đội tuần tra kiểm soát. Dừng được xe không dừng được người. Năm ngoái trong một tháng, người ta đã đếm được có đến ba bốn trăm người đào hoàng liên, bóc vỏ cây nhài, lầm nó là vỏ cây Eucommia (Dùng trong dược học Trung Quốc), đốn gỗ hay săn bắn trái phrps. Hơn nữa, có cả người đến cắm trại để tìm người rừng.
"Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, một tiểu tổ đã trồng lại vài héc-ta cây đồng. Tái sinh sản thành công, một tái sinh sản vô tính cây thực công đồng. Người ta cũng trồng cây rừng làm thuốc như ngọc-trên-đầu, bát-nước-bờ-sông, thân-bút-lông, hoa-bảy-lá, cỏ-cứu-đời (có phải tên khoa học của chúng không?).
"Cũng có một tổ điều tra vè thú rừng, kể cả người rừng. Người ta đã lên danh sách Khỉ mũi hếch, báo, gấu trắng, cây hương, hươu, cừu đen, cừu hoan, trĩ vàng, kỳ nhông khổng lồ cùng các giống vật còn chưa biết như gấu lợn, sói dầu lừa ăn lợn con, theo lời nông dân nói.
"Từ năm 1980, thú rừng đã trở lại: năm ngoái, người ta thấy sói xám đánh nhau với khỉ mũi hếch, một con khỉ khác kêu lên rồi vua khỉ chặn đường sói xám. Vào tháng Ba, bắt được trên cây một con khỉ con chết vì không chịu ăn uống. Chim ruồi ngũ sắc là loài ăn mật hoa đỗ quyên. Mình đỏ, đuôi như hoa phong lan, mỏ đỏ.
"Vấn đề tồn tại: tất cả mọi người thiếu hiểu biết về bảo vệ tự nhiên. Một số công nhân chửi vì không được lĩnh thưởng. Một số công nhân chửi vì không được lĩnh thưởng. Nếu gỗ giao nộp không nhiều như trước, cấp trên sẽ có ý kiến. Các cơ quan tài chính không chịu cấp tiền. Bên trong khu bảo tồn tự nhiên hãy còn bốn nghìn nông dân, đều khó sờ đến. Cán bộ và công nhân ở khu bảo tồn tự nhiên có hai mươi người. Họ sống trong những nơi trú ẩn tạm bợ và họ khồn yên tâm. Không có xây dựng nào được dự kiến cho họ. Vấn đề then chốt là người ta đã không cấp cho chúng tôi kinh phí, chúng tôi đã nhiều lân kêu..."
Các cán bộ bắt đầu lên tiếng, tựa như ta có thể can thiệp để lấy được tiền cho họ. Ta thấy tốt hơn là ngừng ghi chép.
Ta không phải là người lãnh đạo các nhà văn hay một nhà văn lãnh đạo các đồng nghiệp, người ngay lập tức có thể vững dạ cất lời và ban ra các chỉ thị nắm được toàn bộ vấn đề cùng một loạt những hứa hẹn rỗng tuếch, chẳng hạn như là vấn đề náy tôi có thể nói với bộ trưởng này, thông báo cho nộ phận lãnh đạo hữu quan khác, tôi sẽ phát ra lời kêu gọi lớn, tôi sẽ báo động công luận để phát động toàn dân bảo vệ môi trường tự nhiên của đất nước! Chứ cứ như ta, bảo vệ ngay bản thân mình chưa nổi thì làm được cài gì? Ta chỉ nói được rằng bảo vệ môi trường tự nhiên là rất quan trọng, điều đó quan hệ đến tới cháu chắt chúng ta và các thế hệ mai sau, rằng sông Trường Giang đã như sông Hoàng Hà mất rồi, cát đã bồi tích ở đó mà ở Tam Môn Hiệp, Ba Hẻm, người ta còn muốn xây lên một cái đập lớn nữa! Nhưng dĩ nhiên ngay cả những điều đó ta cũng chẳng có thể nói được, ta thích đặt câu hỏi về người rừng hơn.
- Cái người rừng ấy, ta nói, người ta nhắc đến ở khắp nước...
Họ lao vào vấn đề.
- Chứ sao nữa! Viện khoa học TW Bắc Kinh đã tổ chức nhiều cuộc điều tra. Lần đầu tiên vào năm 1967 rồi vào các năm 1977 và 1980. Lần nào cũng đến điều tra chuyên đề. Cuộc điều tra năm 1977 là quan trọng nhất: một trăm mười người trong tổ khảo sát, phần lớn là quân đội, chưa kể cán bộ, công nhân của chính chúng tôi cử đến. Có cả một chính ủy sư đoàn...
Rồi họ tiếp tục các diễn văn của họ.
Ta phải tìm thứ lời lẽ nào để nói thẳng ra được với họ đây? Để hỏi họ đời sống ở đây diễn ra làm sao. Chắc chắn họ sẽ lại nói đến cung cấp vật chất, giá cả các mặt hàng thông dụng, lương bổng của họ, trong khi tài chính của chính ta thì ở cái mức gần không. Hơn nữa, có đúng đây là nơi để chuyện trò không? Ta cũng không thể nói với họ rằng cái thế giới chúng ta hiện đang sống càng ngày càng khó hiểu, hành vi của con người ta ngày càng kỳ quái, con người ta chẳng biết mình muốn làm gì mà lại vẫn mong tìm thấy người rừng. Thế thì nói đến cái gì đây, nếu không là nói đến người rừng?
Họ nói năm ngoái có một giáo viên đã trông thấy người rừng. Cũng vào mùa này, tháng Sáu hay tháng Bảy, anh ta không dám thổ lộ. Anh ta chỉ tâm sự với người bạn tốt nhất của mình và dặn là không được để lộ bất cứ điều gì. Đúng thế, cách đây ít lâu, một nhà văn đã đăng Câu chuyện buồn về người rừng ở Thần Nông trên một tạp chí của Hồ Nam, tờ Động Đình. Tờ tạp chí này đến đây, họ đã đọc nó. Chính từ đây mà nổi lên phong trào tì kiếm người rừng rồi lan sang đến tận Hồ Nam, Giang Tây, Triết Giang, Phúc Kiến, Tứ Xuyên, Quý Châu, An Huy...(Chỉ thiếu có Thượng Hải!) Đâu đâu người ta cũng nói đến chuyện đó! Ở Quảng Tây, người ta thật sự đã bắt được một người rừng bé nhỏ dưới ấy gọi là quỷ núi - nông dân nghĩ sẽ đem lại rủi ro nên đã thả ra (Hoài của thế!) Rồi có cả những người đã xơi cả thịt người rừng. Nói đi, cái ây không quan trọng mà, được, với lại, họ, tổ điều tra ấy, đã chỉnh lý và đã in cả các tư liệu rồi mà. Họ khẳng định rằng năm 1971, khoảng hai chục người, trong đó có Trương Nhân Quang và Vương Lương Sán, gần như tất cả đều là công nhân của khu bảo tồn, đã ăn cắp bắt chân và bàn chân của một người rừng ở căng-tin của nông trại Dương Nhật Loan: Gan bàn chân dài khoảng bốn mươi phân, riêng cái bàn chân đầy tới hai mươi phân và nặng những mười lăm ký - tất cả các tư liệu ấy đều đã được xác nhận theo đúng nguyên tắc. Mỗi người ăn một bát to thịt. Một người nông dân ở Ban Thủy đã bắn chết nó rồi bán một cẳng chân của nó cho căng-tin Dương Nhật Loan. Năm 1975, trên đường từ công xã nhân daan Kiểu Thượng đến đội sản xuất Mang Cá, Tăng Hiến Quốc đã bị người rừng tát cho một cái, người rừng này lông hung đỏ, cao hơn hai mét. Anh ta ngất đi hồi lâu ở dưới đất rồi sau khi trở về nhà thì không nói năng gì nữa, cấm khẩu trong ba, bốn ngày. Thực chất các báo cáo của họ là ghi lại nhân chứng miệng, dùng phương pháp thống kê của môn phẫu tích so sánh khi điều tra, Triệu Quý Điển chẳng phải là đã trông thấy một người rừng đang ăn dâu giữa ban ngày ban mặt đấy sao? Vào năm nào nhỉ, 1977 hay 1978? Thì trước tổ điều tra thứ hai của Viện Hàn lâm khoa học có mấy ngày thôi mà. Tất cả các cái đó dĩ nhiên người ta không ai bắt buộc phải tin. Với lại trong tổ điều tra của họ, hai quan điểm đối lập nhau. Nhưng nếu nghe nông dân nói thì người rừng có nhẽ cực kỳ tai quái. Họ nói rằng nó đuổi theo phụ nữ, đến đùa chơi với các bé gái, nó làm lắm cái buồn cười hay nó biết nói, tùy theo bằng lòng hay giận dữ mà tiếng nói có khác đi.
- Trong số chư vị ở đây, có ai đã chính mắt mình trông thấy người rừng chưa? Ta hỏi.
Họ cười và nhìn ta. Ta không biết như thế có nghĩa là họ có nhìn thấy hay là không.
Sau đó một cán bộ cùng ta đi vào khu vực trung tâm của khu bảo tồn tự nhiên đã được khai thác. Đỉnh của nó hoàn toàn trọc. Trong vòng hai năm, từ 1971, các khu rừng đã bị một trung đoàn cơ giới của quân đội đốn sạch. Người ta nói gỗ để dùng vào quốc phòng. Chỉ ở trên độ cao hai nghìn chín trăn thước, người ta mới có thể nhìn thấy một đồng cỏ đẹp như thế này. Những đợt sóng cỏ xanh non lượn dập dờn trong sương và mưa. Ở giữa dựng lên những búi trúc-mũi tên tròn xoe. Ta đứng hồi lâu trong lạnh rét, ngắm nhìn mẩu sinh thái tự nhiên trinh nguyên còn sót lại này. Trang Tử đã nói, cách đây hơn hai nghìn năm, rằng gỗ hữu dụng thì chết dưới lưỡi rìu còn gỗ vô dụng thì thả cửa mọc. Bây giờ con người còn tham tàn hơn ngày xưa, lý thuyết tiến hóa của Huxley cũng đang nghi vấn đây.
Nhưng ở trên núi ta cũng thấy một con gấu con ở nơi cất giữ gỗ của một gia đình. Với các dây thừng quanh cổ, nó trông giống như một con cún màu vàng. Nó cứ lũn cũn leo lên đống gỗ, vẫn chưa biết cắn để tự vệ. Chủ nhà bảo ta rằng ông đã nhặt được nó ở trong núi. Ta không hỏi ông có giết bố mẹ nó không. Ta chỉ thấy con gấu đáng yêu. Khi thấy ta rất me nó, ông đề nghị ta đưa cho ông hai mươi nguyên rồi mang nó đi. Ta không tính học cá tiết mục xiếc và làm sao ta tiếp tục hành trình được với con gấu con đó? Ta vẫn cứ là lấy chút ít tự do của ta hơn.
Ta còn thấy phơi ở cửa nhà một tấm da báo dùng làm nệm giường đã bị mối mọt xông. Hổ thì dĩ nhiên đã mất dạng từ hơn mười năm nay.
Ta cũng thấy một mẫu vật của khỉ lông vàng, chắc là con đã bị bắt trên cây rồi tuyệt thực chết. Đó là tất cả những gì mà một con vật bị mất tự do và từ chối thuần hóa có thể làm được, nhưng nó cần có nhiều nghị lực, con người lại không đều có được như thế.
Và cũng chính ở cửa ra vào văn phòng của khu bảo tồn tự nhiên nay mà ta thấy một khẩu hiệu mới toanh: "Nhiệt liệt hoan nghênh thành lập Ủy ban của phong trào những người cao tuổi!" Ngỡ một phong trào chính trị mới sắp được tung ra, ta vội hỏi người cán bộ dán khẩu hiệu này. Anh giải thích rằng lệnh trên xuống bảo dán nó chứ cái đó không dính dáng gì đến họ. Chỉ các cán bộ lão thành cách mạng đã sáu mươi tuổi mới có thể lĩnh tối thiểu khoản trợ cấp mọt trăm nguyên cho các hoạt động thể dục thể thao nhưng ở đây, người cán bộ già nhất mới có năm mươi nhăm, ông ta chỉ nhận được một sổ tay lưu niệm. Sau đó ta gặp một nhà báo trẻ, anh ta kể rằng người phụ trách cái ủy ban những người cao tuổi chẳng ai khác chính là nguyên bí thư ban chấp hành đảng của vùng này. Để mừng việc lập ủy ban này, ông ta đã đòi chính quyền địa phương một khoản tiền cả triệu nguyên. Nhà báo trẻ này có ý viết một tài liệu tham khảo nội bộ gửi thẳng đến Ủy ban kiểm tra kỷ kuật của Ban chấp hành trung ương đảng. Anh ta hỏi ta có cách nào làm cho bào cáo đó đến nơi không. Ta hiểu nỗi phẫn nộ của anh nhưng ta khuyên anh gửi bưu điện, như thế chắc chắn hơn trao cho ta.
Ở đây, cuối cùng ta gặp một cô gái xinh đẹp. Nàng có một ít tàn hương trên mũi, mặc áo sơ mi vải bông ngắn tay cổ rộng, một kiểu áo T-shirt khác áo quần người miền núi vẫn mặc. Quả nhiên nàng quê ở Tỷ Quy cùng làng với Khuất Nguyên, nằm về phía Nam, bên bờ Trường Giang. Tốt nghiệp trung học phổ thông, nàng đến đây ở nhà người anh họ, ngỡ tìm được việc ở khu bảo tồn tự nhiên. Nàng giải thích rằng hành chính huyện đã cảnh báo họ rằng các công trình xây dựng đập lớn Ba Hẻm Tam Hiệp sắp bắt đầu, huyện lỵ này sẽ bị nhấn chìm. Tất cả mọi người đã viết đơn đăng ký di dân, di dân sẽ bị huy động để tìm các phương tiện sinh sống mới. Sau đó, ta theo Hương Khuê đẹp mê hồn đền Nghi Xương về phía nam, ở đấy cho ra đời các mỹ nhân nhan sắc bậc nhất. Ta đã đi qua gần ngôi nhà mái cong ngói đen của người đẹp Vương Chiêu Quân thời cổ nằm trên một sườn đồi ven sông. Một tác giả ngiệp dư ở Nghi Xuơng đã cho ta hay rằng thành phố của anh sẽ là thủ phủ của tỉnh mới Ba Hẻm Tam Hiệp, ứng cử viên vào chức chủ tịch Hội nhà văn tương lai của tỉnh Ba Hẻm đã được chọn: đó là một nhà thơ trúng giải mà ta đã được nghe nói đến, tuy ta không tán thưởng anh ta bao lăm.
Từ lâu ta không có rung động thơ, viết không ra thơ nữa. Ta tự hỏi liệu chúng ta còn ở trong một thời cho thơ nữa không? Tất cả những gì cần ca ngợi và hô to đều đã được ca ngợi và hô to hết rồi, còn lại thì đều được in ấn bằng những chữ chì nặng trịch người ta gọi là tác hiệu, hình ảnh mang ý nghĩa. Thế thì theo các hình ảnh về người rừng đã nhìn thấy, những gì được xây dựng từ các suy diễn khoa học lấy từ những lời miêu tả miệng mà các nhân chứng nhìn bằng mắt cung cấp rồi được Hội điều tra người rừng cho xuất bản, theo đó cái con người vai xuôi, thân cúi lom khom, chân đi vòng kiềng, tóc dài va có nụ cười vĩnh cửu kia hẳn phải là một tác hiệu hình ảnh, mang ý nghĩa. Và ái cảnh tượng ta thấy vào đêm cuối cùng trên quảng trường Cá Gỗ ở Thần Nông Giá trong khu bảo tồn tự nhiên tại rừng thủy nguyên kia cũng có thể được coi là một bài thơ không đây?
Trăng chiếu trên bãi đất rộng trống vắng; dưới bóng núi đồ sộ, người ta dựng lên hai cây sào tre. Hai ngọn đèn dầu hỏa phát ra thứ ánh sáng trắng, móc lên hai cây sào người ta chăng lên một tấm màn. Một gánh xiếc diễn trên bãi rộng, chiếc kèm tom-pét lồi lõm, sai tông đôi chút và trống cà rùng to tướng bị han rỉ, một âm thanh rầu rĩ đệm cho các tiết mục. Gần hai trăm con người ở nơi đây; tất cả người lớn trẻ con của cái làng núi bé nhỏ này, kể cả công nhân, cán bộ khu bảo tồn cùng với gia đình, và kể cả cô dong dỏng cao, nguyên quán ở làng Tỷ Quy, quê của Khuất Nguyên, mũi có tàn hương vận chiếc áo dệt kim ngắn tay, mở rộng cổ gọi theo cách phát âm tiếng Anh là Ti-sớt kia. Họ tụ tập thành ba hàng hình vòng cung. Ở giữa là những người xem ngồi trên các ghế đẩu khiêng từ nhà đến, sau họ là người đứng vè những ai ở xa hơ nữa sẽ vươn cổ ra xem qua những cái đầu.
Chương trình gồm có các tiết mục khí công đấm vỡ gạch bằng lòng bàn tay, một viên, hai viên rồi ba viên đều gãy ra làm hai chỉ cần một nhát. Một người đàn ông siết chặt lại thắt lưng, nuốt các viên kim loại tròn xoe rồi nhổ chúng ra cùng với cả đống nước bọt. Một cô gái to béo leo lên các cột tre rồi treo những cái móc vàng. Cô ta khạc ra lửa. "Giả đấy! Làm giải đấy!" đám đàn bà con gái thì thào và trẻ con họa theo. Trưởng gánh xiếc hói đầu kêu to lên:
- Kìa coi, đúng là một tiết mục không sai!
Ông cầm lấy một ngọn giáo rồi bảo người vừa nuốt các viên kim loại ấn đầu mũi giáo vào ngực ông, đọa vào cổ ông cho tới khi cây giáo uốn cong lại như một cánh cung. Trên trán người trai tráng, nổi hằn lên các mạch máu xanh. Tiếng vỗ tay nổi lên ran ran, công chúng cuối cùng mới phục.
Trên bãi diễn, không khí bắt đầu thoải mái, tiếng vọng của kèn tom-pét chờn vờn trong núi, trống nghe đỡ buồn hơn, người ta sôi nổi lên. Trăng hiện ra giữa mây, ánh đèn hình như quắc hơn. Người đàn bà to béo khỏe mạnh mang trên đầu một bát nước đầy và mỗi tay một nắm thanh tre làm quay các cái đĩa. Sau đó chị xoay thân người tròn trĩnh cảm ơn người xem, nhảy tưng đứng trên đầu ngón chân như diễn viên múa vẫn làm như thế trên truyền hình. Người xem cũng vỗ tay. Trưởng gánh xiếc giỏi nói, những câu pha trò của ông ta mỗi lúc một nhiều còn tiết mục mỗi lúc một ít. Không khí tưng bừng lên, người xem vui vẻ.
Tiết mục cuối cùng là uốn dẻo. Cô gái mặc đồ đỏ, từ nãy đến giờ đưa đạo cụ, nay nhảy lên một cái bàn vuông trên đã có ba ghế đẩu làm thành một cái tháp. Cô ta nổi lên trên bóng tối của núi, thân người đỏ tắm được ánh sáng trắng của hai cây đèn chiếu vào. Trên trời, mặt trăng tròn vành vạnh thoáng tối đi trước đó nay trở thành màu da cam.
Trước tiên cô làm hình kim kê độc lập, khẽ khép chặt một chân vào hai tay, đầu ngẩng cao. Mọi người vỗ tay. Rồi cô xoạc thẳng hai chân ngang ra, ngồi lên ghế đẩu, không động đậy một ly. Mọi người lại hoan hô. Cuối cùng, cô lại xoạc hai chân, ngửa người lại đằng sau, bụng dưới gầy nhỏ để mu gồ đội lên. Người ta nín thở. Đầu cô từ từ lại ló ra ở giữa hai đùi, như một con quái vật. Cô bé kẹp chặt đầu mình vào giữa hai đùi, một bím tóc dài lủng lẳng. Cô mở to hai con mắt to tròn và đen, đầy vẻ buồn, tựa như cô đang ngắm nhìn một thế giới xa lạ. Rồi cô đưa tay ôm lấy bộ mặt nho nhỏ trẻ thơ của mình. Có thể bảo đó là một con nhện đỏ kỳ dị mang hình người trân trân nhìn đám đông phảng phất như đang nhìn vào một thế giới xa lạ. Đang sắp sửa vỗ tay, người xem bỗng ngừng lại. Cô chống hai bàn tay, nhấc cao chân lên rồi bắt đầu quay người trên một bàn tay; qua lần áo đỏ hiện lên rõ rành rành hai đầu vú. Người ta nghe thấy tiếng người xem thở, một mùi mồ hôi bốc lên. Một đứa bé toan nói thì bị người đàn bà bế nó khẽ vả cho một cái ngăn lại. Cô gái đồ đỏ nghiến răng, bụng phập phồng nhè nhẹ, mặt ướt bóng. Dưới vầng trăng sáng này, trong bóng tối sâu thẳm của quả núi này, cô uốn người cho tới độ mất hết hình dạng người. Duy nhất đôi môi thanh tao, đôi mắt long lanh của cô biểu hiện sự bi ai. Và nét bi ai ấy càng thổi bùng lên cái ham muốn tàn nhẫn của con người.
Đêm ấy, người xem bị kích động ghê gớm, tựa như máu gà trống đang chảy trong mạch máu họ. Tuy đã quá khuya, gần như các căn nhà đều vẫn còn sáng, bên trong vang lên hồi lâu tiếng người nói, tiếng đồ đạc va đụng. Với cả ta nữa, không tìm ra được giấc ngủ, bước chân đã đưa ta ra cái bãi bây giờ vắng tanh. Các ngọn đèn dầu hỏa đã hạ xuống, chỉ còn bền bỉ ánh trăng, trong veo như nước. Ta không tài nào ngờ nổi rằng dưới bóng những quả núi này, trang nghiêm và sâu thẳm, người ta đã biểu diễn một tiết mục mà ở trong đó hình hài con người đã bị biến dạng đi đến mức ấy, ta thầm hỏi đấy phải chăng là mộng.
Linh Sơn Linh Sơn - Cao Hành Kiện Linh Sơn