Books are delightful society. If you go into a room and find it full of books - even without taking them from the shelves they seem to speak to you, to bid you welcome.

William Ewart Gladstone

 
 
 
 
 
Tác giả: Kobo Abe
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Woman In The Dunes (1962)
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Az Links
Số chương: 32
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3541 / 91
Cập nhật: 2017-11-29 14:55:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 31
hững tuần lễ nhàm chán đơn điệu chỉ toàn những cát và đêm trôi qua.
“Hy vọng” vẫn như trước, bị lũ quạ không thèm đếm xỉa đến. Và ngay cả miếng mồi bằng cá cũng biến dạng. Mặc dù bị lũ quạ sao nhãng, nhưng miếng mồi lại không bị vi khuẩn bỏ quên. Một buổi sáng, khi chạm vào cán của cái que, anh chỉ thấy còn sót lại mẩu da; con cá đã biến thành một cục bùn nhão đen. Trong khi thay mồi, anh quyết định nhân thể xem lại cái máy kỳ cục này. Anh giật bắn mình, khi vừa bới cát và mở chiếc nắp lên. Nước đã đọng dưới đáy chiếc gàu. Tuy chỉ có khoảng sáu, bảy phân nước, nhưng trong hơn thứ nước lọc bằng cái màng kim khí vẫn được cung cấp cho hai người mỗi ngày. Gần đây có mưa thì phải; anh thầm hỏi. Không. Dễ tới nửa tháng nay trời không mưa. Nếu đúng như vậy, thì liệu có phải chỗ nước mưa này còn đọng lại từ nửa tháng trước không? Anh chỉ muốn tin như vậy nhưng điều khiến anh thắc mắc là anh biết chắc gàu bị rò. Và khi anh nhấc chiếc gàu lên, đúng như anh chờ đợi, nước từ dưới đáy gàu bắt đầu nhỏ xuống. Ở độ sâu như thế này không thể có suối ngầm, và anh bắt buộc phải công nhận rằng chỗ nước vừa thoát ra vẫn thường xuyên từ một chỗ nào đó chảy tới, ít ra, về mặt lý thuyết, thì phải như thế. Nhưng nguồn nước bổ sung này chảy ra từ chỗ nào giữa một vùng cát khô cháy như thế này?
Nỗi kích động trong anh mỗi lúc một tăng khiến anh khó lòng kiềm chế nổi. Anh chỉ có thể nghĩ đến một câu trả lời duy nhất. Đó là tác động mao dẫn của cát. Bởi vì lớp cát bên trên có một sức nóng đặc biệt cao, do vậy nó rất khô, nhưng khi ta đào sâu xuống tí chút thì lớp cát bên dưới luôn ẩm ướt. Ắt hẳn sự bốc hơi bề mặt có tác dụng như là một chiếc bơm, hút nước bên dưới lên. Khi anh nghĩ ra điều đó, mọi việc đều được giải thích dễ dàng: Một khối lượng khổng lồ sương mù bốc lên từ các đụn cát mỗi buổi sáng và tối, sự ẩm ướt khác thường bám vào các cột nhà và vách tường đã làm gỗ mục nát. Tóm lại, sự khô khan của cát không chỉ đơn thuần do thiếu nước, mà hơn thế, hình như do ở sự rút nước gây ra, bởi số lượng nước do cát hút vào không bao giờ phù hợp với tốc độ của hiện tượng bốc hơi. Nói cách khác, nước được bổ sung thường xuyên. Nhưng thứ nước này luân chuyển trong các loại đất bình thường với một tốc độ khó tưởng tượng được. Và hiện tượng đó xảy ra khi “Hy vọng” cắt đứt sự luân chuyển của nước ở một chỗ nào đó. Có lẽ do vị trí của cái gàu và khe hở xung quanh cái nắp mà số lượng nước tràn vào trong gàu không bị bốc hơi. Anh chưa thể giải thích một cách chính xác việc đặt cái bẫy và mối liên quan giữa nó với các yếu tố khác, nhưng nhờ sự nghiên cứu anh có thể lặp lại một cách chắc chắn thí nghiệm này. Hơn nữa, tại sao lại không dựa vào đó mà tạo nên một chỗ tích trữ nước có hiệu quả hơn.
Nếu anh thành công trong thí nghiệm này, anh sẽ không chịu nhượng bộ bọn dân làng một nước nào nữa, nếu như họ cắt việc cung cấp nước cho anh. Nhưng điều quan trọng hơn cả, anh đã phát hiện ra cát là một cái bơm vĩ đại. Tựa như anh đang ngồi trên một cái máy hút nước vậy. Anh ngồi xuống một lát, điều hòa lại nhịp thở của mình để làm dịu nhịp đập điên cuồng của con tim. Dĩ nhiên, anh chưa cần phải thổ lộ với một người nào về điều đó. Đây có thể là quân át chủ bài của anh trong trường hợp cấp bách.
Anh không thể nén được tiếng cười tự nhiên đang dâng lên. Dù cho anh có im lặng không nói cho ai biết về chiếc bẫy “Hy vọng”, song khó mà che giấu nổi niềm vui điên cuồng trong lòng. Anh bất chợt kêu lên và vòng tay ôm lấy ngang hông người thiếu phụ từ phía sau, khi nàng đang dọn giường chiếu. Và khi nàng tìm cách lẩn tránh, anh gieo lưng xuống giường, vừa nằm đạp chân vừa cười khanh khách. Tựa hồ bụng anh đang bị kích thích bởi một quả bóng bằng giấy chứa đầy một thứ hơi nhẹ đặc biệt. Anh cảm thấy bàn tay anh úp trên mặt đang trôi bập bềnh giữa không khí.
Người thiếu phụ cười một cách miễn cưỡng, có lẽ chỉ vì muốn chiều lòng anh. Anh đang nghĩ tới mạng lưới các mạch nước khổng lồ đang bò ngang dọc dưới cát, nhưng trái lại, người thiếu phụ kia chắc đang cho rằng các hành động của anh chỉ đơn thuần là những diễn biến có tính cách tình dục. Cũng được thôi. Chỉ có ai đắm tàu vừa thoát khỏi chết đuối mới có thể hiểu được cái tâm lý của kẻ bật cười vì giờ đây hắn ta có thể thở được.
Sự thực là anh vẫn còn ở dưới đáy hố như bấy nay, nhưng anh cảm thấy mình đã trèo lên tới đỉnh một ngọn tháp, cao ngất. Có lẽ thế giới này đã đảo lộn, những nơi cao thấp không còn nguyên như trước nữa. Dù sao thì anh cũng đã phát hiện ra nước trong cát... Chừng nào anh còn có phương kế ứng phó thì bọn dân làng còn không thể quấy rầy anh dễ dàng như thế. Dù chúng có ngừng cung cấp cho anh lâu bao nhiêu chăng nữa, anh vẫn có thể chịu đựng lâu dài được. Một lần nữa anh lại phá lên cười khi nghĩ đến tiếng la ó của bọn dân làng. Anh vẫn còn ở trong hố mà thấy như mình đã thoát hẳn ra ngoài. Quay nhìn bốn phía anh có thể thấy hết cảnh tượng này. Người ta không thể đánh giá được một bức khảm nếu không ngắm nó từ xa. Nếu nhìn gần tác phẩm đó, ta sẽ bị lạc vào những chỉ tiết vụn vặt. Ta tách rời khỏi một chỉ tiết chỉ cốt để bắt lấy một chỉ tiết khác mà thôi. Có lẽ từ bao lâu nay anh mới chỉ nhìn thấy những hạt cát chứ chưa phải cát... Sự thay đổi của cát phù hợp với sự đổi thay trong chính con người anh. Có lẽ cùng với nguồn nước trong cát, anh đã tìm thấy con người mới của mình.
Cũng từ đó, việc làm cái bẫy nước đã choán gần hết công việc hàng ngày của anh. Các hình vẽ và biểu đồ đã chất thành từng đống - chỗ chôn chiếc gàu, hình dáng chiếc gàu, mối quan hệ giữa các giờ trong ngày với tỷ lệ tích tụ của nước, ảnh hưởng của nhiệt độ và áp suất lên hiệu năng của các thiết bị. Đối với người thiếu phụ thì việc làm ấy quả là khó hiểu. Nàng không rõ vì cớ gì mà anh lại say mê những thứ tầm thường như cái bẫy quạ. Nàng nhận ra rằng không có người đàn ông nào sống mà lại không ham thích một cái gì, và nếu anh bằng lòng với cái trò đó thì nó cũng hợp với ý nàng. Hơn nữa, nàng không hiểu tại sao anh lại bắt đầu tỏ ra quan tâm hơn tới công việc thủ công của nàng. Đây không phải là một cảm giác khó chịu. Hãy tạm gác chuyện cái bẫy quạ sang một bên, nàng vẫn còn lợi lộc một cách đáng kể nữa. Nhưng anh cũng có những lý do và động cơ riêng của mình. Công việc của anh về cái thiết bị này lại rắc rối một cách không ngờ, vì cần phải hợp nhất nhiều yếu tố lại với nhau. Nếu muốn có những số liệu chính xác hơn, anh cần có một chiếc đài phát thanh để theo dõi các thông báo thời tiết. Chiếc đài phát thanh đã trở thành một vật cần chung cho cả hai người.
Vào đầu tháng Mười một, anh đã ghi được dung tích nước hàng ngày vào khoảng một gallon [1], nhưng rồi sau đó mỗi ngày lượng nước lại rút đi dần. Có lẽ do nhiệt độ, và rõ ràng anh phải đợi đến mùa xuân để thử lại toàn bộ thí nghiệm. Cuối cùng, mùa đông dài đằng đẵng và khắc nghiệt cũng đến, những miếng băng bị thổi xuống lẫn với cát. Trong thời gian này, anh quyết định giúp người thiếu phụ một tay để mua được một chiếc đài phát thanh cho ra hồn. Có cái may là dưới lòng hố khuất gió, thế nhưng ánh mặt trời gay gắt chiếu xuống suốt ngày nhiều khi không thể chịu đựng nổi. Thậm chí vào những ngày cát đông cứng lại, số lượng cát do gió lùa tới vẫn không ngưng giảm, và việc xúc cát vẫn không được hoãn lại. Có nhiều lúc những vết nứt trên các ngón tay anh toác ra và rơm rớm máu.
Chẳng mấy chốc đông qua xuân tới. Vào đầu tháng Ba hai người mua được chiếc đài phát thanh. Họ dựng một cần antenna cao trên mái lều. Người thiếu phụ sung sướng luôn mồm hỏi những điều mà nàng ngạc nhiên, tay vặn cái núm hết sang phải rồi sang trái dễ tới nửa ngày trời. Cuối tháng đó nàng nhận ra mình đã mang thai. Rồi thêm hai tháng trôi qua. Những con chim trắng rập rờn tung cánh từ đông sang tây suốt ba ngày liền, sang ngày sau đó phần dưới của thiếu phụ ra huyết và nàng kêu đau khủng khiếp. Một người trong làng được coi như thầy thuốc thú y trong đám họ hàng nhà nàng, chẩn đoán đây là một trường hợp chửa ngoài dạ con, và mọi người quyết định dùng chiếc xe tải ba bánh chở nàng tới bệnh viện trong thành phố. Người đàn ông ngồi với nàng khi họ đánh xe tới, anh để nàng nắm lấy bàn tay mình, trong khi anh cùng với người kia luôn tay xoa bụng cho nàng.
Cuối cùng chiếc xe tải ba bánh dừng lại trên miệng hố. Lần đầu tiên sau nửa năm trường, một chiếc thang dây được dòng xuống, và người đàn bà quấn trong mấy chiếc chăn như một cái kén, được kéo lên bằng dây thừng. Nàng ngoái nhìn anh đầy vẻ cầu khẩn với đôi mắt hầu như nhòa đi vì lệ cho đến khi không còn nhìn thấy hình bóng anh nữa. Người đàn ông ngoảnh nhìn đi nơi khác, tựa hồ anh không hề trông thấy nàng.
Mặc dù nàng đã được chở đi, nhưng chiếc thang dây vẫn còn nguyên chỗ cũ. Anh lưỡng lự với tay ra mân mê nó bằng mấy đầu ngón tay. Sau khi tin chắc rằng nó không biến mất nữa anh mới chậm rãi trèo lên. Bầu trời có màu vàng xỉn. Anh cảm thấy chân tay mình nặng trĩu như thế chân anh vừa mới ra khỏi mặt nước. Đây chính là chiếc thang dây mà anh hằng mong đợi bây lâu.
Gió như muốn giật lấy hơi thở từ miệng anh. Sau khi đã đi vòng quanh miệng hố, anh trèo lên một nơi có thể nhìn thấy biển cả. Mặt biển cũng nhuốm một màu vàng nhơ nhớp. Anh hít một hơi thật sâu, nhưng không khí làm họng anh thêm bỏng rát, và nó không có cái vị như anh vẫn mong đợi. Anh ngoái lại phía sau. Một đám cát từ ngoài rìa làng đang cuồn cuộn bốc lên. Đó là chiếc xe tải ba bánh chở người thiếu phụ nọ chăng, anh thầm nhủ. Ồ, phải... có lẽ anh nên nói cho nàng nghe về ý nghĩa thực của cái bẫy.
Có một vật gì di động dưới đáy hố. Thì ra đó là chiếc bóng của chính anh. Chiếc bóng ấy đứng gần sát ngay chiếc bẫy nước. Một phần của cái khung máy đã bị rời ra. Có lẽ ai đó đã vô tình giẫm phải nó khi họ đến chở người đàn bà đi. Anh vội lần theo thang dây xuống sửa lại cái bẫy. Đúng như dự đoán của anh, nước đã dâng lên tới vạch thứ tư. Sự hư hại không có gì đáng kể. Trong lều, từ chiếc đài phát thanh, có tiếng ai đang hát bằng một giọng ồ ồ. Anh cố nén tiếng thổn thức dường như sắp bật ra; anh thọc cả hai bàn tay vào cái gàu gỗ. Nước lạnh buốt. Anh quỳ xuống và cứ trơ trơ như vậy mãi, hai bàn tay vẫn nhúng trong nước.
Chẳng cần phải vội vã trong việc thoát thân. Trên chiếc vé khứ hồi mà anh đang cầm trên tay lúc này, chỗ để điền nơi đến và thời gian khởi hành vẫn còn bỏ trống để anh tự tay viết vào như ý anh muốn. Hơn thế, anh hiểu rằng anh đang nung nấu một nỗi khát khao được nói với một người nào đó về cái bẫy nước. Và nếu anh muốn nói về nó, thì chẳng có thính giả nào tốt hơn bọn dân làng kia. Anh muốn chấm dứt bằng cách nói với một người nào đó về nó - nếu không phải hôm nay, thì ngày mai vậy.
Anh có thể hoãn cuộc chạy trốn của mình lại một ngày nào đó sau này cũng chẳng sao.
THÔNG BÁO TIN NGƯỜI MẤT TÍCH
Tên người: Niki Jumpei
Ngày sinh: 07/03/1924
Theo các sự kiện ghi trong đơn khai báo về người con mất tích do bà Niki Shino (người mẹ) đệ trình, mọi sự thông báo về sự sống còn của người mất tích phải nộp cho tòa án vào ngày 21/09/1962. Trong trường hợp không có tin tức gì thêm, đương sự kể trên sẽ được tuyên bố mất tích. Bất cứ ai biết tin tức gì về người này, yêu cầu báo ngay cho tòa biết theo thời hạn kể trên.
Ngày 18/02/1962
Tòa án Nội vụ
QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Người khai: Niki Shino
Người mất tích: Niki Jumpei
Ngày sinh: 07/03/1924
Việc công bố về người mất tích nói ở trên, và các thủ tục thông báo trước công chúng đã được thực hiện đầy đủ, và do không có xác minh nào về sự sống cũng như sự chết của đương sự kể từ ngày 18/08/1955, đến nay đã được bảy năm, đã được công nhận, tòa án tuyên bố như sau:
QUYẾT ĐỊNH
Niki Jumpei được tuyên bố mất tích kể từ nay.
Ngày 05/10/1962
Tòa án Nội vụ
Chữ ký của Chánh án
Chú thích:
[1] Đơn vị đo lường chất lỏng, bằng 4,54 lít ở Anh và bằng 3,78 lít ở Mỹ.
HẾT
Người Đàn Bà Trong Cồn Cát Người Đàn Bà Trong Cồn Cát - Kobo Abe Người Đàn Bà Trong Cồn Cát