Nguyên tác: Plyte
Số lần đọc/download: 2462 / 24
Cập nhật: 2017-06-01 10:10:36 +0700
Chương 30 - Trên Đầm Cỏ Thô
H
ả?” Stanley nói một cách ngờ vực. “Bà muốn tôi quay về ngay bây giờ sao?”
“Tôi nói rồi,” bà dì Zelda gắt. Bà vừa mới tháo mảnh khăn quàng của Jenna ra khỏi đôi tay bị bỏng của Thằng Sói và không thích tí nào cái cảnh tượng bày ra trước mắt bà.
Chuột Stanley đứng trên ngưỡng cửa của ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm, nhìn ra ngoài ánh nắng rực rỡ, nơi Jenna, Nicko và Septimus đang ngồi bên cạnh cái thuyền rồng. Jenna có một miếng băng trắng sạch sẽ quấn quanh cánh tay và Septimus trông đã bớt nhợt nhạt rất nhiều sau khi dung một cái bánh nướng Kháng Rắn của bà dì Zelda. Nicko đang vui sướng khoắng chân vào dòng nước đầm lầy ấm áp.
Stanley nhìn trăn trối vào Thuyền Rồng. Đó là con thuyền đẹp chưa từng thấy, mà đó là chú chàng đã thấy rất nhiều thuyền bè trong đời rồi đấy. Mũi thuyền là cái cổ rồng cao, cong vút, phủ đầy những vẩy xanh lá cây ónh ánh, với một cái đầu rồng vàng rực rỡ, mắt thuyền cũng là đôi mắt rồng màu xanh lá cây đậm. Thân thuyền rộng thênh thang, láng nước và lên nước bóng loáng, vàng óng ả dưới ánh mặt trời; gặp dọc theo bên hông thuyền là đôi cánh rồng xanh lá cây, hệt như da thật. Đằng đuôi thuyền, nơi đặt bánh lái khổng lồ bằng gỗ gụ, là đuôi của con rồng vương lên không trung, những gai ngạnh vàng chóe lấp lánh trong nắng. Thực là một cảnh yên bình, hạnh phúc, và chuột Stanley cảm thấy an toàn trên hòn đảo của bà dì Zelda – nó không muốn phải rời đi chút nào. Tuy nhiên, dì Zelda lại có những ý kiến khác.
“Chẳng ích lợi gì nếu cứ luẩn quẩn ở đây,” dì nói với nó. “Nếu bây giờ mà đi ngay thì mi sẽ ra được khỏi đầm trước lúc hoàng hôn. Hôm nay là ngày dài nhất trong năm và là ngày tốt nhất để đi lại trên đầm đấy. Trời quá nóng nên gần như tất cả bọn sinh vật đã ở tịt dưới bùn để giữ mát rồi.”
“Ngoại trừ lũ Bọ Ma,” Stanley nói, âu sầu gãi một bên tai. “Bị một bầy Bọ Ma bám theo suốt đường rồi. Giờ tôi vẫn còn đang ngứa ngáy khắp mình đây này. Thật là kinh tởm.”
“Bọn chúng nhảy vào mũi anh à?” Jenna đến bên chuột Stanley ở bậu cửa.
“Hả?” Stanley hỏi.
“Lũ Bọ Ma ấy mà. Bọn chúng nhảy vào mũi anh à? Chúng vẫn thế đấy. Nhảy vào mũi người ta rồi dọn sạch hết…”
“Jenna, Jenna, thôi mà. Không cần thiết phải đi vào chi tiết. Ai mà chẳng biết bọn Bọ Ma sẽ làm gì,” tiếng dì Zelda phát ra từ phía bên kia cánh cửa khép hờ dưới cầu thang, có tấm biển: ĐỘC DƯỢC BẤT ĐỊNH VÀ ĐỘC DƯỢC ĐẶC BIỆT. Dì đang ở trong cái buồng con chứa độc dược của mình, để tìm Nhựa Bỏng.
“Nhưng Stanley cần phải biết,” Jenna chỉ ra.
“Stanley không cần đâu,” dì Zelda nói, ló ra khỏi buồng chứa thuốc cùng với một hũ thủy tinh lớn đựng thuốc mỡ màu hồng. “Bọ Ma không ăn chuột. Với lại, dì đang muốn phái nó quay về gặp bà Marcia và báo cho người phụ nữ bất hạnh ấy – cũng như cho ba mẹ của các con – biết rằng tất cả các con đều đã an toàn. Không cần phải làm cho Stanley lo lắng về Bọ Ma cũng như tất cả những chuyện khác.”
“Thế Stanley có đi không?” Jenna hỏi.
Con chuột giơ một chân lên phản đối. “ Xin lỗi, tôi vẫn còn đây. Và đã tôi không nói chính xác là tôi sẽ không đi, thưa Công Chúa. Nếu cô thấy đi hay ở cũng như nhau thì tốt hơn là tôi không nên đi.”
“Ồ, tôi thấy không như nhau đâu,” Jenna nói. “Dì Zelda cũng thấy thế.”
“Vâng. Dù thế nào thì cũng đừng có nghĩ là như nhau. Tôi đi vậy. Cô có bất cứ thông điệp gì đặc biệt muốn tôi chuyển đến Pháp sư Tối thượng không?” Stanley hỏi, vè buồn rười rượi.
“Hãy nói với bà Marcia – và ba mẹ tôi ở Cung Điện – rằng tất cả chúng tôi đều an toàn trong ngôi nhà tranh của dì Zelda và tôi đã đến kịp cho lễ thăm thuyền ngày Hạ chí.”
“Được. Tôi sẽ nói, thưa Công Chúa.”
“Tốt. Cảm ơn Stanley,” Jenna nói “Tôi sẽ không quên việc này đâu, tôi hứa. Tôi biết anh không thích đầm lầy.”
“Không thích tí nào,” Stanley phóng khỏi bậc cửa.
“Đợi chút,” dì Zelda kêu to. Stanley ngoái đầu lại, hy vọng bà dì có thể thay đổi ý định. “Mi có muốn mang một cái bánh mì theo không? Ta còn thừa vài cái từ bữa trưa.”
“Ừm, chính xác thì trong bánh mì có kẹp gì vậy.” Stanley hỏi một cách đề phòng.
“Bắp cải. Ta đã hầm cả buổi sáng, vì thế rất mềm và ngon.”
“Bà rất tử tế, nhưng thôi, cảm ơn bà. Tôi đi đây.” Và rồi, Stanley chạy xuống lối mòn, hối hả băng qua cây cầu xẻo mương và tiến vào Đầm Cỏ Thô.
“Thôi,” dì Zelda nói, “ta hy vọng nó sẽ ổn.”
“Con cũng vậy,” Jenna nói.
Cuối buổi chiều thì Thằng Sói bắt đầu lên cơn sốt. Nó nằm trên trường kỷ của bà dì Zelda, tay đã được bôi nhựa bỏng và quấn băng trắng sạch sẽ, miệng lảm nhảm liên hồi, cứ hết tỉnh rồi lại mê. Septimus ngồi bên cạnh, giữ một cái khăn mát ẩm trên trán Thằng Sói, trong khi dì Zelda lật lướt qua một quyển sách to đùng, quăn mép, nhan đề Dược Thư Dành Cho Phù Thủy và Thầy Pháp.
“Đó là vết bỏng Hắc Thuật, chắc chắn,” dì Zelda thì thầm. “Dì thấy sợ mỗi khi nghĩ đến những gì Simon đang âm mưu. Nếu nó đã nuôi hẳn một quả Bóng Săn – mà lại là một quả rất hữu hiệu – thì ai mà biết được nó còn có thể làm những gì khác nữa.”
“Khinh Công,” Septimus nói một cách u ám, chỉ ước sao 409 hạ sốt.
“Khinh Công?” Bà dì Zelda ngước mắt khỏi quyển sách, lông mày nhướn cao, vẻ kinh hoàng hiện lên trong đôi mắt xanh da trời phù thủy. “Khinh Công thật sự? Con có chắc không, Septimus – chắc chắn không phải chỉ bay lờ đờ và thêm một chút ảo giác chứ hả? Cái bọn Hắc Thuật ấy là cực giỏi môn ảo giác.”
“Con chắc chắn mà. Ý con là anh ấy không thể đến được chỗ chúng ta bằng bất kỳ cách nào khác. Nếu phải lội qua Đầm Cỏ Thô thì vô phương.”
Dì Zelda lộ vẻ trầm ngâm trong khi tiếp tục lật những trang sách dày, nứt nẻ của quyển Dược Thư dày cộp, tìm kiếm độc dược thích hợp. “Hừ, dì không tin điều đó,” bà vừa nói vừa lướt qua từng trang giấy da chi chít chữ, cố nhặt ra được những biểu tượng cần tìm. “Ý dì là, nó lấy được phép Khinh Công từ đâu?”
“Bà Marcia bảo không còn bùa Khinh Công nữa,” Septimus nói. “Bà nói nó đã bị Nhà Giả kim CUối cùng ném vào lò nung. Ông ấy đã làm phép Hiến Tế nó để luyện vàng tinh khiết nhất.”
“Có thể lắm,” bà dì Zelda nước đôi. “Mà cũng có thể không.”
“Là sao?” Septimus hỏi, nó luôn thích thú nghe bất kỳ điều gì mỗi khi dì Zelda buộc phải nói về Pháp Thuật. Phương pháp của dì hoàn toàn khác với phương pháp của bà Marcia – và đôi khi dì Zelda biết những điều lạ lùng, đáng sửng sốt mà bà Marcia lại không biết.
Dì Zelda ngước mắt lên khỏi quyển Dược Thư và nhìn Septimus với vẻ đăm chiêu. “Chuyện này chỉ giữa dì và con biết thôi đấy,” dì hạ giọng.
Septimus gật đầu.
“Chuyện là thế này,” dì Zelda tiếp, “Nhà Giả kim Cuối cùng đã không hề hiến tế bùa Khinh Công. Mà ông ấy giữ lại nó cho riêng mình. Con biết không, nó được làm từ thứ vàng đẹp nhất trần gian – những sợi tơ bằng vàng tinh khiết do những con nhện của Aurum quay ra. Ông ấy mê mẩn nó và không thể chịu nổi việc phải hiến nó đi. Vì thế ông ấy làm phép Giấu nó.”
“Ở đâu?” Septimus hỏi.
Dì Zelda nhún vai. “Ai mà biết? Trên ngọn cây cao nhất trong cánh rừng hả? Hay dưới đệm của ông ấy? Hay trong với của ông ấy?”
“Ồ!” Septimus thất vọng – cậu đã mong đợi nhiều hơn kìa.
“Nhưng…” dì Zelda tiếp.
“Sao ạ?”
“Dì vẫn tin rằng bùa Khinh Công hiện ở đây.”
“Ở đây?” Septimus há hốc miệng kinh ngạc. “Trong ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm?”
“Suỵt. Đúng vậy,” dì Zelda lật sang một trang khác và chăm chú nhìn vào một công thức viết loằng ngoằng trên đó. “Đương nhiên là dì đã lùng sục khắp mọi nơi để tìm nó, nhưng vấn đề là những bùa cổ kiểu này bắt nguồn từ thời đại Hắc ám của Pháp Thuật, và thường thì chúng chỉ đáp ứng khi được Hắc Thuật chạm tới – mà đó lại là một thứ mà, Septimus à, dì không có. Hoặc cũng không mong ước có.”
Cái khăn trên trán Thằng Sói đã nóng lên. Vẫn đang nghĩ về bùa Khinh Công, Septimus đứng dậy và đem cái khăn vào căn bếp nhỏ của dì Zelda. Nó nhứng khăn vào một thùng nước suối mát rồi nắm nắm cho khô cái khăn, xong trở về, ngồi xuống cạnh Thằng Sói và cẩn thận đặt lại cái khăn lên trán bạn. Thằng Sói không cử động.
“Nhưng…” Septimus nói.
“Di biết ngay là sẽ có ‘nhưng’ mà,” dì Zelda nói, mỉm cười.
“Nhưng tại sao dì lại nghĩ bùa Khinh Công có ở đây? Con biết dì phải có lý do.”
“Ừm… Thế Septimus này, con có biết rằng Người Giữ Đầm không thể kết hôn không?”
“Dạ biết.”
“Và cũng phải thôi, bởi vì không có người vọ nào lại đi giữ bí mật với chồng mình cả, và Người Giữ Đầm thì có vô vàn bí mật phải giữ. Nhưng Broda Pyde, một trong những Người Giữ Đầm thuở xưa, đã bí mật kết hôn với… Nhà Giả kim Cuối cùng. Dì tin rằng chồng bà ấy đã giấu bùa Khinh Công ở đây. Dì cũng tin rằng có thể bà ấy đã giữ lại phần nào đó cho riêng mình, nếu như tin được cuốn Nhật ký Người Giữ Đầm của bà ấy – Vì vậy bùa Khinh Công có thể không còn nguyên vẹn.”
“Nhưng…”
“Gì? Ờ, cái này coi bộ hứa hẹn đây,” qua đôi mục kính, dì Zelda đang ngó vào một trang sách bị bôi đen xì trong cuốn Dược Thư Dành cho Phù Thủy và Thầy Pháp.
“Con không hiểu tại sao ông ta lại không giấu nó ngay trong Lâu Đài,” Septimus nói. “Mang một cái bùa quý như thế mà đi xa thì quá là nguy hiểm. Chẳng phải đầm lầy ngày xưa còn tệ hơn ngày nay nhiều sao – nhung nhúc bọn cá chó răng nhọn ăn thịt với đủ loại Hắc Vật? Mà, dì có nghĩ là biết đâu ông ấy đã đánh mất bùa Khinh Công trong bãi lún kinh tởm kia không?”
Dì Zelda ngước lên chăm chú nhìn Septimus. “Để giết một con mèo thì không phải chỉ có mỗi một cách,” dì nói một cách khó hiểu. Và Septimus chưa kịp hỏi dì nói thế nghĩa là sao, bà dì Zelda đã đặt cuốn Dược Thư nặng chịch lên đùi nó. “Xem đi,” dì nói, chỉ vào trang sách bị cháy sém. “Dì nghĩ nó có thể gây hại ra phết đó. Nó có bùa Đảo Ngược của Boris Boil thiên tài, cho nên có một ít Hắc Thuật trong đó. Con nghĩ sao?”
“Rượu đen trị bỏng – một chế phẩm từ vuốt mèo,” Septimus đọc. “Do tác dụng cộng thêm (ngờ rằng từ việc nhiễm Hắc Thuật), chúng tôi đề nghị tạo một hỗn hợp với phương thuốc Đảo Ngược số III của Boris Boil. Chú ý: KHÔNG ĐUN SÔI. Xem trang XXXV coi công thức cuối cùng. Dùng ngay. Ổn định trong đúng mười ba phút. Hết sức cẩn thận.” Septimus khẽ huýt sáo. “Nghe có vẻ phức tạp đấy.”
“Thì nó phức tạp thật mà,” dì Zelda trả lời. “Sẽ phải mất một giờ hay cỡ đó để trộn thuốc. Nhưng dì biết mình có đủ tất cả các thành phần để pha chế. Dì luôn giữ một chai bả của Boil ở nơi an toàn. Và dì đã mua được một ít vuốt mèo trong chợ phiên một-năm-họp-một-ngày vào năm rồi,” bà dì đứng dậy và lại biến mất vào buồng chứa độc dược của dì.
Septimus ở lại bên Thằng Sói, giờ đây nằm trắng bợt và im re như một tảng đá dưới nắng mặt trời, bị cơn sốt Hắc Thuật thiêu đốt tới tận ruột gan. Lo lắng, Septimus nín thở nhìn vào cánh cửa buồng độc dược đóng im ỉm. Nó còn nhớ như in cái buồng đó từ lần trước đến ở với dì Zelda. Sau cánh cửa đó, bên trong, là một căn buồng nhỏ tối mò, nhét lủ khủ mọi loại độc dược quý giá và tinh tế nhất của dì Zelda và một cái cửa sập mở vào đường hầm, xưa có lúc dẫn đến một ngôi đền cũ, nơi Thuyền Rồng năm dưới lòng đất hàng trăm năm. Nhưng do những bức tường của ngôi đền đã bị cuốn trôi trong trận bão lớn, đường hầm giờ đây chỉ còn dẫn đến ruộng bắp cải và dì Zelda dần dà đã nhiễm thói quen dùng nó như một lối đi tắt.
Jenna xuất hiện, nổi bật trong ánh nắng chói chang ở ngưỡng cửa. “Anh ấy sao rồi?” Cô bé hỏi với giọng lo lắng.
“Anh nghĩ cậu ấy không khỏe lắm,” Septimus lặng lẽ trả lời. “Dì Zelda đang pha chế một loại độc dược phức tạp cho cậu ấy.”
Jenna ngồi xuống bên cạnh Septimus. “Anh nghĩ anh ấy có qua khỏi không, Sep?”
“Anh không biết… ồ, nhanh thật…”
Dì Zelda nhảy vọt ra khỏi buồng thuốc, trông bấn cả lên. “Bả Đầm Lầy. Dì cần Bả Đầm Lầy tươi. Con có tin không – phải tươi. Cái công thức quỷ quái. Con đi hỏi Boggart được không? Làm ơn đi liền cho dì.”
Septimus đứng phắt dậy.
“Không, Sep. Anh ở lại với anh ấy. Để em đi cho,” Jenna nói.
“Nói với Boggart là khẩn cấp,” dì Zelda gọi với theo bóng dáng tất tưởi của Jenna. “Cứ phớt lờ đi nếu ông ta có làm mình làm mẩy.”
Đúng là Boggart đang làm mình làm mẩy. Jenna phải gọi ba lần thì sinh vật đầm lầy to lớn màu nâu nhẫy đó mới ngoi lên khỏi cái ao của mình giữa một biển bùn nổi bong bóng phòm phọp.
“Một Boggart không thể ngủ vào ngày nóng nhất trong năm sao?” Nó gặng hỏi, đôi mắt đen chớp chớp nhúm nhíu dưới ánh nắng chói chang. “Cô muốn gì nào?”
“Cháu thật sự xin lỗi, Boggart,” Jenna tha thiết. “Nhưng dì Zelda cần gấp một ít Bả Đầm Lầy và dì…”
“Bả Đầm Lầy? Ta phải đi lấy Bả Đầm Lầy hả?”
“Làm ơn đi, Boggart,” Jenna nài nỉ. “Để làm thuốc cho một cậu đang bị phỏng hai tay. Cậu ấy đang bệnh nặng lắm.”
”Ồ. Ừm, tôi rất lấy làm tiếc khi nghe vậy. Nhưng tôi cũng rất lấy làm tiếc nếu lại phải ra ngoài để mà phỏng nắng nữa và mất cả ngủ. Đó là chưa kể còn phải sục sạo loanh quanh bên dưới cái bọn sên kinh tởm,” Boggart rùng mình và phì một cục bong bóng to tướng ra khỏi chóp mũi giống hải cẩu hếch lên của nó. Jenna hít trọn hơi thở Boggart vốn đã đi vào huyền thoại, lập tức lùi lại và hơi lảo đảo. Trong nắng nóng, hơi thở đó thậm chí còn nặng hơn.
“Bảo với dì Zelda là tôi sẽ mang Bả Đầm Lầy tới ngay khi tìm thấy,” Boggart nói và lặn ùm xuống bùn ngay tắp lự.
Vài phút sau Jenna thấy ông ta trồi lên mặt nước trong xẻo mương – một con kênh rộng chay bao khắp hòn đảo. Jenna nhìn Boggart tiến nhoay nhoáy dọc theo những kênh những rạch dẫn từ xẻo mương ra đầm lầy, cho đến khi, ở tít đằng xa, nó đến được hố Ba Chục Mét, nơi mọc đầy Bả Đầm Lầy mọc. Jenna thấy nó rướn cái đầu lên khỏi hẳn mặt nước, hít một hơi dài rồi biến mất.
Boggart khép tai và lỗ mũi lại rồi chìm như một tảng đá xuống hố Ba Chục Mét. Nó là một thợ lặn điêu luyện và có thể nín thở ít nhất một giờ, vì thế không nề hà gì cái chuyện phải lặn sâu để làm những việc lặt vặt. Tuy nhiên, điều khiến Boggart bực bội và ngán ngại lại chính là những thứ mà nó có thể tìm thấy dưới đáy hố. Boggart không phải là một sinh vật dễ buồn nôn, nhưng cái bọn Sên Trắng đầm lầy to thừ lừ ấy – cái bọn vĩnh viễn ở trong trạng thái bị phân hủy nửa chừng – luôn khiến nó rùng mình. Một đống sên khổng lồ sống ở dưới đáy hố, và bên dưới bọn chúng là nơi Bả Đầm Lầy sinh sôi nảy nở, được nuôi sống bằng chính thịt sên mục rữa. Bả Đầm Lầy là một loại chất xúc tác rất mạnh cho bất kỳ độc dược nào, nhưng phải là Bả Đầm Lầy tươi … Boggart lắc đầu bất mãn. Nó hi vọng dì Zelda biết rõ dì đang làm cái gì mà phải táy máy đến cái thứ tươi sống này. Jenna ngồi bên cạnh xẻo mương, đợi Boggart nổi lên lại. Để giết thời gian, cô bé nhặt lên vài hòn đá cuội màu xám nhỏ và vuốt ve chúng, hy vọng biết đâu một viên trong đó lại là chính là hòn đá cưng Petroc Trelawney của cô. Silas đã tặng Petroc cho cô trong lần sinh nhật thứ mười, nhưng nó đã biến đâu mất trong chuyến thăm ngày Hạ chí lần trước của Jenna. Jenna vẫn hi vọng có ngày tìm thấy nó, nhưng chẳng có hòn đá cuội nào cô vuốt ve qua lại thò ra được những cái chân mập, ngắn cũn cỡn như Petroc vẫn làm. Jenna thở dài và ném từng viên xuống xẻo mương và hy vọng rằng Boggart sẽ không lặn quá lâu.
Jenna không phải là người duy nhất đợi Boggart. Bên cạnh hố Ba Chục Mét, nằm trên một khoảng cỏ mềm, là thân hình dài nhẳng, ốm teo tóp của một thằng con trai. Nó mặc một cái quần vá víu không vừa tí nào và một cái áo chẽn rộng thùng thình được may từ vải len dệt thô. Bất chấp mọi nỗ lực vỗ béo của dì Zelda, Merrin Meredith, cựu Đồ Đệ của DomDaniel, vẫn gầy như cái que. Đã hơn một năm kể từ khi dì Zelda chăm sóc cho nó hồi sinh lại sau khi nó bị chính Chủ Nhân cũ Tiêu Hủy, dư âm của biến cố ấy vẫn lởn vởn trong ánh nhìn ma dại từ đôi mắt sâu hoắm của nó. Vào những ngày vui, Merrin không lấy làm phiền về sự kèm cặp của dì Zelda, nhưng vào những ngày tệ hại – như hôm nay chẳng hạn – nó không thể chịu nổi việc ở gần dì, hay bất cứ ai. Trong những ngày như thế. Merrin vẫn còn cảm giác như mình bị Tiêu Hủy và không thực sự tồn tại trên đời.
Merrin đang khó chịu. Càng khó chịu hơn bao giờ hết khi có một con chuột lắm mồm chạy đến, yêu cầu khẩn cấp triệu Boggart ra ngoài bến cảng, mé đầm lầy và mang theo một chiếc xuồng để đón con bé Công Chúa thấy mà ghét. Merrin đã lượng lờ bên con kênh từ ngoại vi bến cảng dẫn vào, và khi chiếc xuồng hiện ra trong tầm mắt, thì nó càng thấy khó chịu hơn.
Quả không sai, đúng như nó nghĩ, một con bé Công Chúa hợm hĩnh đang ngồi ở mũi xuồng. Nhưng còn có ba đứa khác đi cùng với con bé. Ba đứa. Một trong số chúng trông quá tệ. Đó là một thằng bé ốm ròm, lôi thôi lếch thếch, làm Merrin nhớ đến con sói cưng mà Chủ Nhân cũ của nó có nuôi ít lâu. Nhưng hai đứa kia là bọn mà Merrin không muốn gặp tí nào. Đấy là thằng Nicko mắc dịch đã có lần đánh nó, gọi nó là con heo và vặn cánh tay nó đến mức đau lịm cả người. Nhưng tệ nhất trong đám là thằng Septimus Heap – cái thằng đã ăn cắp tên của nó. Tên của chính nó. Thật chẳng ra làm sao khi dì Zelda cứ gọi nó bẳng tên thật của nó là Merrin Meredith – bà ta thì biết cái gì cơ chứ? Cả đời nó, nó đã được gọi là Septimus Heap. Có thể đó là một cái tên ngớ ngẩn, nhưng đó là cái tên duy nhất mà nó biết.
Điên tiết không chịu nổi, Merrin bỏ ra nằm bên hồ Ba Chục Mét. Nó biết nó sẽ không bị quấy rầy cho đến khi dì Zelda gọi nó về vào lúc chạng vạng, nhưng bây giờ, thật là cáu tiết, nó lại bị quấy rầy – bởi mùi thum thủm của Boggart.
Merrin nằm giận dữ, thọc mạnh một cái cây nhọn xuống bùn, đợi Boggart cút đi để nó còn được yên một mình. Sau một lúc dài đằng đẵng như một thế kỷ, một tiếng thở phì phì réo ùng ục bên cạnh nó, và nó thấy cái đầu Boggart chọc thủng mặt nước màu nâu đặc. Merrin chẳng nói chẳng rằng – nó cảnh giác với Boggart, như nó cảnh giác với hầu hết mọi sinh vật. Boggart lắc lắc đầu và bắn ra một màn bụi nước hôi thối, vài tia trong số đó văng trúng Merrin.
“Thật kinh tởm,” Boggart nói với Merrin. “Toàn thứ dơ dáy. Dưới đó có nhiều chưa từng thấy. Phải gạt khỏi đường đi. Phải mất mấy ngày tôi mới nhổ được một phần con sên ra khỏi móng chân mình đây. Èèè.” Boggart rùng mình. “Vậy mà, tôi lấy được Bả rồi đây,” nó giơ lên một nắm như cờ đuôi nheo màu trắn ngo ngoe và ngay lập tức bắt đầu teo đi trong ánh nắng. “Hự,” Boggart kêu lên, nhúng chúng xuống nước trở lại. “Cấm được để khô.” Nói xong nó bơi đi dọc theo những con kênh đến xẻo mương, tại đó Jenna trông thấy nó và chạy luôn ra cầu để đón. Merrin quan sát con bé trong khi giơ tay đâm một con bọ đầm lầy hớ hênh bằng một nhát đâm đã được nhắm trúng bóc.